Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Quản lý chi thường xuyên tại trung tâm bồi dưỡng chính trị Thị Xã Sầm Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.08 KB, 67 trang )

MỤC LỤC

1


DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Diễn giải

NSNN

Ngân sách nhà nước

TX

Thị xã

KBNN

Kho bạc nhà nước

SNCL

Sự nghiệp công lập

TT-BTC

Thông tư – Bộ tài chính




Quyết định

BHXH

Bảo hiểm xã hội

KPCĐ

Kinh phí công đoàn

BHYT

Bảo hiểm y tế

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

2


DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ

Nội dung

2.1


Tổ chức bộ máy của trung tâm

Trang
37

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ

Nội dung

Trang

2.1

Thực trạng các khoản chi

50

2.2

Cơ cấu chi năm 2012

51

2.3

Cơ cấu chi 2013

52


2.4

Cơ cấu chi 2014

52

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng
2.1

Nội dung

Trang
40

2.2

Nội dung chi thường xuyên tại trung tâm
Dự toán kinh phí chi thường xuyên tại trung tâm

2.3

Thực trạng chi thường xuyên tại trung tâm

49

2.4

Quyết toán chi thường xuyên tại trung tâm


54

3

44


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân sách nhà nước là khâu tài chính tập trung giữ vị trí chủ đạo trong hệ
thống tài chính, là nguồn lực vật chất để nhà nước duy trì hoạt động của bộ máy
quản lý và thực thi các nhiệm vụ phát triển Kinh tế - xã hội của đất nước. Cùng
với sự phát triển đó, chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm từng bước
đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp.
Trong những năm qua, công tác quản lý , điều hành chi thường xuyên
ngân sách nhà nước đã có những đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội. Hoạt động quản lý chi ngân sách đã góp phần giải phóng
sức sản xuất của mọi thành phần kinh tế, phát huy được thế mạnh của các địa
phương, các đơn vị công lập, tạo đà cho sản xuất phát triển, giải quyết công ăn
việc làm, đảm bảo công bằng an ninh xã hội và giữ gìn an ninh chính tri.
Trung tâm bồi dưỡng chính trị Thị xã Sầm Sơn là một đơn vị hành chính
sự nghiệp, kinh phí hoạt động chủ yếu là từ ngân sách nhà nước. Trong những
năm qua, cùng với quá trình đổi mới kinh tế, công tác quản lý ngân sách của
trung tâm đã có nhiều đổi mới và đạt được tiến bộ đáng kể. Đặc biệt về công tác
quản lý chi thường xuyên tại trung tâm bồi dưỡng chính trị Thị xã Sầm Sơn
không ngừng được đổi mới, ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công cuộc
đổi mới hiện nay.Tuy nhiên, công tác quản lý chi thường xuyên vẫn còn một số
hạn chế như phân bổ vốn đầu tư còn dàn trải, không gắn với kế hoạch vốn, công
tác quản lý tạm ứng vốn thanh toán còn lỏng lẻo, tạm ứng vốn cho nhà thầu tỷ lệ
lớn, kéo dài nhiều năm nhưng chưa thu hồi dứt điểm cho ngân sách nhà nước,

làm thất thoát vốn đầu tư, lãng phí, thất thoát, kém hiệu quả trong quản lý chi
thường xuyên.
Nhận thức được vai trò cấp thiết cần phải hoàn thiện công tác quản lý chi
ngân sách nhà nước trong những năm tới, em đã chọn đề tài: “ Giải pháp hoàn

4


thiện quản lý chi thường xuyên tại trung tâm bồi dưỡng chính trị thị xã Sầm
Sơn” làm chuyên đề khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận cơ bản về quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà
nước trong đơn vị sự nghiệp công lập.
- Đánh giá thực trạng quản lý chi thường xuyên tại trung tâm bồi dưỡng
chính trị thị xã Sầm Sơn.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quản lý chi thường xuyên tại trung
tâm bồi dưỡng chính trị thị xã Sầm Sơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý chi thường xuyên trong đơn vị sự
nghiệp công lập.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: trung tâm bồi dưỡng chính trị thị xã Sầm Sơn
+ Thời gian: từ năm 2012 đến hết năm 2014
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu trong bài:
-Phương pháp tổng hợp, phân tích số liệu: dựa trên những số liệu đã thu
thập được tiến hành tổng hợp số liệu cho hợp lý, xây dựng biểu đồ…phân tích
tìm ra những vấn đề của đề tài.
-Phương pháp thống kê mô tả: là phương pháp có liên quan đến việc thu
thập số liệu, tóm tắt, trình bày, tính toán, mô tả các đặc trưng khác nhau để phản

ánh tổng quát đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh: trên cơ sở số liệu đã tổng hợp được, tiến hành so
sánh số liệu giữa các năm về so sánh tuyệt đối và tương đối.

5


5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài mở đầu và kết luận, phần nội dung của khóa luận được kết cấu thành
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản lý chi thường xuyên ngân sách
nhà nước trong đơn vị sự nghiệp công lập
Chương 2: Thực trạng quản lý chi thường xuyên tại trung tâm bồi dưỡng
chính trị thị xã Sầm Sơn
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản lý chi thường xuyên tại trung tâm
bồi dưỡng chính trị thị xã Sầm Sơn

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1.1 Tổng quan về chi thường xuyên ngân sách nhà nước trong đơn vị sự
nghiệp công lập
1.1.1 Chi thường xuyên ngân sách nhà nước
1.1.1.1 Khái niệm chi thường xuyên ngân sách nhà nước
Chi thường xuyên NSNN là các khoản chi nhằm duy trì hoạt động thường
xuyên của Nhà nước với các nội dung chủ yếu: chi tiền công, tiền lương, chi
mua sắm hàng hóa, dịch vụ, chi chuyển giao thường xuyên.

