Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Đảng bộ tỉnh hà tây lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn từ năm 1996 đến năm 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

--------------***--------------

HOÀNG THỊ NHUNG

ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY LÃNH ĐẠO
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2006

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

--------------***--------------

HOÀNG THỊ NHUNG

ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY LÃNH ĐẠO
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2006

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số:



60 22 56

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN BÌNH BAN

HÀ NỘI - 2009


MỤC LỤC
Mở đầu .................................................................................................................

4

Chương 1. Tình hình nông nghiệp, nông thôn Hà Tây trước năm 1996. ....... 7
1.1 Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội ................................................................... 7
1.1.1.. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên .................................................................. 7
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ................................................................................ 9
1.2 Thực trạng nông nghiệp nông thôn Hà Tây ...................................................... 12
1.2.1. Đảng bộ Hà Tây quán triệt quan điểm của Đảng về đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế nông nghiệp .......................................................................... 12
1.2.2. Kết quả và một số vấn đề đặt ra .................................................................... 20
Chương 2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ Hà Tây về phát
triển nông nghiệp nông thôn từ 1996 đến 2006 ........................................ 25
2.1 Những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ........... 25
2.2 Chủ trương của Đảng bộ Hà Tây về phát triển nông nghiệp, nông thôn
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ................................................... 33
2.3. Quá trình chỉ đạo thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn................................................................................. 42
Chương 3. Kết quả và những kinh nghiệm ........................................................ 59

3.1. Kết quả ............................................................................................................. 59
3.1.1. Một số thành tựu cơ bản ................................................................................ 59
3.1.2. Những hạn chế chủ yếu ................................................................................. 72
3.2. Một số kinh nghiệm ......................................................................................... 76
3.2.1. Nắm vững chủ trương, đường lối phát triển nông nghiệp, nông thôn
của Đảng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, và vận dụng
sáng tạo vào thực tiễn địa phương ................................................................ 76
3.2.2. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn ................................................... 79
3.2.3. Phát triển làng nghề gắn với văn hoá du lịch ................................................ 81


3.2.4. Nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ đảng ở nông thôn, đáp ứng
yêu cầu phát triển nông nghiệp trong thời kỳ công nhgiệp hoá, hiện
đại hoá ........................................................................................................... 83
Kết luận .................................................................................................................. 86
Danh mục tài liệu tham khảo ............................................................................... 90
Phụ lục .................................................................................................................... 95


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân là vấn đề lớn và quan trọng
đối với nền kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với những nước
đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, quan tâm đến nông
nghiệp, nông dân, nông thôn là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo điều kiện để bố trí lại cơ cấu sản xuất,
phân công lao động xã hội, nâng cao đời sống nông dân, thay đổi bộ mặt nông
thôn.
Từ năm 1996, Đại hội VIII của Đảng đã xác định: "Giai đoạn từ nay

đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" [20, tr.20], và đề ra mục tiêu đến
năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp.
Hiện nay chúng ta đang trong quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Bởi thế, trong những năm qua vấn đề công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn luôn được đặt ở vị trí quan
trọng và là mối quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước.
Quá trình đổi mới đường lối phát triển nông nghiệp, nông thôn, đã tạo
ra nhiều chuyển biến quan trọng trong thực tiễn, đặc biệt: Năng suất, sản
lượng và hàm lượng công nghệ trong sản phẩm nông nghiệp tăng đáng kể, an
ninh lương thực được đảm bảo; Việt Nam trở thành quốc gia có sản phẩm
nông nghiệp xuất khẩu chiếm thị phần quan trọng trên thị trường thế giới, như
gạo, cà phê và hạt điều… Bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân, kể cả ở
miền núi, vùng dân tộc thiểu số, từng bước được cải thiện. Những thành tựu
trong sản xuất nông nghiệp đã góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, khẳng định vai trò quan trọng của nông
nghiệp, nông thôn.

1


Hà Tây (khi chưa sáp nhập với Hà Nội) vốn là một tỉnh nông nghiệp,
thuộc đồng bằng Sông Hồng, cửa ngõ phía Tây thủ đô Hà Nội, có diện tích
đất tự nhiên khá lớn. Với gần 90% dân số là nông dân, nguồn thu nhập chủ
yếu từ sản xuất nông nghiệp… Hà Tây là vùng có tiềm năng để phát triển
nông nghiệp toàn diện, bao gồm cả nông nghiệp, thủy sản và lâm
nghiệp.Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và Đảng
bộ Hà Tây, nông nghiệp, nông thôn Hà Tây đã có những bước phát triển toàn
diện, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nâng cao

đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
Tuy nhiên, vấn đề nông nghiệp, nông thôn ở Hà Tây vẫn còn tồn tại
một số hạn chế, yếu kém, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh
như: Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa rõ nét; vấn đề năng xuất lao động nông nghiệp;
tỉ lệ lao động nông nghiệp, nông thôn; cơ chế quản lí kinh tế nông nghiệp;
chính sách đất đai; một số vấn đề văn hoá - xã hội ở nông thôn... Nghiên cứu
quá trình Đảng bộ Hà Tây quán triệt thực hiện đường lối chủ trương của Đảng
và Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn từ năm 1996 đến năm
2006, từ đó rút ra một số kinh nghiệm, góp phần đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp nông thôn của Hà Tây trong thời gian tới là việc làm có ý nghĩa khoa học
và thực tiễn cấp thiết.
Vì những lí do trên, tôi chọn đề tài “Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo phát
triển nông nghiệp, nông thôn từ năm 1996 đến 2006” để viết luận văn Thạc
sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp đổi mới,
nông nghiệp luôn chiếm vị trí quan trọng. Vì vậy, Đảng ta đã có những quan
điểm chủ trương, chính sách, cùng với những tổng kết, đánh giá, rút ra những
kinh nghiệm về phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta. Sự tổng kết đánh

