Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

báo cáo thực tập tốt nghiệp “Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn thực hiện tại công ty TNHH Thu Ngân”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.43 KB, 44 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp cuối khóa với đề tài: “Pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn thực hiện tại công ty TNHH Thu Ngân”, bên cạnh
sự nỗ lực của bản thân, em còn nhận được rất nhiều sự ủng hộ, giúp đỡ của các Quý
Thầy Cô trường Đại học Thương Mại và Quý Công ty.
Qua đây, em kính gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban lãnh đạo Quý Công ty,
các Cô, Chú, Anh, Chị trong Công ty, Quý Thầy Cô giáo tại trường Đại học Thương
Mại và đặc biệt là giảng viên hướng dẫn – ThS. Nguyễn Vinh Hương đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi để em có thể hoàn thành bài khóa luận thực tập này.
Mặc dù đã cố gắng, tuy nhiên do trong thời gian thực tập chưa nhiều, việc nắm
bắt thực tế chưa sâu nên bài khóa luận thực tập tổng hợp không thể tránh khỏi một số
thiếu sót. Vì vậy em kính mong nhận được sự quan tâm và giúp đỡ từ Quý Thầy Cô và
Quý Công ty để bài báo cáo của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài..................................................................................................1
1.2.2Nội dung pháp luật điều chỉnh về hợp đồng mua bán hàng hóa.............................................................7
1.2.2.1 Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.................................................................................................7
1.2.2.4 Chấm dứt hợp đồng mua bán hàng hóa............................................................................................11
Thương lượng giữa các bên...........................................................................................................................12
Hòa giải giữa các bên......................................................................................................................................13
Giải quyết tranh chấp theo thủ tục Trọng tài.................................................................................................13
Giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án.................................................................................................14
2.3.1.1 Căn cứ ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá.......................................................................................23
2.3.1.2 Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá.........................................................................................23
2.3.1.3 Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá.......................................................................................23


2.3.1.4 Hình thức, trình tự ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá...................................................................25
2.3.3 Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá............................................................................28


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Trách nhiệm hữu hạn

TNHH

Bộ luật Dân sự

BLDS

Luật Thương mại

LTM

Doanh nghiệp

DN

Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTDS

Xã hội chủ nghĩa

XHCN



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế
trong nước, các hoạt động mua bán hàng hóa ngày càng diễn ra nhiều hơn. Thêm vào
đó việc tham gia ký kết một loạt các hiệp ước và thỏa thuận thương mại quốc tế quan
trọng, mà mới đây nhất là việc tham gia Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình
Dương (Viết tắt là Hiệp định TPP). Việc tham gia vào các sân chơi quốc tế đã mở ra
cho doanh nghiệp Việt Nam cơ hội cũng như những thách thức to lớn trong việc phát
triển thêm nhiều bạn hàng và thu hút nhà đầu tư, mở rộng cách ngành sản xuất, khai
thác nhiều lợi thế tiềm năng, từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa.
Trong bối cảnh đó, ngay từ năm 1989, Chính phủ đã ban hành Pháp lệnh về Hợp đồng
kinh tế ngày 25/09/1989, nhằm đảm bảo lợi ích và trách nhiệm của các thành phần
kinh tế trong hoạt động mua bán hàng hóa, hạn chế các tổn hại kinh tế không đáng có,
tạo thuận lợi cho mọi chủ thể của hoạt động thương mại. Đến năm 2006, Pháp lệnh về
hợp đồng kinh tế được thay thế bằng các quy định trong Luật Dân sự 2005 và Luật
Thương mại 2005. Và gần đây, Luật Dân sự 2015 ra đời và sẽ có hiệu lực vào ngày
1/1/2017, cho thấy những cố gắng của Việt Nam trong việc hoàn thiện môi trường
pháp luật, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế. Có thể nói, hợp
đồng mua bán hàng hóa là một nội dung không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh
trong nước, cũng như xu hướng ngày càng tiếp cận với hoạt động kinh tế quốc tế trong
những năm gần đây. Việc nắm vững, hiểu rõ các quy định của pháp luật về hợp đồng
mua bán hàng hóa sẽ giúp các chủ thể kinh doanh ký kết và thực hiện hợp đồng được
thuận lợi, an toàn và hiệu quả, tránh các tranh chấp, rủi ro đáng tiếc. Công ty TNHH
Thu Ngân là một doanh nghiệp đi đầu trong lĩnh vực xây dựng công trình trên địa bàn
tỉnh Hà Nam. Do đó, việc ký kết các hợp đồng mua bán hàng hóa diễn ra thường
xuyên thông qua các hoạt động xây dựng, đấu thầu, mua bán gia công vật liệu xây
dựng. Trong quá trình thực tập tại công ty Thu Ngân, do được tiếp cận với các hợp
đồng mua bán, cùng với nhận thức về tầm quan trọng của hợp đồng trong hoạt động
kinh tế, nên tác giả đã chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp là: “Pháp luật điều chỉnh về
hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty TNHH Thu Ngân”.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với nhận thức rằng, để có thể thực hiện được đề tài đang nói ở đây, luận văn
không chỉ kế thừa những công trình đã được công bố về vấn đề hợp đồng trong hoạt
động mua bán hàng hóa, mà còn phải tiếp thu và tham khảo có chọn lọc những công
trình lý luận về hợp đồng mua bàn hàng hóa kinh tế để triển khai nghiên cứu thực tế
1


những vấn đề cơ bản của đề tài. Vì thế, những công trình khoa học sau đây đã được
nghiên cứu, tham khảo:
Các công trình nghiên cứu về lý luận chung của hợp đồng mua bán hàng hóa:
Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài Luận văn, các công trình khoa học
sau đây đã được nghiên cứu:
Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa là bộ phận pháp luật có vị trí quan
trọng trong pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam. Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng
hóa được định hình với các quy định của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Đến
ngày 01/01/2006, Pháp lệnh này hết hiệu lực, thay bằng các quy định về hợp đồng mua
bán trong Luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005. Bộ Luật Dân sự 2015 mới
được ban hành và sẽ có hiệu lực vào ngày 01/01/2017, nhằm bắt kịp với sự phát triển
của thế giới trong xu thế điều kiện hiện nay. Đối với các công trìnhnghiên cứu pháp
luật về hợp đồng mua bán hàng hóa, từ trước đến nay đã được nghiên cứu khá nhiều
nhằm phân tích, luận giải và đưa ra những kiến nghị. Từ các hướng tiếp cận khác nhau
các công trình nghiên cứu về hợp đồng mua bán hàng hóa đã triển khai theo hướng
nghiên cứu liên quan đến quan niệm và việc xác định các tiêu chí của hợp đồng mua
bán hàng hóa; hoặc là theo hướng nghiên cứu về các giai đoạn của giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu ở nước ta hiện nay gồm:
- Giáo trình Luật thương mại Quốc tế, Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản
Công an Nhân dân, 2012.
- TS Nguyễn Hợp Toàn, Giáo trình Pháp luật kinh tế, Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân, Nhà xuất bản Lao động.

