Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Đảng bộ bộ đội biên phòng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số từ năm 1986 đến năm 2001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.61 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
I'KUN(> TÂM ĐẢO TẠO, l ì ố l DƯÕNC; (ỈIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

= = =0o0= = =

Đ Ặ N G VĂN T R Ọ N G

«•

ĐẢNG Bộ Bộ ĐỘI BIÊN PHÒNG LÃNH ĐẠO
m

m

m

m

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIÊU sô
m

M

m

m

TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2001
Chuyên ngành : Lịch sử Đ ả n g C ộng sản Việt N a m
M ã số


: 5.03.16

LUẬN VÃN THẠC s ĩ KHOA HỌC LỊCH s ử

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGƯYEN

HÀ N Ộ I-2004

quý


ỉ£đf° CAVm đouw
&oi Oũln cam đoan

n ôi

lu đ n vã n /à do /S ì

n iêt nà M cẩ áô liêu, là i liêu đưổc hử diMUỷ ũ o n y lu â n wãn
/à có căn cứ nà cổ áử.

J\Tôiy n yà ty SO {Á án
(J â n y

1/ ă ì i & t c n y


M ỤC LỤC
Trang


1

MỞ ĐẨU

Chương I

ĐẢNG BỘ BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG LÃNH ĐẠO XÂY DỤNG

6

ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC TH lỂ ư s ố TRONG NHŨNG
NĂM ĐẦU CỦA SựNGHIỆP Đ ổ i MỚI (1986-1991)

1.1

Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số

1.2

Đảng bộ Bộ đội Biên phòng quán triệt quan điểm của
Đảng, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc
thiểu số trong những năm đầu của sự nghiệp đổi mới
(1986 - 1991)

22


ĐẢNG BỘ BÔ ĐỘI BIÊN PHÒNG TẢNG CƯỜNG LÃNH

39

Chương II

6

ĐẠO XÂY DỤNG DỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN TỘC THIÊU
SỐ, TRONG THỜI KỲ ĐAY m ạ n h s ự n g h i ệ p Đ ổ i m ớ i
(1991 - 2 0 0 1 )

2.1

Chủ trương của Đảng bộ Bộ đội Biên phòng về
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số thời kỳ
mạnh sự nghiệp đổi mới (1991 - 2001)

2.2

Kết quả thực hiện và những vấn đề đặt ra

Chương III

MỘT SỐ KINH NGHIỆM XẢY DỤNG ĐỘI NGŨ CÁN

xây
đẩy

29


64
BỘ

75

DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ KHUYẾN NGHỊ

3.1

Một SỐ kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số trong Bộ đội Biên phòng thời kỳ đổi mới
(198 6-2 0 01 )

75

3.2

Một số khuyên nghị

81

KẾT LUẬN

83

DANH Mựí TÀI LIỆU THAM KHẢO

85


PHỤ LỰC

86


BẢNG KÝ HIỆU CHỮ VlỂT TẮT

Chữ viết tắt

C hữ viết đầy đủ

BCHTW

Ban Qiấp hành Trung ương

BCH

Ban chấp hành

BĐBP

Bộ đội Biên phòng

CNH, HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNXH


Chủ nghĩa xã hội

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

TW

Trung ưưng

UBND

Uỷ ban nhân dân


MỞ ĐẨU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới ra đời và trong suốt
quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, đã xác định vấn đề dân tộc là
một trong những vấn đề có tính chiến lược của cách mạng Việt Nam; đề
ra: các nguyên tắc quan hệ giữa các ỏân tộc là bình đẳng, đoàn kết, giúp
đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Để thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc của
Đảng, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi thì vấn đề có ý nghĩa quyết định
là phải xây dựng cho được đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đủ về số
lượng, đảm bảo về chất lượng. Chính đội ngũ cán bộ ấy là lực lượng
nòng cốt, hạt nhân đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đi vào cuộc sống. Đổng thời họ là người lãnh đạo đồng bào
các dân tộc thiểu số xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội ở địa
phương, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng ta đã có
nhiều chủ trương, chính sách về đào tạo, bổi dưỡng và sử dụng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số.
Biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Khu vực
biên giới là địa bàn chiến lược, về kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối
ngoại. Bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới và xây dưng biên giới hoà
bình, hợp tác và hữu nghị là một bộ phận trong chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đổng thời đây còn là địa
bàn làm ăn, sinh sống của nhiều đổng bào dân tộc thiểu số ở nước ta.
Nhân dân các dân tộc thiểu số ở khu vực biên giới là lực lượng tại chỗ
quan trọng cùng Bộ đội Biên phòng xây dựng biên giới hoà hình, hợp
tác và hữu nghị, đấu tranh bảo vệ biên giới, bảo vệ dộc lập chủ quyền
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