Về thực chất, chi thường xuyên NSNN là quá trình phân phối lại nguồn
vốn từ quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm duy trì hoạt động bình thường
của bộ máy nhà nước gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước
đảm nhiệm.
1.1.1.2 Đặc điểm chi thường xuyên ngân sách nhà nước
Chi thường xuyên ngân sách nhà nước có một số đặc điểm sau:
Một là: Đại bộ phận các khoản chi thường xuyên từ NSNN đều mang tính
ổn định và có chu kỳ trong một khoảng thời gian hàng tháng, hàng quý, hàng
năm.
Hai là: Các khoản chi thường xuyên phần lớn nhằm mục đích tiêu dùng.
Hầu hết các khoản chi thường xuyên nhằm trang trải cho các nhu cầu về quản lý
hành chính, hoạt động sự nghiệp, về an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội
và các hoạt động xã hội khác do nhà nước tổ chức. Các hoạt động này hầu như
không trực tiếp tạo ra của cải vật chất. Tuy nhiên, những khoản chi thường
xuyên có tác dụng quan trọng đối với phát triển kinh tế vì nó tạo ra một môi
trường kinh tế ổn định, nâng cao chất lượng lao động thông qua các khoản chi
cho giáo dục - đào tạo.

7


Ba là: Phạm vi và mức độ chi thường xuyên NSNN gắn liền với cơ cấu tổ
chức bộ máy Nhà nước và thực hiện các chính sách kinh tế, chính trị, xã hội của
Nhà nước trong từng thời kỳ. Bởi lẽ, phần lớn các khoản chi thường xuyên
nhằm duy trì bảo đảm hoạt động bình thường, hiệu quả của bộ máy quản lý nhà
nước. Hơn nữa, những quan điểm, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã
hội của Nhà nước cũng ảnh hưởng trực tiếp đến việc định hướng, phạm vi và
mức độ chi thường xuyên NSNN.
1.1.1.3 Nội dung chi thường xuyên ngân sách nhà nước
Căn cứ chế độ phân cấp quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước, các chính

sách chế độ về hoạt động của các cơ quan Nhà nước, Đảng Cộng sản Việt Nam,
các tổ chức chính trị - xã hội và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của
huyện/quận, khi phân cấp nhiệm vụ chi cho ngân sách huyện/quận, HĐND cấp
tỉnh /thành phố trực thuộc Trung ương xem xét giao cho ngân sách huyện/quận
thực hiện các nhiệm vụ chi thường xuyên.
Căn cứ vào định mức, chế độ, tiêu chuẩn của Nhà nước, HĐND cấp
tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương quy định cụ thể mức chi thường xuyên
cho từng công việc phù hợp với tình hình đặc điểm và khả năng ngân sách địa
phương.Nội dung chi thường xuyên NSNN được phân biệt theo lĩnh vực chi, đối
tượng chi và tính chất chỉ tiêu. Cụ thể như sau:
Theo lĩnh vực chi trả, chi thường xuyên NSNN bao gồm 12 nội dung chi
theo luật định, cụ thể như sau:
- Các hoạt động sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, xã hội, văn hóa thông tin văn
học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, các sự nghiệp xã hội
khác.
- các hoạt động sự nghiệp kinh tế
- Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội
- Hoạt động của các cơ quan Nhà nước
- Hoạt động của Đảng cộng sản việt nam
8


- Hoạt động của ủy ban mặt trận tổ quốc việt nam, liên đoàn lao động việt nam,
đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, hội cựu chiến binh việt nam, hội liên
hiệp phụ nữ việt nam, hội nông dân việt nam
- Trợ giá theo chính sách của Nhà nước
- Hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội
- Phần chi thường xuyên thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà
nước
- Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội

- Hỗ trợ các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp
- Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật
Theo đối tượng chi trả, chi thường xuyên NSNN bao gồm các nội dung
chủ yếu sau:
- Các khoản chi cho con người thuộc khu vực hành chính – sự nghiệp như: tiền
lương, tiền công, phụ cấp, phúc lợi tập thể, y tế, vệ sinh, học bổng cho học sinh
và sinh viên…
- Các khoản chi về hàng hóa, dịch vụ tại các cơ quan nhà nước như: văn phòng
phẩm, sách, báo, dịch vụ viễn thông và thông tin, điện, nước, công tác phí, chi
phí hội nghị…
- Các khoản chi phí hỗ trợ và bổ sung nhằm thực hiện các chính sách xã hội hay
thực hiện điều chỉnh vĩ mô của nhà nước.
- Các khoản chi trả lãi tiền vay trong và ngoài nước
- Các khoản chi khác
Theo tính chất của từng khoản chi, nội dung chi thường xuyên NSNN bao
gồm các khoản như sau:
- Chi thanh toán cá nhân: là các khoản chi liên quan trực tiếp đến con người
như: chi tiền lương, phụ cấp lương, tiền công, chi cho học bổng, sinh hoạt phí

9


của học sinh, sinh viên, chi đóng bảo hiểm xã hội cho người hưởng lương từ
NSNN, chi tiền thưởng, phúc lợi tập thể.
- Chi nghiệp vụ chuyên môn: là các khoản chi đảm bảo hoạt động thường xuyên
của đơn vị thụ hưởng NSNN như: chi mua văn phòng phẩm, chi trả dịch vụ công
cộng, chi mua hàng hóa vật tư, công cụ dụng cụ dùng trong công tác chuyên
môn của từng nghành, chi bảo hộ lao động, trang phục, đồng phục và các khoản
khác.
- chi mua sắm, sửa chữa: chi mua sắm đồ dùng, trang thiết bị, phương tiện làm

