Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

TRUYỆN CỔ DÂN GIAN MANG MẦU SẮC PHẬT GIÁO CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á NGHIÊN CỨU DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH LOẠI HÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.4 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, nghiên cứu văn hoá tâm linh đang đi vào chiều sâu và ngày càng được quan tâm như
một trong những nhiệm vụ chủ yếu của khoa nghiên cứu văn học. Sự kết dính giữa tôn giáo với văn
học, đặc biệt là văn học dân gian đang nổi lên như một trong những vấn đề trung tâm trong nỗ lực
nghiên cứu văn hoá để con người hiểu biết về chính mình nhằm hướng đến một tương lai phát triển bền
vững trong thời đại đầy biến động và thử thách.
So với nhiều vùng trên thế giới, Đông Nam Á là mảnh đất lý tưởng để nuôi dưỡng và phát triển
Phật giáo. Bén rễ từ trước công nguyên, Phật giáo đã góp phần tạo thành nền tảng văn hoá Đông Nam
Á cổ đại. Việt Nam nằm trong cơ tầng văn hoá Đông Nam Á cổ đại từ sớm, trước khi bị ảnh hưởng văn
hoá Hán. Phật giáo đã cấy lên cơ tầng văn hoá bản địa Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng
những dấu ấn vật chất và tinh thần đậm tính nhân văn, góp phần tạo nên những thời kỳ phát triển thịnh
vượng và huy hoàng trong lịch sử các dân tộc.
Đạo Phật trong hành trình phát tích truyền thừa của mình đã tạo nên một vùng quang phổ văn
hoá rộng lớn. Là một tôn giáo mang tính quốc tế, đặc biệt và độc đáo hơn bất kỳ một tôn giáo nào, tư
tưởng Phật giáo có một khả năng hoà phối ở mức cao nhất với quan điểm sống, tình cảm và nguyện
vọng của quảng đại quần chúng lao động các dân tộc. Nghiên cứu nguồn truyện cổ dân gian mang màu
sắc Phật giáo, ở một phạm vi nhất định, nhằm phác thảo lại con đường, cơ chế mà Phật giáo thâm nhập
vào đời sống các cư dân bản địa Đông Nam Á để phát huy vai trò của nó trong đời sống văn hoá các
dân tộc, qua đó, đưa lại những khám phá về cách thức mà nhân dân các dân tộc tiếp biến tôn giáo này
trở thành một thành tố văn hoá ưu việt thúc đẩy sự phát triển cộng đồng. Đó là một sự quay lại, chiêm
nghiệm, tổng kết quá khứ đồng thời mở ra những cánh cửa mới để bước vào tương lai, phục vụ yêu cầu
đổi mới nghiên cứu, đổi mới sáng tác văn học, đổi mới tư duy văn hoá tôn giáo cũng như đổi mới chiến
lược phát triển kinh tế xã hội.
Việc nghiên cứu văn học dân gian của ta hiện nay đang xích dần hơn với khoa nghiên cứu văn
học dân gian quốc tế và đạt được những thành tựu khá to lớn, đã đặt ra được những vấn đề quan trọng
có tính chất lí luận về nguồn gốc, bản chất, đặc trưng thể loại, quá trình lịch sử của tác phẩm văn học
dân gian, phương pháp nghiên cứu tác phẩm phônclo. Tuy nhiên, cấp độ nghiên cứu trung gian giữa
nghiên cứu khái quát văn học dân gian với nghiên cứu sáng tác dân gian cụ thể còn khá nhiều khoảng
trống. Bên cạnh việc áp dụng những thành tựu của cấu trúc luận vào lĩnh vực nghiên cứu thể loại, việc
khoanh vùng nghiên cứu những nhóm đối tượng mang những nét đặc thù loại hình, đặc biệt là trên cơ


sở nghiên cứu so sánh, đang là hướng đi chuyên sâu, thiết thực không chỉ góp phần thu hẹp những
khoảng trống trong lĩnh vực nghiên cứu phônclo mà còn mang ý nghĩa liên nghành, đóng góp vào


những thành quả nghiên cứu văn bản học, nghiên cứu văn hoá tộc người, gợi mở những đường hướng
nghiên cứu có liên quan cũng như có thể giúp cho các nhà văn đương đại tìm hướng sáng tác mới trên
con đường tìm về với nguồn cội văn học dân tộc.
Giải mã truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo theo phương pháp tiếp cận loại hình lịch sử
và văn hoá học là đi tìm cách ứng xử của các dân tộc trong quá trình cọ xát văn hoá cũng như trong
mối quan hệ với tự nhiên và xã hội theo lí tưởng thẩm mỹ, vừa mang ý nghĩa phổ quát chung cho toàn
nhân loại vừa đậm dấu ấn văn hoá dân tộc. Việc nghiên cứu đối tượng này giúp nhận ra những đặc
điểm nằm ở bề sâu của lịch sử, văn hoá hình thành nên dân tộc tính, giúp cho sự hiểu biết những tương
đồng trong chiều sâu và dị biệt giữa Việt Nam với các nước trong khu vực.
Nghiên cứu nguồn truyện cổ mang màu sắc Phật giáo của các quốc gia Đông Nam Á góp phần
đưa lại những minh chứng văn hoá cụ thể, xác thực, bác bỏ những cách gọi tên máy móc và gán ghép
của người châu Âu xem văn hoá của các nước Đông Nam Á chịu ảnh hưởng văn hoá Ấn là Viễn Ấn
(Father India), Đại Ấn (Great India), coi văn minh Đông Nam Á là văn minh ánh sáng trăng
(moonlight civilization), văn minh vệ tinh (satellite civilization) hoàn toàn do bên ngoài mang đến.
Đề tài này, nếu được quan tâm đúng mức, có thể tiến hành khảo sát, thu thập tư liệu trên một
diện rộng cũng như phân tích sâu những giá trị lịch sử, văn hoá của chúng làm tài liệu tham khảo rất bổ
ích cho công việc nghiên cứu văn học nói chung và nghiên cứu, giảng dạy văn học dân gian nói riêng,
đặc biệt cho sinh viên các chuyên khoa Đông Phương học, Đông Nam Á học.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu về vấn đề ảnh hưởng của Phật giáo trong văn hoá - văn
học Đông Nam Á nói chung và văn hoá - văn học Việt Nam nói riêng, đặc biệt là ở phạm vi truyện cổ
dân gian, tiến hành nghiên cứu đề tài “Truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam và
các nước Đông Nam Á nghiên cứu dưới góc độ so sánh loại hình”, chúng tôi xác định một số mục đích
khoa học sau đây:
Thứ nhất, khảo sát đối tượng nghiên cứu, rút ra những đặc điểm mang tính loại hình của truyện
cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của các nước Đông Nam Á. Từ đấy, tiến hành so sánh sự giống,