1


Bộ đội Biên phòng là lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng và
Nhà nước ta, một thành phần của Quan đội nhân dân Việt Nam, có
chức năng quản lý Nhà nước đối với biên giới quốc gia, là lực lượng
nòng cốt chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới. Để thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình; Bộ đội Biên phòng phải xây dựng đội ngũ
cán bộ vững mạnh, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Trong đội ngũ cán
bộ ấy có một bộ phận, cán bộ là con em đồng bào các dân tộc thiểu số.
Đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số công tác trong Bộ đội Biên phòng có
vai trò quan trọng, cùng Bộ đội Biên phòng giữ gìn và bảo vệ biên giới
quốc gia.
Vì vậy, nghiên cứu, tổng kết quá trình Đảng bộ Bộ đội Biên
phòng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ đân tộc thiểu số từ năm 1986
đến năm 2001; từ đó rút ra một số kinh nghiệm để hoàn chỉnh chủ

trương, biện pháp về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong Bộ
đội Biên phòng đang là vấn đề đặt ra cần thiết và cấp bách, có ý nghĩa
quan trọng cả trên bình diện lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ lý do đó,
tôi chọn vấn đề ‘Đ ảng bộ Bộ đội Biên phòng lãnh đạo xây diùĩg đội
ngũ cán bộ dân tộc thiếu s ố từ năm 1986 đêh năm 2001” làm đề tài luận
văn Thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2- Tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài
viết về đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán b ậ dân tộc thiểu số
trong Bộ đội Biên phòng. Một số công trình đã được công bố như:
Luận án Tiến sĩ quân sự: “Xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu s ố của Bộ đội Biên phòng trong giai đoạn cách mạng hiện nay”.
Do tiến sĩ Lê Xuân Giang thực hiện năm 2000.
Tham luận tại hội thảo khoa học “Xây dựng đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số trong Bộ đội Biên phòng đáp ứng yêu cẩu của tình hình

2


mới theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam” của Đại tá Hồ Trọng Lâm. Hội thảo do Học viện chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh - Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng tổ chức; Nhà xuất bản
chính trị quốc gia Hà Nội năm 2001.
Ngoài ra còn có một số bài báo khoa học đăng trên các tạp chí
như:
“Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc trong Bộ đội Biên phòng đáp
ứng tình hình nhiệm vụ thời kỳ mới "của Đặng Vũ Liêm, đăng trên Tạp
chí Xây dựng Đảng, số tháng 3/1999.
“Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong lực lượng Bộ
đội Biên phòng” của Hổ Trọng Lâm; đăng trên Tạp chí Cộng Sản số

tháng 10/2001.
Những công trình khoa học trên đã đánh giá thực trạng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số công tác trong Bộ đội Biên phòng, công tác đào
tạo, bồi dưỡng sử dụng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, đề xuất các giải
pháp, để xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong Bộ đội Biên
phòng.
Song cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về quá
trình Đảng bộ Bộ đội Biên phòng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến năm 2001. Những kết quả
nghiên cứu của các công trình khoa học trên, là cơ sở quan trọng để tác
giả kế thừa, tiếp cận tư liệu và những gợi ý cần thiết trong quá trình
thực hiện luận văn.
3- Muc đích và nhiêm vu nghiên cứu của luân văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nêu lên quá trình lãnh đạo
của Đảng bộ Bộ đội Biên phòng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số trong lực lượng Bộ đội Biên phòng từ năm 1986 đến
năm 2001.

3


Từ đó rút ra những kinh nghiệm nhằm góp phần làm tốt hơn công
tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
trong Bộ đội Biên phòng trong thời kỳ mới.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số
trong hộ thống chính trị.
+ Trình bày quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Bộ đội Biên phòng
về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong Bộ đội Biên phòng từ

năm 1986 đến năm 2001. Nêu lên những thành tựu, hạn chế và nguyên
nhân.
+ Rút ra một số kinh nghiệm về công tác đào tạo, bồi dưỡng và
sử dụng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở Bộ đội Biên phòng thời kỳ
đổi mới.
4- Cơ sở lv luân, nguồn tư liêu và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hổ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng ta về chính sách
dân tộc nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc nói riêng.
Nguồn tư liệu để thực hiện luận văn bao gồm các văn kiện, Nghị
quyết của Đại hội Đảng bộ Bộ đội Biên phòng, báo cáo của các cơ quan
ban ngành trong Bộ tư lệnh. Những công trình nghiên cứu khoa học có
liên quan đã được công bố.
Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử và phương pháp
lôgíc, ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp thống kê,
phân tích và tổng hợp để so sánh, đối chiếu đảm bảo chính xác của số
liệu, làm cơ sở cho những nhận định và kết luận.

4


5- Đổng gỏp mới của luân văn
- Lần đầu tiên luận văn trình bày có hệ thống quá trình Đảng bộ
Bộ đội Biên phòng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
trong Bộ đội Biên phòng thời kỳ đổi mới. .
- Từ những kinh nghiệm thực tiễn, trong xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số thời kỳ đổi mới (1986 - 2001), góp phần hoàn thiện
một bước các chủ trương, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong Bộ đội Biên phòng. Kết quả
nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho

công tác giảng dạy và nghiên cứu ở Học viện Biên phòng và các cơ
quan Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng.
6- Bố cuc của luân văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung luận văn được trình bày 3 chương 6 tiết.

5


Chương I
ĐẢNG BỘ BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG LÃNH ĐẠO XÂY DựNG ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ DÂN TỘC THIỂU s ố TRONG NHỮNG NẢM ĐẨU CỦA s ự NGHIỆP
ĐỔI MỚI (1986 - 1991)

L l . T ư tưởng H ồ C hí M inh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu sô
1.1.1.