2


giá đó được phản ánh trong các Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, và
Nghị quyết các Hội nghị chuyên đề của Ban Chấp hành Trung ương, Hội nghị
Bộ Chính trị… Đây là những đánh giá chính thức và quan trọng của Đảng ta.
Nó phản ánh nhận thức lý luận và thực tiễn của Đảng về lãnh đạo nông
nghiệp, nông thôn trong quá trình đổi mới. Trong thời gian qua, còn có những
công trình của các nhà khoa học đề cập đến vấn đề này ở nhiều góc độ khác

nhau. Nhìn một cách khái quát, các công trình nghiên cứu liên quan có thể
chia thành những nhóm chủ yếu sau:
- Nhóm thứ nhất: Một số công trình nghiên cứu chuyên khảo đã xuất
bản như:
“Thực trạng nông nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta” của Nguyễn
Sinh Cúc, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 1990.
“Nông nghiệp Việt Nam 1945-1995” của PTS Nguyễn Sinh Cúc, Nxb.
Thống kê, Hà Nội, 1995.
“Đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp ở Việt Nam” của PTS.Trương Thị
Tiến, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1999.
“Chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn sau Nghị quyết 10
của Bộ Chính trị” do PGS.TS. Lê Đình Thắng làm chủ biên, Nxb, Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000.
“Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn”
của Ban tư tưởng văn hoá Trung ương, Nxb, Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, Hà Nội, 2002.
“Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam bước vào thế kỉ XXI” của Khoa
Kinh tế nông nghiệp và phát triển và nông thôn - Đại học Kinh tế quốc dân,
Nxb, Nông nghiệp, Hà Nội, 2001
- Nhóm thứ hai: Một số luận văn Tiến sĩ, Thạc sĩ chuyên nghành Lịch
sử Đảng đã bảo vệ, nghiên cứu về quá trình thực hiện đường lối phát triển
nông nghiệp, nông thôn của Đảng: Nguyễn Văn Cốc: Đảng bộ Hải Phòng

3


lãnh đạo đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp (1975-1995); Nguyễn
Thị Kim Anh: Đảng bộ Bình Định lãnh đạo quá trình đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế nông nghiệp của tỉnh (1989-1997)…
- Ngoài ra còn có nhiều bài đăng trên các tạp chí chuyên ngành đã đề

cập đến vấn đề nông nghiệp, nông thôn trong thời kì đổi mới.
- Các công trình nghiên cứu trên đã nêu lên những thành công và hạn
chế của nông nghiệp nước ta thời kì từ sau đổi mới. Đồng thời, các tác giả đã
đưa ra những kiến nghị, giải pháp để tiếp tục đổi mới, phát triển nông nghiệp,
nông thôn nước ta trong thời gian tới.
Các công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn tuy nhiều, nhưng chưa có tác giả nào nghiên cứu về Đảng bộ Hà Tây
lãnh đạo phát triển nông nghiệp nông thôn từ 1996 đến 2006.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
- Làm sáng tỏ sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối của Đảng
trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn vào thực tiễn điạ phương từ
năm 1996 đến năm 2006 của Đảng bộ Hà Tây.
- Từ đó rút ra một số kinh nghiệm lãnh đạo phát triển nông nghiệp nông
thôn của Đảng bộ Hà Tây trong những năm đổi mới.
* Nhiệm vụ:
- Trình bày một cách có hệ thống quá trình Đảng bộ Hà Tây vận dụng
đường lối phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng vào thực tiễn địa
phương từ 1996 đến 2006.
- Phân tích kết quả phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Hà tây từ 1996
đến 2006 từ đó nêu lên những thành tựu và hạn chế.
- Rút ra những kinh nghiệm trong việc Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo thực
hiện đường lối, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng ở địa
phương.

4


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn

Luận văn nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Tây trong lĩnh vực
phát triển nông nghiệp, nông thôn, thể hiện ở những chủ trương, giải pháp và
việc tổ chức thực hiện của Đảng bộ từ 1996 đến 2006.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu sự lãnh đạo phát triển nông nghiệp,
nông thôn của Đảng bộ Hà Tây.
- Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu từ năm 1996 đến năm 2006
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu ở địa bàn tỉnh Hà Tây cũ (khi
chưa sáp nhập với Hà Nội).
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu:
Đề tài dựa trên các nguồn tài liệu sau:
+ Các tác phẩm của Hồ Chí Minh liên quan đến đề tài.
+ Hệ thống văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1986 đến 2006
+ Các Văn kiện của Đảng bộ tỉnh Hà Tây; báo cáo hàng năm của
UBND, Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Tây; báo cáo hàng
năm của mặt trận và các đoàn thể; Báo cáo tổng kết hàng năm của một số
huyện tiêu biểu…
* Phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở các nguyên tắc phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp logic, lấy phương pháp
lịch sử là chủ yếu.
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp
thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp…

5


6. Đóng góp của luận văn

- Góp phần khẳng định tính đúng đắn của đường lối phát triển nông
nghiệp, nông thôn của Đảng và sự vận dụng sáng tạo của Đảng bộ Hà Tây
vào thực tiễn của địa phương trong thời kì từ 1996 đến 2006.
- Khẳng định những thành tựu về phát triển nông nghiệp, nông thôn ở
Hà Tây từ 1996 đến 2006
- Nêu ra một số kinh nghiệm trong lãnh đạo phát triển nông nghiệp,
nông thôn của Đảng bộ Hà Tây, góp phần cung cấp một số luận cứ khoa học
để phục vụ sự phát triển nông nghiệp, nông thôn Hà Tây trong những năm tới.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu lịch sử
Đảng bộ Hà Tây thời kì đổi mới, và giảng dạy về lịch sử Đảng bộ trong các
trường học ở Hà Tây.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm có 3 chương 7 tiết:
Chƣơng 1: Tình hình nông nghiệp, nông thôn Hà Tây trước1996.
Chƣơng 2: Chủ trương và chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ Hà Tây về
phát triển nông nghiệp, nông thôn từ 1996 đến 2006.
Chƣơng 3: Kết quả và những kinh nghiệm.