việc, sửa chữa lớn tài sản cố định và các khoản khác.
- Chi khác: là các khoản chi ngoài các khoản chi nêu trên chẳng hạn như chi
hoàn thuế giá trị gia tăng, chi xử lý tài sản được xác lập sở hữu nhà nước và các
khoản khác.
1.1.1.4 Vai trò của chi thường xuyên NSNN
Chi thường xuyên NSNN có vai trò rất quan trọng. Vai trò đó được thể
hiện trên các mặt cụ thể như sau:
- Chi thường xuyên có tác động trực tiếp đến việc thực hiện các chức năng của
Nhà nước về quản lý kinh tế, xã hội, là một trong những nhân tố có ý nghĩa
quyết định đến chất lượng, hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước.
- Chi thường xuyên là công cụ để Nhà nước thực hiện mục tiêu ổn định và điều
chỉnh thu nhập, hỗ trợ người nghèo, gia đình chính sách, thực hiện các chính
sách xã hội…góp phần thực hiện mục tiêu công bằng xã hội.
- Thông qua chi thường xuyên, Nhà nước thực hiện điều tiết, điều chỉnh thị
trường để thực hiện các mục tiêu của Nhà nước. Nói cách khác, chi thường
xuyên được xem là một trong những công cụ kích thích phát triển và điều tiết vĩ
mô nên kinh tế.
- Chi thường xuyên là công cụ ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng an ninh.
Thông qua chi thường xuyên, Nhà nước thực hiện các chính sách xã hội, đảm
bảo ổn định, an toàn xã hội và an ninh quóc phòng.
10


1.1.1.5 Nguyên tắc chi thường xuyên NSNN
Vì chi thường xuyên, là khoản chi vô cùng quan trọng và có ý nghĩa đối
với nhà nước, nên nó phải nhất định tuân theo những nguyên tắc sau:
Thứ nhất: Nguyên tắc quản lý theo dự toán: Dự toán là khâu mở đầu của
một chu trình NSNN. Những khoản chi thường xuyên một khi đã được ghi vào
dự toán chi và đã được cơ quan quyền lực Nhà nước xét duyệt được coi là chi
tiêu pháp lệnh. Xét trên góc độ quản lý, số chi thường xuyên đã được ghi trong

dự toán thể hiện sự cam kết của cơ quan chức năng quản lý tài chính nhà nước
với các đơn vị thụ hưởng NSNN, từ đó nảy sinh nguyên tắc quản lý chi thường
xuyên theo dự toán.
Thứ hai: Nguyên tắc tiết kiệm hiệu quả: tiết kiệm, hiệu quả là một trong
những nguyên tắc quan trọng hành đầu của quản lý kinh tế, tài chính, bởi lẽ
nguồn lực thì luôn có giới hạn nhưng nhu cầu thì không có giới hạn. do vậy,
trong quá trình phân bổ và sử dụng nguồn lực khan hiếm đó luôn phải tính toán
sao cho với chi phí ít nhất nhưng phải đạt được kết quả cao nhất. Mặt khác do
đặc thù hoạt động NSNN diễn ra trên phạm vi rộng, đa dạng và phức tạp, nhu
cầu chi từ NSNN luôn gia tăng với tốc độ nhanh trong khi khả năng huy động
nguồn thu có hạn, nên càng phải tôn trọng nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả trong
quản lý chi thường xuyên của NSNN.
Thứ ba: Nguyên tắc chi trực tiếp qua kho bạc nhà nước: Một trong những
chức năng quan trọng của kho bạc nhà nước là quản lý quỹ NSNN. Vì vậy, kho
bạc nhà nước vừa có quyền, vừa có trách nhiệm phải kiểm soát chặt chẽ mọi
khoản chi ngân sách nhà nước, đặc biệt là các khoản chi thường xuyên. Để tăng
cường vai trò của KBNN trong kiểm soát chi thường xuyên của NSNN, hiện nay
ở nước ta đã và đang thực hiện việc chi trực tiếp qua KBNN như là một nguyên
tắc trong quản lý khoản chi này.
Thứ tư: Nguyên tắc trọng tâm, trọng điểm: Nguyên tắc này đòi hỏi việc
phân bổ các khoản chi thường xuyên NSNN phải căn cứ và ưu tiên các chương

11


trình trọng điểm của Nhà nước, tránh tình trạng đầu tư tràn lan mà phải gắn đầu
tư giải quyết dứt điểm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của nhà nước hoạch
định trong thời kỳ đó.
Thứ năm: Nguyên tắc Nhà nước và nhân dân cùng làm: Nhà nước và nhân
dân cùng làm trong việc bố trí các khoản chi thường xuyên NSNN nhất là các

khoản chi mang tính chất phúc lợi xã hội
Thứ sáu: Nguyên tắc phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của
các cấp theo luật pháp để bố trí các khoản chi cho thích hợp: Quán triệt nguyên
tắc này tránh việc bố trí các khoản chi chồng chéo, khó kiểm tra giám sát, đồng
thời nâng cao trách nhiệm và tính chủ động với các cấp.
1.1.1.6 Điều kiện thực hiện chi thường xuyên NSNN
Khác với nhiều loại chi tiêu khác, chi thường xuyên từ NSNN phải tuân
thủ những quy định pháp luật rất chặt chẽ. Cụ thể như sau:
Một là, các khoản chi đã có trong dự toán NSNN được giao, trừ các
trường hợp sau:
- Trong trường hợp vào đầu năm ngân sách, dự toán ngân sách và phương án
phân bổ ngân sách chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, cơ
quan tài chính và KBNN tạm cấp kinh phí cho các nhiệm vụ chi sau: chi lương
và các khoản có tính chất tiền lương; chi nghiệp vụ phí và công vụ phí; một số
khoản chi cần thiết khác để đảm bảo hoạt động của bộ máy, trừ các khoản mua
sắm trang thiết bị, sữa chữa; chi cho dự án chuyển tiếp thuộc các chương trình
quốc gia.
- Chi từ nguồn tăng thu so với dự toán được giao và từ nguồn dự phòng ngân
sách theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Hai là, bảo đảm đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền
quyết định.
Ba là, đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN hoặc người được ủy
quyền quyết định chi.
12


Bốn là, trường hợp sử dụng vốn, kinh phí NSNN để mua sắm trang thiết
bị, phương tiện làm việc và các công việc khác phải qua đấu thầu hoặc thẩm
định giá thì còn phải tổ chức đấu thầu hoặc thẩm định giá theo quy định của
pháp luật.