T ư tưởng H ồ Chí M inh về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc

thiểu số
Trong toàn bộ di sản tư tưởng của mình Các.Mác, Ph.Ảng
ghen, VI.Lênin đã không ít có những chỉ đẫn về công tác đào tạo và
huấn luyện đội ngũ cán bộ của cách mạng. Các ông cho rằng, Đảng của
giai cấp công nhân phải làm tốt công tác phát hiện, lựa chọn đào tạo rèn
luyện cán bộ, phải xây dựng được đội ngũ cán bộ “ chuyên nghiệp” để
lãnh đạo cách mạng đi tới thành công. Lênin coi nhiệm vụ chiến lược
của Đảng là “Giáo dục những đảng viên trẻ đó một cách hết sức nhanh
chóng, hết sức cố hiệu quả và hết sức thiết thực, giúp đỡ cho việc rèn
luyện họ trỏ thành những cốt cán xây diùig chủ nghĩa cộng sản, giác ngộ

nhất, có khả năng đảm nhận các chức vụ trọng trách nhất” [12, tr. 162].
Đối với cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ
“Cán bộ là gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công
việc gốc của Đảng ”[ 7, tr. 269].
Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò to lớn và tầm quan trọng đặc biệt
của công tác huấn luyện, đào tạo xây dựng đội ngũ cán bộ, trong suốt
quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức
quan tâm tới công tác xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, trong đó có
lực lượng cán bộ là người các dân tộc thiểu số vươn lên hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ được giao.

6


Chính vì vậy, ngay từ những ngày đầu truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin về nước, Chủ tịch Hổ Chí Minh đã chủ động đào tạo, bồi dưỡng
những thanh niên tiên tiến trong các dân tộc thiểu số, động viên họ
hãng hái tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, góp phần làm
nên thắng lợi của cách mạng Tháng 8 năm Í945, giành lại độc lập cho
Tổ quốc.
Trong số những chiến sĩ cách mạng tiền bối của Đảng, có các
gương mặt ưu tú, tiêu biểu là người các dân tộc thiểu số như: Hoàng
Đình Giong, Hoàng Văn Thụ, Đàm Quang Trung....Trong số 34 chiến
sĩ đầu tiên của đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân có 30 chiến
sĩ là người các dân tộc thiểu số (Tày, Nùng, H ’mông, Dao) sau này
nhiều đồng chí đã trở thành những cán bộ lãnh đạo có uy tín của Đảng,
Nhà nước và Quân đội ta....
Với đồng bào các dân tộc, Hồ Chí Minh dành trọn một tình cảm
hết sức đặc biệt. Chỉ hơn ba tháng sau ngày tổng tuyển cử đầu tiên dưới
chế độ mới, trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam ngày
19- 4 - 1946, Người đã khẳng định chân lý:

Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay
Ê Đê, Xu Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là
con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết
có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau...Sông có thể
cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng la không
bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ
vững quyền tự do, độc lập của chúng ta [23, tr. 21].
Biết trong đồng bào các dân tộc thiểu số còn thiếu cán bộ, Người
cho rằng phải: “Giáo dục, rèn luyện đồng bào, rồi từ trong đấu tranh
tự đào tạo cán bộ tại buôn xã, huyện tỉnh. Lúc đầu 5, 6 người rồi dần sẽ
có thêm nhiều cán bộ lãnh đạo phong trào” [ 2, tr. 54].

7


Theo Hồ Chí Minh, trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm,
đồng bào các dân tộc thiểu số đã đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ đi
theo Đảng, phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống
nhất Tổ quốc. Trong hoà bình xây dựng chủ nghĩa xã hội, tinh thần
đoàn kết đó càng phải được củng cố nâng cao hơn nữa để chiến thắng
nghèo nàn, lạc hậu. Với đồng bào các dân tộc thiểu số, “đây thực sự là
một cuộc chiến ” đầy cam go thử thách, khó khăn bội phần. Để cuộc
“chiến” này đi tới thắng lợi, đưa miền núi từng bước tiến kịp miền xuôi,
một trong những vấn đề có tỉnh quyết định là phải xây dựng cho được
đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số vừa có phẩm chất đạo đức cách
mạng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, vừa có
năng lực lãnh đạo và tổ chức thực hiện, để cụ thể hoá các chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống. Đây sẽ là lực
lượng nòng cốt, hạt nhân trực tiếp truyền tải và tổ chức thực hiện đường
lối, chính sách dân tộc của Đảng đến với đồng bào các dân tộc thiểu số

ở miền núi biên giới và hải đảo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số hết sức phong phú. Song tựu trung lại được thể hiện trên một số nội
dung cơ bản sau:

T h ứ n h ấ t : Cần phải nâng cao trình độ văn hoá cho dội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu s ố nói chung, đồng bào các dân tộc thiểu sô' nói riêng.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, giặc dốt là một trong ba loại giặc cần phải
kiên quyết loại bỏ. Với đồng bào các dân tộc miền núi', biên giới và hải
đảo, để nâng cao trình độ mọi mặt cho đồng bào, cho đội ngũ cán bộ
người địa phương, cần phải đẩy mạnh việc học văn hoá hơn nữa, phải
chú trọng bình dân học vụ và bổ túc văn hoá.
Để tuyên truyền vận động, tập hợp và tổ chức đồng bào các dân
tộc thiểu số tích cực tham gia vào sự nghiệp phát triển kinh tế - văn hoá
xã hội ở (biên giới miền núi và hải đảo) địa phương, theo Hồ Chí Minh
cần phải đẩy mạnh việc học văn hoá, học chữ phổ thông, phải xây dựng

