Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Sáng kiến bồi dưỡng học sinh yếu kém môn ngữ văn ở trường THPT số 1 bảo thắng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.91 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO VÀ TẠO LÀO CAI

TRƯỜNG TRUNG HỌC SỐ 1 - BẢO THẮNG
*********

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

BỒI DƯỠNG HỌC SINH YẾU KÉM MÔN NGỮ VĂN
Ở TRƯỜNG THPT SỐ 1 BẢO THẮNG

Họ và tên: Phạm Thị Tuyến
Bộ môn: Ngữ Văn
Trường: THPT số 1 Bảo thắng - Lào Cai
Năm học: 2013 - 2014

Bảo Thắng, tháng 02 năm 2014

1


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
- Trong những năm gần đây, cùng với một số môn học khác, thực trạng dạyhọc môn Văn được đề cập nhiều ở các phương tiện thông tin, trong đó đặc biệt nhấn
mạnh tỉ lệ học sinh yếu ở bộ môn này ngày càng cao.
- Vì vậy, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học thật sự là vấn đề thiết yếu và
được quan tâm hàng đầu hiện nay. Dẫu có thể khẳng định thời gian qua, nhiều giáo
viên đã nỗ lực mang lại cho các em những phương pháp học văn tích cực cùng với
sự hỗ trợ của các phương tiện công nghệ thông tin đã giúp tiết học văn đạt hiệu quả
cao hơn, song học sinh yếu môn văn là một tồn tại khách quan. Điều đó một phần do
giáo viên chưa quan tâm đúng mức, chưa giúp đỡ kịp thời để các em hổng kiến thức
cơ bản. Một phần là do các em không thích học, không biết cách học dẫn đến ngày


một tụt hậu so với trình độ chung của lớp.
- Không kể nguyên nhân do đâu, giúp đỡ học sinh yếu là việc làm cần thiết và
phải được giáo viên quan tâm nhất trong tình hình hiện nay.
2. Mục đích:
- Nâng cao khả năng cảm nhận và trình bày cách hiểu của học sinh trước một
vấn đề văn học mà các em đọc trong quá trình học, có thể là diễn đạt bẳng lời hoặc
có thể là diễn đạt bằng văn bản.
- Giúp các em mạnh dạn hơn trong việc xây dựng bài học bằng cách tham gia
trả lời các câu hỏi phát vấn trong các tiết học văn.
- Các em có thể trình bày suy nghĩ của mình một cách trôi chảy và mạch lạc
hơn.
3. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm
Những học sinh học yếu môn văn do hổng kiến thức, gặp khó khăn trong
2


việc hiểu bài hoặc khả năng tập trung thấp, kỹ năng diễn đạt yếu.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Khảo sát
- Phát vấn, đàm thoại
5. Phạm vi nghiên cứu
Học sinh 2 lớp 10A4 và 10A5
6. Kế hoạch nghiên cứu:
+ Thời gian nghiên cứu: năm học 2012-2013
+ Thời gian bắt đầu: từ tháng 10-2012
+ Thời gian kết thúc: tháng 05-2013

3



PHẦN II: NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Trong các công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học văn, hầu hết các
phương pháp được đặt ra với đối tượng học sinh một cách chung chung. Tất cả tùy
thuộc vào vai trò dẫn dắt của giáo viên trong giờ học. Song, theo quan điểm của
PGS.TS Phạm Quang Trung, Trường Đại học Đà Lạt thì " phương pháp dạy học
hiện đại không cho phép người dạy hình dung đối tượng một cách chung chung.
Phải quan tâm đến từng cá nhân học sinh, mỗi em một tính nết, sự hiểu biết cũng
khác nhau nên không thể có một đối tượng học sinh chung chung trong giờ học
được".
Trong công trình "Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ
thông" GS Phan Trọng Luận nhấn mạnh: “Giờ học mới phải là một kết cấu logic
chặt chẽ khoa học mà uyển chuyển linh hoạt, hệ thống đơn vị tình huống học tập
được đặt ra từ bản thân tác phẩm phù hợp với sự tiếp nhận của HS. Và song song
tương ứng là một hệ thống việc làm, thao tác do GV dự tính tổ chức để dẫn dắt
từng cá thể HS tự chiếm lĩnh tác phẩm một cách hứng thú”. Như vậy, dù không
phát biểu trực tiếp song ý kiến trên cũng đã nhấn mạnh sự dẫn dắt khéo léo của giáo
viên trong giờ học sao cho phù hợp với mọi đối tượng học sinh như tác giả Nguyễn
Kế Hào đã từng nhấn mạnh "Dạy học theo phương pháp mới phải đảm bảo tính
đồng loạt, phát huy được mọi đối tượng"
Vậy, làm cách nào để phát huy được mọi đối tượng- kể cả đối tượng học sinh
yếu- trong cùng một tiết học?
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Tiêu chí hàng đầu trong việc lựa chọn cách dạy chính là cách học. Tuy nhiên,
4


cách học không chỉ do những đặc điểm cá nhân của người học quy định, mà còn do
tính chất và đặc điểm của nội dung học tập, mục đích học tập, cũng như điều kiện
học tập quy định. Đồng thời, việc lựa chọn cách dạy còn phụ thuộc vào quan điểm và