khác nhau giữa truyện của Việt Nam và các nước trong khu vực để từ đó có thể hiểu được những quy
luật vận động của một nhóm loại truyện cổ dân gian trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở khu vực
Đông Nam Á mà trước đây ít nhiều đã được tiến hành trên một vài kiểu truyện.
Thứ hai, trên cơ sở những đặc điểm mang tính loại hình của nhóm đối tượng khảo sát, bước đầu
đi vào những đối sánh cụ thể ở các cấp độ cốt truyện, nhân vật và mô típ để chỉ ra những khác biệt giữa
truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam so với truyện cổ dân gian mang màu sắc
Phật giáo của các nước bạn cùng khu vực.


Thứ ba, nghiên cứu đề tài này, chúng tôi cũng hướng đến mục đích bổ sung những mảng nghiên
cứu còn khá trống trải trong lĩnh vực nghiên cứu văn học dân gian Đông Nam Á đồng thời đem lại
những kết quả thiết thực phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu văn học dân gian.
Thứ tư, xác lập một hệ thống các đơn vị tác phẩm không chỉ làm tư liệu khảo sát phục vụ đề tài
mà còn làm nguồn tư tiệu tham khảo về lâu dài, nếu có điều kiện thuận lợi, có thể tiến hành nhuận sắc,
bổ sung để cho ra đời một tuyển tập truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo trong khu vực tương
tự như công trình mà tác giả Lệ Như Thích Trung Hậu đã thực hiện đối với truyện cổ mang màu sắc
Phật giáo của Việt Nam.
3. Lịch sử vấn đề
3.1. Nhóm tư liệu nghiên cứu liên quan đến truyện cổ dân gian Việt Nam mang màu sắc Phật
giáo
Từ những thập kỷ 60-70 của thế kỷ trước, các nhà nghiên cứu văn hoá-văn học dân gian như
Nguyễn Đổng Chi, Cao Huy Đỉnh, Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên… đã đề cập khá nhiều về vấn đề
ảnh hưởng của Phật giáo trong truyện cổ dân gian nước nhà thông qua các công trình: Kho tàng truyện
cổ tích Việt Nam (1957-1982), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện “Tấm
Cám”(1963), Tìm hiểu thần thoại Ấn Độ (1964), Văn học dân gian Việt Nam (1972-1973), Tìm hiểu
tiến trình văn học dân gian Việt Nam (1974),…
Đinh Gia Khánh nhiều lần nhấn mạnh những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng tôn giáo nói
chung và tư tưởng Phật giáo ở nhiều truyện như Thần trùng, Thần hổ, Quỷ nhập tràng, Ma cà rồng,
Giếng Việt, Từ Đạo Hạnh, Mục Liên, Từ Thức, Duyên lạ nước Hoa, Con trâu Vạn Địch .v.v.. Tác giả
khẳng định vẻ đẹp tinh thần lành mạnh của dân tộc qua việc nhân dân cải biến hình ảnh đức Phật nhân vật tối cao của Phật giáo thành một hình tượng hiền từ, độ lượng, căm ghét kẻ ác, thương yêu

người thiện [75, tr. 332-333]. Nhìn chung tác giả chỉ nêu ra những nhận định sơ bộ về mối quan hệ
giữa Phật giáo với truyện cổ Việt Nam. Có thể nói, Đinh Gia Khánh là một trong những người dành
nhiều công sức nhất cho việc nghiên cứu kiểu truyện Tấm Cám. Ở công trình Sơ bộ tìm hiểu những vấn
đề của truyện cổ tích qua truyện “Tấm Cám”, xoay quanh hiện tượng chết đi sống lại nhiều lần của
Tấm, tác giả khẳng định: “nhà chùa đã thất bại khi muốn đem nhồi nhét giáo lý bi quan của đạo Phật
cho nhân dân ta” [74, tr. 107] và kết luận: “Tấm Cám thể hiện tinh thần đấu tranh quyết liệt dẻo dai để
bảo vệ cuộc sống, bảo vệ chính nghĩa” [74, tr. 119]. Tác giả cũng đã tiến hành so sánh truyện Tấm
Cám của Việt Nam với những truyện cùng típ của các nước cùng khu vực. Công trình này gợi mở
nhiều khía cạnh đáng quan tâm cho hướng khai thác vấn đề của luận văn.
Cao Huy Đỉnh cũng thừa nhận tính chất mê tín của tư tưởng tôn giáo trong truyện cổ. Tuy
nhiên, theo tác giả, chính sự mềm dẻo trong quan niệm dân gian đã chi phối, điều tiết được những mâu
thuẫn của bản thân tôn giáo, bảo đảm sự hài hoà, thống nhất của hai xu hướng thiêng liêng và thế tục,
từ bi và đấu tranh, mê tín và thực tiễn [40, tr. 227]. Ông cũng chỉ ra sự kết hợp và chuyển hoá giữa đạo