8


cho được đội ngũ cán bộ cốt cán là người dân tộc làm nòng cốt. Người
đã kịp thời viết thư khen ngợi tỉnh Hoà Bình, tỉnh miền núi đầu tiên xoá
song nạn mù chữ “dó là một thắng lợi vẻ vang” [23, tr. 74].
Trong bài nói tại hội nghị Tuyên giáo miền núi ngày 31/8/1963,
Hổ Chí Minh đã nêu bật những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ:
“N ạn mủ chữ đ ã xoá được nhiều, nhưng còn chậm, cần phải đẩy mạnh
việc học văn hoá hơn nữa...CỨU em các dân tộc ở các trường p h ổ thông

đã tăng rất nhiều, bây giờ bằng một phần ba s ố học sinh toàn Đông
Dương trước kia. Các cô, các chú có th ể tự hào, nhưng không được tự

mãn. Trước kia, s ố người có trình độ đại học cả miền núi chỉ có 2
người. Bây giờ đ ã có hơn 700 người của 20 dân tộc đ ã tốt nghiệp hoặc
đang học đại học (500 người đang học ở các trường đại học trong nước,
ngót 100 thanh niên miền núi đi học ỏ các nước bạn và hơn 100 thanh
niên đã tốt nghiệp). Bây giờ tỉnh nào cũng có trường cấp III, huyện nào
cũng có trường cấp II, x ã nào cũng cố trường cấp I. Tuy có trường tốt,
có trường kém, nhưng như thê'là một tiến bộ lớn ” [ 9, tr. 132].
T h ứ hai: Phải chú ỷ phát triển loại trường thanh niên dân tộc
vừa học vừa làm
Trong bài nói tại hội nghị Tuyên giáo miền núi Hồ Chí Minh
nhấn mạnh:

‘Cần phải chú ý phát triển loại trường thanh niên dân tộc

vừa học vừa làm đó. Bây giờ nhiều tỉnh đ ã cố. Những tỉnh chưa có phải
c ố gắng m ỏ những trường như th ế ”[ 23, tr. 105 ].
Như vậy, cùng với việc đẩy mạnh học văn hoá, nâng cao mặt
bằng dân trí cho đồng bào các dân tộc nói chung Chủ tịch Hồ Chí Minh
rất quan tâm đến việc đa dạng hoá các loại hình đào lạo cán bộ dân tộc
thiểu số, như mở trường học riêng cho miền núi, tạo nguồn xây dựng
đội ngũ cán bộ dan tộc thiểu số. Đó là trường thanh niên dân tộc vừa

9


học vừa làm, để đào tạo cán bộ địa phương vừa có văn hoá và có kỹ
thuật, vừa giỏi lao động.
Trong đào tạo cán bộ, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh phương
châm học phải đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tiễn. Đây là vấn
đề có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với đồng bào dân tộc thiểu số miền

núi, những người cảm nhận trực tiếp tííih ưu việt của chế độ mới qua
những việc làm cụ thể hàng ngày.
Phương châm “H ọc đi đôi với hành ” được thể hiện sinh động
trong bài nói chuyện của Hồ Chí Minh với cán bộ và học sinh Trường
sư phạm miền núi Nghệ An ngày 9/12/1961. Người đặt câu hỏi T h ể
nào là học tốt ? ”và trả lời “H ọc tập tốt là chính trị, văn ìioá đều phải
gắn liền với lao động sản xuất, không học dông dài. M ục đích học là đ ể
làm kinh tế, chính trị, văn hoá đều tiến bộ, các dân tộc đều đoàn kết với
nhau. Học đ ể làm gì nữa? Đ ể xây chủ nghĩa x ã hội

Ngitòi còn căn

dặn: ‘Các cháu không phải học rồi ở đây, mà phải trở về giúp đỡ đồng
bào ”[ 23, tr.90].
Mục đích học tập được Hồ Chí Minh nhấn mạnh là để phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương, củng cố và tăng cường đoàn kết, hiểu biết
và tin cậy lãn nhau giữa các dân tộc để xây dựng thành công CNXH.
Theo Người: “N ếu cứ nói nào là làm “cách mạng x ã hội chủ nghĩa ”,
nào là ‘ĩiến lên chủ nghĩa x ã hội ”, nào là “xây dụng chủ nghĩa x ã h ộ i”
đồng bào các dân tộc thiểu sô' khó hiểu, ít người hiểu. Phái nói rõ xây
di/ỉỉg chủ nghĩa x ã hội là làm cái gì? N ói nôm na đ ể cho người ta hiểu
hiểu đ ể người ta làm được. Không nên lúc nào cũng trích Các.Mác, cũng
trích Lênin, làm cho đồng bào khó hiểu. N ói th ế nào cho đồng bào hiểu
được, đồng bào làm được, đó là nói chủ nghĩa Mác- Lênin ” [23, tr. 103].
Để đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đảm bảo chất lượng
Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyến khích mở loại trường thanh niên dân tộc
vừa học vừa làm như Trường thanh niên lao động XNCH Hoà Bình là

10



một ví dụ tiêu biểu. Nói chuyện tại hội nghị cán bộ miền núi, Người
biểu dương “H oà Bình có sáng kiến tổ chức trường thanh niên xã hội
chủ nghĩa, vừa lao động đ ể tự túc, vừa học tập đ ể trở nên cán bộ địa
phương. Trường này, đang phát triển tốt” [ 8, tr.609 ].