mục đích dạy học, cũng như trình độ và kỹ năng sử dụng các phương pháp dạy của
người dạy. Qua thực tế giảng dạy, tôi có những nhận xét sau:
Thứ nhất, thực tế học Văn ở học sinh còn nhiều điều đáng nói, đáng bàn.
Thống kê chất lượng hằng năm ở trường (qua kết quả thi để khách quan hơn) cho
thấy tỉ lệ học sinh yếu kém là rất lớn.
Thứ hai, xuất phát từ đối tượng học tập: nhìn chung, trong một lớp học bao
giờ cũng có các đối tượng khác nhau: học sinh yếu, trung bình, khá, giỏi. Những em
khá, giỏi rất dễ dàng tiếp thu kiến thức cơ bản trong khi điều này lại rất khó khăn với
những học sinh yếu. Vì vậy, không thể chỉ áp dụng cùng một phương pháp, một hình
thức, một nội dung cho các loại đối tượng khác nhau trong một tiết học. Dĩ nhiên, là
cần chú ý đến mặt bằng kiến thức chung (mục tiêu cần đạt của các bài học).
Thứ ba, xuất phát từ đặc thù bộ môn Ngữ văn - môn học của khám phá và
sáng tạo- bên cạnh sự thống nhất là sự phong phú, đa dạng của tiếp nhận hình tượng
văn học. Vậy nên, trước một tiết học, tôi thường đặt câu hỏi: học sinh khá, giỏi sẽ
tiếp thu thêm những gì?; trong hoạt động này, học sinh yếu kém sẽ làm được những
gì?; trong hệ thống câu hỏi đặt ra thì những câu hỏi nào dành cho đối tượng này?...
Từ thực tế trên, việc giúp đỡ học sinh yếu kém cũng cần được giáo vên quan
tâm nhất trong tình hình hiện nay. Đó không phải là chuyện ngày một, ngày hai mà
đòi hỏi có lòng kiên nhẫn, sự quyết tâm và bằng những phương pháp thật cụ thể,
thiết thực. Về phía bản thân, những năm trước đây, tôi thường trao đổi với giáo viên
chủ nhiệm về những em học yếu của lớp để giáo viên chủ nhiệm nhắc nhở và phân
công cán sự bộ môn kèm cặp. Về phía nhà trường, trong những năm học qua cũng đã
mở các lớp phụ đạo cho học sinh yếu. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà hiệu quả
của công việc đó chưa cao. Nhận thấy điều đó, trong quá trình giảng dạy, với suy
5


nghĩ làm thế nào để khắc phục dần tình trạng yếu kém của học sinh, tôi đã tiến hành
một số cách làm và bước đầu đã có kết quả nhất định.
3. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN

3.1. Những khảo sát cần thiết đầu tiên
Vào đầu năm học, thông qua bài khảo sát chất lượng đầu năm tại lớp cần phân
tích, đánh giá kết quả đạt được của học sinh để đưa ra các dự báo về học sinh yếu
kém. Tôi thường lập một bảng ghi chú cá nhân như sau:
Lớp

Tổng số HS

10A4
10A5

36
37

Điểm yếu cần khắc phục
Kiến thức
Diễn đạt
Kỹ năng
17 (47,2%)
25 (69,4%)
15 (41,7%)
14 (37,8%)
24 (64,9%)
16 (43,2%)

Bảng này dùng cho việc ghi chú cả năm học. Có như vậy mới đánh giá được sự tiến
bộ của học sinh trong năm. Công việc này không tốn nhiều thời gian bởi vì nó được
làm đồng bộ trong quá trình chấm bài, trả bài. Mỗi lớp chỉ cần đính kèm vào sổ điểm
cá nhân một trang ghi chú này.
Sau khi nhận diện học sinh yếu kém, cần phát hiện các nguyên nhân dẫn đến tình

trạng học sinh yếu kém trước khi tìm các biện pháp giúp đỡ các em. Một số nguyên
nhân chính thường là:
- Hổng kiến thức từ các lớp dưới.
- Gặp khó khăn trong việc hiểu bài
- Khả năng tập trung ngắn, nên dễ dàng bị xao nhãng trong giờ học.
- Nhiều câu hỏi đặt ra khó nên dần dần nảy sinh tâm lí e ngại, sợ phát biểu xây
dựng bài.
- Khả năng diễn đạt yếu
3.2. Những biện pháp đã thực hiện trong giờ học
3. 2. 1- Thống nhất về định hướng nguyên tắc.
- Có ba khâu chủ yếu của nhiệm vụ rèn luyện kỹ năng là : Bồi dưỡng ý thức,
nâng cao trình độ, rèn luyện thói quen cho học sinh học văn. Cố thủ tướng Phạm
6