Phật với tín ngưỡng bản địa qua biểu hiện những nữ thần thị tộc: bà Dâu, bà Đậu, bà Dàn là biểu tượng
đại diện cho những lực lượng thiên nhiên: mưa, gió, sấm sét ở trong thần thoại cổ của người Việt đã trở
thành tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện) của đạo Phật dân gian [40, tr. 41]. Như
vậy, Cao Huy Đỉnh chỉ dừng lại ở chỗ đánh giá chung tinh thần Phật giáo trong truyện cổ dân gian
nước nhà, chưa đi vào những khía cạnh cụ thể về mặt loại hình, cũng như chưa quan tâm đến đặc điểm
của nhóm truyện này trên phạm vi khu vực.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi, dành hai mươi lăm năm cho công trình Kho tàng truyện cổ
tích Việt Nam, đã đúc kết nhiều thành quả chiêm nghiệm quý báu khi nghiên cứu mảng truyện cổ có
dính líu đến đạo Phật. Thứ nhất, tác giả nhận định rằng: “Phần lớn truyện mang màu sắc Phật giáo là
những truyện cổ tích thế sự. Rất hiếm có những truyện mà nhân vật trung tâm của nó còn giữ được tầm
vóc của quá khứ như ông Khổng Lồ trong truyện Khổng Lồ đúc chuông” [8, tr. 80]. Đặc điểm thứ hai
của nhóm truyện cổ dân gian có ảnh hưởng của Phật giáo là “hiện tượng khai thác đề tài tình duyên để
chuyển tải ít nhiều tư tưởng có liên quan đến đạo Phật” [8, tr. 1650]. Đặc điểm thứ ba là “tuy loại
truyện mang chủ đề tôn giáo chiếm số lượng ít, người Việt lại có khá nhiều truyện dường như là để
cảnh giới người tu hành” [8, tr. 1673]. Đặc biệt, Nguyễn Đổng Chi đã khái quát từ những biểu hiện vận

động cốt truyện của những truyện cổ tích mang màu sắc Phật giáo thành một đặc điểm hết sức độc đáo
của truyện cổ tích Việt Nam, đó là vấn đề chính - tà được xây dựng theo quan hệ kép, quan hệ song tồn
và chuyển hoá chứ không phải quan hệ một chiều, đối kháng tuyệt đối dẫn đến triệt tiêu một phía [8, tr.
1620, 1624]. Nhìn chung, Nguyễn Đổng Chi đã chỉ ra những đặc điểm khá quan trọng xoay quanh
nhóm truyện mà đề tài nghiên cứu.
Điểm chung ở các tác giả này thể hiện ở cái nhìn thống nhất xoay quanh hình tượng Bụt trong
truyện cổ tích Việt Nam. Các tác giả xếp Bụt vào lớp nhân vật đảm nhiệm chức năng lực lượng phù trợ
cho nhân vật chính đạt hạnh phúc như vật báu thần kỳ, con vật thần kỳ, các hình thức biến hoá thần kỳ
của con người và thiên nhiên, là lực lượng ủng hộ cái thiện, ủng hộ lẽ phải, tiếp sức cho những kẻ có
chính nghĩa mà không có thực lực. Bụt hiện thân cho vẻ đẹp hiền từ, nhân hậu gần gũi với mỗi người
dân Việt.
Như vậy, ở giai đoạn này, các chuyên gia đầu ngành văn học dân gian nói trên quan tâm nhiều
nhất vấn đề nhìn nhận trên đại thể bản chất tư tưởng Phật giáo trong truyện cổ tích Việt Nam cũng như
quá trình nhân dân ta khẳng định bản sắc dân tộc qua sự tiếp biến, bản địa hoá tôn giáo ngoại lai. Đây
đó cũng đã có một số phác thảo những đặc điểm của những truyện có liên quan đến Phật giáo. Tuy
nhiên những công trình này cũng chỉ dừng lại ở mức độ khảo sát sơ bộ hoặc chỉ đi vào phân tích một
khối lượng đối tượng hạn hẹp, chưa nghiên cứu hệ thống truyện cổ mang màu sắc Phật giáo của Việt
Nam và các nước Đông Nam Á.
Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, trên cơ sở kế thừa những thành quả quý báu của những
nhà nghiên cứu đi trước kết hợp với những lý thuyết khoa học tiên tiến, lực lượng nghiên cứu ngữ văn,


văn hoá và tôn giáo khá hùng hậu như: Nguyễn Hữu Sơn, Lại Phi Hùng, Phạm Hải Triều, Nguyễn Duy
Hinh, Hoàng Văn Trụ, Lê Phong, Nguyễn Thị Nhàn, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Xuân Đức, Đào
Văn Tiến, Lê Mạnh Thát, Giác Dũng, Hồ Liên,… đã đi tiếp những bước sâu hơn, mới mẻ hơn trong
việc tiếp cận đối tượng.
Giai đoạn này có nhiều ý kiến bổ sung cho vấn đề nhìn nhận bản chất tinh thần Phật giáo trong
truyện cổ dân gian. Lê Phong đã phân tích những chứng cứ văn học để đi đến khẳng định mối giao hoà
tốt đẹp trên hành trình Phật giáo đi vào đời sống của quảng đại quần chúng: “[…] Trong cuộc đời
phong phú, phức tạp có sự gặp gỡ giữa tư tưởng nhân dân và tôn giáo khi cả hai chủ trương cho điều