- Một số hướng dẫn và bổ sung về vấn đề hợp đồng trong Luật Dân sự và Luật
Thương mại 2005.
Bên cạnh đó, còn có nhiều nghiên cứu, đề tài tốt nghiệp, đề tài nghiên cứu cao
học đề cập đến các nghiên cứu về hợp đồng trong quan hệ mua bán hàng hóa ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của đề tài được xác định là nghiên cứu về việc áp dụng
những quy định của pháp luật về vấn đề hợp đồng trong hoạt động mua bán giao dịch
tại công ty TNHH Thu Ngân trong những năm gần đây.
- Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: Để đạt đựợc mục đích trên, đề tài cần đi sâu
nghiên cứu, giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp lý cơ bản về hợp đồng mua bán hàng hóa,
+ Nghiên cứu về vấn đề áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa tại công ty TNHH Thu ngân trong những năm gần đây;

2


+ Đưa ra những đánh giá chung, từ đó kiến nghị nhóm giải pháp nhằm hoàn
thiện vấn đề pháp lý trong hợp đồng mua bán hàng hóa tại công ty TNHH Thu Ngân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài này vẫn phải là thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật trong ký kết hợp đồng tại công ty TNHH Thu Ngân.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về nội dung, đề tài được thực hiện dưới góc độ pháp lý thuộc chuyên
ngành Pháp luật Thương mại;
+ Phạm vi về thời gian, đề tài sử dụng số liệu thực tế của công ty TNHH Thu
Ngân trong giai đoạn từ 2012 đến 2015;
+ Phạm vi về không gian, đề tài được nghiên cứu thông qua tình hình thực tiễn
hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty TNHH Thu Ngân trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

- Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam; pháp luật của
Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các văn bản về pháp luật kinh tế và
pháp luật thương mại đã được ban hành;
- Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, tác giả luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp
tổng kết thực tiễn; Phương pháp nghiên cứu điển hình; Phương pháp thống kê, so
sánh; Phương pháp kế thừa, lịch sử, hệ thống…
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ, hoàn thiện lý luận về vấn
đề pháp lý đối với ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong tình hình hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động ký kết hợp
đồng mua bán hàng hóa ở công ty TNHH Thu Ngân.
- Kết quả nghiên cứu có thể bổ sung vào nguồn tài liệu phục vụ công tác nghiên
cứu về hợp đồng trong hoạt động mua bán hàng hóa hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
cấu trúc thành 3 chương gồm:
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY
TNHH THU NGÂN
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA.
3


CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HÓA

1.1 Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1.1 Khái niệm của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Hợp đồng hiểu theo nghĩa rộng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về một
vấn đề nhất định trong xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền
hay nghĩa vụ của các bên đó. Hoạt động mua bán hàng hóa là một bộ phận chủ yếu của
hoạt động thương mại và được định nghĩa tại Khoản 8 Điều 3 LTM 2005: "Mua bán
hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển
quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh
toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận". Hợp đồng
mua bán hàng hóa có bản chất chung của hợp đồng, nó là sự thỏa thuận nhằm xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Luật Thương
mại không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại, nhưng
có thể dựa vào khái niệm hợp đồng mua bán tài sản trong luật dân sự để xác định bản
chất của hợp đồng mua bán hàng hóa.
LTM 2005 không có quy định cụ thể về khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa,
nhưng về bản chất, hợp đồng mua bán hàng hóa là một dạng cụ thể của hợp đồng mua
bán tài sản. Theo Điều 428 Bộ Luật Dân sự 2005 “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa
thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền,
còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán. Hàng hóa được hiểu là
động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai, và các vật gắn liền với đất. Như
vậy, hàng hóa thuộc tài sản và có phạm vi hẹp hơn tài sản.”
Như vậy, kết hợp định nghĩa chung về hợp đồng mua bán tài sản và khái niệm
riêng về mua bán hàng hóa, có thể rút ra kết luận: “Hợp đồng mua bán hàng hoá là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua và
nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền cho bên bán theo thời hạn,
số lượng và phương thức thanh toán mà các bên đã thỏa thuận”.
1.1.2 Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
Về chủ thể của hợp đồng, theo Luật thương mại 2005, hợp đồng thương mại có
thể được giao kết giữa các chủ thể bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp,
cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh

doanh. Các thương nhân này có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại
các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm.
Ngoài ra, hợp đồng thương mại còn được ký kết giữa các tổ chức, cá nhân khác hoạt
4


động có liên quan đến thương mại. Các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp có thể
bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
công ty nhà nước, và các tổ chức kinh tế khác. Thương nhân là cá nhân bao gồm các
hộ kinh doanh cá thể có đăng ký kinh doanh và tiến hành hoạt động thương mại một
cách thường xuyên, độc lập. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân
cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa. Hàng hóa theo hợp đồng là hàng hóa
được phép mua bán theo quy định của pháp luật. Theo Luật Thương mại Việt Nam
2005, hàng hóa là đối tượng của quan hệ mua bán có thể là hàng hóa hiện đang tồn tại
hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai, hàng hóa có thể là động sản hoặc bất động sản
được phép lưu thông thương mại.
Về hình thức của hợp đồng. Theo quy định tại Luật Thương mại 2005, hợp
đồng thương mại được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng
hành vi cụ thể. Như vậy, hình thức của hợp đồng là rất đa dạng, linh hoạt, tùy trường
hợp cụ thể mà các bên thỏa thuận để chọn hình thức nào cho phù hợp với hợp đồng
mua bán hàng hóa được giao kết phù hợp với quy định của pháp luật.
Nội dung của hợp đồng chứa đựng những nội dung cơ bản của một hợp đồng
mua bán hàng hóa là: tên mặt hàng, số lượng, chủng loại, quy cách chất lượng, giá cả,
phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao hàng. Ngoài ra hợp đồng còn phải
thêm những điều kiện để đảm bảo quyền lợi cho các bên nếu có tranh chấp xảy ra như
nơi giải quyết tranh chấp, phương thức giải quyết tranh chấp. Do loại hợp đồng này có
đặc điểm là các bên đều nhằm đến mục tiêu lợi nhuận nên đòi hỏi nội dung của hợp
đồng phải đầy đủ, rõ ràng, tránh những hiểu lầm dẫn đến tranh chấp. Vì vậy các bên
cần chú ý thận trọng soạn thảo nội dung của hợp đồng.

Mục đích của hợp đồng mua bán hàng hóa chính là đặc điểm quan trọng nhất
giúp phân biệt hợp đồng mua bán hàng hóa với các loại hợp đồng dân sự khác, bởi lẽ sẽ
có ít nhất một trong các bên tham gia vào quan hệ mua bán hàng hóa tham gia hợp đồng
với mục đích sinh lời hay còn gọi là tìm kiếm lợi nhuận từ việc mua bán hàng hóa.
1.2 Cơ sở ban hành và những nội dung pháp luật điều chỉnh về hợp đồng
mua bán hàng hóa
1.2.1 Cơ sở ban hành pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
Một quốc gia muốn thúc đẩy sự phát triển kinh tế cần phải xây dựng cho mình
một hành lang pháp lý thông thoáng và phù hợp với yêu cầu chính trị - xã hội cũng
như xét trên tương quan với tình hình thế giới. Từ năm 1986 đến nay, sau 30 năm đổi
mới và vững bước trên con đường xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, đã khiến xã hội nước ta có nhiều chuyển biến to lớn và tích cực. Kinh tế phát
5


triển kéo theo sự xuất hiện và lớn mạnh của các thành phần kinh tế. Từ đó, yêu cầu về
sự đảm bảo trong việc giao kết và thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hóa không
chỉ là vấn đề của Nhà nước mà còn là yêu cầu chung của toàn xã hội.
Bên cạnh đó cơ sở kinh tế thay đổi đối với thành tựu to lớn của sự phát triển
kinh tế của các thành phần kinh tế dẫn đến Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã được ban
hành từ năm 1989 đến nay lộ rõ nhiều bất cập. Trong điều kiện đó việc hoàn thiện, đổi
mới các quy định của pháp luật về vấn đề hợp đồng là vấn đề được đặt ra hết sức cấp
thiết, có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy hơn nữa giao lưu
kinh tế cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do thực tiễn pháp luật hợp
đồng không thống nhất, các quy định còn nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật
khác nhau, chồng chéo, loại trừ nhau, tạo ra lỗ hổng pháp lý khiến cho người áp dụng
và các cơ quan tài phán gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi áp dụng văn bản pháp luật
về hợp đồng. Vì thế ngày 14/6/2005 Bộ luật Dân sự đã được Quốc hội khóa XI thông
qua, trong đó có chế định về hợp đồng là nền tảng thống nhất và đồng bộ để điều chỉnh
các quan hệ hợp đồng nói chung, bên cạnh các văn bản pháp luật riêng để điều chỉnh