T h ứ ba: Phải chủ trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ
miền núi đ ể anh em tự quản lý lấy công việc ở địa phương.
Nói chuyện tại hội nghị tổng kết cuộc vận động hợp tác hoá nông
nghiệp, phát triển sản xuất, kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ ở miền
núi, Người chỉ rõ:
“Phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ miền núi.
C ố nhiên cán bộ người Kinh phải giúp đỡ anh em cán bộ địa phương,
nhưng phải làm sao cho cán bộ địa phương tiến bộ, đ ể anh em tự quản
lý lấy công việc ở địa phương, chứ không phải là bao biện làm thay”
[23, tr. 89].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
dân tộc thiểu số phải gắn với nhiệm vụ thực tế ở địa phương, khai thác
tiềm năng thế mạnh của mỗi vùng, các yếu tố truyền thống tốt đẹp của
mỗi dân tộc.
Nội dung đào tạo phải thiết thực, cụ thể, phù hợp với nhận thức
của cán bộ dân tộc; phương pháp huấn luyện phải đi từ thấp đến cao,
phải gắn lý luận với thực tiễn, học phải đi đôi với hành. Công tác đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số phải là một việc làm
thường xuyên và là nhiệm vụ lâu dài, trước hết phải chú trọng nâng cao
trình độ dân trí ở vùng đồng bào dân tộc và miền núi, phải xây dựng
loại trường phù hợp với đặc điểm của vùng dân tộc miền núi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, bên cạnh sự quan tâm, đầu tư
tạo mọi điều kiện thuận lợi của Trung ương Đảng và Chính phủ, sự giúp
đỡ tận tình chu đáo của cán bộ người Kinh, thì bản thân đội ngũ cán bộ


11


dân tộc thiểu số phải tự vươn lên, vượt qua chính mình để đảm nhận
trách nhiệm chủ yếu trong việc bảo vệ, xây dựng phát triển quê hương.
Nói chuyện với nhân dân, bộ đội cán bộ tại Yên Châu, Sơn La,
Người nhắc nhở : ‘Cán bộ địa phương thường thường có tâm lý tự ti,
cho mình là văn hoá kém, chính trị kém, không muốn làm cán bộ. N hư
th ế là không đúng. Nếu như thế, không ai làm việc cho đồng bào cả,
việc làm đây là do cán bộ địa phương phải làm lâỳ. Vì vậy cho nên còn
kém thì phải học, phải tích cực học cách làm việc, tích cực học chuyên
môn cho biết. Nếu vì kém mà không làm thì không được. Nhiều cái
mình chưa biết, nhiùig có quyết tâm học thì phải biết, nhất định biết.
Biết là tiến bộ” [ 23, tr .57].

T hứ tư: Cần phải ra sức phát triển đảng viên và đoàn viên, phụ
nữ, đào tạo và bồi dưỡììg cán bộ phụ nữ các dân tộc.
Nói chuyện tại hội nghị cán bộ phụ nữ miền núi Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: ‘Đ ảng uỷ các cấp ở miền núi cần phải ra sức phát triển
đảng viên và đoàn viên phụ nữ, cần phải đào tạo và giúp đỡ cán bộ phụ
nữ các dân tộc. Đó là nhiệm vụ mà Trung ương và Bác giao cho các
đồng chí phải làm cho tốt” [ 23, tr.120].
Là nhà tư tưởng nhân văn cao cả, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm
đánh giá đúng đắn vai trò và khả năng to lớn của phụ nữ trong cách
mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó có lực
lượng cán bộ nữ là người các dân tộc thiểu số. Trong lời kêu gọi nhân
dịp thành lập Đảng, Người chỉ rõ: phải thực hiện nam nữ bình quyền và
coi việc giải phóng phụ nữ là thước đo trình độ tiến bộ xã hội. Với chị
em phụ nữ dân tộc thiểu số vốn chịu nhiều thiệt thòi, Hồ Chí Minh

dành sự quan tâm ưu ái đặc biệt. Người đánh giá cao vai trò phụ nữ các
dân tộc miền núi đã có công ủng hộ cách mạng và đóng góp nhiều cho
kháng chiến.

12


Nói chuyện tại hội nghị cán bộ miền núi ngày 19/3/1964, Người
nói: ‘Phụ nữ các dân tộc miền núi đã có công ủng hộ cách mạng và
đóng góp cho kháng chiến rất nhiều

Đồng thời Người nhấn Iĩiạnh:

“Phụ nữ cũng là người chủ nước nhà

Để xứng đáng với vai trò quan

trọng trên, Người nhắc nhở: ‘Đ ể làm tốt những việc nói trên, chị em
phải cô gắng học tập. Học văn hoá, học chính trị, học nghê nghiệp.
Nếu không học thì không th ể tiến bộ. Có quyết tâm thì nhất định học
được ” [2 3 , tr. 120]
Tư tưởng về giải phóng phụ nữ của Hồ Chí Minh thực sự là luồng
gió mới để phụ nữ các dân tộc miền núi khẳng định vai trò và khả năng
của mình, trong công việc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Qua
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cả
nước đã có hơn 300 bà mẹ Việt Nam anh hùng là người dân tộc.
Những tư tưởng cơ bản trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
đào tạo, bổi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số vẫn còn
mang tính thời sự và có ý nghĩa to lớn đến ngày hôm nay.
Đối với Đảng bộ Bộ đội Biên phòng, đây là nền tảng tư tưởng,

kim chỉ nam để Đảng bộ vận dụng vào lãnh đạo đào tạo bồi dưỡng xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trong lực lượng BĐBP, ngang tầm
với nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
1.1.2.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt N am về' xây dựng đội

ngũ cán bộ dân tộc thiểu s ố
Việt Nam là một quốc gia thống nhất, bao gồm nhiều dân tộc anh
em cùng sinh sống. Cộng đồng dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu
nước, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tạo nên truyền thống đấu tranh anh
dũng trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước.