Năm là, các khoản chi có tính chất thường xuyên được chia đều trong
năm để chi, các khoản có tính chất thời vụ hoặc chi phát sinh vào một số thời
điểm như mua sắm, sửa chữa lớn và các khoản chi có tính chất không thường
xuyên khác phải thực hiện theo dự toán quý được đơn vị dự toán cấp 1 giao
cùng với giao dự toán năm.
1.1.2 Chi thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp công lập
1.1.2.1 Khái niệm đơn vị sự nghiệp công lập
Theo Điều 9, khoản 1 Luật viên chức Việt nam quy định: “Đơn vị sự
nghiệp công lập ( SNCL ) là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp
luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước”.
Đơn vị SNCL được xác định dựa vào tiêu chuẩn sau:
- Có văn bản quyết định thành lập đơn vị sự nghiệp của cơ quan có thẩm quyền
ở trung ương hoặc địa phương.
-Được Nhà nước cung cấp kinh phí và tài sản để hoạt động thực hiện nhiệm vụ
chính trị, chuyên môn và được phép thực hiện một số khoản thu theo chế độ nhà
nước quy định.
- Có tổ chức bộ máy, biên chế và bộ máy quản lý tài chính kế toán theo chế độ
Nhà nước quy định.
- Có mở tài khoản tại KBNN hoặc ngân hàng để ký gửi các khoản thu, chi tài
chính.
1.1.2.2 Đặc điểm đơn vị sự nghiệp công lập
Đơn vị SNCL là một tổ chức hoạt động theo nguyên tắc phục vụ xã hội,
không vì mục đích kiếm lời. Trong nên kinh tế thị trường, các sản phẩm, dịch vụ
13


do hoạt động sự nghiệp tạo ra đều có thể trở thành hàng hóa cung ứng cho mọi
thành phần trong xã hội. Việc cung ứng các hàng hóa này cho thị trường chủ yếu
không vì mục đích lợi nhuận như các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước

tổ chức duy trì và tài trợ cho các hoạt động sự nghiệp để cung cấp những sản
phẩm, dịch vụ cho thị trường trước hết nhằm thực hiện vai trò của Nhà nước
trong việc phân phối lại thu nhập và thực hiện các chính sách phúc lợi công cộng
khi can thiệp vào thị trường. Nhờ đó sẽ hỗ trợ cho các ngành, các lĩnh vực kinh
tế hoạt động bình thường, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đảm bảo nguồn
nhân lực, thúc đẩy hoạt động kinh tế phát triển và ngày càng đạt hiệu quả cao
hơn, đảm bảo và không ngừng nâng cao đời sống, sức khỏe văn hóa, tinh thần
của nhân dân.
Sản phẩm của các đơn vị SNCL là sản phẩm mang lại lợi ích chung có
tính bền vững và gắn bó hữu cơ với quá trình tạo ra của cải vật chất và giá trị
tinh thần. Sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra chủ yếu là những giá
trị về tri thức, văn hóa, phát minh, sức khỏe, đạo đức, các giá trị về xã hội…
Đây là những sản phẩm vô hình và có thể dùng chung cho nhiều người, cho
nhiều đối tượng trên phạm vi rộng, đại bộ phận các sản phẩm của đơn vị SNCL
là sản phẩm có tính phục vụ không chỉ bó hẹp trong một ngành hoặc một lĩnh
vực mà sản những sản phẩm đó khi tiêu dùng thường có tác dụng lan tỏa, truyền
tiếp.
Mặt khác sản phẩm của các hoạt động sự nghiệp chủ yếu tạo ra các hàng
hóa công cộng ở dạng vật chất và phi vật chất, phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp
quá trình tái sản xuất xã hội. Việc sử dụng những hàng hóa công cộng do hoạt
động sự nghiệp tạo ra làm cho quá trình sản xuất của cải vật chất được thuận lợi
và ngày càng đạt hiệu quả cao. Hoạt động sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, thể
dục thể thao đem lại tri thức và đảm bảo sức khỏe cho lực lượng lao động, tạo
điều kiện cho lao động có chất lượng ngày càng tốt hơn. Hoạt động sự nghiệp
khoa học, văn hóa thông tin mang lại hiểu biết cho con người về tự nhiên, xã hội

14


tạo ra những công việc mới phục vụ sản xuất và đời sống… Vì vậy hoạt động sự

nghiệp luôn gắn bó hữu cơ và tác động tích cực đến quá trình tái sản xuất xã hội.
Hoạt động sự nghiệp trong các đơn vị SNCL thường gắn liền và bị chi
phối bởi các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. Với chức
năng của mình, Chính phủ luôn tổ chức, duy trì và đảm bảo hoạt động sự nghiệp
để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội. Để thực hiện những mục
tiêu kinh tế – xã hội nhất định Chính phủ phải thực hiện các chương trình mục
tiêu quốc gia như: Chương trình xóa mù chữ, chương trình chăm sóc sức khỏe
cộng đồng, chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình… Những chương trình
mục tiêu quốc gia này chỉ có Nhà nước mới có thể thực hiện một cách triệt để và
có hiệu quả.
1.1.2.3 Phân loại đơn vị sự nghiệp công lập
Theo Nghị định số 43/2006/NĐ-Cp ngày 25/4/2006 của Chính phủ và
Thông tư số 71/2006/TT-VTC ngày 9/8/2006 của Bộ tài chính, căn cứ vào
nguồn thu sự nghiệp các đơn vị sự nghiệp thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về tài chính được phân loại bao gồm:
Thứ nhất: Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt
động thường xuyên ( gọi tắt là đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi phí hoạt động )
là những đơn vị sự nghiệp có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên
bằng hoặc lớn hơn 100% hoặc là những đơn vị sự nghiệp đã tự bảo đảm chi phí
hoạt động từ nguồn thu sự nghiệp, từ nguồn thu ngân sách nhà nước do cơ quan
có thẩm quyền của Nhà nước đặt hàng.
Thứ hai: Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt
động thường xuyên, phần còn lại được ngân sách nhà nước cấp ( gọi tắt là đơn
vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động ) là những đơn vị sự nghiệp
có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên từ trên 10% đến dưới 100%.
Thứ ba: Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp thấp, đơn vị không có nguồn thu,
kinh phí hoạt động thường xuyên do ngân sách nhà nước đảm bảo toàn bộ ( gọi
15



