Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.4 KB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CHU THỊ HỒNG NHUNG

THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CHU THỊ HỒNG NHUNG

THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học:TS. TRẦN ANH TUẤN


Hà Nội – 2015

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và trích dẫn trong Luận văn là chính xác và trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Hà Nội, ngày 25 tháng 9 năm 2015
Tác giả luận văn

Chu Thị Hồng Nhung

3


MỤC LỤC
Trang

1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.2.
1.2.1.

1.2.2.

1.2.3.


1.3.
1.3.1.
1.3.2.
1.3.3.

2.1.
2.1.1.

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viêt tắt
MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THỦ TỤC GIÁM ĐỐC
THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm vụ
án dân sự
Khái niệm và đặc điểm thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự
Ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự
Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về thủ tục
giám đốc thẩm dân sự
Việc xây dựng các quy định về giám đốc thẩm dân sự xuất
phát từ yêu cầu cải cách tư pháp, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự, bảo vệ công lý
Việc xây dựng các quy định về giám đốc thẩm dân sự được
thực hiện trên cơ sở xác định bản chất của những sai lầm, vi
phạm của các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ án dân sự
Cơ sở xây dựng các quy định về giám đốc thẩm dân sự xuất
phát từ nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, nguyên tắc

giám đốc việc xét xử và quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm
Lược sử hình thành và phát triển các quy định về thủ tục giám
đốc thẩm vụ án dân sự ở Việt Nam
Từ năm 1945 đến năm 1989
Từ năm 1989 đến năm 2004
Từ năm 2004 đến nay
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM VỤ ÁN
DÂN SỰ
Quy định về quyền yêu cầu giám đốc thẩm và cơ chế thực hiện
Phát hiện sai lầm, vi phạm trong bản án, quyết định đã có hiệu

4

6
14
14
14
20
25
25

27

29

31
31
37
38

43

43
43


2.1.2.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.4.
2.2.5.
2.2.6.
2.3.
2.3.1.
2.3.2.
2.3.3.
2.3.4.
2.3.5.
2.3.6.
2.3.7.

3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.2.
3.2.1.
3.2.2.


lực pháp luật của Tòa án
Đề nghị giám đốc thẩm và thủ tục xét đơn
Quy định về kháng nghị giám đốc thẩm
Chủ thể kháng nghị giám đốc thẩm
Đối tượng kháng nghị giám đốc thẩm
Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm
Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm
Phạm vi kháng nghị giám đốc thẩm
Trình tự, thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm
Quy định về xét xử giám đốc thẩm
Thẩm quyền giám đốc thẩm dân sự
Chuẩn bị mở phiên tòa giám đốc thẩm
Người tiến hành tố tụng và người tham gia phiên tòa giám đốc thẩm
Thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm
Phạm vi giám đốc thẩm
Quyền hạn của Hội đồng giám đốc thẩm
Quyết định giám đốc thẩm
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ KIẾN NGHỊ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA THỦ TỤC GIÁM
ĐỐC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
Thực tiễn thực hiện thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự
Về một số kết quả đạt được từ thực tiễn giám đốc thẩm vụ án
dân sự
Những tồn tại, vướng mắc trong việc thực hiện thủ tục giám
đốc thẩm vụ án dân sự
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm vụ
án dân sự
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục giám
đốc thẩm vụ án dân sự
Kiến nghị thực hiện pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm vụ án

dân sự
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

5

45
47
47
48
49
57
59
60
65
65
67
69
75
77
78
82
84

84
84
86
103
103
117

122
124


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

HĐTPTANDTC

: Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

LSĐBS

: Luật sửa đổi, bổ sung

PLTTGQCVADS : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

6


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử là một trong những nguyên
tắc chủ đạo được ghi nhận tại Điều 17 BLTTDS Việt Nam năm 2004, được
sửa đổi, bổ sung năm 2011 (gọi tắt là BLTTDS sửa đổi năm 2011), theo đó
hoạt động xét xử gồm hai cấp: cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Việc ghi nhận
nguyên tắc này với mục đích nhằm hạn chế hoặc khắc phục những sai sót
trong quá trình xét xử vụ án, đảm bảo cho hoạt động xét xử được đúng đắn,
khách quan, toàn diện, cũng đồng nghĩa với việc đảm bảo tốt nhất quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, nhiều vụ án dù đã trải qua hai cấp
xét xử nhưng vẫn có những sai lầm hoặc vi phạm pháp luật làm tổn hại tới
quyền lợi hợp pháp của đương sự. Điều này có thể xuất phát từ những nguyên
nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, bởi lẽ xét xử về bản chất là hoạt
động xác định bản chất sự việc và áp dụng quy định pháp luật của cá nhân
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân nhân danh Nhà nước để giải quyết vụ án, do
đó vẫn có thể có những sai lầm, thiếu sót. Chính vì vậy, pháp luật tố tụng dân
sự đã ghi nhận một loại thủ tục đặc biệt - thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự
nhằm sửa chữa, khắc phục những sai lầm, thiếu sót xảy ra trong hoạt động xét
xử. Trên thế giới hiện nay, nhiều quốc gia đã có những quy định rất tiến bộ về
thủ tục giám đốc thẩm và thực tiễn thi hành đã chứng minh hiệu quả của thủ
tục tố tụng đặc biệt này. Tuy nhiên, ở Việt Nam trong thực tiễn hiện nay, tình
hình khiếu nại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của người
dân ngày một tăng. Công tác giải quyết đơn khiếu nại của Toà án các cấp