Văn Đồng đã từng chỉ ra cho giáo viên dạy văn là phải “Làm cho học sinh dần dần
có ý thức, có trình độ , rồi đi đến có thói quen viết và nói đúng tiếng việt”.Ba khâu
cần thực hiện trên có mối quan hệ mật thiết với nhau. Bơỉ vì chưa nhận thức đúng thì
chưa có hành động đúng. Nhận thức đúng nhưng thiếu trình độ để học tập, tiếp thu
và rèn luyện kỹ năng thì nhận thức chỉ trong lĩnh vực lý thuyết .Có nhận thức đúng,
có trình độ mới có thể rèn luyện thói quen. Vì thói quen thuộc phạm trù kỹ năng, kỹ
xảo.
- Thực hiện định hướng nguyên tắc này, giáo viên cần có ý thức trong công
việc của mình, từ việc giáo dục cho học sinh ý thức dùng từ, phát âm luyện viết câu
đến tìm ý, dựng đoạn, lập dàn ý, và viết bài văn
3.2.2.Bồi dưỡng ý thức :
a. Ý nghĩa của việc bỗi dưỡng ý thức học văn.
* Bồi dưỡng nhận thức đúng cho học sinh về học văn .
- Trước hết bồi dưỡng cho học sinh nhận thức đúng về đặc trưng của môn văn.
Từ đó học sinh mới có cách học văn đúng đắn và phù hợp. Khi học tác phẩm các em

phải nhớ nội dung tác phẩm,nhớ được các chi tiết quan trọng nhưng không được tách
rời với hình thức nghệ thuật vì đó là cơ sở để các em tiếp cận giá trị của tác phẩm
văn chương. Các em phải biết hệ thống lại kiến thức của mình sau mỗi bài học, đó là
những kiến thức chính, trọng tâm của các bài văn để tránh tình trạng chắp vá kiến
thức và nhầm lẫm giữa tác phẩm này với tác phẩm kia. Đồng thời các em cũng phải
tập xác định các thao tác lập luận mình sẽ sử dụng khi làm bài làm văn đó cho phù
hợp với yêu cầu của đề.
- Từ việc rơi rụng kiến thức, học sinh cảm thấy học môn văn rất khó. Các em
không hiểu nguyên nhân cụ thể đành chấp nhận kết quả kém. Từ kém đến chán và
càng kém đi cũng là lẽ tất nhiên. Cho nên việc bồi dưỡng nhận thức đúng về môn
văn là vô cùng quan trọng.
* Giúp học sinh nhận thức đúng về học tập và vị trí của môn văn.
Kiến thức văn học có rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách và hành
7


động của các em cho cuộc sống sau này. Giáo viên cần phải giúp học sinh hiểu rõ
những bài học văn mang tính chất hành dụng rất có lợi cho các em trong quá trình
chọn ngành nghề và trong giao tiếp khi các em bước vào môi trường xã hội rộng lớn
hơn sau này. Ngày nay các em phải hiểu rằng học văn không phải chỉ là tìm hiểu cái
hay cái đẹp của tác phẩm văn chương như quan niệm trước đây nữa mà học văn là
cách để rèn luyện cho các em hoàn thiện về mọi mặt: nhân cách, đời sống tinh thần,
kỹ năng giao tiếp, làm giàu vốn từ tiếng Việt sẽ giúp các em trong việc học các ngôn
ngữ khác....Đặc biệt trong chương trình Ngữ văn còn có một số bài có thể giúp các
em có những hiểu biết bước đầu về một số ngành cụ thể như: Phỏng vấn; Viết bản
tin ; Lập kế hoạch cá nhân ; Trình bày một vấn đề....Hay một số tác phẩm văn học có
thể giúp các em những bài học trong cách nhìn nhận cuộc sống, cách đánh giá những
vấn đề trong xã hội sau này
* Cần cho học sinh thấy môn văn là công cụ giúp cho việc học các môn khác
thuận lợi.

Học văn có thể giúp cho các em khắc sâu về kiến thức lịch sử hoặc cụ thể hóa
những kiến thức về lịch sử như : thời gian, địa điểm của các sự kiện lịch sử
Ví dụ: Qua bài “Thượng kinh kí sự” của Lê Hữu Trác học sinh sẽ hình dung rõ hơn
về triều đại chúa Trịnh- một triệu đại mà vua quan ăn chơi sa hoa, trác táng...Hoặc
qua “Chiếu cầu hiền” sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn về vị vua nổi tiếng của lịch sử dân
tộc- vua Quang Trung.....
b. Biện pháp để nâng cao ý thức về việc học văn.
- Giáo viên dành thời gian phân tích, cung cấp những kiến thức, sự hiểu biết
cho học sinh về đặc trưng môn văn trong các buổi phụ đạo.
- Tổ chức ngoại khoá: sáng tác văn học, tìm hiểu văn học
- Áp dụng phương pháp dạy học tích hợp để giúp học sinh có hiểu biết xã hội
rộng hơn từ môn văn.
3.2.3. Nâng cao kiến thức bổ trợ cho môn văn
a. Những kiến thức bổ trợ cần nâng cao: Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng
8


chỉ ra rằng: “Tôi cho rằng “Từ” là rất quan trọng. Trong ngôn ngữ thì “Từ” là cái
quan trọng nhất, rồi đến câu, sau đến bài văn. Cho nên dạy “Từ” là rất cần thiết, phải
hiểu tất cả ý nghĩa của “Từ”, ý nghĩa sâu xa, ý nghĩa phong phú, phải hiểu tất cả mọi
cách dùng “Từ” ... hiểu “Từ”, dùng “Từ” đúng chỗ là điều quan trọng và cũng là
điều khó khăn nhất. Sau “Từ” là đến “câu”, nhiều “câu” thành đoạn, nhiều đoạn
thành một bài, rồi đến một cuốn sách. Tất cả đều phải học, phải tập nhằm diễn tả cho
thành công những điều mình suy nghĩ”.
- Về Từ: Hiện nay đa số học sinh rất nghèo về vốn từ. Nhưng nghèo thì học
sinh có thể tích luỹ trong quá trình học tập. Điều quan trọng trong việc dạy từ là :
“Phải hiểu tất cả các ý nghĩa của từ, ý nghĩa sâu xa ,ý nghĩa phong phú, phải hiểu tất
cả mọi cách dùng từ”. Là giáo viên dạy văn, yêu cầu trên hết sức quan trọng. Bởi vì
nếu không nắm rõ về nghĩa của từ ta sẽ không thể giúp học sinh hiểu rõ về các văn
bản văn chương. Đôi khi có những em học sinh ham học hỏi tìm tòi sẽ bất chợt hỏi