tắt là đơn vị sự nghiệp do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt
động) là những đơn vị sự nghiệp có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường
xuyên từ 10% trở xuống và những đơn vị sự nghiệp không có nguồn thu.
Việc phân loại đơn vị sự nghiệp như trên được ổn định trong thời gian 3
năm, sau thời hạn 3 năm sẽ xem xét phân loại lại cho phù hợp. Trong thời gian
ổn định phân loại, trường hợp đơn vị sự nghiệp có thay đổi chức năng, nhiệm
vụ, tổ chức thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét điều chỉnh phân loại
cho phù hợp.
Cách xác định để phân loại đơn vị SNCL:
Mức tự bảo đảm chi phí
hoạt động thường xuyên
của đơn vị %

Tổng số nguồn thu sự nghiệp
=

x 100%
Tổng số chi hoạt động thường xuyên

Nếu phân loại căn cứ vào lĩnh vực hoạt động thì đơn vị SNCL bao gồm:
- Đơn vị sự nghiệp trong lĩnh vực giáo dục- đào tạo. Riêng trong lĩnh vực này,
các đơn vị SNCL nhận các loại hình:
+ Cơ sở giáo dục mầm non.
+ các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông.
+ các trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp, trung tâm giáo dục thường
xuyên…
+ Các trường đại học, cao đẳng, học viện.
- Đơn vị sự nghiệp trong lĩnh vực y tế.
- Đơn vị sự nghiệp trong lĩnh vực văn hóa thông tin.
- Đơn vị sự nghiệp trong lĩnh vực thể dục thể thao.

- Đơn vị sự nghiệp trong lĩnh vực khoa học công nghệ và môi trường.
- Đơn vị sự nghiệp trong lĩnh vực kinh tế.
- Đơn vị sự nghiệp khác.

16


1.1.2.4 Khái niệm chi thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp công lập
Chi thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp công lập là quá trình phân phối,
sử dụng nguồn lực tài chính của đơn vị nhằm trang trải những nhu cầu của đơn
vị, qua đó nhằm thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao của đơn vị sự nghiệp.
1.1.2.5 Nội dung chi thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp công lập
Đối với đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi phí hoạt động: Đơn vị được chủ
động sử dụng các nguồn tài chính giao tự chủ để chi thường xuyên. Một số nội
dung chi được quy định như sau:
- Chi tiền lương: Đơn vị chi trả tiền lương theo ngạch, bậc, chức vụ và các
khoản phụ cấp do nhà nước quy định đối với đơn vị sự nghiệp công. Khi nhà
nước điều chỉnh tiền lương, đơn vị tự bảo đảm tiền lương tăng thêm từ nguồn
thu của đơn vị ( NSNN không cấp bổ sung ).
- Chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý : Đối với các nội dung chi đã có định
mức chi theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Căn cứ vào khả
năng tài chính, đơn vị được quyết định mức chi cao hơn hoặc thấp hơn mức chi
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và quy định trong quy chế chi tiêu
nội bộ của đơn vị. Đối với các nội dung chi chưa có định mức chi theo quy định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Căn cứ theo tình hình thực tế, đơn vị xây
dựng mức chi cho phù hợp theo quy chế chi tiêu nội bộ và phải chịu trách nhiệm
về quyết định của mình.
- Trích khấu hao tài sản cố định theo quy định. Tiền trích khấu hao tài sản hình
thành từ nguồn vốn ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc từ ngân sách được
hạch toán vào Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp.

Đối với đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động: Đơn vị
chủ động sử dụng các nguồn tài chính giao tự chủ để chi thường xuyên. Một số
nội dung chi được quy định như sau:
- Chi tiền lương: Đơn vị chi trả tiền lương theo ngạch, bậc, chức vụ và các
khoản phụ cấp do nhà nước quy định đối với đơn vị sự nghiệp công. Khi nhà
17


nước điều chỉnh tiền lương, đơn vị tự bảo đảm tiền lương tăng thêm từ các
nguồn theo quy định; trường hợp còn thiếu, ngân sách nhà nước cấp bổ sung.
- Chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý: Căn cứ vào nhiệm vụ được giao và
khả năng nguồn tài chính, đơn vị được quyết định mức chi hoạt động chuyên
môn, chi quản lý, nhưng tối đa không vượt quá mức chi do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quy định.
Đối với đơn vị sự nghiệp do nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động:
Đơn vị được sử dụng nguồn tài chính giao tự chủ để chi thường xuyên. Một số
nội dung chi được quy định như sau:
- Chi tiền lương; Đơn vị chi trả tiền lương theo ngạch, bậc, chức vụ và các
khoản phụ cấp do nhà nước quy định đối với đơn vị sự nghiệp công. Khi nhà
nước điều chỉnh lương, đơn vị tự bảo đảm tiền lương tăng thêm từ các nguồn
theo quy định, bao gồm cả nguồn ngân sách nhà nước cấp bổ sung.
- Chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý: Đơn vị được quyết định mức chi
nhưng tối đa không vượt quá mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy
định.
1.1.2.6 Nguyên tắc tổ chức chi thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp công lập
Cũng giống như chi thường xuyên ngân sách nhà nước, chi thường xuyên
trong đơn vị sự nghiệp cũng phải tuân thủ một số nguyên tắc sau: .
Thứ nhất: Nguyên tắc tiết kiệm hiệu quả: tiết kiệm, hiệu quả là một trong
những nguyên tắc quan trọng hành đầu của quản lý kinh tế, tài chính, bởi lẽ
nguồn lực thì luôn có giới hạn nhưng nhu cầu thì không có giới hạn. do vậy,

trong quá trình phân bổ và sử dụng nguồn lực khan hiếm đó luôn phải tính toán
sao cho với chi phí ít nhất nhưng phải đạt được kết quả cao nhất. Mặt khác do
đặc thù hoạt động NSNN diễn ra trên phạm vi rộng, đa dạng và phức tạp, nhu
cầu chi từ NSNN luôn gia tăng với tốc độ nhanh trong khi khả năng huy động
nguồn thu có hạn, nên càng phải tôn trọng nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả trong
quản lý chi thường xuyên của đơn vị sự nghiệp công lập.
18