6


Chƣơng 1
TÌNH HÌNH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN HÀ TÂY TRƢỚC NĂM 1996

1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Kỳ họp Quốc hội thứ 9, khoá VIII, từ ngày 27 - 7 đến ngày 12 - 8 1991 đã quyết định tách tỉnh Hà Sơn Bình thành 2 tỉnh Hà Tây và Hoà Bình.
5 huyện: Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức và Thị xã Sơn
Tây được tách khỏi thành phố Hà Nội để trở về Hà Tây. Tỉnh Hà Tây được tái

lập và chính thức làm việc từ ngày 1 - 10 - 1991.
Là một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, nằm ở phía Tây và Nam Thủ đô
Hà Nội - cửa ngõ nối liền vùng Tây Bắc và trung du Bắc Bộ với các tỉnh đồng
bằng sông Hồng, Hà Tây có diện tích tự nhiên là 219.160 ha, nằm trọn trong
nội địa, không có đường biên giới quốc gia và đường biển, kéo dài từ
20˚34'18'' đến 21˚18'26'' vĩ độ Bắc, 105˚17'18'' đến 106˚ 0'28'' kinh độ Đông.
Phía Bắc và Tây Bắc giáp sông Hồng, các tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ, phía
Đông giáp Thủ đô Hà Nội, sông Hồng và tỉnh Hưng Yên, phía Nam và Đông
Nam giáp tỉnh Hà Nam, phía Tây giáp tỉnh Hoà Bình.
Hà Tây có 14 đơn vị hành chính: Hà Đông, Sơn Tây, Ba Vì, Chương
Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai,
Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hoà. Hà Tây vừa nằm liền kề khu
tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh với các đường
giao thông chiến lược: Quốc lộ 1, quốc lộ 6, quốc lộ 21, quốc lộ 32, đường
Hồ Chí Minh, đường cao tốc Láng- Hoà Lạc, đường thủy trên sông Hồng, vừa
là lá phổi xanh của thủ đô Hà Nội.
Xét tổng quát, địa hình của Hà Tây biến đổi khá phức tạp, bị chia cắt
mạnh, cao độ biến đổi dần từ hướng Tây Bắc xuống Đông Nam, từ Tây sang
Đông, có đủ các dạng địa hình gồm cả núi cao, đồi núi thấp và đồng bằng.

7


Vùng núi cao: Có diện tích khoảng 17.000 ha, tập trung chủ yếu ở Ba
Vì có độ cao tuyệt đối từ 300 m trở lên với đỉnh cao nhất tới 1.296 m. Đây là
nơi có địa hình dốc (trên 25˚ ), tập trung tới 54% diện tích đất lâm nghiệp của
Hà Tây. Đất nông nghiệp nằm rải rác, tập trung trong các thung lũng nhỏ và
khe suối.
Kiểu địa hình đồi núi thấp: Có độ cao tuyệt đối từ 30 đến 300m, diện
tích tự nhiên khoảng 53.400 ha, tập trung chủ yếu ở vùng thấp của Ba Vì,

vùng cao của các huyện Thạch Thất, Quốc Oai, Mỹ Đức, Chương Mỹ và Sơn
Tây. Đây là khu vực tập trung nhiều núi đá vôi và hang động cáctơ, cũng là
nơi tập trung tới 45,6 % diện tích đất rừng của Hà Tây. Do có địa hình dốc,
diện tích đất trồng đồi núi trọc lớn nên đất đai thường bị xói mòn, rửa trôi rất
mạnh.
Kiểu điạ hình đồng bằng: Có 149.200 ha chiếm trên 68% diện tích tự
nhiên phân bố tập trung ở khu vực giữa sông Hồng và sông Đáy và các vùng
thấp ven sông Tích. Đây là vùng đồng bằng phì nhiêu, vùng sản xuất nông
nghiệp quan trọng nhất của tỉnh với cây trồng chủ yếu là lúa nước. Những khu
vực cao hơn thì trồng cây ăn quả, làm vườn và trồng hoa màu. Tuy là vùng
đồng bằng nhưng cao độ cũng có nhiều biến đổi, phổ biến từ 1,0 đến 11,0 m.
Khu vực ven sông Hồng và sông Đáy thường có địa hình cao hơn khu vực
ven sông Nhuệ tạo thành dạng địa hình lòng máng. Nơi có cao độ thấp thường
tập trung nhiều ở vùng hạ lưu sông Nhuệ như Ứng Hoà, Phú Xuyên.
Hà Tây có nhiều khoáng sản quý, tập trung nhiều nhất ở huyện Ba Vì
như vàng, đồng, pyrit, cao lanh, nước khoáng... Ngoài ra có thể kể tới đôlônit
ở Quốc Oai; đá vôi ở Mỹ Đức, Chương Mỹ; đá granít ốp lát ở Chương Mỹ;
đất sét ở Chương Mỹ, Sơn Tây, Thạch Thất, Quốc Oai; than bùn ở Mỹ Đức,
Sơn Tây, Quốc Oai, Chương Mỹ.

8


Rừng ở Hà Tây không nhiều, với hai khu vực chủ yếu là rừng quốc gia
Ba Vì và khu rừng văn hoá gắn với cảnh đẹp chùa Hương thuộc Nhà nước
quản lý.
Khí hậu Hà Tây mang tính chất nhiệt đới gió mùa với hai mùa và ba
vùng khí hậu khác nhau. Nhiệt độ trung bình từ 23,5˚C đến 28˚C. Số giờ nắng
khoảng 1642 giờ/năm, lượng mưa trung bình khoảng 150 mm, độ ẩm trung
bình 83,4%.