13


Nhận rõ vai trò to

1ỚI1

của đồng bào các dân tộc, ngay từ khi mới

ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có chính sách dân tộc đúng đắn,
kịp thời động viên và tập hợp lực lượng các dân tộc thiểu số tiến hành
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và ngày nay là sự nghiệp đổi mới đất
nước theo định hướng XHCN.
Trong Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương
tháng 6 năm 1932, Đảng ta đã đề cập tới những yêu cầu của các dân tộc
thiểu số và kêu gọi lao động các dân tộc thiểu số hãy đoàn kết đấu tranh
chống lại chính sách chia rẽ dân tộc của đế quốc Pháp. Đại hội lần thứ

nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 3 năm 1935) đã chính
thức thông qua “Nghị quyết vê công tác trong các dân tộc thiểu sổ’\ Nghị
quyết chỉ rõ: “M ột điều thắng lợi cho chủ nghĩa cộng sản nữa là: công
nông các dân tộc thiểu s ố chẳng những đ ã vào hàng ngũ của Đảng
Cộng sản và các đoàn th ể cách mạng khác do Đảng chỉ đạo mà thôi,
mà họ đ ã giữ m ột địa vị rất quan trọng trong các cơ quan chỉ đạo từ hạ
cấp tới thượng cấp. Đại hội chắc chắn rằng, ở các xứ và các miền dân
tộc thiểu s ố đã có điều kiện khách quan sẵn sàng cho sự phát triển, vận
động cách mạng, Đảng Cộng sản cần tổ chức công nông thêm vào hàng
ngũ tranh đấu đ ể nâng cao điều kiện chủ quan và đ ể làm cho quá trình
phát triển cách mạng ấy mau tới trình độ cao rộng thêm ” [ 10, tr .14].
Như vậy, ngay từ rất sớm, Đảng ta đã xác định trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc các dân tộc thiểu số đóng một vai trò vô cùng
quan trọng. Việc vận động các dân tộc thiểu số là một trong những công
tác quan trọng vào bậc nhất của Đảng, Mặt trận và Chính phủ. Chính
sách dân tộc thiểu số là một bộ phận quan trọng trong chính sách đại
đoàn kết của Đảng “Cho nên, sự miệt thị công tác trong các dân tộc
thiểu sô' là một lỗi lầm chính trị to lớn ” [10, tr.16 ].
Đảng ta xác định;

14


Phải tổ chức cho được những phần tử hăng hái của các dân tộc
thiểu số vào Đảng và các Đảng bộ vãn nằm trong hệ thống duy nhất
toàn Đảng, dưới một trung tâm chỉ huy duy nhất, vẫn theo đúng tinh
thần chủ nghĩa quốc tế, nhưng đước tổ chức thành các Đảng bộ tự trị để
chỉ huy cho sát với những điều kiện đặc biệt của các dân tộc họ và lôi
kéo được quảng đại quần chúng trong các dân tộc ấy, tranh đấu đánh đổ
đế quốc Pháp giải phóng dân tộc [10, tr. 21].

Tháng 8 năm 1952 Bộ Chính Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam ra Nghị quyết về chính sách dân tộc thiểu số chỉ rõ, phải đoàn kết
các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ để giúp đỡ lãn nhau
tiến bộ về mọi mặt, chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá. Đây là lần đầu
tiên trong Đảng có một Nghị quyết chuyên đề bàn về chính sách dân
tộc và công tác vận động đồng bào các dân tộc một cách toàn diện và có
hệ thống. Với Nghị quyết này, chính sách dân tộc của Đảng ta thật sự đi
vào cuộc sống, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết giữa các dân tộc,
tạo ra nguồn sức mạnh to lớn góp phần vào thắng lợi của chiến dịch lịch sử
Điện Biên Phủ năm 1954 và Đại thắng mùa xuân năm 1975.
Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới đất nước,
qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII và XI, Đảng ta
đều khẳng định: Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị
trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Đặc biệt, Bộ Chính trị
Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 22 - NQ/ TW, ngày 27/11/1989
‘V ê một sô' chủ trương chính sách lớn phát triển kinh t ế - x ã hội miền
núi "đ ã tạo ra mộí nguồn động lực mới, một sức mạnh mới trong việc
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng.
Như vậy, hơn 70 năm lãnh đạo, cách mạng Việt Nam, từ Cương
lĩnh đầu tiên năm 1930 đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, chính sách dân tộc của Đảng
ta luôn được bổ sung và hoàn thiện dần qua mỗi giai đoạn cách Iĩiạng,