về một từ nào đó mà các em chưa hiểu nghĩa, yêu cầu giáo viên phải giảng giải cặn
kẽ và chính xác. Điều đó vừa giúp các em hiểu hơn về từ vựng tiếng Việt đồng thời
khuyến khích học sinh học tốt hơn.
+ Hiểu rõ nghĩa của từ, giáo viên cũng cần giúp cho học sinh biết cách sử
dụng từ đúng với hoàn cảnh, đúng với phong cách để tránh những trường hợp học
sinh viết trong bài làm văn “em Thuý Kiều” hay “anh Kim Trọng” . Đặc biệt, một
hiện tượng phổ biến trong các bài làm văn của học sinh hiện nay là lỗi dùng từ
không đúng phong cách. Rất nhiều em dùng ngôn ngữ sinh hoạt trong bài viết văn
của mình.
+ Giúp học sinh hiểu như thế nào là những từ ngữ sáo rỗng, công thức để các
em biết cân nhắc khi sử dụng. Ví dụ như các từ : kho tàng văn học, di sản văn học,
tác gia văn học, nhà văn vĩ đại, kịch tác gia vĩ đại, nam thanh nữ tú... .
- Về câu: Nhìn chung với học sinh miền núi còn nhiều hạn chế. Có thể nói, số
học sinh viết được câu đúng ngữ pháp một cách có ý thức chiếm tỷ lệ thấp, các em
không diễn đạt được ý nghĩ của mình qua những câu văn hoặc lời nói. Vì vậy một
9


khâu rất quan trọng là giáo viên phải thường xuyên hướng dẫn để học sinh có thể rèn
luyện được cách đặt câu đúng ngữ pháp.Trước hết giáo viên cần giúp học sinh hiểu
rõ về cấu tạo, các thành phần ngữ pháp trong câu và cách bố trí các thành phần đó
như thế nào, ý nghĩa của các thành phần đó là gì?.Vì là đối tượng học sinh yếu kém
nên khi dạy về câu chúng ta cũng nên giúp học sinh sử dụng câu đúng ngữ pháp
bằng một số mẹo nhỏ như: khi dùng các giới từ (trong, qua, bằng, với...) ở đầu câu
học sinh thường sẽ viết câu thiếu thành phần, vì vậy các em nên hạn chế sử
dụng....Giáo viên có thể sử dụng giờ trả bài làm văn hoặc trong các giờ thực hành,
thậm chí là ngay giờ giảng văn đều có thể xen kiến thức về câu để học sinh rèn luyện
về viết câu. Nhưng cũng cần lưu ý, với học sinh yếu kém, giáo viên chỉ nên rèn
luyện cho học sinh về một số kiểu câu đơn giản mà các em cần sử dụng thường
xuyên.Tránh tình trạng đánh đố học sinh ở những câu có cấu trúc quá phức tạp mà

thực tế các em ít được sử dụng.
- Về đoạn:
+ Nhiều học sinh chưa biết dựng một đoạn văn đơn giản. Các em viết đoạn
văn và cả bài văn theo thói quen không nắm được cơ sở lí luận, do đó bố cục, ý thiếu
rõ ràng mạch lạc. Vì vậy phải giúp học sinh nắm được cấu trúc, vai trò của đoạn
trong bài văn. Từ đó cho học sinh tập viết đoạn văn thật nhiều bằng các giờ thực
hành hoặc kiểm tra mười lăm phút. Khi cho học sinh tập viết đoạn văn, giáo viên cần
giúp các em cách xác định câu chủ đề, cấu trúc của đoạn văn trình bày theo cách
nào. Trên thực tế nếu cho các em viết đoạn văn về một chủ đề tự do thì học sinh có
thể dễ dàng triển khai ý. Nhưng khi cho các em viết đoạn trong một đề văn cụ thể thì
các em lại lúng túng không xác định được phải trình bày như thế nào. Vì vậy, giáo
viên nên chọn ý trong đề văn nào đó để học sinh tập viết đoạn. Và khi tập viết đoạn
văn giáo viên cũng nên tập cho các em sử dụng câu, từ liên kết đoạn, ý trong bài làm
văn để tạo sự mạch lạc, sự uyển chuyển cho bài làm văn của các em.
+ Giáo viên cũng cần chú ý hướng dẫn học sinh cách trình bày đoạn văn về
mặt hình thức, đặc biệt trong bài văn nghị luận về bài thơ, đoạn thơ. Vì rất nhiều học
10