Đất đai Hà Tây được hợp thành từ hai nguồn phong hoá, đá mẹ ở vùng
đồi núi và phù sa bồi đắp ở vùng đồng bằng. Toàn tỉnh có 136.000 ha đất canh
tác nông nghiệp, chiếm 29% diện tích tự nhiên. Bình quân diện tích đất nông
nghiệp trên đầu người thấp, khoảng 527m2 (đồng bằng 342m2).
Hà Tây có nhiều sông lớn chảy qua nên cũng là tỉnh có nhiều đê sông
cấp quốc gia nhất miền Bắc. Những con sông chính chảy qua đó là: Sông
Hồng, sông Đà, sông Tích, sông Đáy, sông Nhuệ, với tổng chiều dài chảy
trong phạm vi tỉnh trên 400km, có hàng chục hồ chứa nước lớn nhỏ, đây là
một trong những tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản lớn của Hà Tây.
Với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi trên đã tạo
điều kiện cho nông nghiệp Hà Tây phát triển. Nền sản xuất nông nghiệp của
Hà Tây đã có những thay đổi rất quan trọng cả về lượng và chất, nhất là cơ
cấu mùa, vụ, giống cây trồng, vật nuôi... nhằm khai thác tối đa những thuận
lợi về điều kiện tự nhiên. Với tính chất nhiệt đới nóng, ẩm, khí hậu Hà Tây
thích nghi với nhiều giống cây trồng, vật nuôi ở những thời vụ khác nhau
trong năm. Hệ thống sông và ao, hồ, đập... là một trong những tiềm năng nuôi
trồng thuỷ sản lớn của tỉnh. Tuy nhiên, Hà Tây cũng gặp rất nhiều khó khăn
do lượng mưa tập trung lớn vào mùa mưa gây ngập úng trên diện rộng, làm
xói mòn đất, rửa trôi đất vùng núi; ngược lại, về mùa khô gây hạn hán và có
sương muối không thuận lợi cho sản xuất ở vùng miền núi.
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

9


Từ năm 1991, tỉnh Hà Tây được tái lập thì mức tăng trưởng, tổng giá trị
sản xuất và thu nhập nội tỉnh hàng năm đều tăng. Để thoát khỏi tình trạng
thuần nông, Hà Tây phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội. Mặc dù nông
nghiệp vẫn là ngành chủ chốt, nhưng tỉnh vẫn đang phấn đấu giảm tỷ trọng
nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Đây cũng là một quá trình

phấn đấu lâu dài.
Hà Tây sử dụng 60% lực lượng lao động trong ngành nông nghiệp và
đóng góp khoảng 35% trong toàn bộ GDP của tỉnh. Tuy diện tích tự nhiên lớn
nhất vùng đồng bằng sông Hồng, nhưng quỹ đất của tỉnh không nhiều. Do dân
số đông nên bình quân đất nông nghiệp trên đầu người chỉ đạt 527m2. Đây
cũng là nguyên nhân giải thích tại sao Hà Tây là địa phương có làng nghề
phát triển mạnh. Từ lâu, Hà Tây đã được mệnh danh là đất trăm nghề. Có
nhiều làng nghề nổi tiếng như: Lụa Vạn Phúc, tre đan Ninh Sở, mây tre đan
Phú Vinh, thêu ren Quất Động, sơn mài Hạ Thái và Duyên Thái, quạt Dân
Hoà, điêu khắc Thanh Thuỳ, khảm trai Chuyên Mỹ, nón Chuông, giò chả Ước
Lễ, bánh tẻ Câu Liên, bánh dầy Quán Gánh... Sự phát triển mạnh mẽ của các
làng nghề đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động ở Hà
Tây.
Năm 1994, sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của Hà Tây
được khôi phục, phát triển và tăng bình quân mỗi năm 12,2%. Một số xí
nghiệp quốc doanh được sắp xếp lại, được tăng thêm vốn, thiết bị, hoạt động
có hiệu quả hơn. Nhiều nghề thủ công truyền thống được khôi phục và phát
triển thêm việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho nhân dân. Một số
xã đạt giá trị tiểu thủ công nghiệp trên 50% tổng giá trị sản xuất.
Hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu đã cố gắng giảm bớt tình trạng
khó khăn, sa sút và có mặt phát triển. Du lịch đang từng bước nghiên cứu, quy
hoạch phát triển ở một số khu vực trọng điểm.

10


Năm 1995, Hà Tây có 16 cơ sở bệnh viện, 28 phòng khám đa khoa khu
vực, tất cả các huyện và hầu hết các xã đều có trạm y tế xã. Đội ngũ bác sĩ và
trên đại học là 627 người.
Mạng lưới điện quốc gia đã phát triển tới tất cả các huyện và hầu hết

các xã trong tỉnh. Tuy nhiên, hệ thống điện vẫn chủ yếu dùng cho sinh hoạt và
thuỷ lợi, còn sử dụng cho sản xuất công nghiệp và dịch vụ chưa nhiều.
Trên địa bàn Hà Tây, tất cả các xã đều có trường tiểu học. Năm học
1992 - 1993, toàn tỉnh được công nhận phổ cập tiểu học và xoá mù chữ. Các
trường chuyên, lớp chọn được mở rộng, bước đầu đưa nội dung dạy nghề,
giáo dực dân số, tin học vào nhà trường. Các huyện đều có các Trung tâm
giáo dục thường xuyên và Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp. Trên địa bàn Hà Tây
có 10 trường đại học và cao đẳng, 9 trường trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề, 3 trung tâm dịch vụ việc làm thuộc Liên đoàn lao động tỉnh.
Hà Tây có rất nhiều di tích lịch sử được xếp hạng, với cảnh quan đẹp
cùng nhiều lễ hội dân gian phong phú như: Ao vua, Khoang Xanh, Suối Tiên,
Thác Mơ, Suối Hai, Đồng Mô, chùa Hương, chùa Đậu, chùa Tây Phương,
chùa Trăm Gian, chùa Trầm, đền Và, chùa Mía, thành cổ Sơn Tây... Những di
sản văn hoá này vừa có ý nghĩa giáo dục, nâng cao đời sống văn hoá tinh
thần, vừa khai thác các điểm du lịch để phát triển kinh tế dịch vụ, du lịch của
địa phương.
Hà Tây còn là nơi sản sinh ra nhiều anh hùng dân tộc và danh nhân tiêu
biểu của đất nước như: Phùng Hưng, Ngô Quyền, Nguyễn Trãi, Phan Huy
Chú..., là tỉnh có nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh vào bậc nhất
trong cả nước. Những di tích đó có cùng với hệ thống đình, chùa, miếu, đền
và lễ hội hàng năm tổ chức làm phong phú thêm đời sống văn hoá, tinh thần
của nhân dân.
Tóm lại, trong những năm qua kinh tế Hà Tây phát triển ổn định, tương
đối toàn diện. Kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, có hiệu quả

