MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, khi toàn cầu hóa, khu vực hóa là xu thế chủ đạo,
cách mạng khoa học - công nghệ đã và đang làm thay đổi toàn bộ nền sản xuất, trở
thành động lực trực tiếp của sự phát triển, buộc mỗi quốc gia, dân tộc phải mở cửa,
tham gia hội nhập kinh tế để phát huy có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế của mình,
tranh thủ vị trí có lợi nhất trong phân công lao động và hợp tác quốc tế, nâng cao sức
mạnh của nền kinh tế thì hoạt động kinh tế đối ngoại ngày càng trở nên vô cùng quan
trọng, có những đóng góp to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Đối với Việt Nam, trên cơ sở của nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, lạc
hậu, năng suất lao động thấp, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn chưa cao, sản xuất
chưa đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của xã hội, thì việc tranh thủ các nguồn lực từ
bên ngoài có tầm quan trọng đặc biệt. Nhận thức được điều đó, Đảng ta đã chủ
trương tập trung mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế đối ngoại. Nhiều Nghị
quyết về kinh tế đối ngoại đã được Đảng ban hành như: Nghị quyết số 13 của Bộ
Chính trị năm 1988, Nghị quyết số 06 - NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương
(BCHTƯ) Đảng (khóa VI) năm 1989, Nghị quyết 03 - NQ/TW của BCHTƯ
Đảng (khóa VII) năm 1992, Nghị quyết số 01/NQ - TW của Bộ Chính trị năm
1996, Nghị quyết số 07 - NQ/TW của Bộ Chính trị năm 2001. Nhờ đó, kinh tế đối
ngoại nước ta đã có bước phát triển, góp phần tích cực vào thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới, đẩy nhanh nhịp độ CNH, HĐH, thúc đẩy tăng trưởng và phát
triển kinh tế - xã hội, nâng cao thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế.
Hải Phòng là thành phố có vị trí chiến lược, là trung tâm dịch vụ, thuỷ sản
của vùng duyên hải Bắc Bộ, là một trong những trung tâm công nghiệp, thương
mại lớn của cả nước, thực hiện vai trò là đầu mối giao thông quan trọng, cửa
chính ra biển và các tỉnh phía Bắc. Thời kỳ 1991 - 2000, Đảng bộ thành phố Hải
Phòng đã đề ra quan điểm, chủ trương lãnh đạo phát triển kinh tế đối ngoại, có ý
nghĩa chiến lược nhằm tập trung sức mạnh của nhiều nguồn lực cho đổi mới
hoạt động kinh tế đối ngoại.
1
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ thành phố, hoạt động kinh tế đối ngoại
của Hải Phòng đã có bước phát triển mới, đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp
phần vào quá trình phát triển thành phố và đất nước. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế
đối ngoại của Hải Phòng chưa tương xứng với tiềm năng của thành phố, chưa khai
thác tốt nhất các lợi thế phục vụ cho phát triển kinh tế đối ngoại; việc hoạch định chủ
trương và chỉ đạo thực hiện hoạt động kinh tế đối ngoại của Đảng bộ thành phố còn có
những hạn chế, chủ trương phát triển kinh tế đối ngoại vẫn chưa có tầm nhìn chiến
lược, sự chỉ đạo thực hiện có phần chậm trễ, thiếu chủ động, chưa có sự sâu sắc, sát
xao. Đặc biệt, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang đặt ra nhiều thách thức
đối với quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng bộ Hải Phòng.