thiện, điều nhân ái với con người” [105]. Nguyễn Duy Hinh cũng nhìn nhận những giá trị cốt lõi mà
Phật giáo mang đến cho đời sống văn hoá dân tộc: “Phật giáo trở thành một thành tố tâm hồn của
người Việt Nam. Nó không tồn tại độc tôn, không hình thành một dòng văn học riêng mà hoà vào
nguồn chung của văn hoá, văn nghệ dân tộc.” [62]. Lê Mạnh Thát đã tiến hành những phân tích khoa
học công phu Lục độ tập kinh, Lĩnh Nam chích quái, Cựu tạp thí dụ kinh để chỉ ra rằng Phật giáo từ
thời Chử Đồng Tử đến thời Mâu Tử là “một nền Phật giáo có tính cách quyền năng” [122, tr. 20-22].
Giác Dũng đưa ra thêm nhiều dẫn chứng từ Cổ Châu Phật bản hạnh, Lĩnh Nam chích quái, Lý hoặc
Luận, để khẳng định thêm tính chất thuyết phục ở nhận định của Lê Mạnh Thát trong cuốn Lịch sử
Phật giáo Việt Nam về vấn đề đạo Phật thời kỳ Chử Đồng Tử là Phật giáo tín ngưỡng, tin tưởng vào
quyền năng, thần thông linh dị [28, tr. 72-77]… Những nhận định trên giúp chúng tôi có cái nhìn bao
quát cũng như những định hướng sơ bộ về những khía cạnh của tư tưởng Phật giáo trong nhóm truyện
mà đề tài nghiên cứu.
Đặc biệt, hàng loạt những bài nghiên cứu của nhiều tác giả đã góp phần soi rọi, lật xới vấn đề
ảnh hưởng của đạo Phật đối với truyện Tấm Cám mà Đinh Gia Khánh đã khơi nguồn từ ba bốn mươi
năm trước: Cảm quan Phật giáo trong truyện cổ tích Việt Nam (Nguyễn Hữu Sơn, Lại Phi Hùng 1994), Đôi điều suy nghĩ về truyện Tấm Cám (Phạm Xuân Nguyên - 1994), Mối giao lưu và tương tác
văn hoá giữa các nước Đông Nam Á qua truyện Tấm Cám (Nguyễn Tấn Đắc - 1996), Thử phân tích
vài biểu hiện của đặc điểm nhân ái trong truyện cổ tích Việt Nam (Phạm Hải Triều - 1996),... Mặc dù
việc nhìn nhận ảnh hưởng của đạo Phật trong truyện Tấm Cám vẫn chưa ngã ngũ nhưng các tác giả đã
đưa lại những tham chiếu từ nhiều góc độ, trên nhiều bình diện: văn học, văn hoá, lịch sử, tôn
giáo.v.v..có tác dụng gợi mở nhiều cánh cửa để tham sát vấn đề. Đây là những tài liệu tham khảo liên
quan trực tiếp đến đề tài luận văn khi khảo sát các típ truyện tiêu biểu trong truyện cổ dân gian mang
màu sắc Phật giáo của khu vực Đông Nam Á. Dù vậy, các kết quả nghiên cứu cũng chỉ dừng lại ở một
típ truyện mà chưa mở rộng phạm vi khảo sát trên diện rộng các típ truyện mang màu sắc đạo Phật của
Việt Nam và các nước Đông Nam Á.
Cũng xuất phát từ những chiêm nghiệm cùng những phân tích khá lý thú và độc đáo của tác giả
Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam khi bàn về quan hệ kép, quan hệ song tồn và chuyển hoá của hai trục
chính-tà trong truyện cổ tích có liên quan đến Phật giáo, Lê Tiến Dũng mở sang cánh cửa tiếp cận trên


bình diện nhân vật. Tác giả khái quát một đặc điểm của nhân vật trong truyện cổ mang màu sắc Phật

giáo là “tính cách có thay đổi chứ không bất biến như đa số các trường hợp. Nhưng sự thay đổi này
không diễn ra như một quá trình như tự sự hiện đại mà mang tính đột biến, do ý đồ chủ quan của người
kể nhằm phục vụ “mưu toan” định sẵn ngay từ đầu.” [29]. Đây là gợi ý quan trọng cho việc khảo sát
đặc điểm nhân vật của nhóm truyện cổ mang màu sắc Phật giáo.
Không ít công trình nghiên cứu truyện cổ dân gian Việt Nam dưới góc độ nhân vật. Trong đó,
đáng lưu ý là nhân vật Bụt. Về nhân vật này, nhìn chung lớp những người nghiên cứu về sau vẫn
không có ý kiến biện chính lại những quan niệm trước đây mà vẫn cho Bụt là nhân vật đóng vai trò
phân biệt đúng - sai, phải - trái, tốt - xấu, hay giúp đỡ người lành, là sự hoá thân, sự hiện thực hoá cái
thiêng liêng của sự sống, cái đẹp và cái thiện 1 . Như vậy, các tác giả chỉ dừng lại ở việc xếp nhân vật
Bụt vào nhóm nhân vật trợ thủ, chưa chỉ ra sự khác biệt xoay quanh nhân vật này trong truyện cổ Việt
Nam với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Gần với hướng khai thác đề tài luận văn là công trình “Cảm quan Phật giáo trong truyện cổ tích
Việt Nam” của Nguyễn Hữu Sơn - Lại Phi Hùng [116] và luận văn cao học “Truyện dân gian Việt
Nam về Phật giáo nhìn từ góc độ loại hình” của Đỗ Văn Đăng [38].
Trong công trình của mình, Nguyễn Hữu Sơn và Lại Phi Hùng lấy Kho tàng truyện cổ tích Việt
Nam gồm 200 truyện làm cơ sở khảo sát và đã thống kê được 29/200 truyện có liên quan xa gần đến
cảm quan Phật giáo. Trong đó, 18 truyện thể hiện ở cấp độ yếu tố, thành phần; 11 truyện hoàn chỉnh
hơn về nội dung, cốt truyện và nhân vật. Hai tác giả đã chỉ ra được 6 biểu hiện của cảm quan Phật giáo
trong các truyện cổ tích khảo sát có thể hiện trên các cấp độ yếu tố, chi tiết, nhân vật,… Đặc biệt, công
trình đưa lại một nhận định thú vị về kiểu dạng cốt truyện của nhóm đối tượng khảo sát: “Các truyện
mang cảm quan Phật giáo hoàn toàn chỉ xuất hiện đậm đặc ở truyện về nguồn gốc sự vật…”. Các tác
giả khẳng định “màu sắc cảm quan Phật giáo thường gắn bó chặt chẽ với nguồn gốc nguyên mẫu, giải
thích nguồn gốc sự vật và cuộc đời các danh nhân có uy vọng trong đời sống tâm linh quần chúng.”
[116, tr. 54-55]. Tiếc rằng các tác giả chỉ dừng lại ở mức độ nhận định khái quát, không phân tích cụ
thể kiểu dạng đặc thù của hình thức kể chuyện sự tích để làm sáng tỏ tính chất vừa mâu thuẫn vừa
thống nhất của xu hướng thiêng hoá và thế tục hoá của truyện cổ mang màu sắc đạo Phật.
Luận văn thạc sĩ của học viên Đỗ Văn Đăng nghiên cứu khá tỉ mỉ về nhóm truyện cổ dân gian
mang màu sắc Phật giáo của nước ta. Sau khi phân chia đối tượng khảo sát thành ba loại: Phật thoại,
những truyện ảnh hưởng của Phật giáo và những truyện có mối giao thoa với kinh điển, điển tích Phật
giáo, tác giả đã phác hoạ kiểu dạng cấu tạo cốt kiểu truyện chính: kiểu Phật thoại dân gian thoát thai từ