11


và phát triển bền vững, góp phần ổn định và cải thiện đời sống nhân dân ở
nông thôn. Kinh tế nông thôn được khởi sắc, nhất là ở làng nghề và khu vực

ven đô. Kinh tế công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá
cao, năng lực sản xuất của các thành phần kinh tế được tăng cường. Các
ngành dịch vụ có bước phát triển, đã đổi mới phương thức hoạt động, nâng
cao dần chất lượng phục vụ đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và đời sống
nhân dân.
1.2. Thực trạng nông nghiệp nông thôn Hà Tây
1.2.1. Đảng bộ Hà Tây quán triệt quan điểm của Đảng về đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế nông nghiệp
Lãnh đạo nông dân, phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông
thôn luôn là nhiệm vụ trọng yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời
kỳ lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Việt Nam là nước sống về nông
nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng
nước nhà, chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp
một phần lớn" [35, tr.215]. Theo Người: "Chúng ta lấy sản xuất nông nghiệp
làm chính. Vì muốn mở mang công nghiệp thì phải có đủ lương thực, nguyên
liệu" [36, tr.44].
Ngày 13 - 1 - 1981, Ban Bí thư Trung ương ban hành Chỉ thị số 100CT
- TW. Đây là bước đột phá đầu tiên chấm dứt quá trình cải tiến quản lý nông
nghiệp theo hướng mở rộng quy mô hợp tác xã, tăng cường cơ chế quản lý tập
trung thống nhất ở mức độ cao... Tuy nhiên do những sai lầm chủ quan, duy ý
chí và sự trì trệ của cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp kéo dài, làm cho sản
xuất nông nghiệp cũng như các lĩnh vực khác đã lâm vào tình trạng khủng
hoảng trầm trọng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12 - 1986) đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế.
Đại hội VI đánh dấu bước chuyển căn bản về tư duy kinh tế của Đảng, là cơ

12



sở lý luận và tạo môi trường nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần cho quá
trình đổi mới căn bản và toàn diện cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, mà nội
dung trọng tâm là xác lập và phát triển kinh tế hộ nông nghiệp. Đại hội chỉ rõ:
"Nhiệm vụ trước mắt của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên (1986
- 1990) là phải tập trung sức người, sức của thực hiện cho được 3 chương
trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu"
[15, tr.48]. Nông nghiệp phải được ưu tiên đáp ứng những nhu cầu về đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, về vật tư, về lao động kỹ thuật; những
nguồn vốn đầu tư đó phải được sử dụng có hiệu quả. Đầu tư cho nông nghiệp
phải đồng bộ từ sản xuất đến chế biến vận chuyển, bảo quản để có nhiều sản
phẩm cuối cùng. Đảng ta khẳng định: "Điều quan trọng nhất hiện nay là một
mặt phải cải tiến, nâng cao trình độ quản lý của hợp tác xã, tập đoàn sản xuất,
mặt khác phải từng bước hoàn thiện phương thức khoán sản phẩm cuối cùng
đến nhóm và người lao động, tích cực xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục
vụ cho sản xuất nông nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới" [15, tr.62].
Sau Đại hội VI, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn kiện quan
trọng nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách với nông dân, nông nghiệp và
nông thôn. Hội nghị Trung ương lần thứ hai, khoá VI, tháng 4 - 1987 và Hội
nghị Trung ương lần thứ ba, khoá VI, tháng 8 - 1987, tiếp tục khẳng định
Nghị quyết của Đại hội VI của Đảng và đưa ra định hướng cho một số chính
sách đổi mới về ruộng đất. Ban Chấp hành Trung ương Đảng còn chỉ ra
những quy định về giá cả và lưu thông hàng hoá; thực hiện chính sách thu
mua nông sản theo giá thoả thuận đã ban hành trước, phấn đấu thực hiện cơ
chế một giá.
Tháng 1 - 1988 Quốc hội thông qua Luật đất đai, đánh dấu bước phát
triển mới trong sản xuất nông nghiệp. Luật đất đai chỉ rõ Nhà nước giao
quyền sử dụng ruộng đất ổn định, lâu dài cho các đơn vị và hộ xã viên, cho
phép hộ xã viên có quyền chuyển nhượng, sang bán thành quả lao động và kết