Như vậy, để thực hiện mục tiêu xây dựng Hải Phòng trở thành một thành
phố “mở”, một trung tâm kinh tế đối ngoại kinh tế đối ngoại lớn của cả nước, việc
tái hiện, tổng kết, đánh giá một cách hệ thống, toàn diện quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng bộ thành phố Hải Phòng đối với kinh tế đối ngoại từ năm 1991 đến năm
2000, chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế, nghiêm túc tìm ra nguyên nhân, từ đó rút
kinh nghiệm làm căn cứ khoa học cho sự điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện chủ
trương, chính sách kinh tế đối ngoại trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề hết sức
cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Với những lý do trên tác giả chọn vấn đề
“Đảng bộ Thành phố Hải Phòng lãnh đạo kinh tế đối ngoại từ năm 1991 đến
năm 2000” làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế
đối ngoại, mở rộng không gian kinh tế thành phố đến năm 2010 là công trình
nghiên cứu của tác giá Đan Đức Hiệp, (Nxb Hải Phòng, 2007). Định hướng,
nhiệm vụ và giải pháp mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại giai
đoạn 2006 - 2010 và đến năm 2020 của tập thể tác giả Phạm Hữu Thư, Phí Văn
Lực, Lê Văn Quí. Nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển dịch vụ phục vụ
hoạt động của các cảng biển trên địa bàn thành phố Hải Phòng là chuyên đề
nghiên cứu của tác giả Trần Văn Hiếu (trung tâm lưu trữ thành uỷ). Thực trạng
phát triển du lịch Hải Phòng giai đoạn 2001- 2005; đề xuất phương hướng, mục
2
tiêu, những giải pháp cơ bản thực hiện trong giai đoạn 2006 - 2010 để du lịch
trở thành ngành kinh tế dịch vụ chủ lực của Hải Phòng là công trình nghiên cứu
của tác giả Trần Trung Dũng (trung tâm lưu trữ thành uỷ). Đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Hải Phòng - nhìn từ góc độ lợi thế là bài viết của tác giả Phạm Thị
Quỳnh Liên (Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á, số 9, 2009).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ sự lãnh đạo kinh tế đối ngoại của Đảng bộ thành phố Hải Phòng
từ năm 1991 đến năm 2000, từ chủ trương, quan điểm đến quá trình chỉ đạo thực
hiện; rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm quan trọng vận dụng vào thực tiễn mở
rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại Hải Phòng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu như đã nêu ở trên, đề tài triển khai
những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu, làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình Đảng bộ
thành phố Hải Phòng lãnh đạo kinh tế đối ngoại từ năm 1991 đến năm 2000.
- Phân tích chủ trương về kinh tế đối ngoại của Đảng bộ thành phố Hải
Phòng từ năm 1991 đến năm 2000.
- Trình bày quá trình Đảng bộ thành phố Hải Phòng chỉ đạo thực hiện các
hoạt động kinh tế đối ngoại trên các lĩnh vực từ năm 1991 đến năm 2000.
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
kinh tế đối ngoại ở Hải Phòng. Rút ra những nhận xét và kinh nghiệm từ quá
trình thực tiễn Đảng bộ Hải Phòng hoạch định chủ trương, triển khai thực hiện
hoạt động kinh tế đối ngoại của thành phố từ năm 1991 đến năm 2000.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chủ trương của Đảng bộ Hải Phòng trong lãnh đạo kinh tế đối ngoại từ
năm 1991 đến năm 2000. Thực tiễn công tác chỉ đạo kinh tế đối ngoại của Đảng
bộ thành phố Hải Phòng từ năm 1991 đến năm 2000.
3
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung khoa học: kinh tế đối ngoại là một lĩnh vực phong phú và đa
dạng, hiện nay chưa có một quan điểm thống nhất hoàn toàn về nội dung, mỗi quan
điểm có cách nhìn nhận riêng dựa trên những đặc trưng cơ bản: kinh tế đối ngoại là
quan hệ kinh tế với bên ngoài, kinh tế đối ngoại là lĩnh vực có nội dung rộng lớn,
thể hiện dưới nhiều hình thức hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau, tạo nên
một thể thống nhất, qua đó xác định vị trí nền kinh tế của mỗi quốc gia trong hệ
thống kinh tế thế giới. Trong phạm vi khoa học, đề tài tập trung nghiên cứu những
chủ trương và những giải pháp lớn thực hiện chủ trương của Đảng bộ thành phố Hải
Phòng đề ra nhằm phát triển kinh tế đối ngoại trên các lĩnh vực: toàn bộ những hoạt
động về hợp tác đầu tư với nước ngoài; các hoạt động ngoại thương, xuất, nhập
khẩu; các hoạt động hợp tác về khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ với nước
ngoài; các hoạt động dịch vụ nhằm thu ngoại tệ như: du lịch quốc tế, vận tải quốc tế,
hợp tác về lao động.
Về không gian: Hoạt động lãnh đạo phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng
bộ Hải Phòng tại thành phố Hải Phòng.