sinh cho rằng sau khi xuống dòng dùng câu thơ làm dẫn chứng là kết thúc một đoạn
văn. Vì vậy, ngay cả khi tiếp tục phân tích hình ảnh, ý nghĩa của một câu thơ, các em
vẫn có thể tách làm nhiều đoạn.
- Về bài văn: Bài văn là tổng hợp nhiều đoạn văn nhưng không phải là sự
tổng hợp của các đoạn văn theo phép tính cộng, mà là sự tổng hợp của các đoạn có
chứa các ý khác nhau nhưng có mối quan hệ rất mật thiết chặt chẽ với nhau tạo nên
một chỉnh thể. Học sinh còn yếu nhiều về liên kết ý, liên kết đoạn văn. Do đó
giáoviên phải nhắc lại lí luận về các phép liên kết trong văn bản. Giáo viên cần giúp
cho học sinh biết cách sử dụng những phép liên kết đó như thế nào cho hợp lí không
làm cho bài văn trở lên rườm ràm, phức tạp. Đồng thời, giáo viên hướng dẫn cho học
sinh cách sắp xếp ý một cách hợp lí, logic, có sức thuyết phục và làm nổi bật vấn đề

nghị luận. Ở phần này, giáo viên nên sử dụng giờ trả bài, dành tối đa thời gian để các
em rút kinh nghiệm từ bài làm của mình và luyện tập cách viết liên kết đoạn, sắp xếp
các đoạn văn.
b. Vậy biện pháp để nâng cao kiến thức: là củng cố, là bổ sung, mở rộng lí luận
về phương diện đã nêu trên.Song song với việc nâng cao trình độ về ngôn ngữ còn
phải cần nâng cao trình độ về lí thuyết làm văn, về kiến thức giảng văn, văn học sử.
- Học sinh thường học lí thuyết làm văn một cách máy móc giống như các
môn học thuộc khác , khi làm bài cụ thể lại không biết áp dụng kiến thức đó vào
trong bài làm. Học sinh thường coi nhẹ lí thuyết dẫn đến cách làm bài không đúng
yêu cầu, gặp nhiều lúng túng trong phương pháp. Vì vậy, các em phải nắm chắc lí
thuyết làm văn, áp dụng linh hoạt trong các bài làm văn cụ thể.
- Về kiến thức giảng văn, văn học sử, kiến thức về tác phẩm ở học sinh còn
nhiều hạn chế, cũng do cách học “đại khái” nên học sinh dễ quên chi tiết, hình ảnh
cốt truyện và các yếu tố khác tạo nên tác phẩm. Đặc biệt khi làm về thơ, học sinh
thường bỏ qua yếu tố về nghệ thuật mà đơn thuần chỉ nêu nội dung của câu thơ hoặc
ý nghĩa của câu thơ. Do đó giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách nắm được những
chi tiết, hình ảnh quan trọng, những thủ pháp nghệ thuật cơ bản làm nên thành công
11


của tác phẩm. Tránh tình trạng nhớ quá máy móc hoặc học thuộc lòng cả bài thơ dài
hay tác phẩm văn xuôi. Hơn nữa, giáo viên phải giúp học sinh có một vốn kiến thức
văn học sử chắc chắn để không bị nhầm lẫn giữa các thời đại, các thể loại văn học
hoặc đơn giản là giữa các tác giả, tác phẩm.
- Củng cố, hệ thống các kiến thức học sinh đã được học trong chương trình
lớp trước.
- Bổ sung kiến thức cơ bản thường xuyên trong suốt quá trình giảng dạy của
giáo viên.
- Điều tra cơ bản nắm trình độ kiến thức của học sinh, phát hiện yếu ở phương
diện nào từ đầu cấp, đầu năm học, trên cơ sở đó có kế hoạch bù đắp kiến thức kịp

thời
3.2.4. Rèn luyện thói quen.
a. Rèn luyện thói quen đúng
* Rèn luyện thói quen đúng cũng là rèn luyện kỹ năng
- Khi có nhận thức đúng về ý nghĩa của việc làm mới có ý thức quyết tâm. Có
khả năng, có trình độ mới làm được, và mới tạo được thói quen, có quen làm thì mới
làm khéo.
- Tất cả các thao tác ở trên đều cần được rèn luyện để học sinh biết thực hiện
thành thạo các công việc trong quá trình học tập, nâng cao chất lượng học văn.
*. Những thói quen đó là:
- Học văn phải biết đặc điểm môn văn và cách học có hiệu quả: rèn luyện từng
khâu, từng thao tác nhỏ. Cần uốn nắn học sinh cách viết đúng chính tả, đúng ngữ
pháp, nói đúng chính âm, học thuộc thơ, văn.
- Rèn luyện thói quen làm văn phải theo đúng quy trình, các bước có tính chất
nguyên tắc một cách khoa học: Trước khi lên lớp phải soạn bài ; khi nghe giảng phải
biết phân tích lời giảng, chọn ý ghi chép. về nhà phải biết tự bổ sung, chỉnh lý kiến
thức cho đầy đủ chính xác.
b. Biện pháp rèn luyện kĩ năng .
12


- Ra bài tập về nhà, củng cố hệ thống kiến thức mới và cũ. Sau mỗi bài giảng
giáo viên nên đưa ra ngay những đề bài đơn giản mà học sinh có thể dựa vào kiến
thức vừa học để làm bài
- Rèn luyện kỹ năng nói ,dùng từ, diễn đạt trong giờ kiểm tra miệng đầu giờ.
- Chỉ ra lỗi về câu , lỗi dùng từ, lỗi chính tả, yêu cầu học sinh tự sửa các lỗi đó
trong bài văn viết. Hoặc ghép đôi, giao cho một học sinh có kiến thức tương đối
vững có trách nhiệm thường xuyên nhắc nhở, kiểm tra, uốn nắn cho một học sinh
yếu hơn về các lỗi trên để tạo thành thói quen khi viết cho các em.
- Rèn luyện kỹ năng lập luận ngay khi học sinh phát biểu, kiểm tra miệng .