13



quả đầu tư trên mảnh đất đã giao khoán; nghiêm cấm việc mua bán ruộng đất
trái phép.
Ngày 05 tháng 4 năm 1998, Bộ chính trị khoá VI, ra nghị quyết số 10 NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Nghị quyết 10 đã có những
đánh giá khách quan về cách thức tổ chức sản xuất và quản lý nông nghiệp,
chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong sản xuất nông nghiệp
và chủ trương tiến hành đổi mới một cách căn bản. Nghị quyết xác định nội
dung đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, chủ yếu gồm ba vấn đề: Sắp xếp
và tổ chức lại sản xuất nông nghiệp; củng cố và mở rộng quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; đổi mới chính sách
quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Nghị quyết 10 - NQ/TW đã thể hiện sự chuyển biến căn bản rõ nét nhất
của tư duy kinh tế, đổi mới chính sách đối với nông nghiệp, nông dân và nông
thôn. Nghị quyết đã tạo sự thay đổi rõ rệt trong sản xuất nông nghiệp và đời
sống của nông dân. Người nông dân do tác động của cơ chế mới đã gắn bó
với quá trình sản xuất, chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của
mình.
Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương khoá VI, tháng 3 1989, tiếp tục khẳng định những phương hướng lớn trong đổi mới quản lý
nông nghiệp của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết của Hội nghị đã quyết định:
- Hợp tác xã và tập đoàn sản xuất là những đơn vị kinh tế hợp tác với
nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất.
- Khái niệm hợp tác xã được mở rộng bao gồm mọi tổ chức kinh doanh
do những người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức và được quản lý theo
nguyên tắc dân chủ, không phân biệt quy mô, trình độ kỹ thuật, mức độ tập
thể hoá tư liệu sản xuất.
- Hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ.

14



Như vậy, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 6, khoá VI, là bước tiến xa so với Chỉ thị 100 trong quá trình đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh
trên cả ba phương diện: Sở hữu, quản lý, phân phối cho phù hợp hơn với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - đây là một sự điều chỉnh
lớn trong đường lối, chính sách phát triển nông nghiệp và cơ chế quản lý kinh
tế nông nghiệp. Nghị quyết 10 đã cụ thể hoá khá toàn diện tư tưởng đổi mới
của Đại hội VI trên lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, gỡ bỏ về cơ bản những lực
cản đối với sự phát triển của kinh tế nông nghiệp nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 - 1991) đã đánh dấu
bước chuyển biến từ cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa trên cơ sở
coi trọng yếu tố thị trường sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội VII đã quyết định một số vấn
đề cấp bách đối với nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước quy định bằng pháp
luật các vấn đề thừa kế, chuyển quyền sử dụng đất, giúp nông dân vốn sản
xuất bằng cách mở rộng các hình thức tín dụng. Đại hội đã thông qua văn kiện
quan trọng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Cương lĩnh nêu rõ: "Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
để ổn định tình hình kinh tế - xã hội" [18, tr.12]. Đại hội đề ra chủ trương tiếp
tục xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tiếp tục đổi mới quản lý
kinh tế và khẳng định: Để phát huy và kết hợp sức mạnh của tập thể và của xã
viên trong các hợp tác xã nông nghiệp, chúng ta chủ trương các hộ xã viên là
những đơn vị kinh tế tự chủ, đồng thời tăng cường vai trò của ban quản trị
hợp tác xã trong việc quản lý, điều hành sản xuất và tổ chức dịch vụ ở những
khâu và lĩnh vực mà hộ xã viên không có điều kiện làm hoặc làm không hiệu
quả bằng tập thể. Cùng với chính quyền và các đoàn thể, hợp tác xã góp phần
thực hiện các chính sách xã hội và xây dựng nông thôn mới.


15


Để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế nông nghiệp và căn cứ
vào nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Hội nghị Trung ương lần
thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khoá VII đã họp ngày 3 - 6 - 1993 và ra
nghị quyết về "Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn".
Sau khi xác định mục tiêu, quan điểm đổi mới về phát triển nông
nghiệp, nông thôn, Nghị quyết đề ra phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm
thực hiện mục tiêu đó. Nghị quyết xác định phải đổi mới cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn, phá vỡ thế độc canh cây lúa, phá vỡ
cơ cấu thuần nông và xây dựng một nền kinh tế nông nghiệp phát triển cân
đối. Hội nghị xác định rõ: "Trên cơ sở xúc tiến công cuộc công nghiệp hóa
nói chung, công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn nói riêng mà thực hiện
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển mạnh, vững
chắc, có hiệu quả công nghiệp - dịch vụ ở nông thôn, tăng nhanh tỷ trọng
những ngành này trong cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ" [19, tr. 63]. Hội
nghị xác định: Kiên trì và nhất quán thực hiện chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở tiếp tục phát huy vai trò
tự chủ của kinh tế hộ mà đổi mới hình thức, nội dung kinh doanh và cơ chế
họat động của hợp tác xã, phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ xã viên; đổi
mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước và khuyến khích phát triển kinh tế cá
thể, kinh tế tư bản tư nhân trong nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện chính
sách giao quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân; đổi mới chính sách vĩ
mô của Nhà nước, bao gồm chính sách thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá,
chính sách đầu tư tín dụng, chính sách khuyến nông, chính sách khoa học công nghệ, chính sách xã hội nông thôn...nhằm tạo điều kiện và môi trường
kinh tế - xã hội thúc đẩy cho sản xuất phát triển; đổi mới và nâng cao hiệu quả
hoạt động của hệ thống chính trị. Trong các phương hướng nêu trên thì việc
gắn phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn với quá trình công nghiệp