cũng gặp nhiều vấn đề vướng mắc, phức tạp và quá tải, nhiều vụ án kéo dài
nên chưa đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, gây bức xúc
trong dư luận. Sau 10 năm thi hành BLTTDS năm 2004 (được sửa đổi năm
2011) cho thấy các quy định về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự của

6


chúng ta chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu thực tế của xã hội về việc giải
quyết các vụ án dân sự. Chính những hạn chế, thiếu sót của các quy định về
thủ tục giám đốc thẩm trong BLTTDS sửa đổi năm 2011 đã dẫn tới những
vướng mắc, khó khăn trong quá trình giải quyết và giảm hiệu quả công tác
giám đốc thẩm vụ án dân sự của ngành Toà án. Như vậy, thực tế xã hội hiện
nay đã đặt ra một nhu cầu cấp thiết, đòi hỏi các nhà lập pháp phải nghiên cứu
sửa đổi, hoàn thiện các quy định chưa rõ ràng, chưa phù hợp về thủ tục giám
đốc thẩm khiến công tác thực hiện trên thực tế còn gặp nhiều vướng mắc, bất
cập. Trong quá trình sửa đổi, chúng ta cũng cần học hỏi những kinh nghiệm
quý báu của các nước có nền lập pháp tiên tiến để hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về vấn đề này. Vì những lý do trên, học viên đã chọn đề tài “Thủ tục
giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật hiện hành” để thực hiện luận
văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự là một đề tài được nhiều người
quan tâm nghiên cứu. Việc khảo sát tình hình nghiên cứu cho thấy đã có một
số công trình nghiên cứu về vấn đề này được thể hiện dưới hình thức luận
văn, luận án hoặc bài viết chuyên khảo. Có thể nêu ra đây một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu như sau:
- Trước khi Bộ luật Tố tụng dân sự ra đời có một số công trình nghiên
cứu về thủ tục giám đốc thẩm sau đây:
+ Cuốn sách về “Tìm hiểu các quy định của pháp luật về thủ tục giám

đốc thẩm vụ án dân sự”của tác giả Dương Thị Thanh Mai do Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia năm 2000 ấn hành. Trong tác phẩm này, tác giả đã giải
quyết một số vấn đề về khái niệm, sự hình thành thủ tục giám đốc thẩm, thực
trạng giải quyết án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm và đưa ra một số giải
pháp, kiến nghị.

7


+ Cuốn sách về “Một số suy nghĩ về cơ chế xét xử vụ án dân sự” của
Tiến sĩ Lê Thu Hà, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2003. Tác giả đã
nghiên cứu tổng thể các cấp xét xử của Toà án các cấp bao gồm cấp sơ thẩm,
cấp phúc thẩm và thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp
luật. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của đề tài rộng nên tác giả chưa tập
trung nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định dân
sự đã có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, do công trình này được tiến hành trước
năm 2004 nên chưa có điều kiện phân tích, luận giải về các quy định của
BLTTDS sửa đổi năm 2011.
+ Bài viết “Thủ tục giám đốc thẩm trong dự thảo Bộ luật tố tụng dân
sự” của tác giả Hoàng Văn Minh trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 03,
tháng 03/2004 đã đóng góp ý kiến về việc có nên quy định đơn đề nghị và
thời hạn gửi đơn đề nghị giám đốc thẩm của đương sự là bắt buộc hay không,
thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm như thế nào.
Các công trình trên được thực hiện trước năm 2004 nên nhiều thực
trạng, kiến nghị và giải pháp đưa ra đã được tiếp thu và chỉnh lý trong
BLTTDS 2004 (sửa đổi năm 2011). Hơn nữa, với tình hình kinh tế - xã hội
thay đổi nhanh chóng như hiện nay, những vấn đề mà các tác giả luận giải và
đề xuấtđã không còn phù hợp nên cần được tiếp tục tập trung nghiên cứu
thêm.
- Sau khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 ra đời cũng đã có một số

công trình nghiên cứu về vấn đề này như:
+ Luận án “Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự ở Việt Nam” của tiến sĩ Đào Xuân
Tiến, Luận án tiến sĩ Luật học năm 2009. Tác giả đã đưa ra khái niệm về thủ
tục xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trong tố
tụng kinh tế, dân sự, phân tích pháp luật tố tụng kinh tế, dân sự, thực trạng áp