các quan hệ hợp đồng trong các lĩnh vực cụ thể. Các văn bản quy phạm pháp luật tham
gia điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật
Thương mại năm 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan. Những quy định của Bộ
luật Dân sự về hợp đồng dân sự có tính nguyên tắc, là nội dung cơ bản điều chỉnh các
quan hệ hợp đồng nói chung. Những văn bản luật chuyên ngành như: Luật Thương
mại, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Du lịch, Luật Cạnh tranh…là nguồn luật điều
chỉnh các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực cụ thể. Nguyên tắc áp dụng luật là ưu tiên
áp dụng các quy định của luật chuyên ngành trước, những vấn đề không được quy định
trong luật chuyên ngành thì áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự. Kể từ ngày
1/1/2006 khi Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 có hiệu lực thì Pháp lệnh
Hợp đồng kinh tế năm 1989 hết hiệu lực. Và mới đây nhất, Luật Dân sự 2015 ra đời,
sẽ có hiệu lực vào ngày 1/1/2017, sửa đổi bổ sung nhiều vấn đề trong Luật Dân sự
2005 nhằm thích nghi với tình hình mới ở trong nước và trên thế giới. Việc ban hành
Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005, và mới đây là Luật Dân sự 2015 là
cần thiết bởi hiện nay xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa
thương mại đang là vấn đề nổi bật của nền kinh tế thế giới nói chung, và là thách thức
của tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam, nói riêng. Từ đó đòi hỏi mỗi quốc gia
hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước mình theo hướng đồng bộ và có sự tương thích
với luật pháp quốc tế.
Và một yêu cầu của luật pháp trong giai đoạn hiện nay đó là phải nội luật hóa
các điều ước quốc tế làm cho hệ thống pháp luật trong nước cũng tương thích với luật
6


quốc tế bảo đảm cho hội nhập quốc tế. Đặc biệt khi Việt Nam đã là thành viên thứ 150
của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 7/11/2006 và việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật theo yêu cầu của WTO cũng là một trong các điều kiện để nước ta có
đầy đủ điều kiện để trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại toàn cầu
này. Mới đây nhất, việc Việt Nam tham gia đàm phán và ký kết hiệp định khung TPP
đã mở ra nhiều cơ hội hơn cho Việt Nam trong việc thu hút nhà đầu tư, phát huy các

thế mạnh của nền kinh tế đất nước.
1.2.2 Nội dung pháp luật điều chỉnh về hợp đồng mua bán hàng hóa
1.2.2.1 Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại văn bản có tính chất pháp lý được hình
thành trên cơ sở thoả thuận một cách bình đẳng, tự nguyện giữa các chủ thể nhằm xác
lập, thực hiện và chấm dứt một quan hệ trao đổi hàng hoá.
Phương thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, đề nghị giao kết hợp đồng chính là chào
hàng. Chào hàng là một quy định được thừa nhận trong các thông lệ quốc tế về mua
bán hàng hóa.Theo điều 390 bộ luật dân sự “đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện
rõ ý định giao kết hợp đồng và chị sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối
với bên đã xác định được cụ thể”.
Đề nghị hợp đồng mua bán có thể do bên bán hoặc bên mua đưa ra.Bộ luật dân
sự cũng như Luật thương mại năm 2005 không quy định về hình thức của đề nghị hợp
đồng mua bán hàng hóa,song có thể dựa vào quy định về hình thức của hợp đòng mua
bán theo Điều 24 bộ luật Thương mại để xác định hình thức của đề nghị hợp đồng theo
đó đề nghị hợp đòng có thể dược thể hiện bằng văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể
hoặc kết hợp giữa các hình thức này.
Đề nghị hợp đồng được gửi đến cho một hay nhiều chủ thể đã xác định. Đề nghị
đó phải được gửi đích danh và nội dung của đề nghị đó phải rõ ràng, có ý định đặt quan hệ
mua bán hàng hóa thực sự. Đề nghị được coi là rõ ràng nếu trong đó xác định mặt hàng
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, số lượng hàng, giá cả, thủ tụ. Bên đề nghị giao kết hợp
đồng có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong các trường hợp bao
gồm: bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thông báo về việc thay đổi hoặc rút
lại đề nghị trước hoặc cùng thời điểm nhận được đề nghị; điều kiện thay đổi hoặc rút lại
đề nghị phát sinh trong trường hợp bên dề nghị có nêu rõ về việc được thay đôi hoặc rút
lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh. Nếu bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị thì
đề nghị đó được coi là đề nghị mới (Điều 392 Bộ luật Dân sự). Đề nghị giao kết hợp đồng
chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp sau: bên nhận được đề nghị trả lời không chấp
nhận; hết thời hạn trả lời cháp nhận; thông báo về việc rút lại đề nghị có hiệu lực; thông

7


báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực; theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên nhận được
đề nghị trơngthi hạn chờ bên được đề nghị trả lời.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mua bán
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị chuyển
cho bên đề nghị chuyển cho bên đề nghị việc chấp thuận toàn bộ nội dung đã nêu
trong đè nghị giao kết hợp đồng. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng được
xác định tùy từng trường hợp cụ thể. Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì
việc trả lời chấp nhận thì chỉ hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó. Hoặc khi
các bên trực tiếp tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại hoặc qua các
phương tiện khác thì bên đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp
nhận,trừ trường hợp có thỏa thuận về thời hạn trả lời. Bên đề nghị giao kết hợp đồng
có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng, nếu thông báo này đến trước
hoặc cùng với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
Thời điểm giao kết hợp đồng.
Việc xác định thời điển giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có ý nghĩ quan
trọng trong việc khẳng định sự tồn tại của hợp đồng,là cơ sở để xác định phát sinh
quyền và nghĩ vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Về nguyên tắc
chung, hợp đồng mua bán được giao kết vào thời điểm các bên đạt được sự thỏa thuận.
Theo điều 404 Bộ luật dân sự thì việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng mua bán
theo các trường hợp sau:
- Hợp đồng được giao kết gián tiếp bằng văn bản thì hợp đồng mua bán hàng
hóa có hiêu lực khi đủ hai điều kiện sau đây: Bên đề nghi nhận được thông báo chấp
nhận toàn bộ các điều kiện ghi trong đề nghi giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị
đó phải được nhận trong thời hạn trả lời do người đề nghị đưa ra.
Hợp đồng được giao kết bằng lời nói: thời điểm giao kết hợp đồng là thời
điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Các bên có thể sử dụng những
biện pháp chứng cứ hợp pháp để chứng minh việc các bên thỏa thuận nội dung hợp

đồng mua bán hàng hóa bằng lời nói.bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận
hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Hợp đồng cũng được xem như giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên được
đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp
đồng thì thời điểm giao kết hợp đồng là ngày hết thời hạn trả lời.
- Hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản: thời điểm giao kết hợp
đồng là thời điểm bên sau cùng kí vào văn bản.