16


hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu và có ý
nghĩa chiến lược.
Nghị quyết Trung ương 5 đã bổ sung, nâng tầm các chính sách đổi mới
kinh tế nông nghiệp, nông thôn hình thành từ Đại hội VI. Nghị quyết đã giải
quyết đồng bộ các yếu tố nông nghiệp và nông thôn trong mối quan hệ mật
thiết, tạo điều kện cho kinh tế nông nghiệp phát triển thuận lợi, đồng thời tác
động tích cực đến kinh tế nông thôn. Nghị quyết đã định hướng và trợ giúp
cho sự phát triển của kinh tế nông nghiệp, nông thôn, chuyển dần nền kinh tế
nông nghiệp, nông thôn nước ta vào thời kỳ công nghiệp hoá.
Đường lối đổi mới nông nghiệp, nông thôn được tiếp tục bổ sung và
phát triển và khẳng định trong Hội nghị Đại biểu Đảng toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khoá VII (tháng 1 - 1994), trong Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khoá VII
(tháng 7 - 1994).
Nếu như nghị quyết 10 của Bộ Chính trị mở ra thời kỳ nông nghiệp
được giải phóng thì Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 khoá VII và
các nghị quyết tiếp theo đã tạo sức bật mới cho kinh tế nông nghiệp - nông
thôn phát triển, thực sự tháo gỡ những cản trở, trì trệ của cơ chế cũ và mở ra
hướng phát triển mới cho nông nghiệp, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn cho cả nước nói chung và cho nông nghiệp, nông
thôn Hà Tây nói riêng.
Sau khi tái lập, Đảng bộ Hà Tây có 14 huyện, thị uỷ và các Đảng uỷ
trực thuộc. Đảng bộ tỉnh có 1.038 cơ sở Đảng, hơn 74.000 đảng viên, chiếm
3,5% dân số.
Đảng bộ Hà Tây tổ chức Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI
(tháng 3-1992). Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá đúng thực trạng tình hình
trong tỉnh những năm 1986 - 1991; vận dụng cương lĩnh xây dựng đất nước

trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế xã hội đến năm 2000 và báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu toàn

17


quốc lần thứ VII để định ra phương hướng nhiệm vụ trong những năm 1992 1995; đồng thời bầu Ban chấp hành Đảng bộ mới.
Đại hội đánh giá, sau 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội VI của Đảng,
tình hình địa phương có những biến chuyển đáng kể trên các mặt, lương thực
thực phẩm tăng khá, hàng tiêu dùng phong phú, đa dạng hơn trước. Cơ sở vật
chất phục vụ nông nghiệp và nông thôn được tăng cường. Trong những năm
từ 1986 đến 1991, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, bộ mặt nông thôn và đời sống
nông dân đã khởi sắc và phát triển.
Đảng bộ đã tiến hành tổng kết việc thực hiện Chỉ thị 100 ở các hợp tác
xã để phát hiện và khắc phục những mặt yếu kém, thực hiện đúng đắn chế độ
khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động phù hợp với trình độ hợp tác xã
từng vùng khác nhau. Chấn chỉnh tổ chức và hoạt động của các hợp tác xã tín
dụng, liên kết chặt chẽ với các hợp tác xã nông nghiệp. Có chính sách khuyến
khích phát triển kinh tế gia đình và tư nhân đúng hướng.
Đại hội XI của Đảng bộ xác định: Trong nông nghiệp thực hiện sớm
việc giao ruộng khoán ổn định đến hộ xã viên theo Nghị quyết 10 của Bộ
Chính trị. Bộ máy quản lý hợp tác xã được sắp xếp gọn nhẹ, xoá bỏ các quỹ ở
đội sản xuất, thu nhập của xã viên tăng hơn trước. Mô hình kinh tế VAC và
hộ nông dân mở mang thêm, ngành nghề đang tăng lên. Có những hộ đã nhận
thầu hàng chục héc ta ruộng, ao đất rừng... thu nhập mỗi năm hàng chục triệu
đồng.
Đảng bộ đề ra những mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu về nông nghiệp
trong 4 năm 1992 - 1995 đó là:
- Giải quyết tốt hơn vấn đề lương thực, có thêm nhiều nông sản hàng
hoá chế biến và hàng tiêu dùng, tăng nhanh hàng xuất khẩu. Từng bước xây

dựng nông thôn mới và nếp sống văn minh trật tự ở các thị xã, thị trấn.
- Phát triển nông nghiệp toàn diện, tăng thêm lương thực, đồng thời
tăng nhanh các loại nông sản hàng hoá.

18


Để phát triển nông nghiệp toàn diện cần: Đầu tư thâm canh, ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật sinh học, đưa nhanh giống mới vào sản xuất để tăng sản
lượng bình quân hàng năm khoảng 5%, năm 1992 đạt 70 vạn tấn, năm 1995
đạt 80 vạn tấn, nhằm đảm bảo nhu cầu lương thực của nhân dân, căn bản khắc
phục nạn đói giáp hạt. Đồng thời, sử dụng có hiệu quả hơn các loại đất, tăng
nhanh giá trị nông sản hàng hoá trên đơn vị diện tích ngày càng cao. Toàn
tỉnh mở rộng diện tích vụ đông trên 60% đất canh tác để trồng các loại rau
màu, thực phẩm. Ưu tiên giành diện tích đất bãi ven sông, đất đồi gò để phát
triển mạnh cây dâu tằm, cây chè... Phát triển chăn nuôi trâu bò, lợn, gia cầm,
nuôi thuỷ sản... Chú trọng giống mới và từng bước chăn nuôi theo phương
pháp công nghiệp. Đến năm 1995 toàn tỉnh sẽ căn bản hoàn thành việc phủ
xanh đất trống, đồi trọc, chủ yếu trồng các loại cây keo vừa lấy gỗ, vừa cải tạo
đất.
Để phát triển nông lâm nghiệp theo hướng trên, Đảng bộ đã sớm ban
hành và hướng dẫn thực hiện đúng chính sách ruộng đất, trước mắt ổn định
ruộng đất đã khoán hộ, không gây sáo trộn. Có chính sách khuyến nông, cho
vay vốn sản xuất, miễn thuế cây dài ngày và hướng dẫn kỹ thuật đến các hộ
nông dân, nhất là sử dụng rộng rãi các loại giống mới. Có đủ vật tư cho nông
nghiệp và tích cực làm thuỷ lợi, chủ động phòng tránh thiên tai nhất là úng
lụt.
Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ ban chấp hành Đảng bộ tỉnh tháng 2 1994 đã đánh giá: Tỉnh uỷ sớm có kế hoạch hướng dẫn giao quyền sử dụng
ruộng đất lâu dài cho các hộ nông dân nhờ đó đã góp phần làm cho nông dân
yên tâm sản xuất, thâm canh, tăng vụ, sử dụng đất đai có hiệu quả hơn. Giá trị

sản phẩm trên một hécta gieo trồng trong năm nhiều hộ đạt 15 - 20 triệu đồng.
Từng bước đổi mới quản lý hợp tác xã nông nghiệp theo Nghị quyết Trung
ương lần thứ 5. Đa số hợp tác xã đã bỏ đội sản xuất, sắp xếp lại bộ máy gọn
nhẹ. Đến đầu 1994, có khoảng 40% số hợp tác xã làm được dịch vụ từ 3 đến 5