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu quá trình Đảng bộ thành phố Hải Phòng
lãnh đạo kinh tế đối ngoại trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến năm 2000.
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài để có cái nhìn tổng thể,
tiếp nối, đề tài có sử dụng một số tài liệu, tư liệu liên quan thời gian trước năm
1991 và sau năm 2000.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
5.1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1.1. Cơ sở lý luận
Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế đối ngoại là cơ sở
lý luận và phương pháp luận để giải quyết đề tài.
5.1.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận chung của chủ nghĩa Mác - Lênin, để hoàn thành
mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng rộng rãi các phương pháp phổ
4
quát của khoa học lịch sử như: phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc và các
phương pháp cơ bản khác như phân tích, tổng hợp, đối chiếu, thống kê, so sánh.
Cụ thể:
Phương pháp lịch sử được sử dụng chủ yếu trong chương 1 và chương 2,
dùng trong phân kỳ các giai đoạn lịch sử 1991- 1995; 1996 - 2000, quá trình hệ
thống hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng, Đảng bộ thành phố Hải Phòng
theo tiến trình lịch sử trong từng chương, tiết để thấy rõ sự hình thành và phát
triển đường lối, chủ trương phát triển kinh tế đối ngoại; dùng trong chứng minh
các nhận định và khái quát lịch sử.
Các phương pháp khái quát hoá, tổng hợp hệ thống hoá, thống kê, so sánh…
được kết hợp sử dụng ở các chương để xử lý các sự kiện, con số nhằm làm rõ quá
trình lãnh đạo, chỉ đạo kinh tế đối ngoại của Đảng bộ Hải Phòng trong từng giai
đoạn lịch sử đạt được những thành tựu, những hạn chế, yếu kém cần khắc phục,
nguyên nhân hạn chế, luận giải rút ra những kinh nghiệm lịch sử có giá trị lý luận
và thực tiễn trong quá trình Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo, chỉ đạo kinh tế
đối ngoại từ năm 1991 đến năm 2000.
5.2. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho tính khả thi của một đề
tài nghiên cứu khoa học. Để thực hiện đề tài, tác giả dựa vào các nguồn tư liệu
chủ yếu sau:
Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế, kinh tế đối ngoại.
Một nguồn tài liệu đặc biệt quan trọng trong quá trình nghiên cứu là các
Quyết định, Nghị quyết, Chỉ thị, của Đảng bộ thành phố Hải Phòng trong lãnh
đạo, chỉ đạo kinh tế đối ngoại. Báo cáo tổng kết của Thành uỷ Hải Phòng,
UBND thành phố, các cơ quan, sở, ban, ngành trên địa bàn thành phố về kinh tế,
kinh tế - xã hội, kinh tế đối ngoại được lưu trữ ở Văn phòng Thành uỷ, Uỷ ban
nhân dân thành phố.
5
Công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước đề cập
hoặc liên quan đến đề tài được đăng tải trên sách, báo, tạp chí. Kết quả nghiên
cứu, tổng hợp của các đề tài khoa học có liên quan đã được xã hội hóa.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài có thể được đánh giá như một công trình khoa học độc lập đầu tiên
nghiên cứu một cách hệ thống chủ trương của Đảng bộ thành phố Hải Phòng về
kinh tế đối ngoại những năm 1991 - 2000 với các đóng góp chính sau:
6.1. Những đóng góp khoa học
Thứ nhất, đề tài phân tích làm rõ các yếu tố ảnh hưởng, chi phối sự lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Hải Phòng trong hoạt động kinh tế đối
ngoại; chỉ ra những yêu cầu, mục tiêu của kinh tế đối ngoại Hải Phòng từ năm
1991 đến năm 2000.
Thứ hai, khái quát và hệ thống hoá những quan điểm, chủ trương của
Đảng bộ thành phố Hải Phòng, những bước phát triển trong các chủ trương của
Đảng bộ thành phố đối với hoạt động kinh tế đối ngoại qua hai giai đoạn: 1991 1995; 1996 - 2000. Phục dựng lại thực tiễn quá trình chỉ đạo kinh tế đối ngoại
của Đảng bộ Hải Phòng trong những năm 1991 - 2000 với ưu điểm, hạn chế; rút
ra những kinh nghiệm lịch sử.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thứ nhất, đề tài góp phần bổ sung căn cứ lý luận và thực tiễn cho công
cuộc đẩy mạnh phát triển kinh tế đối ngoại Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy lịch sử Hải Phòng, cung cấp hệ thống tư liệu lịch sử liên quan đến mảng đề
tài Đảng lãnh đạo kinh tế đối ngoại; đồng thời góp phần làm phong phú hệ thống
tư liệu về lịch sử Đảng bộ thành phố Hải Phòng.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu; kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài kết
cấu thành 3 chương, 6 tiết.