15


đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Nội dung chủ yếu, xuyên suốt và nhất quán trong chính sách dân
tộc của Đảng ta là các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ

lẫn nhau cùng tiến bộ và phát triển bền vững. Đây là một trong những
đặc trưng cơ bản thể hiện bản chất ưu việt của chế độ XHCN ở nước ta.
Tinh thần cơ bản trên đã được thể chế vào Hiến pháp năm 1946,
được cụ thể hoá trong Hiến pháp năm 1959 và được khẳng định lại
trong Hiến pháp 1992:
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước
Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị,
chia rẽ dân tộc...Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về
mọi mặt, từng bướe nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
đồng bào dân tộc thiểu số [ 10, tr. 255 - 256].
Để chính sách dân tộc thực sự đi vào cuộc sống, trở thành hiện
thực, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị đề cập đến việc đào tạo,
bổi dưỡng và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số các
cấp, các ngành.
Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng tháng 4/1947 nhấn
mạnh: ‘Đ ặc biệt chủ ỷ đào tạo cán bộ người thiểu s ố và nâng đỡ các
cán bộ ấy, đưa họ vào cơ quan chỉ đạo địa phương "[10, tr. 26] .
Chỉ thị số 216 - CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày
30/1/1975 chỉ rõ:
Để hoàn thành nhiệm vụ chính trị to lớn đó, một trong
những khâu then chốt là phải xây đựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, cán bộ quản lý, đủ phẩm chất và năng lực, trung thành
với Đảng, gắn bó với quần chúng các dân tộc, có trình độ

16


kiến thức các mặt, ngày một nang cao; đủ sức lãnh đạo, chỉ đạo

thực hiện thắng lợi nhiệm vụ to lớn ở miền núi [ 10, tr. 159].
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Nghị quyết số 22 của Bộ Chính
tậ (ngày 27/11/1989) và Quyết định 72 của Hội đồng Bộ trưởng
(ngày 13/3/1990) đều đề cập đến vấn đề đào tạo, bổi dưỡng và các
chính sách đối với đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) đã
xác định phương hướng đến năm 2000 trong việc thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng là: “ Bằng nhiều biện pháp tích cực và vững chắc
thực hiện cho được 3 mục tiêu chủ yếu: xoá được đói, giảm được nghèo,
ổn định và cải thiện được đời sống, sức khỏe của đồng bào các dân
tộ c ” [4, tr. 125 - 126]. Đổng thời nâng cao được trình độ dân trí, tôn
trọng và phát huy bản sắc văn hoá tốt đẹp của các dân tộc, xây dựng
được cơ sở chính trị , đội ngũ cán bộ và đảng viên của dân tộc thiểu số
ở các vùng, các cấp, trong sạch vững mạnh.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trương ương Đảng tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX năm 2001 tiếp tục chỉ rõ: “Tích cực
thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân
tộc thiểu số. Động viên, phát huy vai trò của những người tiểu biểu, có
uy tín trong dân tộc và ở địa phương. Chống kỳ thị, chia r ẽ dân tộc;
chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc
phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộ c ” [5, tr .128].
Với chủ Irương, chính sách nhất quán và xuyên suốt từ trước tới
nay, đội ngũ cán bộ, tri thức người các dân tộc thiểu số đã trưởng thành
từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Tất cả các dân
\

tộc thiểu số đều đã có người là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam,
gồm 50 dân tộc có người đạt trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở
lên, nhiều con em dân tộc thiểu số đã trở thành những cán bộ giữ các
trọng trách trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và Quân đội.


ÍJ

b1

17

v-UshM

I


Qua các đại hội, nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số
22 của Bộ Chính trị và Nghị quyết BCH Trung ương 3 (khoá VIII) về
chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, quan điểm của Đảng ta về đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng
cán bộ dân tộc thiểu số được thể hiện tập trung ở một số quan điểm sau:

M ột là: Xây dựng đội n ụ i cán bộ dân tộc thiểu sô phái dựa vào
đườìĩg lối chính trị, đườtĩg lối quân sự của Đảng, phải bảo đám nguyên tắc
bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc.
Đường lối chính trị, đường lối quân sự bao giờ cũng quyết định
đường lối tổ chức và cán bộ. Công tác cán bộ luôn bám sát vào nhiệm
vu chính trị, quân sự của Đảng. Xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và phục
vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng. Trong lĩnh vực xây dựng đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số phải quán triệt và nhận thức sâu sắc chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước nhằm làm cho các dân tộc phát triển toàn
diện về mọi mặt; từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ giữa
các dân tộc, thực hiện nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ, trên cơ sở tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hoá, ngôn

ngữ và phong tục tập quán tốt đẹp của các dân tộc.
Đảng và Nhà nước ta trước sau như một luôn luôn tôn trọng
quyền bình đẳng giữa các dân tộc, phấn đấu thực hiện triệt để quyền
bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để
xoá bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ giữa các dân tộc:
Phải có đội ngũ cán bộ đông đảo, bao gồm đủ các dân tộc
thì mới phát động được nhân dân các dân tộc, thể hiện Irên thực
tế sự bình đẳng về chính trị và thiết thực tăng cường sự đoàn kết
giữa các dân tộc. Chú trọng xây dựng cho từng dân tộc một số
cán bộ cốt cán vững vàng về chính trị, tuyệt đối trung thành và
chấp hành tốt đường lối, chính sách của Đảng, có năng lực lãnh
đạo và thực hiện [ 10, tr. 159].