8


dụng của Toà án và một số giải pháp nhằm hoàn thiện thủ tục xét lại bản án,
quyết định về kinh tế, dân sự của Toà án.
+ Luận án “Giám đốc thẩm dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” của tiến sĩ Mai Ngọc Dương, Luận án tiến sĩ Luật học năm 2010. Luận
án giải quyết một số vấn đề lý luận về giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự và
nêu lên thực trạng công tác giám đốc thẩm của ngành Toà án. Từ đó, tác giả
đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về phần
quy định giám đốc thẩm.
+ Luận văn “Hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự”
của thạc sĩ Hà Hoàng Hiệp, Luận văn thạc sĩ năm 2007. Luận văn tập trung
nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận một số nội dung cơ bản của thủ tục
giám đốc thẩm, trên cơ sở có tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm của một số nước
trên thế giới.
+ Đề tài khoa học cấp Bộ “Thực trạng giải quyết đơn đề nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao” do tiến sĩ Nguyễn Huy Du làm
chủ nhiệm đề tài của TANDTC năm 2012.
Ngoài ra, còn có một số chuyên đề, bài viết của các tác giả đăng trong
các sách, báo, tạp chí chuyên ngành như bài “Chế định giám đốc thẩm, tái
thẩm và những vấn đề đặt ra trong việc thi hành” của tác giả Trần Anh Tuấn
đăng trên Tạp chí Luật học số Đặc san về tố tụng dân sự năm 2005; bài “Một

số vấn đề liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung Điều 285, Điều 288 BLTTDS”
của tác giả Hà Tĩnh - Tạp chí TAND kỳ 1 tháng 9 năm 2010; bài “Một số ý
kiến đối với Dự thảo Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2004”
của tác giả Nguyễn Như Bích đăng trên Tạp chí TAND kỳ 1 tháng 9 năm
2010; bài “Một số vấn đề về thủ tục giám đốc thẩm” của tác giả Nguyễn
Quang Hiền đăng trên Tạp chí TAND kỳ 1 tháng 4 năm 2009.... Tuy nhiên,
các công trình nghiên cứu trên đây được thực hiện trước khi Luật sửa đổi, bổ
9


sung một số điều của BLTTDS năm 2004 có hiệu lực thi hành, do đó việc
nghiên cứu về đề tài này vẫn rất cần thiết và hữu dụng.
- Sau khi BLTTDS được sửa đổi năm 2011 cũng đã có công trình
nghiên cứu về vấn đề này như Luận văn “Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự
Việt Nam” của thạc sĩ Hà Thị Thúy Hà, luận văn thạc sĩ năm 2012, bài “Bàn
về Dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn Điều 284b Bộ luật tố tụng dân sự
sửa đổi, bổ sung năm 2011” của tác giả Nguyễn Hồng Nam đăng trên Tạp chí
TAND tháng 5 năm 2012 (kỳ 2) và tháng 6 năm 2012 (kỳ 1); chuyên đề “Thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự và thủ tục xem xét lại các quyết định của
Hội đồng thẩm phán TANDTC” của tác giả Trần Anh Tuấn trong cuốn Bình
luận khoa học BLTTDS sửa đổi năm 2011... Tuy nhiên, thực tiễn giám đốc
thẩm dân sự trong những năm qua và thực tiễn sửa đổi BLTTDS sửa đổi hiện
nay (2015) theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án
năm 2014 cũng đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu và đề
xuất giải pháp cho phù hợp với tình hình mới.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống những quy định của pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự,
đồng thời tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật một số nước trên thế giới để có sự so
sánh, đối chiếu về vấn đề này. Từ đó, phân tích, luận giải để đánh giá những

điểm tích cực, những hạn chế trong các quy định của pháp luật Việt Nam về
thủ tục giám đốc thẩm, tìm kiếm giải pháp cho Việt Nam từ nghiên cứu kinh
nghiệm quốc tế. Ngoài ra, Luận văn cũng nghiên cứu thực tiễn áp dụng thủ
tục giám đốc thẩm dân sự tại Tòa án nhằm làm rõ những bất cập, hạn chế của
pháp luật hiện hành về vấn đề này, luận giải và tìm kiếm giải pháp hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về thủ tục giám đốc thẩm dân sự từ góc độ thực tiễn.