- Yêu cầu học sinh có thói quen khi làm văn phải lập dàn ý .
- Quy định học thuộc bài thơ, câu thơ hay có sổ ghi chép. Yêu cầu nhớ chi
tiết, nhân vật cốt truyện đối với tác phẩm văn xuôi, giáo viên có kiểm tra.
3.2.5 . Rèn luyện kỹ năng viết :
a. Về kỹ năng viết .
* Mục đích rèn luyện
- Mục đích cuối cùng và cũng là hiệu quả cuối cùng của việc học văn là học
sinh phải viết được một bài văn tốt nhất theo yêu cầu của chương trình và trình độ
học sinh. Những kinh nghiệm sau đây có thể nhiều giáo viên đã thực hiện, song cần
hệ thống lại và thực hiện thường xuyên trong công việc giảng dạy của giáo viên dạy
văn .
- Rèn luyện cho học sinh có nếp suy nghĩ khoa học khi viết văn. Bám sát yêu
cầu cụ thể của đề bài trả lời câu hỏi : viết cái gì?, viết như thế nào?, dùng thao tac
lập luận nào để trình bày?
* Biện pháp rèn luyện:
+ Yêu cầu học sinh trước khi viết phải biết phân tích đề, và lập dàn ý ( sơ lược,
hay chi tiết).
+ Với học sinh quá yếu về diễn đạt, mắc nhiều lỗi về viết câu, về dùng từ hay
13


chính tả, giáo viên cần lưu ý các em viết ngắn gọn, tập trung vào các nội dung chính,
hạn chế mở rộng, bình sâu về vấn đề để rèn luyện cách diễn đạt, làm rõ vấn đề nghị
luận.
b.Rèn luyện phương pháp viết văn khoa học:
* Lí do: Khi làm bài: học sinh thường viết vội vàng, tuỳ tiện, viết theo cảm
xúc hay nghĩ được đến đâu viết đến đó hoặc “thấy” gì viết nấy ( theo nghĩa đen của
câu từ trong văn bản để viết không chú ý đến việc tác giả viết như thế để thể hiện
điều gì).
* Biện pháp:

- Để khắc phục tình trạng trên cần chỉ đạo cho học sinh có thói quen làm việc
khoa học: cần chuẩn bị đầy đủ chu đáo trứơc khi viết, đọc lại và sửa chữa sau khi
viết.
- Ra đề luyện tập ở nhà.
- Ra nhiều kiểu đề: đề có luận điểm rõ ràng, đề không đưa ra luận điểm yêu
cầu học sinh phải tự tìm ý để tập làm. Tuỳ tác phẩm ra nhiều đề khác nhau để học
sinh phân biệt chỗ giống và khác nhau một cách tinh tế của đề. Ra đề với nhiều thao
tác lập luận khác nhau để rèn luyện cho học sinh biết cách sử dụng thuần thục các
thao tác và biết kết hợp các thao tác nhuần nhuyễn hơn
- Luyện cho học sinh cách tìm ý ở các giờ giảng văn, văn học sử, bằng cách
yêu cầu học sinh phân tích một nhận định cơ bản trong sách giáo khoa.
- Cho học sinh tập tìm luận điểm, luận cứ cách lập luận trong bài văn hoàn
chỉnh, tiêu biểu về văn nghị luận ( Chiếu cầu hiền; Về luân lí xã hội ở nước ta...)
- Giáo dục học sinh các thái độ viết văn nghiêm túc, tích cực, sáng tạo, tránh
thái độ qua loa, cẩu thả, đại khái hay cầu kì sáo rỗng.
3.2.6. Đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên
a. Xây dựng hệ thống câu hỏi chú ý đến đối tượng học sinh yếu
- Khi tiếp xúc với một tác phẩm văn chương, điều đầu tiên giáo viên cần ở
học sinh là những cảm xúc, những rung động thật sự của các em trước thiên nhiên,
14


cuộc sống, con người. Song, những nhận thức cảm tính, những rung động tự nhiên
ấy ở học sinh là rất ít do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Bản thân tôi muốn
nhấn mạnh: muốn có cảm xúc thật sự thì phải hiểu sâu vấn đề nghĩa là năng lực cảm
xúc nằm ở nhận thức. Phải hiểu thì rung cảm mới có cơ sở.Song với đối tượng học
sinh yếu, việc hiểu bài là rất khó khăn. bên cạnh nội dung câu hỏi vừa sức, bám sát
kiến thức trọng tâm, cũng phải chú ý đến kĩ năng đặt câu hỏi: lời văn ngắn gọn, dễ
hiểu; tối kị đặt những câu hỏi dài, rườm rà gây khó hiểu. Từ thực tế giảng dạy, tôi
nhận ra rằng cũng nên đặt nhiều câu hỏi phát hiện, tái hiện, khái quát cho đối tượng