Chương 1. Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo kinh tế đối ngoại giai
đoạn 1991 - 1995.
6
Chương 2. Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo đẩy mạnh kinh tế đối
ngoại giai đoạn 1996 - 2000
Chương 3. Nhận xét và kinh nghiệm
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ
HẢI PHÒNG VỀ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI GIAI ĐOẠN 1991 - 1995
1.1. Những yếu tố ảnh hưởng và chủ trương của Đảng bộ Hải Phòng
về kinh tế đối ngoại giai đoạn 1991 - 1995
1.1.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự lãnh đạo kinh tế đối ngoại của
Đảng bộ thành phố Hải Phòng
1.1.1.1. Tác động của bối cảnh quốc tế và khu vực
Thứ nhất: Tác động của toàn cầu hoá
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mà sự tác
động của nó đã và đang chuyển đổi nền văn minh công nghiệp sang văn minh
hậu công nghiệp làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt về chất.
Nền kinh tế dựa trên văn minh hậu công nghiệp là một nền kinh tế mà tri thức
trở thành nội dung chủ yếu, nền kinh tế lấy công nghệ thông tin làm hạ tầng cơ
sở; lấy thị trường toàn cầu làm phạm vi hoạt động; lấy mạng lưới hoá các xí
nghiệp làm phương tiện thông tin; phát triển bền vững làm mục tiêu.
Toàn cầu hoá, khu vực hoá trở thành đặc điểm của sự phát triển thế giới,
một xu hướng làm thay đổi chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại và đặt chiến
lược phát triển kinh tế đối ngoại nước ta trở thành một bộ phận của kinh tế quốc
tế. Toàn cầu hoá, dưới góc độ kinh tế là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ
kinh tế phát triển vượt qua các rào cản bởi biên giới quốc gia và khu vực, lan toả
ra phạm vi toàn cầu, trong đó hàng hoá, vốn... vận động thông thoáng; sự phân
công lao động mang tính quốc tế; quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, khu vực
đan xen nhau, hình thành mạng lưới quan hệ đa chiều. Toàn cầu hoá hiện nay
mang lại cả cơ hội và thách thức. Về cơ hội: toàn cầu hoá, khu vực hoá đưa lại
cho mỗi quốc gia những cơ hội lớn trên cơ sở thị trường được mở rộng, trao đổi
7
hàng hoá tăng mạnh đã thúc đẩy phát triển sản xuất của các nước, nguồn vốn,
khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý cùng các hình thức đầu tư, hợp tác
khác mang lại lợi ích cho các bên tham gia hợp tác. Toàn cầu hoá làm tăng tính
phụ thuộc lẫn nhau, nâng cao sự hiểu biết giữa các quốc gia, thuận lợi cho việc xây
dựng môi trường hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa các nước. Về thách thức, toàn
cầu hoá diễn ra trong điều kiện phát triển không đều về trình độ giữa các nước, nên
khi hội nhập kinh tế quốc tế thì các nước đang phát triển phải đối mặt trước nhiều
thách thức như: chênh lệch giàu nghèo giữa các nhóm nước đang tăng nhanh; các
nước công nghiệp phát triển thao túng, chi phối quá trình toàn cầu hoá tạo nên sự
bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế.
Thứ hai : Tác động của tình hình chính trị - xã hội quốc tế
Hoà bình, ổn định, đối thoại và hợp tác vì sự tiến bộ và phát triển đã và
đang là dòng chảy chính, Đảng ta nhận định “trong những năm sắp tới, trên thế
giới hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn
biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung
đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, bạo loạn
chính trị, can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe doạ an
ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền
tệ…còn tiếp tục gia tăng” [13, tr. 317].
Thứ ba : Tác động của tình hình kinh tế - kỹ thuật thế giới
Thương mại điện tử gia tăng nhanh góp phần toàn cầu hoá về thương mại.