truyện tích nhà chùa và kiểu Phật thoại xây dựng từ típ truyện dân gian. Kế đến, tác giả khảo sát 17 mô
típ đặc trưng của nhóm truyện này. Tác giả cũng tiến hành nghiên cứu khá kỹ loại hình nhân vật Phật
giáo. Đặc biệt, người viết dành hẳn một chương để bước đầu so sánh khái quát kiểu truyện dân gian
1

Xem Hồ Liên [81], Lê Phong [105], Nguyễn Hữu Sơn, Lại Phi Hùng [116],


Việt Nam mang màu sắc Phật giáo và kiểu truyện cùng loại của một số nước trong khu vực. Công trình
này mang lại những đóng góp đáng trân trọng và là nguồn tư liệu tham khảo thực sự bổ ích cho chúng
tôi khi nghiên cứu đề tài của luận văn. Tuy nhiên, cần thấy rằng bình diện cốt truyện chưa được tác giả
khai thác rốt ráo và khoa học, cụ thể là tác giả đồng nhất giữa việc phân loại với việc phác hoạ các
dạng cấu tạo cốt truyện dẫn đến sự thiếu rõ ràng và thuyết phục khi đưa ra những kiểu dạng cốt truyện
của nhóm đối tượng khảo sát. Hệ thống mô típ mà tác giả phác thảo khá dàn trải do sự phân chia đối
tượng thành những thành phần quá chi tiết thay vì có thể gộp vào những kiểu dạng chung. Phần đối
sánh giữa truyện người Việt với truyện các nước Đông Nam Á chỉ mang tính khái quát và là những
phác thảo đơn sơ chứ chưa phải là đối tượng khảo sát chính.
Tóm lại, dù đã đề cập đến khá nhiều khía cạnh xoay quanh mối quan hệ giữa Phật giáo và
truyện cổ dân gian Việt Nam, các công trình trên cũng chỉ dừng lại ở phạm vi dân tộc chứ chưa tiến
hành nghiên cứu hệ thống nhóm truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của nước ta với các quốc
gia Đông Nam Á.
3.2. Nhóm tư liệu nghiên cứu liên quan đến truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của
các nước Đông Nam Á
Xoay quanh vấn đề ảnh hưởng của Phật giáo trong văn học dân gian Đông Nam Á có một số tác
giả từ thập niên 60 của thế kỷ trước đã đề cập ở trên như Cao Huy Đỉnh (Tìm hiểu thần thoại Ấn Độ
(1964)), Đinh Gia Khánh (Văn hoá dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hoá Đông Nam Á (1993))
cùng rất nhiều nhà nghiên cứu về sau như Đức Ninh (Văn học các nước Đông Nam Á (1999)), Nguyễn
Tấn Đắc (Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif (2001)), Lại Phi Hùng (Những tương đồng và
khác biệt trong một số kiểu truyện cổ dân gian ở Lào và Việt Nam (2004)), Vũ Tuyết Loan (Tuyển tập
văn học Campuchia (2003), Văn học Phật giáo Campuchia (2005)), Phạm Đức Dương (Việt NamĐông Nam Á ngôn ngữ và văn hoá (2007)), Lương Ninh - Vũ Dương Ninh (Tri thức Đông Nam Á

(2008)),… Chỉ sơ bộ qua thống kê trên sẽ thấy hướng nghiên cứu so sánh thực sự phát triển mạnh vào
những thập niên 80, 90 của thế kỷ XX cho đến nay.
Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu thống nhất cho rằng các quốc gia Đông Nam Á theo dòng
chữ Phạn chịu sự ảnh hưởng đặc biệt sâu đậm của Phật giáo và văn học Ấn Độ. Truyện cổ dân gian của
các nước này lấy đề tài chủ yếu và xuyên suốt từ các tác phẩm kinh điển của văn học xứ Phật Đà, đặc
biệt là Bổn sinh kinh (Jataka). Năm 1964, khi tìm hiểu thần thoại Ấn Độ, nhà nghiên cứu Cao Huy
Đỉnh từng chỉ ra mối liên hệ giữa những truyện xoay quanh nhân vật chú thỏ ở các nước Campuchia,
Lào, Thái Lan, Myanma,…với chuyện tiền thân đức Phật của người Ấn với tên gọi “sasa”, vừa chỉ con
thỏ, vừa chỉ mặt trăng [40, tr. 684]. Sang những năm cuối thập niên 80 đầu 90, nhiều kết quả nghiên
cứu Đông Nam Á tiếp tục khẳng định và đi sâu hơn vào khu vực văn học dân gian Đông Nam Á ảnh
hưởng từ văn học Phật giáo Ấn Độ. Lưu Đức Trung, từ những năm 1989 đến 1999 đã chỉ ra những ảnh
hưởng của Jataka vào văn học Lào, Thái Lan, Campuchia: “[…] Jataka vào Campuchia cuối thời kì
Ăngco, ngày càng trở thành nguồn đề tài quan trọng của văn học. Tư tưởng Phật giáo trong Jataka có