này hơn là các câu hỏi suy luận, vận dụng để các em nắm bài tốt hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài “Đại cáo bình Ngô”, phần I- Tác giả: những câu hỏi tái hiện vừa
sức với đối tượng học sinh này như:
- Nguyễn Trãi được sinh ra trong một gia đình như thế nào?
- Nguyễn Trãi sống dưới những triều đại nào?
- Những sự kiện nào trong cuộc đời ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp cứu nước và
sự nghiệp văn thơ của ông?
- Kể tên những tác phẩm chính?
- Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Trãi?
Cũng nội dung trên, song với đối tượng học sinh yếu, tôi sử dụng chủ yếu câu hỏi tái
hiện thì với đối tượng học sinh từ trung bình trở lên, bên cạnh câu hỏi tái hiện, tôi đặt
nhiều câu hỏi khái quát, suy luận, vận dụng:
- Bản thân em đánh giá như thế nào về Nguyễn Trãi?
- Những yếu tố nào góp phần tạo nên những thành công lớn ấy?
- Chứng minh Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất?...
b. Tăng cường hoạt động của học sinh yếu qua hoạt động nhóm
* Ý nghĩa của phương pháp thảo luận nhóm
- Trong những năm gần đây, có nhiều phương pháp được giới thiệu và bồi
dưỡng cho giáo viên, đáng chú ý hơn cả là phương pháp Thảo luận nhóm trong lớp
15


học. Theo ý kiến của nhiều nhà sư phạm, nhà nghiên cứu giáo dục, cần phải khắc
phục ngay lối học thụ động đã được hình thành trong nhà trường nhiều năm qua
bằng cách khuyến khích học sinh tham gia một cách chủ động và tích cực trong việc
học thông qua việc cho học sinh thảo luận nhóm ngay trong lớp dưới sự hướng dẫn
của thầy cô giáo bộ môn.
- Phương pháp Thảo luận nhóm trong học tập là phương pháp học sinh
không còn làm việc cá nhân mà là làm việc chung với nhau bằng những nhóm nhỏ,
thảo luận chung trong nhóm về những vấn đề do giáo viên đề ra nhằm mục đích tìm

hiểu những nội dung và tự giải đáp trước khi vấn đề đó được giải quyết với sự giám
sát, điều chỉnh chung của lớp học và của giáo viên.
Nhưng việc Thảo luận nhóm trong lớp sẽ được tổ chức như thế nào cho hiệu
quả? Mục tiêu của nó là gì?
Qua thực tế giảng dạy và dự giờ của đồng nghiệp (kể cả những môn học
khác) tôi nhận thấy rằng, với những câu hỏi thảo luận nhóm, giáo viên chia lớp thành
các nhóm, học sinh thảo luận và cử đại diện trả lời. Chính vì thế, đây là việc làm của
học sinh từ học lực trung bình trở lên. Học sinh yếu không tham gia được ý kiến nào
(thời gian quy định) lại càng không thể làm đại diện nhóm trả lời. Mặt khác, không
phải hễ cứ chia nhóm là tất cả mọi thành viên đều tích cực mà còn xuất hiện tâm lý ỷ
lại vào nhóm trưởng ( vì nhóm trưởng thừơng là học khá hoặc tích cực hơn). Như
vậy, một số học sinh khác sẽ biến thành thụ động. Nhóm càng đông, càng nhiều em
thụ động.
b. Biện pháp phát huy học sinh tham gia hoạt động nhóm
+ Thứ nhất, tích cực giám sát khi nhóm thảo luận. GV đi vòng quanh các
nhóm và lắng nghe ý kiến học sinh. Quan sát để xem có học sinh nào “đứng bên lề”
hoạt động không? Nếu có, giáo viên tìm cách đưa các em vào không khí chung của
nhóm.
16


+ Thứ hai, không nên bao giờ cũng để học sinh tự cử đại diện nhóm trả lời mà
giáo viên chỉ định 1 em bất kì của nhóm. Hoặc có một tình huống, tôi chỉ định trước
em A đại diện nhóm trả lời (A học yếu môn Văn). Khi nghe nói : điểm của em A
chính là điểm thảo luận của cả nhóm, nhiều em khác cùng tham gia ý kiến, bổ sung,
giảng giải để em A hiểu ở mức tốt nhất có thể.
+ Trong tình huống khác, tôi cũng tìm cách tăng cường hoạt động của các em
trong thảo luận nhóm đôi bằng cách cho các em đổi chéo bài cho nhau và tự chấm,
hình thức này phù hợp với các bài tập trắc nghiệm hay kiểm tra kiến thức văn học.
Sau khi chấm, ghi kết quả vào bài (số câu đúng-sai).