Thứ hai: Nguyên tắc quản lý theo dự toán: Dự toán là khâu mở đầu của
một chu trình NSNN. Những khoản chi thường xuyên một khi đã được ghi vào
dự toán chi và đã được cơ quan quyền lực Nhà nước xét duyệt được coi là chi
tiêu pháp lệnh. Xét trên góc độ quản lý, số chi thường xuyên đã được ghi trong
dự toán thể hiện sự cam kết của cơ quan chức năng quản lý tài chính nhà nước
với các đơn vị thụ hưởng NSNN, từ đó nảy sinh nguyên tắc quản lý chi thường
xuyên theo dự toán.
Thứ ba: Nguyên tắc trọng tâm, trọng điểm: Nguyên tắc này đòi hỏi việc
phân bổ các khoản chi thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp phải căn cứ và ưu
tiên các chương trình trọng điểm của đơn vị, tránh tình trạng đầu tư tràn lan mà
phải gắn đầu tư giải quyết dứt điểm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của nhà
nước hoạch định trong thời kỳ đó.
1.2 Nội dung quản lý chi thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp công lập
Quản lý chi thường xuyên ở các đơn vị sự nghiệp là quá trình phân phối lại
các nguồn vốn từ quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước nhằm đáp ứng các nhu cầu
chi tiêu và duy trì sự hoạt động bình thường của bộ máy quản lý, thực hiện các
chức năng quản lý kinh tế-xã hội mà đơn vị đảm nhận.
Trong đơn vị sự nghiệp, Nhà nước là chủ thể quản lý, đối tượng quản lý là tài
chính đơn vị sự nghiệp. Tài chính đơn vị sự nghiệp bao gồm các hoạt động và quan
hệ tài chính liên quan đến quản lý, điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực sự
nghiệp.

Là chủ thể quản lý, Nhà nước có thể sử dụng tổng thể các phương pháp,
các hình thức và công cụ để quản lý hoạt động tài chính của các đơn vị sự
nghiệp trong những điều kiện cụ thể nhằm đạt được những mục tiêu nhất định
trong những thời kỳ nhất định.
Căn cứ vào thông tư số 103/1998/TT-BTC của Bộ tài chính về hướng dẫn
việc phân cấp, lập, chấp hành và quyết toán NSNN thì nội dung quản lý sử dụng
kinh phí tại đơn vị sự nghiệp có thu gồm 3 khâu:
- Lập dự toán chi thường xuyên
19


- Chấp hành dự toán chi thường xuyên
- Quyết toán chi thường xuyên
1.2.1 Quản lý ở khâu lập dự toán chi thường xuyên
Lập dự toán chi thường xuyên của đơn vị là thông qua các nghiệp vụ tài
chính để cụ thể hóa định hướng phát triển, kế hoạch hoạt động ngắn hạn của đơn
vị, trên cơ sở đảm bảo thực hiện hoạt động thường xuyên của đơn vị, đồng thời
từng bước củng cố và nâng cấp cơ sở vật chất, tập trung đầu tư đúng mục tiêu ưu
tiên, nhằm đạt hiệu quả cao, hạn chế tối đa lãng phí và tiêu cực trong sử dụng
nguồn kinh phí của đơn vị.
1.2.1.1 Căn cứ thực hiện
Dự toán chi thường xuyên cho năm kế hoạch là một bộ phận rất quan trọng
trong chu trình quản lý sử dụng kinh phí ở đơn vị và khi lập dự toán chi phải dựa
trên những căn cứ sau:
Nhiệm vụ phát triển ở các đơn vị sự nghiệp cụ thể của năm kế hoạch và
những chỉ tiêu phản ánh nhiệm vụ, đặc điểm hoạt động của đơn vị. Căn cứ này
giúp cho công tác xây dựng kế hoạch chi có một cách nhìn tổng quát về những
mục tiêu nhiệm vụ phải thực hiện trong năm kế hoạch.
Chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi NSNN cho các đơn vị do các cấp có thẩm
quyền quy định. Đây là căn cứ theo quy định của luật Ngân sách. Lập dự toán

chi chỉ sát và đúng với dự toán của cơ quan cấp trên khi đặc biệt tuân thủ theo
chế độ, tiêu chuẩn, định mức thu chi tài chính nhà nước thông qua hệ thống pháp
luật. Từ đó đảm bảo tính hợp pháp cho việc lập dự toán chi của đơn vị.
Khả năng nguồn kinh phí có thể đáp ứng cho nhu cầu chi thường xuyên
của kỳ kế hoạch. Muốn dự toán được khả năng này, người ta phải dựa vào cơ
cấu thu kỳ báo cáo và mức tăng trưởng các nguồn thu này trong kỳ kế hoạch.
Nhờ đó mà thiết lập mức cân đối tổng quát giữa khả năng nguồn kinh phí và nhu
cầu chi hoạt động trong đơn vị.
Những chỉ thị của cấp trên về việc xây dựng kế hoạch phát triển và dự toán
chi thường xuyên cho năm sau. Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính về lập dự
20


toán chi Ngân sách; văn bản hướng dẫn của Bộ, ngành, cơ quan liên quan. Căn
cứ này đảm bảo cho khâu lập dự toán được thực hiện chính xác, có cơ sở khoa
học, hợp thời gian,…
Số kiểm tra về dự toán chi thường xuyên cho các đơn vị sự nghiệp do cơ
quan có thẩm quyền thông báo. Căn cứ này đảm bảo cho việc lập dự toán được
đúng kế hoạch.
Tình hình thực hiện dự toán các năm trước, đặc biệt là năm báo cáo. Hoạt
động ngân sách thường diễn ra theo các quy luật nhất định trong từng thời kỳ
tương đối dài. Do vậy, các tài liệu phản ánh tình hình thực hiện ngân sách các
năm trước cho phép dự báo, dự kiến tình hình thực hiện ngân sách của năm kế
hoạch theo các quy luật vận động của những năm trước, do đó dự toán có tính
thực tiễn cao.
1.2.1.2. Phương pháp thực hiện
Ngày 16/01/2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 10/2002/NĐ-CP về cơ
chế tài chính cho các đơn vị hành chính sự nghiệp. Nghị định đã xóa bỏ cơ chế
cấp phát tài chính theo kiểu “xin-cho”, ban hành các cơ chế, chính sách thực
hiện chế độ tự chủ tài chính. Tiếp theo đó, sự ra đời của Nghị định 43/2006/NĐCP thay thế cho Nghị định 10/2002/NĐ-CP của Chính phủ đã nâng cao thêm