8


Hợp đồng mua bán hàng hóa đựoc giao kết hợp pháp được hình thành từ thời
điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác (Điều 405 BLDS).
1.2.2.2 Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
Thực hiện hợp đồng về nội dung
Hợp đồng mua bán hàng hóa sau khi đã được giao kết, các bên cần phải thực
hiện nghiêm chỉnh tất cả những cam kết trong hợp đồng, cụ thể là thực hiện theo đúng
nội dung về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Luật Thương mại quy
định những nội dung đặc thù về mua bán hàng hóa với tính chất là một hoạt động
thương mại. Trong trường hợp cần có những quy định chuyên biệt trong những hoạt
động thương mại cụ thể thì luật chuyên ngành sẽ điều chỉnh theo tính chất chuyên biệt
trong hoạt động chuyên ngành theo nguyên tắc áp dụng luật thì sẽ ưu tiên áp dụng các
quy định về hợp đồng chuyên ngành đó.
Quyền và nghĩa vụ của bên bán.
Thứ nhất là nghĩa vụ của bên bán. Bên bán phải giao hàng hóa phù hợp với quy
định của hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy
định khác trong hợp đồng. Điều 35 - Luật Thương mại quy định bên bán phải giao
hàng vào đúng thời điểm giao hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên bán
giao hàng trước thời hạn đã thỏa thuận thì bên mua có quyền nhận hoặc không nhận

hàng nếu có thỏa thuận khác (Điều 38 - Luật Thương mại). Nghĩa vụ giao chứng từ
liên quan đến hàng hóa được quy định tại Điều 42 - Luật Thương mại. Trường hợp có
thỏa thuận về việc giao chứng từ thì bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến
hàng hóa cho bên mua vào thời hạn, tại địa điểm và bằng hình thức đã thỏa thuận. Một
trong các nghĩa vụ của bên bán là phải kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng. Bên bán
phải chịu những khiếm khuyết của hàng hóa mà bên mua hoặc đại diện của bên mua
đã kiểm tra nếu các khiếm khuyết của hàng hóa không thể phát hiện được trong quá
trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường và bên bán biết hoặc không thể không biết
về các khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho bên mua (Điều 44 - Khoản 5 Luật Thương mại). Bên bán còn có nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu đối với hàng hóa.
Theo đó, bên bán phải bảo đảm: quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa đã bán
không bị tranh chấp bởi bên thứ ba; hàng hóa đó phải hợp pháp; việc chuyển giao hàng
hóa là hợp pháp. Ngoài ra, bên bán không được bán hàng hóa vi phạm quyền sở hữu
trí tuệ (Điều 46 - Luật Thương mại). Trường hợp hàng hóa mua bán có bảo hành thì
bên bán phải chịu trách nhiệm bảo hành hàng hóa đó theo nội dung và thời hạn đã thỏa
thuận và phải chịu các chi phí về việc bảo hành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
(Điều 49 - Luật Thương mại).
9


Thứ hai là quyền của bên bán. Bên bán có quyền nhận tiền bán hàng theo thỏa
thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Nếu bên bán chậm nhận được hoặc không
nhận được tiền bán hàng do lỗi của bên mua thì bên bán có quyền áp dụng các biện
pháp do Luật Thương mại quy định để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Điều 306 Luật Thương mại quy định bên bán có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả
đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương
ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy
định khác. Ngoài ra bên bán có thể áp dụng các hình thức chế tài theo quy định của
Luật Thương mại.
Quyền và nghĩa vụ của bên mua.
Điều 50, Điều 55 - Luật Thương mại quy định bên mua có nghĩa vụ: Thanh
toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận; tuân thủ các phương thức thanh

toán, thực hiện việc thanh toán theo trình tự, thủ tục đã thỏa thuận và theo quy định
của pháp luật; Thanh toán cho bên bán vào thời điểm bên bán giao hàng hoặc giao
chứng từ liên quan đến hàng hóa; bên mua vẫn phải thanh toán tiền hàng trong trường
hợp hàng hóa mất mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên
mua, trừ trường hợp mất mát, hư hỏng do lỗi của bên bán gây ra.
Đồng thời, bên mua có quyền ngừng thanh toán tiền mua hàng trong các trường
hợp: Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối thì có quyền tạm ngừng việc thanh
toán; Bên mua có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh chấp thì có
quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi việc tranh chấp đã được giải quyết; Bên mua có
bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì có quyền tạm
ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc phục được sự không phù hợp đó.
1.2.2.3 Sửa đổi hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng đã được giao kết và có hiệu lực pháp lý nhưng do điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của mỗi bên mà các bên có thể thỏa thuận sửa đổi hợp đồng, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác. Khi tiến hành sửa đổi hợp đồng mua bán hàng hóa các
bên phải giải quyết hậu quả của việc sửa đổi đó. Nó có thể là chi phí đã bỏ ra để thực
hiện một phần công việc trước khi sửa đổi mà bên thực hiện không thu hồi được; hoặc
chi phí để chuẩn bị cho việc thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng, mặc dù đã tận dụng,
thanh lý nhưng chưa đủ bù đắp giá trị ban đầu của nó; hoặc tiền bồi thường thiệt hại đã
phải trả do sửa đổi hợp đồng. Hình thức ghi nhận việc sửa đổi phải phù hợp với hình
thức hợp đồng đã giao kết. Theo khoản 2 điều 423 Bộ luật Dân sự 2005:" Trong
trường hợp hợp đồng được lập thành văn bản, được công chứng, chứng thực, đăng ký
hoặc cho phép thì việc sửa đổi hợp đồng cũng phải tuân theo hình thức đó". Đối với

10


các hợp đồng khác thì việc sửa đổi hợp đồng được ghi nhận bằng hình thức nào là do
các bên tự nguyện thỏa thuận với nhau.
1.2.2.4 Chấm dứt hợp đồng mua bán hàng hóa

Xuất phát từ lợi ích của mình mà các bên tham gia giao kết hợp đồng, xác lập
quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng. Hợp đồng đã có hiệu lực nhưng khi tiến hành thực
hiện nghĩa vụ thì các bên mới nhận thức được rằng họ cần phải chấm dứt hợp đồng vì
việc tiếp tục thực hiện hợp đồng không mang lại lợi ích hợp lý cho một bên hoặc cả
hai bên như họ kỳ vọng khi giao kết hợp đồng. Chính vì thế, trong điều 424 Bộ luật
Dân sự 2005 đã nêu ra các trường hợp chấm dứt hợp đồng như sau:
- Hợp đồng chấm dứt khi hợp đồng đã hoàn thành: Toàn bộ nội dung của hợp
đồng được các bên thực hiện, thông qua đó các bên tham gia hợp đồng đáp ứng được
quyền của mình thì hợp đồng được coi là hoàn thành và không có lý do để hợp đồng
tồn tại nữa;
- Hợp đồng được chấm dứt theo thỏa thuận của các bên: Trong trường hợp bên
nghĩa vụ gặp khó khăn không có khả năng để thực hiện hợp đồng hoặc nếu hợp đồng
đó được thực hiện sẽ gây ra tổn thất về vật chất cho một hoặc cả hai, thì các bên có thể
thỏa thuận chấm dứt hợp đồng;
- Hợp đồng chấm dứt khi cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc chủ
thể khác chấm dứt, vì việc thực hiện hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc
chủ thể đó thực hiện;
- Hợp đồng chấm dứt khi bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện
- Hợp đồng chấm dứt khi hợp đồng không thể thực hện được do đối tượng của
hợp đồng không còn và các bên có thể thỏa thuận thay thế đối tượng khác hoặc bồi
thường thiệt hại;
- Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Hủy bỏ hợp đồng mua bán hàng hóa
Một bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa có quyền hủy bỏ hợp đồng và
không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng mà việc vi phạm đó là
điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Hủy hợp đồng
bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp đồng. Hủy bỏ toàn bộ hợp
đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn
bộ hợp đồng. Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc hủy bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ
hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Việc hủy bỏ hợp đồng

được áp dụng trong các trường hợp sau: xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa
thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng; một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.