Từ khi mạng Internet ra đời đã làm cho giá trị thương mại qua mạng điện tử tăng
rất nhanh. Ở những nước có nền thương mại lớn thì thương mại điện tử là
phương thức không thể thiếu để tăng lợi thế cạnh tranh vì đưa hàng hoá ra thị
trường thế giới với tốc độ nhanh hơn, nhiều hơn với chi phí thấp hơn.
Công nghệ sinh học và công nghệ thông tin là hai ngành trọng điểm vào nửa
cuối thế kỷ XX và phát triển với tốc độ nhanh chóng, mang lại những thành quả to
lớn áp dụng vào thực tiễn đời sống và hoạt động kinh tế, đã tác động mạnh mẽ đến
sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới cũng như mỗi quốc gia. Số lượng sản
phẩm tăng lên nhanh chóng đòi hỏi quá trình phát triển kinh tế đối ngoại của mỗi
nước phải được tiến hành nhanh, mạnh và có chất lượng. Các phương tiện kinh
8
doanh thương mại ngày càng hoàn hảo, thông tin kinh doanh và thị trường càng
phổ biến và cập nhật với chi phí rẻ cũng là những điều kiện góp phần thúc đẩy kinh
tế đối ngoại phát triển.
Thứ tư : Yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ, phát triển kinh tế - xã
hội của thành phố và đất nước
Tình hình thế giới và khu vực đã, đang tạo nên bối cảnh mới đầy sôi động,
một xu hướng vừa có cơ hội vừa có thách thức đòi hỏi các nước nói chung và nước
ta nói riêng cần phải quan tâm khi xác định đường lối, quan điểm định hướng phát
triển kinh tế đối ngoại để vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội đẩy mạnh hội nhập
trong xu thế của thời đại mới và phù hợp với khả năng của dân tộc.
Kinh nghiệm thực tiễn phát triển kinh tế đối ngoại cho thấy, quốc gia nào
sớm nhận thức và sớm tính đến tác động của xu thế phát triển của thế giới, khu vực
thì quốc gia đó sẽ sớm điều chỉnh, đổi mới hoặc cải cách chiến lược, luật pháp,
chính sách và cơ chế kinh tế, quốc gia đó sẽ sớm nắm bắt được cơ hội để nhanh
phát triển rút ngắn khoảng cách tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu
vực và trên thế giới trong đó có kinh tế đối ngoại.
Ngày nay, cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng gay gắt
vì thế nước ta phải chú trọng cải thiện môi trường đầu tư. Các nước cũng đang
có xu hướng chuyển đầu tư từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức,
do đó dòng vốn đầu tư sẽ chảy vào các nước có nền khoa học và hàm lượng chất
xám cao, vì thế yêu cầu đặt ra cho Việt Nam và Hải Phòng là phải phát triển
khoa học - thuật gắn với kinh tế tri thức.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế Hải Phòng đã có bước
phát triển nhất định nhưng nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các tỉnh, thành phố
bạn vẫn tồn tại. Bên cạnh đó, mục tiêu đưa Hải Phòng phải trở thành một thành
phố công nghiệp hiện đại vào năm 2020, một cực kinh tế quan trọng của vùng
kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải phòng - Quảng Ninh, đang đặt ra những thách
thức mới với thành phố. Việc phát phát triển kinh tế đối ngoại nhằm huy mọi tiềm
năng, lợi thế của thành phố và tranh thủ tối đa sức mạnh thời đại để phát triển
9
kinh tế thực hiện nhiệm vụ mà Bộ Chính trị giao cho Hải Phòng là một yêu cầu
bức thiết đối với thành phố.