ảnh hưởng sâu đậm trong các tác phẩm văn học của Campuchia, xu hướng Jataka hoá ngày càng rõ nét
trong truyện cổ, ngụ ngôn. Các nhân vật phần nhiều là hiện thân của đức Phật. Lối kết thúc truyện cũng
giống như lối kết thúc trong Jataka, Jataka đến với Lào với cái tên Xattakhăm, phần nhiều truyện tiền
kiếp của đức Phật trở thành nguồn chất liệu trong sáng tác của văn học Lào…”[142, tr. 12-13]. Trong
Tuyển tập văn học Campuchia, ở phần giới thiệu bộ phận văn học truyền thống, Vũ Tuyết Loan phân
tích quá trình Phật hoá văn học Campuchia cũng như xu hướng Jataka hoá truyện cổ Campuchia sâu
đậm đến mức “[…] Văn học Campuchia thời kỳ này (thế kỷ XVI, XVII) nhiều lúc chỉ làm việc minh
hoạ đơn giản cho giáo lý nhà chùa, bởi lẽ quan niệm nghiệp căn (Karma) của Phật giáo chi phối hầu
hết các tình tiết cốt truyện.” [84, tr. 19].
Các tác giả Đức Ninh, Vũ Tuyết Loan, Nguyễn Tương Lai cũng khá thống nhất khi phân chia
văn học các nước Lào, Thái Lan, Campuchia thành ba loại: văn học dân gian, văn học nhà chùa, văn
học cung đình. Trong đó, tinh thần đạo Phật hầu như chiếm lĩnh xuyên suốt ba bộ phận nói trên 2 .
Một mặt nhấn mạnh những ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo cũng như văn học Ấn Độ, các nhà
nghiên cứu vẫn khẳng định sức mạnh nội sinh của văn hoá bản địa hình thành trước khi có sự xâm
nhập của đạo Phật: “[…] Từ thời xa xưa, ở các nước Asean đã từng có một nền văn hoá rực rỡ, nền văn

minh nông nghiệp lúa nước phát sinh rất sớm. Nhiều nhà nghiên cứu gọi lớp văn hoá nguyên sơ này là
cơ tầng văn hoá Đông Nam Á” [46, tr. 2]. Các tác giả phân tích quá trình tiếp biến chủ động, có chọn
lọc của các dân tộc Đông Nam Á: “Những tác phẩm văn học cổ đại Ấn Độ khi vào Đông Nam Á gặp
ngay đời sống dân gian vô cùng sống động đã được dân gian hoá, được tái sinh trong dân gian, làm
giàu thêm cho kho tàng văn học dân gian vùng này.” [46, tr. 5].
Từ góc độ loại hình lịch sử và vận dụng lý thuyết nghiên cứu cấu trúc luận, Nguyễn Tấn Đắc đã
chỉ ra mối quan hệ nguồn cội của típ truyện U Thền của dân tộc Thái (Việt Nam) với những truyện
cùng típ ở các quốc gia Đông Nam Á từ trong văn học Phật giáo [35, tr. 139]. Theo đó, tác giả nêu cụ
thể “[…] Các truyện về U Thền (hay U Thền, Ú Thêm) và về Xi Thuần (hay Xi Thốn) của người Thái ở
Việt Nam đã tiếp nhận từ các type truyện Rothisen (hay Butthesen) và Sudhana (hay Xi Thôn) phổ biến
ở các nước Đông Nam Á theo Phật giáo Theravada là Lào, Campuchia, Thái Lan và Myanma. Và
nguồn gốc sâu xa của chúng là từ Đất nước Phật Đà - Ấn Độ [35, tr. 150-151]. Đặc biệt, tác giả chỉ ra
những điểm dị biệt trong thế đối sánh truyện Việt Nam với truyện các nước bạn cùng khu vực: “Cũng
tiếp nhận từ Ấn Độ, nhưng cách người Thái Lan, người Lào, người Campuchia, Myanma và Việt Nam
tiếp nhận có khác nhau. Trong khi người lào, Thái Lan, Campuchia và Myanma đã tiếp nhận nguyên
vẹn những yếu tố đặc trưng của vũ trụ văn hoá Ấn Độ, thì người Thái ở Việt Nam đã tìm cách biến đổi
hoặc tước bỏ chúng đi.” [35, tr. 153]. Trên cơ sở quan sát thấy sự thiếu vắng một số chi tiết ở truyện
Việt Nam so với các nước khác, tác giả khái quát: “trong cách tiếp nhận, người Thái Việt Nam có xu

2

Xem Đức Ninh [84] và Vũ Luyết Loan [102]


hướng tước bỏ nhiều yếu tố đặc trưng của vũ trụ văn hoá Ấn Độ và thay đổi một số tiết và motif để cho
phù hợp với vũ trụ quan và quan niệm đạo đức của mình. Và vì vậy, các bản của người Thái Việt Nam
càng xa với bản gốc.” [35, tr. 160-161].
Cũng theo hướng nghiên cứu này, trên cơ sở lịch sử xã hội, vận dụng các thao tác phân tích cấu
trúc, phân loại, so sánh, Lại Phi Hùng đã tìm hiểu những tương đồng và khác biệt về đặc điểm loại
hình kiểu truyện Chàng trai khoẻ, kiểu truyện Người bất hạnh và kiểu truyện Người đội lốt vật của