10


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề đặt ra, luận văn nghiên cứu pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam và pháp luật một số nước trên thế giới về thủ tục giám đốc thẩm.
Việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam về thủ tục giám đốc thẩm chủ yếu tập
trung vào các quy định hiện hành, còn việc nghiên cứu lược sử pháp luật Việt
Nam về thủ tục giám đốc thẩm dân sự cũng chỉ được giới hạn đối với những
quy định từ năm 1945 đến nay. Bên cạnh đó, luận văn cũng nghiên cứu, đánh
giá thực trạng và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về thủ tục giám đốc
thẩm vụ án dân sự tại Tòa án. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận văn
thạc sỹ luật học, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào thực tiễn giám đốc thẩm
dân sự trong khoảng thời gian 05 năm gần đây, cụ thể là từ năm 2010 đến
năm 2014.
5. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung giải
quyết những vấn đề cụ thể sau:
- Phân tích một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giám đốc thẩm vụ
án dân sự trong tố tụng dân sự.
- Tập trung nghiên cứu pháp luật tố tụng dân sự của một số nước cụ thể
trên thế giới về vấn đề này. Bên cạnh đó, phân tích, đánh giá các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự. Từ

đó, so sánh, đối chiếu nhằm tìm ra những điểm tiến bộ, tích cực trong pháp
luật nước ngoài mà Việt Nam cần học tập trong quá trình hoàn thiện các quy
định về thủ tục giám đốc thẩm tại Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề đang
nghiên cứu, những mặt hạn chế, tồn tại của quy định pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật về giám đốc thẩm vụ án dân sự. Đồng thời tìm ra và phân tích
nguyên nhân của những thực trạng, bất cập nêu trên.

11


- Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, Luận vănđưa ra những giải
pháp, kiến nghị phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh xã hội nhằm hoàn thiện thủ
tục giám đốc thẩm vụ án dân sự ở Việt Nam.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của Triết học Mác- Lênin về Nhà nước pháp quyền, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra các phương pháp
nghiên cứu khoa học khác cũng được sử dụng như: phương pháp phân tích
tổng hợp, phương pháp đối chiếu so sánh, phương pháp thống kê và phương
pháp lịch sử.
7. Những đóng góp của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ bản chất, các vấn đề lý luận cơ
bản của thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp
luật, trong đó có những vấn đề như: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, lịch sử hình
thành và phát triển. Bên cạnh đó, luận văn đưa ra những phân tích và đánh giá
về thực trạng các quy định pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam, đồng thời
nghiên cứu so sánh với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, từ đó rút
ra bài học kinh nghiệm phù hợp với tình hình kinh tế xã hội Việt Nam. Luận
văn cũng đánh giá được thực trạng áp dụng thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân

sự trong những năm qua, làm rõ được những mặt còn tồn tại, nguyên nhân và
đề xuất một số giải pháp hoàn thiện thủ tục tố tụng này trong pháp luật Việt
Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Khái quát về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự.

12


Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục giám
đốc thẩm vụ án dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự và
kiến nghị.

13


CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm vụ
án dân sự
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự
Ở Việt Nam hiện nay, việc xét xử các vụ án dân sự được tiến hành theo
nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Điều này được hiểu là một vụ án
dân sự có thể được xét xử qua cả hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Khi vụ án
được xét xử sơ thẩm, bản án chưa có hiệu lực pháp luật ngay, trong thời hạn
luật định nếu thấy bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với thực tế
khách quan hoặc đúng pháp luật thì, các đương sự có quyền kháng cáo hoặc

Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Việc ghi nhận
nguyên tắc này nhằm mục đích đảm bảo tính đúng đắn và tuân theo pháp luật
của hoạt động xét xử, qua đó bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Tuy nhiên, hết thời hạn luật định, nếu bản án, quyết định sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm thì đương nhiên có hiệu lực pháp
luật, trong khi đó khác với cấp sơ thẩm, bản án, quyết định phúc thẩm của
Tòa án có tính chất chung thẩm và được thi hành ngay.
Từ thực tiễn xét xử của ngành Tòa án trong nhiều năm đã chứng minh
một thực tế rằng nhiều vụ án, kể cả những vụ đã qua hai cấp xét xử và bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn phát hiện có những
sai lầm trong quá trình giải quyết làm tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng một cơ chế để kiểm tra, giám
đốc việc xét xử của Tòa án nhằm khắc phục tình trạng nói trên. Thủ tục giám
đốc thẩm dân sự là một thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự do Tòa án có thẩm
quyền thực hiện để xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp

14


luật bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm hoặc vi phạm pháp luật trong quá
trình Tòa án giải quyết vụ án. Giám đốc thẩm dân sự không phải là một cấp
xét xử thứ ba và khác biệt với tái thẩm dân sự ở căn cứ kháng nghị. Theo đó,
kháng nghị giám đốc thẩm được tiến hành trên cơ sở phát hiện những sai lầm,
vi phạm của Tòa án, trong khi đó kháng nghị tái thẩm được dựa trên việc phát
hiện những tình tiết làm thay đổi về cơ bản nội dung vụ án.
Đến thời điểm hiện tại, do cách tiếp cận khác nhau nên cũng có nhiều
quan điểm khác nhau về thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự. Có thể nêu ra
đây một số quan điểm tiêu biểu như sau:
Quan điểm thứ nhất: Dựa vào đối tượng, căn cứ của việc xét lại bản án,
quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt

Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội đã đưa ra khái niệm như sau: “Giám
đốc thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong giải
quyết vụ án” [36, tr.325]. Quan điểm này về cơ bản đã thể hiện được tính chất
của thủ tục giám đốc thẩm, nhưng chưa xác định rõ giám đốc thẩm là một loại
thủ tục tố tụng đặc biệt, mà không phải là một cấp xét xử thứ ba.
Quan điểm thứ hai: Giáo trình Luật tố tụng dân sự của Khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội đã đưa ra khái niệm như sau: “Giám đốc thẩm dân sự là
thủ tục tố tụng đặc biệt mà Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị kháng nghị do phát hiện có vi phạm pháp
luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ việc dân sự.” [37, tr.303] Quan
điểm này về cơ bản đã làm rõ được tính chất, đặc điểm của thủ tục giám đốc
thẩm. Tuy nhiên, việc sử dụng thuật ngữ “Tòa án” trong khái niệm này dễ gây
nhầm lẫn, người đọc không thể xác định Tòa án có thẩm quyền và Tòa án ra
bản án, quyết định bị kháng nghị là một hay là hai Tòa án cấp khác nhau.

15


Quan điểm thứ ba: Căn cứ vào mục đích của việc xét lại bản án, quyết
định theo thủ tục giám đốc thẩm, trong Luận án tiến sĩ của mình về “Thủ tục
xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng
kinh tế, dân sự ở Việt Nam”, tác giả Đào Xuân Tiến đã cho rằng: “Thủ tục xét
lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là thủ tục đặc biệt
nhằm kiểm tra, xem xét, xác định bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật được xét xử đúng pháp luật và xét xử lại đối với bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm nghiêm trọng hoặc
có tình tiết mới làm thay đổi nội dung hoặc kết quả giải quyết vụ án” [34,
tr.20]. Với quan điểm này, tác giả Đào Xuân Tiến đã khẳng định thủ tục xét
lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (trong đó bao gồm thủ tục giám

đốc thẩm) là loại thủ tục tố tụng đặc biệt, qua đó đã gián tiếp phân biệt với thủ
tục xét xử sơ thẩm và phúc thẩm vụ án dân sự. Tòa án có thẩm quyền tiến
hành thủ tục đặc biệt này nhằm hai mục đích: thứ nhất là để kiểm tra, xem xét
tính đúng đắn của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; thứ hai là
để xét xử lại đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng có
sai lầm nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới làm thay đổi nội dung, kết quả giải
quyết vụ án. Như vậy, thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật nói chung và thủ tục giám đốc thẩm nói riêng được hiểu theo nghĩa rộng
hơn, trong đó bao gồm cả hoạt động giám đốc việc xét xử. Tuy nhiên, khái
niệm trên lại không đề cập đến căn cứ để xét lại bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật là phải dựa trên kháng nghị của người có thẩm quyền theo quy
định pháp luật.
Quan điểm thứ tư: Dựa vào mục đích, căn cứ và đối tượng của việc xét
lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm,
tiến sĩ Khuất Văn Nga với bài viết “Thủ tục giám đốc thẩm trong Bộ luật Tố
tụng dân sự” đã đưa ra khái niệm như sau: “Thủ tục giám đốc thẩm là một

16


trình tự đặc biệt của tố tụng tư pháp nhằm xét lại những bản án và quyết định
đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có vi phạm ở mức độ nghiêm
trọng trong việc giải quyết vụ án”[16]. Theo quan điểm này, giám đốc thẩm
cũng được khẳng định là một trình tự tố tụng đặc biệt, được tiến hành dựa trên
sự kháng nghị của những người có thẩm quyền nhằm mục đích xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đồng thời, khái niệm này đã chi tiết hơn
khi đưa ra căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm là các bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật nhưng có vi phạm ở mức độ nghiêm trọng trong việc giải
quyết vụ án.
Từ những phân tích trên đây có thể rút ra khái niệm về thủ tục giám đốc

thẩm vụ án dân sự như sau:
Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự là một trình tự tố tụng đặc biệt
được tiến hành trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm quyền nhằm xét lại
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng phát hiện có
sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Nhìn chung, các quan điểm về thủ tục giám đốc thẩm nêu trên tuy khác
nhau về cách thức tiếp cận nhưng vẫn thể hiện được những đặc điểm, tính
chất cơ bản của loại thủ tục tố tụng đặc biệt này như sau:
- Thứ nhất, về tính chất thì thủ tục giám đốc thẩm dân sự là một loại
thủ tục tố tụng đặc biệt, chứ không phải là cấp xét xử thứ ba.
Theo quy định của pháp luật, mọi bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật đều phải được các cá nhân, đơn vị, tổ chức trong xã hội tôn trọng và
nghiêm chỉnh chấp hành. Cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản
án, quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành đó. Tuy
nhiên, nếu bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực nhưng vẫn không đảm
bảo đầy đủ tính có căn cứ và hợp pháp thì bản án, quyết định đó cần phải
được xét lại theo thủ tục đặc biệt. Giám đốc thẩm không phải một cấp xét xử