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các đơn vị hành chính sự
nghiệp. Một vấn đề đặt ra là các đơn vị hành chính sự nghiệp cần chủ động lập
dự toán chính xác để sử dụng nguồn lực hiệu quả và tiết kiệm nhất. Việc tìm ra
và phân tích ưu, nhược điểm của các phương pháp lập dự toán, từ đó chọn ra
được phương pháp phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị là rất cần thiết.
Có ba phương pháp lập dự toán thường được sử dụng là phương pháp lập
dự toán trên cơ sở quá khứ, phương pháp lập dự toán theo chương trình và
phương pháp lập dự toán cấp không. Mỗi phương pháp lập dự toán trên có
những đặc điểm riêng cùng những ưu, nhược điểm và điều kiện vận dụng khác
nhau.

21


Phương pháp lập dự toán trên cơ sở quá khứ (phương pháp truyền thống):
là phương pháp xác định các chỉ tiêu trong dự toán dựa vào kết quả hoạt động
thực tế của kỳ liền trước và điều chỉnh theo tỷ lệ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát
dự kiến. Như vậy phương pháp này rất rõ ràng, dễ hiểu và dễ sử dụng, được xây
dựng tương đối ổn định, tạo điều kiện, cơ sở bền vững cho nhà quản lý trong
đơn vị trong việc điều hành mọi hoạt động. Tuy nhiên, để lập kinh phí gia tăng,
hàng năm ban lãnh đạo chỉ việc duyệt kinh phí cho từng bộ phận dựa trên cơ sở
kinh phí đã phân bổ ở năm trước và có thêm % do lạm pháp và hoạt động phát
sinh trong năm tới. Phương pháp này chú trọng đến việc phân bổ ngân sách cho
đơn vị trong một tổ chức hơn là cho các hoạt động được thực hiện trong đơn vị.
Hậu quả là, có những lãng phí tồn tại suốt một thời gian dài mà không bị
phát hiện hoặc phát hiện được nhưng không biết rõ được bộ phận nào gây ra
sự lãng phí.
Phương pháp lập dự toán theo chương trình: là phương pháp phân bổ kinh
phí cho các hoạt động cần thiết của một chương trình cụ thể nhằm đạt được mục
tiêu đã đặt ra. Phương pháp này phân bổ cho các hoạt động cụ thể (khác với

phân bổ cho các bộ phận như phương pháp truyền thống) nên khắc phục được
nhược điểm ít chú trọng tới các hoạt động được thực hiện trong đơn vị của
phương pháp truyền thống.
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển bình thường thì phương pháp truyền
thống và phương pháp dự toán theo chương trình được áp dụng phổ biến. Tuy
nhiên, sau khủng hoảng kinh tế, các nhà quản lý nhận thấy rằng cần thận trọng
hơn trong lập kế hoạch và định hướng phát triển. Các doanh nghiệp cũng như
các đơn vị hành chính sự nghiệp buộc phải tính toán và phân bổ nguồn lực của
mình một cách kĩ càng nhất nhằm thu về hiệu quả cao nhất. Một trong những
công cụ bắt đầu được sử dụng trở lại bởi các đơn vị chịu ảnh hưởng nặng của
khủng hoảng là phương pháp lập dự toán cấp không.
Phương pháp lập dự toán cấp không: là phương pháp xác định các chỉ tiêu
trong dự toán dựa vào nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động trong năm kế hoạch, phù
22


hợp với điều kiện cụ thể hiện có của đơn vị chứ không dựa trên kết quả hoạt
động thực tế của năm trước. Như vậy, đây là phương pháp lập dự toán phức tạp
hơn do không dựa trên số liệu, kinh nghiệm có sẵn, mất thời gian phân tích, chi
phí lớn, giấy tờ nhiều nên khi triển khai thực tế cần nhiều thời gian và nỗ lực
thực hiện. Tuy nhiên, nếu đơn vị sử dụng phương pháp này sẽ đánh giá được
một cách chi tiết hiệu quả chi phí hoạt động của đơn vị, chấm dứt tình trạng mất
cân đối giữa khối lượng công việc và chi phí thực hiện, đồng thời giúp đơn vị
lựa chọn được cách thức tối ưu nhất để đạt được mục tiêu đề ra.
Phương pháp lập dự toán trên cơ sở quá khứ và phương pháp lập dự toán
theo chương trình đơn giản, dễ thực hiện và phù hợp cho những hoạt động tương
đối ổn định của đơn vị. Trong khi đó, phương pháp lập dự toán cấp không phức
tạp hơn, đòi hỏi trình độ cao trong đánh giá, phân tích, so sánh giữa nhiệm vụ và
điều kiện cụ thể của đơn vị nên chỉ thích hợp với những hoạt động không
thường xuyên, hạch toán riêng được chi phí và lợi ích.