Với thao tác như trên, giáo viên yêu cầu được tất cả học sinh cùng tham gia tiết học,
đặc biệt là học sinh yếu. Đồng thời, phát huy hiệu quả của thảo luận nhóm- thực
chất là trợ giúp, chia sẻ, chung sức, lắng nghe, thuyết phục.
c. Phân loại bài tập
* Bài tập trên lớp
Trong một tiết học, đến phần bài tập, giáo viên phân ra từng đối tượng học
sinh. Bài tập 1 cho nhóm học sinh yếu làm, bài 2 nhóm trung bình, bài 3 nhóm khágiỏi, như vậy hy vọng mới khắc phục dần tình trạng học sinh yếu. Nếu giáo viên cứ
cho học sinh hoạt động bình thường như nhau thì học sinh yếu không theo kịp thậm
chí có khi không biết gì. Đồng thời, những lỗi thường gặp ở học sinh yếu đều phải
được chú trọng sửa chữa, uốn nắn qua các bài tập.
* Bài tập về nhà cũng tương tự như trên.
Ví dụ: Sau khi học xong đoạn trích “Nỗi thương mình” (Trích Truyện

Kiều-

Nguyễn Du) tôi giao bài tập cho học sinh ở các mức độ khác nhau như sau:
- Nhóm 1(yếu): Thống kê các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn
trích? Mỗi biện pháp nghệ thuật nêu 1 ví dụ minh họa.
17


- Nhóm 2(trung bình): Những phẩm chất cao quý của Kiều trong “Trao duyên” và
“Nỗi thương mình”?
- Nhóm 3(khá, giỏi): Nỗi thương mình của nhân vật Kiều có ý nghĩa mới mẻ như
thế nào đối với văn học Trung đại?
d. Theo dõi sự tiến bộ của học sinh
Qua các bài kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì, tôi cũng lưu ý mức độ
tiến bộ của các em, đánh dấu vào bảng theo dõi ở trên. Nhận xét những em có tiến
bộ để động viên em cố gắng hơn. Chẳng hạn, những em diễn đạt lủng củng được lưu
ý nên viết những câu gọn, ít thành phần thì qua bài viết này có tiến bộ gì không?

Thực tế, nhờ vào bảng ghi chú cá nhân như đã nói ở trên, trong giờ học, trong bất kì
tình huống nào tôi cũng có thể nhận xét các em ở mặt này hay mặt khác đã tiến bộ
hay chưa.
4. KẾT QUẢ CỤ THỂ

- Lựa chọn và áp dụng linh hoạt một số biện pháp trên, tôi nhận thấy một số
em học yếu cũng phần nào cải thiện được chất lượng học tập của mình. Điều đó
được thể hiện qua sự tham gia của các em vào các hoạt động học tập trong giờ học,
qua kết quả của các bài kiểm tra.
- Cụ thể:
Lớp

Tổng số HS

10A4
10A5

36
37

Điểm yếu cần khắc phục
Kiến thức
Diễn đạt
Kỹ năng
7 (19,4%)
10 (27,8%)
5 (13,9%)
5 (13,5%)
12 (32,4%)
4 (10,8%)


18


PHẦN KẾT LUẬN
Mỗi biện pháp đều có những ưu điểm và hạn chế riêng; không thể có một biện
pháp tối ưu cho mọi trường hợp. Thêm vào đó, việc thực hiện có hiệu quả mỗi cách
dạy luôn đòi hỏi người dạy và người học phải có những phẩm chất, kỹ năng nhất
định và những điều kiện cần thiết để đảm bảo thực hiện. Vì vậy, vấn đề không phải
là cách dạy nào tốt hơn, mà là cách dạy nào phù hợp hơn.
Theo tôi, học sinh yếu kém có nhiều nguyên nhân: có thể do hoàn cảnh gia
đình, học mất gốc, lười học cả ở lớp lẫn ở nhà, chưa có ý thức tự giác trong việc học
và cũng có thể phần nào giáo viên dạy bộ môn chưa có biện pháp truyền đạt thu hút
và lôi kéo học sinh vào bài giảng ... Làm thế nào để nâng cao đầu yếu? Đó là cả một
vấn đề rất khó khăn. Trên đây chỉ là một vài biện pháp mà bản thân tôi đã thực hiện.
Rất mong sự đóng góp, trao đổi ý kiến từ các đồng nghiệp.

Chân thành cảm ơn các đồng chí !

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cẩm nang văn học – Tạ Đức Hiền- NXB Hà Nội
2. Hướng dẫn làm văn- Trần Đình Sử – NXB Giáo Dục
3. Luyện viết bài văn hay – Trần Đình Sử – NXB Giáo Dục
4. Từ vựng ngữ nghĩa - Đỗ Hữu Châu – NXB Giáo Dục
5. Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện- Phạm Văn Đồng
6. Một số ý kiến về việc giải thích nghĩa của từ trong từ điển Tiếng Việt – Đỗ
Hữu Châu.


20


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Phần mở đầu
I.

Lí do chọn đề tài............................................................................. 2

II.

Mục đích nghiên cứu...................................................................... 2

III.

Đối tượng khảo sát thực nghiệm..................................................... 3

IV.

Phương pháp nghiên cứu.................................................................3

V.

Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu.....................................................3


Phần nội dung................................................................................................4
1.Cơ sở lí luận ........ ..... ............................................................................4
2. Cơ sở thực tiễn........................................................................................5
3. Những giải pháp cơ bản........................................................................6
4. Kết quả cụ thể........................................................................................19
Phần kết luận..................................................................................................20
Tài liệu tham khảo..........................................................................................21
Mục lục.............................................................................................................22

21


22



×