1.1.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
Thứ nhất : Vị trí địa lý và tiềm năng tự nhiên để phát triển kinh tế
Là một thành phố hiền hoà nằm bên bờ biển Đông thuộc miền duyên hải
Bắc Bộ, Hải Phòng là thành phố Cảng có diện tích 1.523,4 km 2. Phía Đông
thành phố giáp với vịnh Bắc Bộ, Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây, Nam
giáp hai tỉnh Hải Dương và Thái Bình là vùng đồng bằng trù phú của châu thổ
sông Hồng, cách thủ đô Hà Nội 102km, với chiều dài 125km bờ biển, 4000km 2
diện tích vùng biển và 100.000km2 thềm lục địa, nằm ở tuyến huyết mạch giữa
Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, trung cận đông với Trung Quốc, Nhật Bản
và với các nước trong khu vực. Trong vùng biển của Hải Phòng có nhiều đảo và
quần đảo, quần đảo Cát bà cách trung tâm thành phố 60 km án ngữ con đường
vào cảng Hải Phòng qua cửa Nam Triệu và xa nhất là đảo Bạch Long Vĩ, nơi
được coi là “vọng gác tiền tiêu” của Hải Phòng và miền Bắc. Trung bình cứ 20
km đường bờ biển là có một cửa sông lớn, biển Hải Phòng thuận lợi cho việc
phát triển hệ thống cảng và vận tải đường biển.
Hải Phòng là đầu mối giao thông quan trọng, cửa ngõ ra biển của các tỉnh phía
Bắc, Hải Phòng hội đủ các loại hình giao thông đồng bộ: đường thuỷ, đường sắt,
đường hàng không và hệ thống cảng biển nối với các tỉnh, thành phố phía Bắc, cả
nước và quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển dịch vụ vận tải, hoạt động xuất,
nhập khẩu và các dịch vụ cảng biển khác kèm theo. Cảng biển Hải Phòng phát triển từ
khá sớm cùng với cảng Sài Gòn là một trong hai hệ thống cảng biển lớn nhất của Việt
Nam. Cảng Hải Phòng có lợi thế cạnh tranh vượt trội, do nằm ở trung tâm duyên hải
Bắc Bộ, cho phép giảm thiểu tổng quãng đường vận chuyển hàng hoá của các địa
phương trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và cả miền Bắc.
Nằm ở vị trí quan trọng chiến lược, Hải Phòng khá thuận lợi trong tiếp cận
với các tuyến đường hàng hải quốc tế, giàu có về tài nguyên biển với các ngư
trường chủ yếu của vịnh Bắc Bộ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế thuỷ sản và
công nghiệp chế biến thuỷ sản phát triển, có tiềm năng dầu khí, khoáng sản trong
10
thềm lục địa. Hải Phòng từ lâu đã rất nổi tiếng với cảnh quan bãi biển, đảo đẹp, đây
là tiền đề cho dịch vụ du lịch thu hút khách du lịch trong nước và đặc biệt là khách
nước ngoài đến thành phố. Hải phòng chính là chiếc cầu nối quan trọng tạo nên cơ
sở khách quan để thành phố trở thành trung tâm giao lưu, hội nhập, hợp tác về kinh
tế, văn hoá, giữa thành phố với các tỉnh trong nước, nước ngoài, giữa nước ta với
Tây Nam Trung Quốc và các nước trong khu vực cũng như trên thế giới, đặc biệt là
với các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Hệ thống giao thông thuận
lợi và cảng biển ngày càng được phát triển là một yếu tố hấp dẫn được nhiều nhà
đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào Hải Phòng với mục đích trước hết là
giảm thiểu chi phí vận chuyển.
Thứ hai : Điều kiện kinh tế - xã hội
Về kinh tế: Với lịch sử hơn 100 năm phát triển, kinh tế Hải Phòng phát
triển khá toàn diện, GDP tăng liên tục với tốc độ cao và ổn định, năm sau cao
hơn năm trước và bình quân tăng hơn 1,5 lần mức tăng chung của cả nước. Hải
Phòng luôn là thành phố công nghiệp lớn của miền Bắc và cả nước.
Với lợi thế giao thông, cảng biển, công nghiệp Hải Phòng đã phát triển
tương đối đa dạng về ngành nghề nhưng tập trung nhất là ngành đóng mới và sửa
chữa tàu biển, cơ khí nặng, siêu trường, siêu trọng, luyện thép, vật liệu xây dựng,
tồn trữ và phân phối khí gas, xăng dầu; những ngành liên quan đến chế biến, xuất,
nhập khẩu như may mặc, giầy dép, chế biến lương thực, thực phẩm. Các ngành
dịch vụ khai thác lợi thế của cảng biển, giao thông cũng sớm được phát triển như
dịch vụ cảng, kho bãi, vận tải biển, vận tải bộ, dịch vụ thương mại, dịch vụ du
lịch….Công nghiệp, dịch vụ phát triển cùng với cơ sở hạ tậng kỹ thuật được đầu tư
tương đối đồng bộ, các đô thị công nghiệp vệ tinh đảm bảo cho các cơ sở kinh tế
mới được đầu tư trên địa bàn Hải Phòng có điều kiện phát triển thuận lợi.