11


Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
Đơn phương chấm dứt hợp đồng là việc một bên không tiếp tục thực hiện
những nghĩa vụ phát sinh theo hợp đồng khi có những điều kiện nhất định theo thỏa
thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Đơn phương chấm dứt hợp đồng là đình chỉ
thực hiện hợp đồng (Điều 310 Luật Thương mại 2005). Về thực chất hai cách gọi này
tuy khác nhau nhưng có nội dung giống nhau. Một bên trong hợp đồng có quyền đơn
phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định. Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng thuộc một trong các trường hợp sau: Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa
thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng; một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng,
trừ trường hợp miễm trách.
1.2.2.5 Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng
Trong kinh doanh, nhìn chung các nhà kinh doanh luôn cố gắng để tránh hoặc
hạn chế việc vi phạm các cam kết trong hợp đồng. Song, do nhiều nguyên nhân khác
nhau các tranh chấp giữa các bên trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa là điều khó tránh khỏi. Khi tranh chấp xảy ra thì vấn đề đặt ra cho các
bên là làm thế nào để giải quyết các tranh chấp ấy. Giải quyết tranh chấp là việc điều
chỉnh các bất đồng, các xung đột dựa trên những căn cứ và bằng những phương thức
khác nhau do các bên lựa chọn. Về mặt pháp lý, các phương thức đó phải được pháp
luật thừa nhận. Theo Điều 317 Luật Thương mại 2005 thì các hình thức giải quyết
tranh chấp trong thương mại bao gồm: thương lượng giữa các bên; hòa giải giữa các
bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung
gian hòa giải; giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án.
Thương lượng giữa các bên

Trong đại đa số trường hợp khi bắt đầu phát sinh tranh chấp, các bên tự nguyện
và nhanh chóng liên hệ, gặp gỡ nhau để thương lượng, tìm cách tháo gỡ bất đồng với
mục đích chung là gìn giữ mối quan hệ kinh doanh tốt đẹp và lâu dài giữa họ.. Thương
lượng có thể được tiến hành độc lập hoặc tiến hành cùng với quá trình tố tụng tại Tòa
án hoặc Trọng tài. Đối với thương lượng độc lập: Nghĩa vụ của các bên phải tiến hành
thương lượng được quy định trong điều khoản về giải quyết tranh chấp, do đó cũng
phải được thực hiện nghiêm chỉnh như mọi điều khoản khác của hợp đồng. Kết quả
thương lượng được coi như một thỏa thuận mới về vấn đề tranh chấp, các bên phải thi
hành tự nguyện thỏa thuận đó theo quy định của pháp luật áp dụng về nghĩa vụ thực
hiện hợp đồng; Nếu thương lượng được tiến hành trong khuôn khổ tố tụng Trọng tài
hay tố tụng tư pháp, thì theo yêu cầu của các bên, trọng tài viên, thẩm phán có thể ra

12


văn bản công nhận kết quả thương lượng. Văn bản này có giá trị như một quyết định
của Trọng tài hay Tòa án.
Hòa giải giữa các bên
Một số nguyên tắc hòa giải tranh chấp trong kinh doanh, thương mại:
- Hòa giải phải được dựa trên tự do ý chí của các bên tranh chấp về phương pháp,
quy trình, lựa chọn hòa giải viên, tự do trong thỏa thuận, đề xuất giải pháp hay thỏa thuận
chấp nhận ý kiến giải quyết do hòa giải viên đưa ra cũng như khi quyết định chấm dứt hòa
giải để chuyển sang sử dụng các phương pháp giải quyết tranh chấp khác;
- Hòa giải chủ yếu theo nguyên tắc "khách quan, công bằng, hợp lý";
- Hòa giải sẽ lập tức chấm dứt nếu hai bên không đạt được thỏa thuận hoặc nếu
một trong hai bên không muốn tiếp tục hòa giải.
Hiệu lực của kết quả hòa giải
Tính chất tự nguyện của hòa giải dẫn đến những hạn chế về hiệu lực của thỏa
thuận hòa giải và hiệu lực của thỏa thuận giải quyết bằng hòa giải. Thỏa thuận hòa giải
không có tính chất bắt buộc như thỏa thuận Trọng tài, do đó, trên thực tế không có Tòa

án nước nào lại ra lệnh đình chỉ vụ kiện vì lý do một bên không thực hiện thỏa thuận
hòa giải. Thỏa thuận giải quyết bằng hòa giải không bắt buộc thi hành như phán quyết
của Tòa án hay của Trọng tài. Hiệu lực cao nhất của thỏa thuận giải quyết bằng hòa
giải chỉ giống như một điều khoản hợp đồng ràng buộc các bên. Để phát huy các ưu
điểm hòa giải và tăng cường các cơ hội lựa chọn sử dụng hòa giải đồng thời nâng cao
hiệu lực của hòa giải thì có thể sử dụng kết hợp hòa giải với các phương pháp giải
quyết tranh chấp khác như: Kết hợp thương lượng và hòa giải với Trọng tài hay hòa
giải kết hợp với tố tụng tư pháp.
Giải quyết tranh chấp
Giải quyết tranh chấp theo thủ tục Trọng tài
Trọng tài là phương pháp giải quyết tranh chấp bằng cách giao vấn đề tranh
chấp cho người thứ ba là các trọng tài viên để họ xét xử và ra quyết định cuối cùng
trong trường hợp các bên không dàn xếp được với nhau mà lại không muốn đưa vụ
tranh chấp ra xét xử tại tòa án. Văn bản pháp luật điều chỉnh giải quyết tranh chấp theo
thủ tục Trọng tài ở Việt Nam là Pháp lệnh Trọng tài thương mại được Ủy ban thường
vụ Quốc hội thông qua ngày 25/2/2003 và Nghị định số 25/2004 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, sau đó đến năm 2010 thay
bằng Luật Trọng tài Thương mại 2010.
Các quyết định và phán quyết của Trọng tài có thể được Tòa án công nhận và
cho thi hành thông qua một thủ tục tư pháp. Mặc dù các phán quyết của Trọng tài là
kết quả của sự thỏa thuận có tính chất riêng tư giữa các bên tranh chấp và do một Hội
13


đồng Trọng tài hoặc một Trọng tài viên duy nhất ban hành (mà bản thân hợp đồng đó
chấm dứt nhiệm vụ và không còn tồn tại sau khi ra phán quyết) nhưng giá trị bắt buộc
của phán quyết của Trọng tài đối với các bên vẫn được pháp luật nước ta công nhận.
Giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của Nhà nước ta. Theo Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014, Tòa án nhân dân xết xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và

gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định
của pháp luật.
Theo Bộ luật Tố tụng Dân sự 2014 quy định: Những tranh chấp về kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án:
Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa cá nhân, tổ
chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: Mua bán
hàng hóa; Cung ứng dịch vụ; Phân phối; Đại diện, đại lý; Ký gửi; Thuê, cho thuê, thuê
mua; Tư vấn về kỹ thuật; Xây dựng; Vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường
sắt, đường thủy, nội địa; Vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không,
đường biển; Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá trị; Đầu tư, tài chính,
ngân hàng; Bảo hiểm; Thăm dò, khai thác.
Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau có mục đích lợi nhuận;
Tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty, giữa các thành viên công ty
với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia,
tách, chuyển đổi hình thức của công ty;
Các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Về thẩm quyền của Toà án trong việc xét xử các vụ án về tranh chấp thương
mại (vụ án kinh tế), pháp luật phân biệt thẩm quyền của Toà án theo cấp, thẩm quyền
của Toà án theo lãnh thổ và thẩm quyền của Toà án theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
Bộ luật tố tụng Dân sự 2004 quy định thẩm quyền của Toà án các cấp như sau:
Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những tranh chấp về kinh doanh thương mại.
Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những
tranh chấp về kinh doanh, thương mại, trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án nhân dân cấp huyện.
Về thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ, Toà án có thẩm quyền giải quyết sơ
thẩm các vụ án kinh tế là Toà nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú; trong trường hợp vụ án
chỉ liên quan đến bất động sản thì Toà án nơi có bất động sản giải quyết.