Việt Nam và Lào trên các cấp độ mô típ, kết cấu, cốt truyện, chủ đề,…[65]. Công trình này gợi ở nhiều
khía cạnh về mặt phương pháp để chúng tôi thực hiện đề tài.
Nhìn chung, các công trình trong nước đã đóng góp kết quả khoa học cụ thể thiết thực và quý
báu vào những khoảng trống của khu vực nghiên cứu truyện cổ Đông Nam Á trên tinh thần nghiên cứu
so sánh những nhóm dạng tác phẩm cụ thể, đặc thù. Tuy nhiên, về mảng truyện cổ dân gian mang màu
sắc Phật giáo, hầu hết các nghiên cứu chỉ dừng lại ở phạm vi một, hai quốc gia riêng lẻ. Từ thành quả
trên, luận văn chúng ta sẽ tiếp tục triển khai ở cấp độ khu vực.
Những nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài về lĩnh vực này cũng đưa lại những kết quả
đáng quan tâm. Siraporn Nathalang ở bài viết Sự xung đột và thoả hiệp giữa tín ngưỡng bản địa với
Phật giáo được phản ánh qua những thần thoại của người Thái về nguồn gốc cây lúa (Conflict and
compromise between the indigenous beliefs and Buddhism as reflected in Thai rice myths) đã dẫn ra ba
kiểu truyện được lưu truyền ở các dân tộc Thái Lan và phân tích những nghĩa lý mang tính lịch sử-dân
tộc của chúng phản ánh quá trình chuyển biến từ “cú sốc văn hoá” ở buổi đầu Phật giáo mới du nhập
vào lãnh thổ, va chạm với tín ngưỡng bản địa, đến những bước mối xung đột ấy dần dần được xoa dịu
và cuối cùng đi đến hoà bình. Qua phân tích, tác giả đã chỉ ra sự chuyển biến cục diện văn hoá và lịch
sử dẫn đến sự chuyển hoá về mặt cấu tạo cốt truyện dân gian truyền miệng như là một quy luật tất yếu
của văn học dân gian…[156, tr. 99-112]. William J. Klausner, đã cung cấp những câu chuyện thú vị
xoay quanh một nhân vật mà người Thái Lan gọi là “Hua paw” trong truyện kể truyền miệng vùng
Đông-Bắc nước này. Đó là những câu chuyện kể về những người đàn ông bứt mình ra khỏi vai trò trụ
cột của gia đình, rời bỏ nhà cửa, vợ con để vào chùa đi tu nhưng không thể thoát khỏi những ràng buộc
của đời sống thế tục và những ham muốn đời thường [156, tr. 69-72]. Pranee Wongthet trong bài
Chuyện tiền thân đức Phật và thế giới quan của người Lào Buông (The Jataka stories and Laopuan
worldview) đã đi sâu nghiên cứu tầm quan trọng của Jataka trong đời sống của người Lào Buông và
niềm tin của họ đối với cây bồ đề …[156, tr 47-60]…
Có thể chưa bao quát hết những ý kiến của các tác giả nước ngoài nhưng trong phạm vi hiểu
biết, chúng ta thấy hầu hết các nghiên cứu tập trung vào khía cạnh ảnh hưởng của Jataka trong truyện
cổ dân gian các nước theo Phật giáo Theravada hoặc chỉ giới thiệu đôi nét về một số típ truyện cổ dân
gian mang màu sắc Phật giáo mang nặng tính chất khảo cứu thực địa hơn là nghiên cứu từ góc độ loại
hình. Nhìn chung, đối tượng nghiên cứu của các tác giả này cũng chỉ gói gọn trong một phạm vi tác



phẩm hạn hẹp, chưa khảo sát diện rộng nhóm truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của các nước
Đông Nam Á từ góc độ loại hình.
Những phác họa từ các công trình đi trước có thể còn thiếu nhưng cũng đủ cho thấy hướng
nghiên cứu mối quan hệ giữa truyện cổ dân gian với Phật giáo được đặc biệt quan tâm. Nhiều vấn đề
đã được khẳng định. Nhiều vấn đề chỉ dừng ở mức gợi mở. Đấy chính là vấn đề chúng tôi quan tâm.
Trong phạm vi đề tài của luận văn, chúng tôi xác định hướng nghiên cứu nhằm bổ sung phần phác hoạ
diện mạo cốt truyện, nhân vật và hệ thống các mô típ của nhóm truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật
giáo của Việt Nam và các nước cùng khu vực Đông Nam Á ở mức độ bao quát hơn. Đề tài sẽ tập trung
chỉ ra những tương đồng ở chiều sâu cũng như những dị biệt có cội rễ từ trong đời sống văn hoá,
truyền thống, thể hiện bản sắc riêng của các dân tộc. Trên một diện rộng như vậy, chúng tôi tự xác định
không thể quán xuyến tất cả mọi khía cạnh hiện tồn trong bản thân đối tượng nghiên cứu mà chỉ đi vào
một số khía cạnh chủ yếu khả dĩ mang lại những khái quát khoa học bước đầu và cơ bản nhất có thể để
làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp sau của bản thân hoặc những ai quan tâm vấn đề này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của các nước
trong khu vực Đông Nam Á và tiến hành phân loại để nghiên cứu cấu tạo về loại hình của chúng. Tuy
nhiên, không phải mọi truyện xuất hiện những dấu hiệu có liên quan đến Phật giáo đều thuộc đối tượng
lựa chọn để nghiên cứu đề tài. Chúng tôi chỉ giữ lại những truyện mà trong đó, yếu tố Phật giáo tham
gia và đóng một vai trò quan trọng góp phần cấu thành giá trị của chỉnh thể nghệ thuật của tác phẩm.
Trên thực tế, những truyện thuộc nhóm đối tượng này xuất hiện ở hầu hết các thể loại của loại
hình tự sự dân gian như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười. Trong
đó, truyền thuyết và truyện cổ tích chiếm tỷ lệ cao nhất.
Ở phạm vi quốc gia, dân tộc, về phía Việt Nam, do đặc điểm văn hoá lịch sử riêng, chúng tôi
chọn những truyện của dân tộc Kinh làm nguồn tư liệu nghiên cứu chính. Về phía các nước cùng khu
vực Đông Nam Á, do tình hình thực tế của nguồn tư liệu, chúng tôi khảo sát chủ yếu truyện cổ của các
nước Campuchia, Thái Lan, Lào, Myanma. Truyện cổ của các quốc gia còn lại trong khu vực Đông
Nam Á như Inđônêxia, Malaixia, Singapo, Philippin, Brunây, Đông Timo có thể được sử dụng với
khối lượng hết sức hạn chế phục vụ cho thao tác đối chiếu, bổ sung.
Tuy trải trên một diện rộng về tư liệu nhưng nhiệm vụ chính của đề tài là khảo sát loại hình.