Một trong những giải pháp được đông đảo giới quản lý tán thành là sử
dụng phương pháp lập dự toán cấp không cho năm nay, sau đó, chuyển sang
phương pháp lập dự toán trên cơ sở quá khứ và phương pháp lập dự toán theo
chương trình cho 2-3 năm tới. Nếu thực hiện theo cách này nhà quản lý có thể
đồng thời sử dụng nguồn lực hiệu quả nhưng vẫn không tốn quá nhiều thời gian
cho việc lập dự toán. Đây là một hướng đi mới nên được khai thác trong quá
trình lập dự toán nhất là đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp vốn ổn định và
có ít biến động nhưng rất cần sự hiệu quả trong phân phối và sử dụng các nguồn
lực.
1.2.1.3. Vai trò của lập dự toán chi thường xuyên
Đây là khâu mở đầu của một chu trình ngân sách, nó đặt cơ sở nền tảng cho
các khâu tiếp theo. Vì vậy, nếu khâu lập ngân sách được thực hiện chính xác có
cơ sở khoa học, hợp thời gian,…sẽ tạo điều kiện thuận lợi rất lớn cho khâu tiếp
theo đặc biệt là khâu chấp hành dự toán chi cho hoạt động sự nghiệp.

23


Qua việc lập kế hoạch chi được thẩm tra, tính toán một cách chặt chẽ, kỹ
lưỡng về khả năng và nhu cầu về tài chính cho đơn vị, sẽ phát huy được ưu thế,
thuận lợi, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những khó khăn, trở ngại khi sử
dụng nguồn kinh phí của đơn vị, trong điều kiện thực tế.
Với trình tự tiến hành như trên thì nó vừa đảm bảo tính khoa học, vừa đảm
bảo tính thực tiễn, đồng thời nó thể hiện rõ sự tôn trọng nguyên tắc thống nhất,
tập trung dân chủ trong quản lý sử dụng kinh phí, giúp quá trình quản lý chi của
đơn vị được tốt hơn, hiệu quả hơn, tránh được sự lúng túng cũng như các hành
vi tiêu cực trong quá trình sử dụng nguồn kinh phí của đơn vị.
1.2.2 Quản lý ở khâu chấp hành dự toán chi thường xuyên
Thực hiện dự toán là khâu quan trọng trong quá trình quản lý tài chính của
đơn vị sự nghiệp. Đây là quá trình sư dụng tổng hòa các biện pháp kinh tế tài

chính và hành chính nhằm biến các chỉ tiêu đã được ghi trong dự toán thành hiện
thực. Thực hiện dự toán đúng đắn là tiền đề quan trọng để thực hiện các chỉ tiêu
phát triển của đơn vị. Tổ chức thực hiện dự toán là nhiệm vụ của tất cả các
phòng, ban, các bộ phận của đơn vị. Do đó, đây là một nội dung đặc biệt quan
trọng trong công tác quản lý tài chính của đơn vị. Việc thực hiện dự toán diễn ra
trong một niên độ ngân sách (ở nước ta tính từ ngày 01/01 đến ngày 31/12
dương lịch hàng năm).
1.2.2.1 Căn cứ thực hiện
Dự toán chi thường xuyên của đơn vị đã được cấp có thẩm quyền phê
duyệt. Đây là căn cứ mang tính chất quyết định nhất trong chấp hành dự toán
của đơn vị. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, cùng với việc tăng cường quản lý
Nhà nước bằng pháp luật, một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh hoạt động quản lý tài chính ngày càng được hoàn thiện. Việc chấp hành
dự toán chi ngày càng được luật hóa, tạo điều kiện cho đơn vị chủ động thực
hiện theo đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.
Khả năng nguồn tài chính có thể đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên của
đơn vị.
Chính sách, chế độ chi tiêu và quản lý tài chính hiện hành của Nhà nước.
24


1.2.2.2 Yêu cầu của công tác chấp hành chi thường xuyên
Mục đích của chấp hành dự toán chi thường xuyên là đảm bảo đầy đủ, kịp
thời nguồn kinh phí của đơn vị nhằm thực hiện các chương trình đã được hoạch
định trong năm kế hoạch. Thực chất của khâu chấp hành dự toán chi là tổ chức
việc sử dụng kinh phí sao cho tiết kiệm và hiệu quả cao.
Để đạt được mục đích đó, trong việc chấp hành dự toán chi thường xuyên
cần phải thực hiện các yêu cầu cơ bản sau:
Thực hiện việc sử dụng kinh phí trên cơ sở hệ thống các định mức tiêu
chuẩn. Để đạt được yêu cầu này, cần rà soát, bổ sung những định mức mới, xóa

bỏ những định mức lạc hậu, đảm bảo cho hệ thống định mức, tiêu chuẩn có tính
khoa học, tính thực tiễn cao.
Đảm bảo việc sử dụng kinh phí theo kế hoạch đã được duyệt. Để làm được
điều này thì khâu lập dự toán chi cần phải cụ thể, chi tiết tới từng bộ phận, lường
trước những phát sinh có thể xảy ra để xác định mức chi cho đúng, đây là việc
làm không hề đơn giản.
Ngoài ra, do sự hạn hẹp của nguồn kinh phí và những hạn chế về khả năng
dự toán nên giữa thực tế diễn ra trong quá trình chấp hành và dự toán có thể có
những khoản cách nhất định, đòi hỏi phải có sự linh hoạt trong quản lý. Nguyên
tắc chung là chi theo dự toán nhưng nếu không có dự toán mà cần chi thì có
quyết định kịp thời, đồng thời có thứ tự ưu tiên việc gì trước, việc gì sau.
Triệt để việc thực hiện thanh toán trực tiếp qua KBNN. Mọi khoản kinh phí
chi trả từ NSNN của các đơn vị phải do KBNN trực tiếp thanh toán. Có như vậy
mới quản lý tốt được nguồn vốn của đơn vị.
Trong quá trình sử dụng kinh phí, KBNN phối hợp với các đơn vị liên quan
để tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành chế độ chính sách chi tiêu tại đơn
vị, giúp cho quá trình quản lý sử dụng kinh phí tại các đơn vị đạt hiệu quả cao.
1.2.3 Quản lý ở khâu quyết toán chi thường xuyên
Sau khâu chấp hành sử dụng kinh phí, cuối năm tại đơn vị phải có báo cáo
tổng kết trình lên cơ quan cấp trên. Đây là khâu cuối cùng trong một chu trình

25


×