14


Pháp luật quy định nguyên đơn có quyền lựa chọn Toà án để giải quyết các vụ
án trong các trường hợp sau đây:
+ Nếu không biết rõ trụ sở hoặc nơi cư trú hiện tại của bị đơn thì nguyên đơn có
thể yêu cầu Toà án nơi có tài sản, nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú cuối cùng của bị đơn
giải quyết vụ án;
+ Nếu vụ án phát sinh từ hoạt động của chi nhánh doanh nghiệp thì nguyên đơn có
thể yêu cầu Toà án nơi doanh nghiệp có trụ sở hoặc nơi có chi nhánh đó giải quyết vụ án;
+ Nếu vụ án sinh ra do vi phạm hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án
nơi thực hiện hợp đồng giải quyết;
+ Nếu vụ án không chỉ liên quan đến bất động sản thì nguyên đơn có thể yêu
cầu Toà án nơi có bất động sản, nơi có trụ sở hoặc cư trú của bị đơn giải quyết vụ án;
+ Nếu bị đơn có trụ sở hoặc nơi cư trú khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu
Toà án nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú của bị đơn để giải quyết vụ án;
+ Nếu vụ án liên quan đến bất động sản ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn
có thể yêu cầu Toà án một trong các nơi đó giải quyết vụ án;
+ Nếu vụ án liên quan đến nhiều bị đơn thì nguyên đơn có thể chọn nơi cư trú
hoặc trụ sở của một trong các bị đơn để giải quyết vụ án.
Như vậy, thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm rất nhiều hoạt động trong
lĩnh vực kinh doanh thương mại, tuy nhiên chủ thể của hợp đồng chỉ gồm cá nhân và
tổ chức với mực đích là lợi nhuận, trong đó hợp đồng mua bán hàng hóa với mục đích
và chủ thể như trên là do Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Thủ tục giải
quyết các vụ án theo Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 bao gồm các bước chính sau: Khởi
kiện và thụ lý vụ án; Chuẩn bị xét xử vụ án; Phiên tòa sơ thẩm; Thủ tục phúc thẩm;
Thủ tục xét xử lại bản án (quyết định) đã có hiệu lực pháp luật; Thi hành bản án (quyết
định) của Tòa án.
1.3 Một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật về vấn đề
hợp đồng mua

bán hàng hóa
Các yêu cầu, nguyên tắc của pháp luật điều chỉnh vấn đề hợp đồng mua bán
hàng hóa được quy định hầu hết tại LTM 2005. Tuy nhiên, nó cũng chịu sự điều chỉnh
của BLDS 2005. Bộ luật Dân sự được coi là luật gốc quy định các vấn đề chung về
hợp đồng, là nền tảng cho pháp luật về hợp đồng, điều chỉnh các quan hệ hợp đồng
được xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thoả thuận và tự chịu trách
nhiệm. Các nguyên tắc trong việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quy định khá
rõ ràng. Những yêu cầu, nguyên tắc này nhằm đảm bảo lợi ích cho DN cũng từ đó để
DN có thể thực hiện đúng yêu cầu của Nhà nước và không vi phạm những điều mà
15


pháp luật không cho phép. Các bên khi tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, trong các hợp đồng yếu tố cơ bản nhất là sự thỏa hiệp giữa các ý chí,
tức là có sự ưng thuận giữa các bên với nhau. Đương nhiên tự do hợp đồng không phải
là tự do tuyệt đối. Nhà nước buộc các bên khi giao kết hợp đồng phải tôn trọng đạo
đức, trật tự xã hội, trật tự công cộng. Trong những trường hợp thật cần thiết, nhân
danh tổ chức quyền lực công, nhà nước có thể can thiệp vào việc ký kết hợp đồng và
do đó giới hạn quyền tự do giao kết hợp đồng. Tuy nhiên sự can thiệp này phải là sự
can thiệp hợp lý và được pháp luật quy định chặt chẽ để tránh sự lạm dụng, vi phạm
quyền tự do hợp đồng.
Thứ hai, ý chí chỉ phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý khi người giao kết
có đầy đủ năng lực hành vi để xác lập hợp đồng.
Thứ ba, yếu tố không thể thiếu của hợp đồng chính là đối tượng. Sự thống nhất
ý chí của các bên phải nhằm vào một đối tượng cụ thể. Mọi hợp đồng phải có đối
tượng xác định. Đối tượng của hợp đồng phải được xác định rõ rệt và không bị cấm
đưa vào các giao dịch dân sự – kinh tế. Chẳng hạn, đối tượng của hợp đồng mua bán
phải là những thứ không bị cấm. Nếu đối tượng của hợp đồng là bất hợp pháp thì hợp
đồng bị coi là vô hiệu.

Cùng các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại được quy định từ Điều
10 đến Điều 15 của mục 2 chương 1 Luật Thương mại 2005. Đó là:
-Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương
mại (Điều 10)
-Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại (Điều 11)
-Nguyên tắc áp dụng thói quen, tập quán trong hoạt động thương mại (Điều 12 và 13)
-Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng (Điều 14)
-Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động
thương mại (Điều 15)
Một khi hợp đồng được hình thành một cách hợp pháp thì nó có hiệu lực như
pháp luật đối với các bên giao kết. Đây là nguyên tắc cơ bản của pháp luật hợp đồng.
Sau khi hợp đồng được xác lập với đầy đủ các yếu tố thì hợp đồng đó có hiệu lực ràng
buộc như pháp luật, các bên buộc phải thực hiện cam kết trong hợp đồng, mọi sự vi
phạm sẽ dẫn đến trách nhiệm tài sản mà bên vi phạm sẽ phải gánh chịu. Khi giải quyết
tranh chấp hợp đồng, xử lý vi phạm hợp đồng, tòa án hoặc trọng tài phải căn cứ vào
các điều khoản mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng để ra bản án hoặc quyết định
công bằng, đúng đắn.

16


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY TNHH
THU NGÂN
2.1. Tổng quan về Công ty Cổ phần TNHH Thu Ngân và các nhân tố ảnh
hưởng đến hoạt động mua bán hàng hóa tại Công ty
2.1.1. Tổng quan về Công ty TNHH Thu Ngân
Giới thiệu chung về công ty TNHH Thu Ngân
Tên công ty viết bằng tiếng Việt: CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN
THU NGÂN.