19


khâu, nhưng cũng còn khoảng 20% số hợp tác xã yếu kém. Đã xuất hiện một
số hình thức hợp tác đa dạng trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp, chế biến
nông - lâm sản, thu hút nhiều lao động có việc làm. Từ 1991 đến 1993, Nhà
nước đã đầu tư 131 tỷ đồng vốn ngân sách và 33 tỷ vốn tín dụng để xây dựng
các công trình phục vụ sản xuất, đời sống chủ yếu là về điện, đường giao
thông, thuỷ lợi... Ngoài vốn của Nhà nước, các xã, hợp tác xã nông nghiệp đã
đóng góp gần 200 tỷ đồng xây dựng đường điện, trạm xá, trường học, đường
làng, 98% số xã có điện sản xuất và sinh hoạt làm cho bộ mặt nông thôn có
bước đổi mới. Hội nghị đề ra cần phải phấn đấu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế hết năm 1995, trong nông nghiệp, giá trị chăn nuôi chiếm 30%. Tăng
cường xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh
tế địa phương, cần tập trung vào giao thông, điện nước, thông tin liên lạc,
thuỷ lợi và một số công trình bức thiết về văn hoá xã hội.
Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh giữa nhiệm kỳ đã kiểm điểm việc thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cho hai năm 1994 - 1995. Đó
là cơ sở để thống nhất tư tưởng, hành động, củng cố sự đoàn kết trong Đảng
bộ và nhân dân trong tỉnh tạo ra phong trào hành động cách mạng sôi nổi
nhằm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ
1992 - 1995 đã đề ra.
1.2.2. Kết qủa và một số vấn đề đặt ra
Sau những năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, VII của Đảng và
Nghị quyết lần thứ XI của Đảng bộ Tỉnh, tình hình kinh tế nông nghiệp, nông

thôn Hà Tây đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng.
Cơ cấu kinh tế theo ngành có sự chuyển dịch tích cực, tạo điều kiện
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh. Trong khu vực sản
xuất nông nghiệp, giảm tỷ trọng từ 57% năm 1990 còn 50% năm 1995; tỷ
trọng ngành công nghiệp và xây dựng từ 22% năm 1990 lên 25% năm 1995;
tỷ trọng các ngành dịch vụ từ 21% năm 1990 tăng lên 25% năm 1995.

20


Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp cũng được chuyển dịch theo hướng
tăng tỷ trọng các loại cây trồng công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả và chăn
nuôi, thay đổi cơ cấu mùa vụ, tăng vòng quay của đất. Về việc thực hiện
chương trình lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng, kết quả đáng kể nhất
trong những năm 1986 - 1991 là sản xuất lương thực bình quân mỗi năm tăng
5%. Bình quân đầu người từ 281kg tăng lên 317kg, năm thu hoạch cao nhất
đạt gần 70 vạn tấn (1989). Nạn đói giáp hạt đã giảm bớt. Vụ Xuân năm 1991
tuy bị thất thu nặng, nhưng đời sống nhân dân và giá cả lương thực ít bị đảo
lộn lớn. Đàn trâu, bò, lợn năm 1991 so với năm 1986 tăng trên 30%. Chăn
nuôi gia cầm, nuôi cá đều phát triển. Từ 1991 đến 1994 sản lượng lương thực
bình quân hàng năm tăng 7,9% (vượt mức đề ra tại Đại hội XI của Đảng bộ là
5%). Năm 1993, sản lượng lương thực đạt trên 83 vạn tấn, vượt mức đề ra cho
năm 1995 (80 vạn tấn). Bình quân lương thực đầu người từ 317kg (1991) lên
372kg (1993). Có 4 huyện đạt và vượt 10 tấn thóc/ha. Về chăn nuôi, so với
năm 1991, đàn trâu tăng 11,2%, đàn bò tăng 21,2%, đàn lợn tăng 30,4%.
Chăn nuôi gia cầm, nuôi cá đều phát triển. Đã có một số hợp tác xã và gia
đình nuôi bò sữa, dê sữa và các loại đặc sản đạt hiệu quả kinh tế cao. Diện
tích trồng cây công nghiệp, cây ăn quả tăng nhanh: Cây chè tăng 30%, cây
đậu tương tăng 3,5 lần, trồng mới 3.425 ha rừng tập trung. Rừng quốc gia Ba
Vì được bảo vệ.

Về ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp:
Tiềm năng khoa học kỹ thuật, trình độ dân trí được nâng lên, do có trên 20 cơ
quan nghiên cứu khoa học Nông - Lâm nghiệp và cơ sở quốc doanh chế biến
của Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh. Trong nông nghiệp, đã ứng dụng các
tiến bộ kỹ thuật mới, phát triển ngành nghề đi đôi với việc giải quyết tốt vấn
đề vệ sinh môi trường ở nông thôn. Trong trồng trọt đã ứng dụng các giống
lúa năng suất cao, chất lượng gạo ngon, có giá bán cao, phát triển mạnh loại
cây công nghiệp, cây ăn quả, các loại rau đậu có giá trị hàng hoá cao. Điểm

21


×