Xuất phát từ góc độ loại hình, chúng tôi hy vọng có thể khái quát được một số nét đặc thù, có thể dựa
vào đấy làm điểm tựa để nhận diện những đơn vị tác phẩm thuộc nhóm đối tượng này và từ đấy có thể
tìm thấy những nét tương đồng và dị biệt của nó giữa các nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Triển khai đề tài này, chúng tôi cố gắng vận dụng một số phương pháp nghiên cứu phù hợp với
khoa nghiên cứu văn học dân gian, đặc biệt là nghiên cứu so sánh loại hình lịch sử.


Phương pháp phân tích cấu trúc được sử dụng như là phương pháp nền tảng để khai thác những
thành tố cấu thành chỉnh thể nghệ thuật tác phẩm. Trong đó, thao tác phân lớp đối tượng, chia nhỏ các
thành tố bộ phận, sắp xếp chúng vào cùng một hệ thống và thống kê, phân loại các đơn vị đã phân
chia,…luôn hỗ trợ đắc lực trong quá trình khảo sát đối tượng.
Vận dụng phương pháp loại hình lịch sử, trên cơ sở những kết quả thu được từ thao tác giải
phẫu cấu trúc văn bản tác phẩm, những khía cạnh liên quan đến lịch sử - văn hoá luôn là điểm khơi
nguồn cho hầu hết những phác thảo khoa học đồng thời là điểm đến sau khi những kết quả nghiên cứu
đã được khái quát và hệ thống lại. Bởi lẽ, chúng tôi luôn quan niệm tất cả những khía cạnh đặc trưng
loại hình của một nền văn học, một tác giả hay một thể loại văn học,.. đều xuất phát từ những đặc điểm
nền tảng địa lý, kinh tế, xã hội, văn hoá,…mà nền văn học ấy, tác giả và thể loại văn học ấy sinh ra, tồn
tại, vận động và phát triển.
Phương pháp hệ thống cũng được quan tâm như là một trong những phương pháp chủ yếu của
quá trình nghiên cứu. Bởi lẽ đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đơn vị tác phẩm cụ thể nằm
trong hệ thống truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của các nước thuộc khu vực Đông-Nam
châu Á. Mọi biểu hiện trên từng tác phẩm riêng lẻ có ý nghĩa như là những dấu hiệu bộ phận có nét
tương đồng hoặc dị biệt với những đơn vị tác phẩm khác, từ đó có thể khái quát nên những đặc điểm
mang tính loại hình của đối tượng nghiên cứu cũng như những dấu hiệu ngoại lệ nằm chệch ra ngoài hệ
thống đó.
Phương pháp nghiên cứu so sánh tham gia tích cực trong việc đối chiếu những đặc điểm mang
tính loại hình giữa truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam và các nước bạn cùng
khu vực. Phương pháp này đóng vai trò quan trọng giúp chúng tôi thu được những kết quả khảo sát mà
nhiệm vụ đề tài đặt ra.

Trong quá trình nghiên cứu, ở những chỗ cần thiết, chúng tôi sẽ mở rộng liên kết liên ngành để
phục vụ cho kết quả nghiên cứu được thuyết phục ở khả năng cao nhất có thể.
Trên đây là một số phương pháp chủ yếu được chúng tôi vận dụng khi triển khai đề tài “Truyện
cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam và các nước Đông Nam Á nghiên cứu dưói góc
độ so sánh loại hình”.
6. Đóng góp của luận văn
Đóng góp thứ nhất thể hiện trên khối lượng văn bản truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo
của các nước Đông Nam Á bước đầu được tập hợp một cách khá hệ thống. Thiết nghĩ, nếu có điều kiện
thuận lợi, có thể tiến hành nhuận sắc, bổ sung để cho ra đời một tuyển tập truyện cổ dân gian mang
màu sắc Phật giáo trong khu vực tương tự như công trình mà tác giả Lệ Như Thích Trung Hậu đã thực
hiện đối với truyện cổ mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam.
Đóng góp thứ hai cũng là đóng góp chính của luận văn là từ những kết quả nghiên cứu đề tài,
luận văn góp vào khoa nghiên cứu văn học nói chung và khu vực nghiên cứu văn học dân gian nói


riêng những phác thảo về đặc điểm mang tính loại hình của nhóm truyện cổ dân gian mang màu sắc
Phật giáo và những kết quả so sánh những đặc điểm ấy trong truyện Việt Nam và truyện của các quốc
gia cùng khu vực Đông-Nam châu Á.
Thông qua nghiên cứu, luận văn cũng góp vào thành quả nghiên cứu chung về mặt phương pháp
luận nghiên cứu văn học dân gian trên quan điểm loại hình lịch sử và so sánh văn học…
Luận văn không chỉ có ý nghĩa về mặt lí luận mà còn phục vụ cho công tác thực tiễn nghiên cứu
và giảng dạy văn hoá-văn học Đông Nam Á.
7. Cấu trúc của luận văn
Do đề tài quá rộng nên luận văn chỉ mong đưa ra những phác hoạ đầu tiên làm cơ sở cho những
bước nghiên cứu lâu dài. Vì vậy, ngay cả những tiêu đề của luận văn cũng chỉ mang tính chất định
hướng chứ chưa thể xem là hướng đi rốt ráo của từng vấn đề.
Ngoài phần Mở đầu (17 trang) và phần Kết luận (4 trang), nội dung luận văn được triển khai
theo bốn chương:
Chương 1: Phật giáo và truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo trong đời sống văn hoá
các dân tộc Đông Nam Á (26 trang)

Chương 2: Truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam và các nước Đông Nam
Á dưới cấp độ cốt truyện (37 trang)
Chương 3: Truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam và các nước Đông Nam
Á dưới cấp độ nhân vật (29 trang)
Chương 4: Một số mô típ tiêu biểu trong truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của Việt
Nam và các nước Đông Nam Á (29 trang)



×