17


như xét xử sơ thẩm hay phúc thẩm, mà thực chất nó là một trong số những
hoạt động giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới. Nội
dung của nó là việc Tòa án kiểm tra lại tính có căn cứ và hợp pháp của bản
án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật thông qua hoạt động “xét” chứ
không “xử”. Sự khác biệt này thể hiện rõ nét nhất qua các quy định về phiên
tòa xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án dân sự và phiên xét lại vụ án dân sự theo
trình tự giám đốc thẩm, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và
Hội đồng giám đốc thẩm... Tòa án sau khi tiến hành thủ tục giám đốc thẩm sẽ
ban hành một trong các quyết định sau: Không chấp nhận kháng nghị và giữ

nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; giữ nguyên bản án, quyết
định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa; hủy bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc
thẩm lại; hủy bản án, quyết định của Tòa án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải
quyết vụ án. Các quyết định giám đốc thẩm của Tòa án rõ ràng không giống
với các bản án, quyết định sơ thẩm hay phúc thẩm, bởi lẽ nó không giải quyết
đến quyền, lợi ích của các đương sự hoặc làm thay đổi nội dung của bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
- Thứ hai, đối tượng của giám đốc thẩm là những bản án, quyết định
dân sự đã có hiệu lực pháp luật.
Đối tượng của giám đốc thẩm dân sự là những bản án, quyết định giải
quyết vụ án dân sự đã có hiệu lực pháp luật bị phát hiện có sai lầm, vi phạm
pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự. Các bản án, quyết định dân sự có
hiệu lực pháp luật của Tòa án bao gồm những bản án, quyết định sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị; bản án, quyết định phúc thẩm và các quyết
định theo thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. “Đây là
điểm hoàn toàn khác biệt với việc giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm, đối
tượng xét xử theo thủ tục phúc thẩm là vụ án dân sự mà bản án, quyết định

18


chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị” [16, tr.14]. Một bản án,
quyết định sơ thẩm khi chưa có hiệu lực pháp luật nhưng có kháng cáo của
đương sự hoặc kháng nghị của người có thẩm quyền thì Tòa án cấp phúc thẩm
sẽ tiến hành xét xử lại vụ án dựa trên nội dung của kháng cáo, kháng nghị.
Đây là đặc điểm phân biệt với giám đốc thẩm vụ án hình sự. Trong khi giám
đốc thẩm vụ án hình sự tiến hành xét lại những bản án, quyết định hình sự đã
có hiệu lực pháp luật thì thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự lại tiến hành xét
lại những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Sự khác biệt này

xuất phát từ quan hệ pháp luật hình sự và quan hệ pháp luật dân sự là những
quan hệ pháp luật có tính chất khác nhau nên đối tượng của giám đốc thẩm
dân sự và giám đốc thẩm hình sự cũng có những điểm khác biệt nhất định.
- Thứ ba, thủ tục giám đốc thẩm dân sự chỉ được tiến hành khi có
kháng nghị của người có thẩm quyền.
Do giám đốc thẩm không phải một cấp xét xử, không bắt buộc tiến
hành công khai như phiên tòa sơ thẩm hay phiên tòa phúc thẩm, và là một
hoạt động kiểm tra mang tính chất nghiệp vụ nên pháp luật tố tụng dân sự đã
giới hạn việc xem xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật
theo thủ tục giám đốc thẩm trong trường hợp có kháng nghị của người có
thẩm quyền được pháp luật quy định. Đây là điểm khác biệt căn bản với thủ
tục phúc thẩm dân sự, theo đó việc xét xử lại vụ án dân sự theo thủ tục phúc
thẩm có thể trên cơ sở kháng cáo của đương sự hoặc kháng nghị của Viện
kiểm sát.
- Thứ tư, người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
dân sự chỉ được kháng nghị trong trường hợp phát hiện có sai lầm hay vi
phạm đã được pháp luật quy định trước.
Đây là đặc điểm phân biệt với thủ tục phúc thẩm, theo đó pháp luật quy
định đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc

19


thẩm nhưng không yêu cầu giới hạn căn cứ bắt buộc của việc kháng cáo,
kháng nghị phúc thẩm. Trong khi đó, việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm dân sự chỉ được thực hiện khi nó đáp ứng một trong các căn cứ: Kết
luận trong bản án, quyết định dân sự không phù hợp với những tình tiết khách
quan của vụ án; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; có sai lầm nghiêm
trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Đây cũng là đặc điểm phân biệt với thủ tục tái thẩm dân sự. Mặc dù,

giám đốc thẩm dân sự và tái thẩm dân sự đều là thủ tục tố tụng đặc biệt, xét
lại những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật mà không phải là
cấp xét xử thứ ba nhưng giữa chúng cũng có những điểm khác biệt nhất định
về căn cứ kháng nghị. Giám đốc thẩm xét lại những bản án, quyết định dân sự
đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc giải
quyết vụ án, như thu thập, xác minh không đầy đủ chứng cứ, áp dụng pháp
luật không đúng, vi phạm thủ tục tố tụng dân sự... Trong khi đó, tái thẩm dân
sự xét lại những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng
mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà Tòa án và các đương sự
đã không biết được khi Tòa án giải quyết vụ án. Những tình tiết này có thể
làm thay đổi cơ bản nội dung của vụ án nên cần phải tiến hành theo thủ tục tái
thẩm.
- Thứ năm, quyền kháng nghị giám đốc thẩm dân sự chỉ thuộc về Tòa
án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
Quyền này không được giao cho đương sự, người đại diện của đương
sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, cơ quan, tổ chức xã hội khởi kiện vì
lợi ích chung… nhưng pháp luật vẫn đảm bảo cho đương sự được thực hiện
quyền của mình thông qua hoạt động phát hiện bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật cần xem xét lại và thông báo bằng văn bản cho người có quyền
kháng nghị. Đối với Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân trong trường

20


hợp phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật thì cũng phải thông báo bằng văn bản cho những người có thẩm
quyền kháng nghị để những người này xem xét kháng nghị bản án, quyết định
đó.
Đây là điểm khác biệt với chủ thể kháng nghị giám đốc thẩm hình sự.
Trong kháng nghị giám đốc thẩm hình sự, ngoài các chủ thể được quy định

như giám đốc thẩm dân sự, giám đốc thẩm hình sự bổ sung thêm một loại chủ
thể khác. Đó là đối với các vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân đang tại ngũ
thì Tòa án quân đội có thẩm quyền xét xử. Do đó, trong trường hợp này,
quyền kháng nghị giám đốc thẩm hình sự thuộc về Chánh ánTòa án quân sự
trung ương,Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương, Chánh án Tòa án
quân sự cấp quân khu và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu.
Trong khi đó, những tranh chấp dân sự giữa quân nhân đang tại ngũ với
những người không phải quân nhân thì việc giải quyết những tranh chấp dân
sự đó vẫn thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân nên thẩm quyền kháng nghị
giám đốc thẩm dân sự của Chánh án Tòa án quân sự và Viện trưởng Viện
kiểm sát quân sự không được đặt ra.
1.1.2. Ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự
- Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự có ý nghĩa quan trọng đối với
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
Bản chất của nhà nước pháp quyền chính là yếu tố “thượng tôn pháp
luật”, do đó đòi hỏi hai điều kiện cơ bản: dân chủ và tổ chức quyền lực nhà
nước mà trong đó pháp luật được đề cao. Giám đốc thẩm thông qua hoạt động
xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để vô hiệu hóa các
bản án, quyết định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhằm đảm bảo việc xét
xử hợp pháp và hợp hiến, hạn chế và khắc phục những sai lầm, vi phạm trong
quá trình giải quyết vụ án. Từ chính nhiệm vụ của mình, giám đốc thẩm góp

21


phần bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được thực hiện, bảo đảm
tính ổn định và thống nhất của pháp luật, tính chặt chẽ và nhất quán của bộ
máy Nhà nước.
Việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là một trong
những yêu cầu quan trọng của nhà nước pháp quyền. Căn cứ vào tình hình

thực tế, việc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong nhiều trường hợp chưa thể
đáp ứng được đòi hỏi của xã hội. Do đó, giám đốc thẩm dân sự chính là một
cơ chế được xây dựng để bảo đảm việc xét xử đúng đắn, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân được bảo đảm đến mức tối ưu. “Khi phát hiện bản án,
quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật có sai lầm hay vi phạm pháp luật
nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của dân, Tòa án có
thẩm quyền giám đốc thẩm bằng việc hủy những bản án, quyết định sai đã tạo
cơ sở pháp lý để vụ án được phục hồi xét xử lại, khôi phục quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân bị vi phạm”[7].
- Giám đốc thẩm dân sự là biện pháp tố tụng nhằm đảm bảo cho vụ
việc dân sự được giải quyết đúng pháp luật, đồng thời đóng vai trò quan
trọng trong công tác kiểm tra việc thực hiện và xây dựng pháp luật
Nhà nước ta trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình
không chỉ xây dựng, ban hành pháp luật mà còn kiểm tra việc thực hiện pháp
luật. Tòa án, một trong những bộ phận cấu thành nên bộ máy nhà nước thông
qua hoạt động xét xử đã kiểm tra việc thực hiện pháp luật ở các khâu trước
xét xử, phát hiện những vi phạm pháp luật trong quản lý của các cơ quan, tổ
chức hữu quan. Và với công cụ giám đốc thẩm, ngành Tòa án đã tự tiến hành
kiểm tra trong hệ thống của mình mà không phải là sự kiểm tra của cơ quan
nhà nước khác. Đây là một trong những cách thức hữu hiệu để kiểm tra việc
thực hiện, tuân thủ pháp luật của ngành Tòa án, đồng thời đảm bảo cho vụ án
dân sự được giải quyết đúng pháp luật.