Tên công ty viết bằng tiếng nước ngoài: THU NGAN COMPANY LIMITED.
Tên công ty viết tắt: THU NGAN CO., LTD.
Địa chỉ: La Mát – TT Kiện Khê – huyện Thanh Liêm – tỉnh Hà Nam.
Điện thoại: 03513 858 607
Fax: 03513 858 607
Ngày thành lập: 17/12/2008.
Vốn điều lệ: 7.000.000.000 đồng
Mã số thuế: 0700265668.
Người đại diện theo pháp luật của công ty: Nguyễn Thị Ngân
Công ty TNHH Thu Ngân được Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nam cấp giấy đăng
ký hoạt động số 0700265668, đăng ký lần 1 ngày 15/12/2008, đăng ký thay đổi lần 3
ngày 16/07/2015.
Chức năng nhiệm vụ của công ty TNHH Thu Ngân.
Chức năng của công ty TNHH Thu Ngân.
Chức năng chính của công ty là phát triển doanh nghiệp thông qua thực hiện
các hoạt động tư vấn, xây dựng, thi công các công trình cho khách hàng, mua bán các
vật liệu xây dựng, cho thuê máy móc, thực hiện các công việc khác có liên quan đến
xây dựng theo quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ của công ty TNHH Thu Ngân.
Xây dựng chiến lược phát triển công ty và tổ chức thực hiện các kế hoạch kinh
doanh theo đúng chức năng của công ty và quy định của pháp luật. Tuân thủ chính
sách, chế độ pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó thực hiện các dịch vụ tư vấn, thi
công công trình xây dựng, mua bán nguyên vật liệu xây dựng, cho thuê máy móc phục
vụ các công trình xây dựng và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với người lao động, bảo vệ
tài sản công ty.
Ngành nghề kinh doanh của công ty TNHH Thu Ngân.
Công ty TNHH Thu Ngân tham gia vào hoạt động xây dựng, sửa chữa công
trình xây dựng, phá dỡ, chuẩn bị mặt bằng. Bên cạnh đó, công ty còn tham gia mua
bán vật liệu, tư vấn, thẩm định và quản lý dự án ây dựng công trình. Cung cấp dịch vụ
vận tải hàng hóa, vận chuyển hành khách bằng ô tô theo hợp đồng, cho thuê máy móc

17


thiết bị trong lĩnh vực xây dựng, giao thông thủy lợi, cầu đường. Sản xuất 1 số loại
nguyên vật liệu dung trong ây dựng.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mua bán hàng hóa tại Công ty
TNHH Thu Ngân
Nhân tố chính trị - pháp luật
Hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đồng thời với việc đẩy mạnh
cho mục tiêu phấn đấu trở thành nước phát triển, Nhà nước đã có nhiều chính sách tích
cực và hiệu quả nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc
nhóm ngành quan trọng như công nghiệp, thương mại, xây dựng… Với tư cách là một
doanh nghiệp triển vọng trong lĩnh vực xây dựng, công ty TNHH Thu Ngân được
hưởng lợi nhiều từ những chính sách này và trong nhiều năm qua, đã có một môi
trường phát triển thuận lợi và vững chắc. Bên cạnh đó, với tư cách là một tỉnh có thế
mạnh về sản xuất vật liệu xây dựng, chính quyền tỉnh Hà Nam cũng có nhiều hành
động nhằm khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp địa phương, trong đó có
công ty TNHH Thu Ngân.
Nhân tố kinh tế - xã hội
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế, do đó thúc
đẩy nhu cầu xây dựng của nhà nước cũng như của người dân. Mỗi ngày đều có thêm
nhiều công trình hoàn thiện và nhiều công trình khác được xây mới, từ đó tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, trong đó có công ty
TNHH Thu Ngân có nhiều điều kiện phát triển. Bên cạnh đó, đời song người dân ngày
càng được cải thiện, cũng kéo theo nhu cầu xây mới và sửa chữa, cơi nới các công
trình nhà ở, các loại hình bất động sản. Đây thực sự là mảnh đất màu mõ giàu tiềm
năng đối với các doanh nghiệp như công ty TNHH Thu Ngân. Đồng thời, sự phát triển
trong môi trường kinh doanh xây dựng, cùng với sự thành lập và phát triển của nhiều
công ty cùng hoạt động trong lĩnh vực này, cũng là điều kiện và cơ sở kích thích sự
phát triển của công ty TNHH Thu Ngân, cả về quy mô, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng

như chất lượng phục vụ. Với ưu thế là một doanh nghiệp đã có gần 10 năm hoạt động,
công ty TNHH Thu Ngân có cơ sở và điều kiện nhất định để khẳng định ưu thế của
mình trước các công ty trẻ hơn, cũng như chỗ đứng vững chắc trên địa bàn tỉnh Hà
Nam, và đẩy mạnh khai thác tìm kiếm đối tác ở nhiều nơi khác.

18


Nhân tố cơ sở vật chất kỹ thuật và mạng lưới kinh doanh của công ty
TNHH Thu Ngân.
Hiện nay tổng số lao động của công ty TNHH Thu Ngân đã lên tới 140 cán bộ
công nhân viên gồm 27 cán bộ chủ chốt ở các phòng ban và 113 công nhân. Về máy
móc và thiết bị phục vụ cho các công trình hiện công ty có đến hàng nghìn máy móc
thiết bị các loại như: máy trộn bê tông, máy xúc lật, máy đào đất, máy lu rung, máy ủi,
cốp pha các loại, giàn giáo cột chống… Ngoài ra số lượng các ô tô tải vận chuyển các
loại như HUYNDAI, DONGFENG, CNHTC… lên đến 40 chiếc. Với đội ngũ các kỹ
thuật viên, chuyên gia tư vấn và các công nhân viên có trình độ, có nhiều năm kinh
nghiệm trong lĩnh vực xây dựng, sửa chữa các công trình, công ty TNHH Thu Ngân đã
và đang tham gia thi công nhiều công trình trong và ngoài tỉnh thuộc các lĩnh vực khác
nhau. Các công trình thi công đều đảm bảo tiến độ, chất lượng, kỹ, mỹ thuật, có uy tín
và trách nhiệm. Số lượng và chất lượng công nhân viên cũng như là máy móc thiết bị
các loại không ngừng tăng lên. Đối với các phòng ban nghiệp vụ, nhân viên được làm
việc trong điều kiện khá tốt, có đầy đủ thiết bị văn phòng hệ thống thông tin liên lạc
hiện đại. Cho đến nay, công ty đã cung ứng dịch vụ, hàng hóa cho rất nhiều khách
hàng và hứa hẹn sẽ là điểm đến của nhiều cá nhân, tổ chức trong và ngoài tỉnh. Trong
tương lai công ty đang cố gắng vươn xa không chỉ với các đối tác trong nước mà còn
là các nước lân cận. Một số đối tác thường xuyên của công ty: Ban quản lý các dự án
giao thông tỉnh Hà Nam, Ban quản lý các dự án giao thông tỉnh Nam Định, Công ty
TNHH xây dựng và phát triển Thiên Trường, Công ty TNHH Hải Linh, Công ty Cổ phần
Đại Cát Thành…

2.2. Thực trạng quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
Những quy định của Pháp luật nhằm điều chỉnh vấn đề pháp lý trong hợp đồng
mua bán hàng hóa là nhằm mục đích tạo thuận lợi cho các bên tham gia được đảm bảo
về tính đúng đắn, tính công bằng cũng như quyền lợi. Pháp luật luôn có một sự ảnh
hưởng mạnh mẽ đến hoạt động của các pháp nhân kinh tế. Hiện nay với một hệ thống
pháp luật rõ ràng, chi tiết, hợp lý, khả thi của nước ta đã giúp cho các doanh nghiệp có
thể dễ dàng nắm bắt và thực thi một cách nghiêm túc, đảm bảo. Pháp luật đặt ra để
đảm bảo được không chỉ là nghĩa vụ mà còn đảm bảo quyền lợi cho mỗi doanh nghiệp.
Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 ra đời đến nay đã được hơn
chục năm. Hai bộ luật này đã khung pháp lý điều chỉnh ứng xử của các bên trong các
hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung. Các quy định pháp luật như đã trình bày ở trên
về các nội dung ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, sửa đổi, chấm dứt hợp đồng và
giải quyết tranh chấp hợp đồng đều có những nhân tố hợp lý bảo đảm việc thực hiện
trên thực tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số bất cập hạn chế như sau:
19