18


Quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số của
Đảng ta là rõ ràng và nhất quán nhằm phát huy tính tích cực cách mạng
và khả năng to lớn của các dân tộc, bồi dưỡng lực lượng các dân tộc
thiểu số, nâng cao trình độ mọi mặt để thực hiện sự đoàn kết chặt chẽ.
Bên cạnh sự quan tâm, giúp đỡ không thể thiếu của người Kinh, phải
tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số phát
huy được mọi khả năng, năng lực vốn có của mình, nỗ lực vượt qua
chính bản thân mình. Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số các cấp, các ngành vững mạnh là biểu hiện sinh động và cụ
thể nhất cho khối đại đoàn kết giữa các dân tộc, cho sự bình đẳng về
mọi mặt, trước hết là bình đẳng về chính trị.
Đảng ta cũng đã kịp thời phê phán, uốn nắn một số lệch lạc trong
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc như tư tưởng ‘ban ơn, bao
biện, làm thay ” của cán bộ nơi khác đến, sự nóng nảy, vội vàng, áp

dụng máy móc kinh nghiệm của miền xuôi vào miền núi; không tôn
trọng phong tục tập quán, tín ngưỡng của đồng bào, coi thường khả
năng tự giải phóng của đồng bào.
Đối với đội ngũ cán bộ dân tộc phải luôn luôn cố gắng vươn lên,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra, chống tư tưởng tự ti, cục
bộ, ngăn ngừa những biểu hiện dân tộc hẹp hòi, địa phương chủ nghĩa.
Nước ta là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc anh em
chung sống, dù đa số hay thiểu số, người dân tộc ở vùng này hay vùng
khác trước hết đều là người Việt Nam, sống trên đất nước Việt Nam
thống nhất.
Để tồn tại và phát triển, mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam đều có nhu cầu được giúp đỡ và có trách nhiệm giúp đỡ lẫn
nhau, tương trợ lẫn nhau để không ngừng phát triển.

19


Hai là: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu sô'phái dựo trên
nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, âồng thời phát
huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là sự quán triệt và
vận dụng sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vào hoàn cảnh cụ thể và đặc điểm dân
tộc ở Việt Nam.
Trên lĩnh vực xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán
bộ, chính sách dân tộc phản ánh thái độ chính trị và lập trường giai cấp
công nhân của Đảng. Quán triệt quan điểm giai cấp công nhan trong
công tác cán bộ là vấn đề có tính nguyên tắc người cán bộ cách mạng
dù thuộc thành phần dân tộc nào, đa số hay thiểu số phải trung thành
với lý tưởng và sự nghiệp của giai cấp công nhân, vì lợi ích của nhân

dân lao động, của cả dân tộc. Đương nhiên chúng ta không hiểu quan
điểm giai cấp công nhân một cách đơn giản, cứng nhắc dẫn đến bè
phái, hẹp hòi, thành phần chủ nghĩa mà phải được vận dụng đúng đắn
và sáng tạo trên cơ sở đoàn kết dân tộc rộng rãi, tập hợp các loại cán bộ,
trọng dụng nhân tài, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, trong Đảng hay
ngoài Đảng.
Trong hệ thống chính trị, các cấp các ngành, Đảng là hạt nhân
lãnh đạo toàn diện. Các cấp uỷ Đảng phải lãnh đạo tập trung, thống
nhất đối với vấn đề cán bộ và công tác cán bộ, từ khâu tạo nguồn, quy
hoạch cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đến việc bố trí sử dụng, đánh
giá kiểm tra và giải quyết các chế độ chính sách cho đội ngũ cán bộ.
Đảng ta là Đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước và toàn bộ hệ
thống chính trị. Vì vậy, Đảng phải chăm lo đào tạo cán bộ không chỉ
cho bản thân mình mà cho cả hệ thống chính trị, cho toàn xã hôị, trên
tất cả các lĩnh vực. Chỉ có chủ động xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ
vững mạnh, Đảng mới đủ khả năng lãnh đạo, tổ chức toàn dan thực hiện

20


thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
Đối với đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, địa bàn hoạt động và
công tác thường là nơi tập trung các vấn đề dân tộc, tôn giáo, biên giới,
hải đảo rất nhạy cảm và phức tạp, do đó sự lãnh đạo của Đảng phải
được quán triệt sâu sắc nhằm bảo đảm sự định hướng chính trị đúng
đắn, đáp ứng yêu cầu nhiộm vụ đặt ra qua mỗi thòi kỳ cách mạng.

Ba là: Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu s ố phải bảo đảm sự
thống nhất giữa cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ; phải có những ưu tiên

trong đào tạo, bồi dưỡng, trong c h ế độ, chính sách đãi ngộ.
Đảng ta cho rằng:
Quan niệm về tiêu chuẩn cán bộ không thể tách rời
nhiệm vụ chính trị cụ thể và phong trào quần chúng từng nơi.
Cán bộ nảy sinh từ quần chúng, từ phong trào. Sự trưởng thành
của cán bộ không thể thoát ly sự trưởng thành của mỗi dân tộc,
của phong trào quần chúng ở địa phương. Dân tộc nào cũng cần có
cán bộ của dân tộc đó. Vì vậy không thể so sánh một cách máy
móc cán bộ của dân tộc này với cán bộ người dân tộc khác. Điều
quan trọng là phải đảm bảo lựa chọn được những người ưu tú, có
phẩm chất, có năng lực trong quần chúng từng dân tộc và kiên
nhẫn sử dụng, bồi dưỡng. Cần giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa tiêu chuẩn và cơ cấu thành phần dân tộc, tuỳ theo tùng loại tổ
chức khác nhau mà có cơ cấu thích hợp [10, t r . 160].
Trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, Nghị quyết Trung ương 3
(Khóa VIII) đã xác định rõ những tiêu chuẩn chung đặt ra đối với đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp. Vấn đề đặt ra là, trên cơ sở nắm
vững tiêu chuẩn chung về cán bộ của Đảng, phải biết vận dụng một
cách linh hoạt vào từng địa bàn cụ thể, dân tộc cụ thể, để xác định

21


×