22


Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án phải thân thủ các quy định của
pháp luật hiện hành, nghiên cứu hồ sơ vụ án và lựa chọn các quy định pháp
luật phù hợp. Chính trong giai đoạn này, Tòa án có thể phát hiện ra những
điểm hạn chế của các quy phạm pháp luật như không phù hợp với thực tiễn

khách quan hoặc thậm chí không có quy phạm pháp luật thích hợp để giải
quyết vụ án… Từ đây, Tòa án có quyền kiến nghị với cơ quan lập pháp để kịp
thời sửa đổi, hủy bỏ hoặc bổ sung điều luật mới để pháp luật thực định phù
hợp với yêu cầu thực tiễn. “Có thể nói hoạt động giám đốc thẩm là một hoạt
động thực tiễn rất quan trọng của ngành Tòa án để kiểm nghiệm lý luận luật
học, kiểm nghiệm các văn bản pháp luật và từ đó quay trở lại hoàn thiện, bổ
sung và nâng cao hoạt động lý luận luật học, hoạt động xây dựng pháp
luật”[7].
- Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc
xây dựng và phát triển hệ thống án lệ
Ngoài các nước theo hệ thống pháp luật Common Law, án lệ cũng được
nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay chú trọng xây dựng và phát triển. Theo
pháp luật Trung Quốc, một nước có chế độ pháp luật tương đồng với Việt
Nam, các bản án, quyết định của Tòa án cấp cao nhất được coi như là quy
phạm cho Thẩm phán trong quá trình xét xử. Ở nhiều quốc gia, phán quyết
của Tòa án cấp cao nhất thực hiện hai vai trò chính là hủy kết quả xét xử sai
và hình thành án lệ. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan, chúng ta mới chỉ chú trọng đến vai trò hủy kết quả
xét xử sai thông qua hoạt động giám đốc thẩm của Tòa án. Trong quá trình
hội nhập quốc tế như hiện nay, muốn phù hợp với xu hướng phát triển chung
tất yêu đòi hỏi thủ tục giám đốc thẩm phải được nâng cao để hoàn thành tốt cả
hai nhiệm vụ trọng tâm của mình. Do đó, việc xây dựng và phát triển án lệ từ
các quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối

23


cao ngày càng được quan tâm sâu sắc. Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính
trị về cải cách tư pháp đã nhấn mạnh: “Tòa án nhân dân tối cao có trách
nhiệm áp dụng thống nhất pháp luật và phát triển án lệ”. Luật Tổ chức

TAND năm 2014 cũng đã chính thức ghi nhận về vấn đề này. Để xây dựng
được một hệ thống án lệ thực sự chất lượng đòi hỏi trong tương lai phải có
những nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về đường lối xét xử dân sự thông qua
công tác giám đốc thẩm dân sự không chỉ của HĐTPTANDTC mà còn cả của
Tòa án cấp cao.
- Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc
tổng kết kinh nghiệm
Hiện nay, công tác hướng dẫn xét xử được xác định là một công tác
trọng tâm của ngành Tòa án. Từ các quyết định giám đốc thẩm trên thực tế,
Tòa án cấp trên, nhất là TANDTC đã tổng hợp và đúc kết nên những kinh
nghiệm quý báu để hướng dẫn hoạt động xét xử. Rõ ràng, nếu không sử dụng
kết quả giám đốc thẩm là nguồn tư liệu hướng dẫn xét xử thì những sai lầm
của một Tòa án cụ thể sẽ vẫn tiếp tục bị mắc phải ở một Tòa án khác. Thông
qua hoạt động hướng dẫn xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới
đã kịp thời ngăn chặn các sai lầm tương tự xảy ra trên diện rộng, từ đó chất
lượng xét xử ngày càng được nâng cao. Đây được xem là một sợi dây kết nối
thông suốt để hoạt động xét xử được thực hiện đúng pháp luật một cách thống
nhất trên phạm vi cả nước.
Bên cạnh đó, thông qua hoạt động giám đốc thẩm vụ án dân sự, vô hình
chung Tòa án đã tham gia thực hiện có hiệu quả công tác giải thích pháp luật.
Khác với pháp luật hình sự, pháp luật dân sự luôn chứa đựng các quy phạm
phức tạp nhưng cũng khá mềm dẻo để giải quyết những quan hệ pháp luật dân
sự đa dạng, muôn hình muôn vẻ trong đời sống xã hội. Do đó, đối với những
người am hiểu pháp luật, ngay cả khi họ là Thẩm phán thì việc vận dụng pháp

24


×