Thứ nhất, Sự thiếu tính thống nhất của pháp luật hợp đồng còn thể hiện ở mâu
thuẫn giữa BLDS 2005 và LTM 2005 liên quan đến chế định phạt hợp đồng. Khoản 2
Điều 422 BLDS 2005 quy định: mức phạt vi phạm hợp đồng do các bên tự thỏa thuận.
Tự thỏa thuận có nghĩa là các bên được phép tự do ấn định mức phạt mà không bị ràng
buộc bởi các quy định của pháp luật, điều này thể hiện nguyên tắc tự do thỏa thuận đã
được quy định trong pháp luật dân sự nhưng điều đáng lưu tâm là Luật Thương mại lại
quy định về mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với
nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng nhưng không quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Ở quy định khác trong Luật Xây dựng, mức phạt vi
phạm tối đa là 12%. Cùng điều chỉnh về một vấn đề nhưng lại có sự khác biệt giữa các
văn bản. Điều đó đòi hỏi các bên phải phân biệt rạch ròi xem quan hệ nào do Bộ Luật
Dân sự 2005 điều chỉnh và quan hệ nào được điều chỉnh bởi Luật Thương mại hoặc
các luật khác điều chỉnh và điều này là rất khó phân biệt khi Bộ Luật Dân sự 2005

được xem là luật chung với đối tượng điều chỉnh là các quan hệ về tài sản, nhân thân
trong quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, thương mại, lao động. Sự khác biệt về
mức phạt vi phạm dẫn đến sự khác biệt trong việc quy định mối quan hệ giữa phạt vi
phạm và bồi thường thiệt hại. Điểm 2 khoản 3 Điều 422 Bộ Luật Dân sự 2005 quy
định: Trong trường hợp các bên thỏa thuận phạt vi phạm mà không có thỏa thuận về
bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm. Trong
khi đó, khoản 2 Điều 307 Luật Thương mại 2005 lại quy định: Trong trường hợp các
bên có thỏa thuận phạt vi phạm mà không có thoả thuận bồi thường thiệt hại thì bên bị
vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, trong BLDS còn thiếu các nội dung về hợp đồng hoặc có chăng cũng
chỉ giải thích một cách chung chung, chưa cụ thể như: khái niệm hợp đồng mua bán
hàng hóa, giao kết hợp đồng, phạt hợp đồng, các loại hợp đồng… Hơn nữa một số các
quy định tại LTM lại mâu thuẫn với quy định của BLDS.
Thứ ba về vấn đề giải quyết tranh chấp tại Trọng tài thương mại
Điều 2 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp của Trọng tài là: Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương
mại; tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương
mại; tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng
tài. Quy định này có nghĩa rằng, Trọng tài Việt Nam khi thụ lý đơn khởi kiện phải xem
xét tính thương mại của tranh chấp, tuy rằng, sự tiến bộ của Luật Trọng tài thương mại
2010 đối với Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 là ở chỗ, không cần phải xác định
tính thương mại là trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng. Giả sử ngay cả trong hợp

20


đồng, nếu tranh chấp không phát sinh từ hoạt động thương mại thì Trọng tài không
được thụ lý đơn khởi kiện ngay cả khi có một thỏa thuận Trọng tài hợp pháp.
Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 quy định: Hoạt động thương mại là
hoạt động nhằm mục đích sinh lời, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu

tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác.
Nếu xét về thẩm quyền giải quyết tranh chấp các hợp đồng thương mại của
Trọng tài hiện nay thì tính thương mại được xét dựa trên yếu tố sinh lời của các hoạt
động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lời khác. Như vậy, một trường hợp tranh chấp phát sinh
trong hợp đồng, đã có thỏa thuận trọng tài nhưng tính thương mại không thể xác định
được, liệu rằng Trọng tài có thẩm quyền để giải quyết hay không? Chắc chắn Trọng tài
sẽ rất lúng túng trong vấn đề này. Mặt khác, theo Luật Thương mại 2010 thì thẩm
quyền của Trọng tài có thể mở rộng ở những tranh chấp thương mại không phát sinh
trong hợp đồng, và tương tự như trường hợp trên, Trọng tài cũng thật khó trong việc
xác định thẩm quyền của mình. Bên cạnh đó, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
Tòa án quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2011 về kinh doanh thương mại cũng
đang mang tính liệt kê (khác với liệt kê mang tính loại trừ) và dựa vào mục đích lợi
nhuận làm căn cứ tiên quyết.
Đối với Trọng tài Việt Nam khi giải quyết các tranh chấp Hợp đồng thương mại
đều vận dụng các quy phạm về Hợp đồng thương mại được điều chỉnh trong Bộ luật
Dân sự 2005, Luật Thương mại 2005 và các chế định hợp đồng đặc thù trong Luật Đầu
tư, Luật Xây dựng, Luật Sở hữu trí tuệ... Những quy định này về hợp đồng vẫn nằm rải
rác trong các văn bản pháp luật, đã gây nên sự chồng chéo, làm hạn chế hoạt động áp
dụng pháp luật của Trọng tài.
Thứ tư về vấn đề giải quyết tranh chấp tại Tòa án


Vướng mắc khi áp dụng khoản 3 Điều 306 Luật thương mại:

Luật thương mại năm 2005 ra đời có khá nhiều điểm mới, tiến bộ so với Luật
thương mại năm 1997. Song bên cạnh đó cũng còn một số điểm bất cập cần đặt ra xem
xét. Tại khoản 1 Điều 3 Luật thương mại quy định “Hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư,
xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Tuy nhiên, các

hoạt động nhằm nhằm mục đích sinh lợi khác là những hoạt động cụ thể nào cho đến
nay chưa có văn bản giải thích. Như vậy, các tranh chấp trong lĩnh vực xây dựng, tín
dụng, bảo hiểm có được xem là những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác và có
phải là đối tượng điều chỉnh của Luật thương mại không? Cũng tại khoản 3 Điều 3 quy
định “Thói quen trong hoạt động thương mại” cũng gây những vấn đề tranh cãi trong
21


công tác xét xử. Xác định “quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng được hình thành và lặp
lại nhiều lần trong một thời gian dài giữa các bên mặc nhiên thừa nhậnđể xác định
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thương mại”. Để xác định sự việc có
phải là thói quen nhiều lần thì căn cứ bao nhiêu lần là nhiều lần và trong thời gian bao
lâu để xác định là trong một thời gian dài, cũng như việc đã mặc nhiên thừa nhận của
các bên rất khó để được công nhận là thói quen trong hoạt động thương mại.
Ngoài ra, tại Điều 306 Luật thương mại quy định về quyền yêu cầu tiền lãi do
chậm thanh toán quy định “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền
hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi
phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ
quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian
chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Việc
xác định mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường cần phải căn cứ trên cơ sở
nào thì hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể. Có quan điểm cho rằng lãi
suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tính theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân
hàng nhà nước công bố tại thời điểm thanh toán. Nhưng quan điểm thứ 2 lại cho rằng
phải tính theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình của ba ngân hàng Vietcombank,
Vietinbank, Agribank đang hoạt động trên địa bàn xảy ra tranh chấp (ít nhất là trong
phạm vi một quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh).


Về thời hạn giải quyết vụ án:


Theo Điều 179 BLTDS quy định:
“1.Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án được quy định như sau:
a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này, thời hạn
là bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 29 và Điều 31 của Bộ luật này, thời hạn
là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án
Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng
đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a và một tháng đối với vụ án thuộc
trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.
3. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án
phải mở phiên tòa; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng”.
Với quy định trên của BLTTDS thì thời hạn giải quyết vụ án kinh doanh thương
mại quá ngắn. Nếu trong một vụ án kinh doanh thương mại đương sự không hợp tác,
không có mặt để tham gia tố tụng khi được triệu tập... Ngoài lý do không nhận được
văn bản triệu tập, rất nhiều trường hợp đương sự không còn ở địa phương hoặc đương
22


×