Về nguồn lao động: Nguồn nhân lực của Hải phòng là một trong những nhân
tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài và phát triển kinh tế
đối ngoại. Là thành phố có trên 100 năm phát triển công nghiệp và cảng biển nên
đã hình thành một đội ngũ công nhân đông đảo, giàu truyền thống. Nguồn lao động
của Hải Phòng mang sẵn tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật và tâm lý
kinh doanh nhạy bén, chăm chỉ, sáng tạo, năng động, ham học hỏi tích luỹ được
11
kinh nghiệm quản lý và kiến thức kinh tế thị trường. Hải Phòng là một trong những
tỉnh mở cửa và hội nhập kinh tế sớm nhất, nhiều doanh nhân Hải Phòng đã thành
công tại thành phố và ở các địa phương khác.
Hải Phòng đã hình thành một hệ thống các trường đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp, đặc biệt là các trường kỹ thuật dạy nghề. Tổng số có
trên 50 cơ sở dạy nghề với ngành nghề đa dạng, bình quân có trên 1,8 vạn lao
động được đào tạo nghề hàng năm và hệ thống dịch vụ việc làm đã tạo nguồn
nhân lực vừa có tay nghề, trình độ chuyên môn vừa có phẩm chất đạo đức tốt
phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Bên cạnh đó, với vai
trò trung tâm của vùng công nghiệp, dịch vụ, đô thị phát triển, Hải Phòng có sức
hấp dẫn về lao động với các tỉnh lân cận và cả nước.
Truyền thống kinh doanh: Hải Phòng là thành phố có truyền thống kinh
doanh và buôn bán hợp tác với nước ngoài. Ngay từ thời Bắc thuộc, nhiều
thuyền buôn Trung Quốc đã theo con đường ven biển qua cửa Cấm, Bạch Đằng
để buôn bán với Giao Châu. Trong thời kỳ thịnh đạt của nước Đại Việt dưới các
vương triều Lý, Trần, Lê, vùng cửa biển và các dòng sông lớn của Hải Phòng là
một trong những tuyến thông thương quan trọng giữa nước ta với nước ngoài
qua trung tâm mậu dịch của quốc gia là thương cảng Vân Đồn. Đến khi thực dân
Pháp xâm chiếm nước ta, Pháp đã tập trung xây dựng Hải Phòng trở thành một
hải cảng lớn. Vì thế, người dân Hải phòng sớm có tư duy phát triển kinh tế hàng
hoá và có kinh nghiệm trong hợp tác, buôn bán với người nước ngoài. Do cách
nghĩ, cách làm của người Hải Phòng khá tương đồng với các nhà đầu tư nước
ngoài nên ngay sau khi luật đầu tư nước ngoài được thông qua, ngày 17 - 01 1989, Hải Phòng đã thu hút được dự án đầu tư trực tiếp (FDI) đầu tiên trong cả
nước [26, tr. 17].
Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội: Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng
xã hội của Hải Phòng trong những năm gần đây đã được đầu tư phát triển tương
đối đồng bộ, từng bước hiện đại, vượt trội so với nhiều tỉnh, thành phố trong
nước. Hải Phòng được xác định là đô thị loại 1, đô thị trung tâm cấp quốc gia,
đang đẩy mạnh triển khai thực hiện Nghị quyết 32-NQ/TW của Bộ Chính trị, do
12
đó, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội tiếp tục được Trung ương và thành phố quan
tâm và dành nhiều kinh phí hơn cho đầu tư phát triển.
Với vị trí địa lý thuận lợi, Hải Phòng có điều kiện phát triển một hệ thống
giao thông liên hoàn. Cảng là một trong những hoạt động kinh tế chủ yếu của
Hải Phòng, Chính phủ và thành phố đã tập trung nâng cấp Cảng Hải Phòng,
hoàn thành, đưa vào sử dụng Cảng Đình Vũ, khởi công xây dựng cảng quốc tế
Lạch Huyện nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Hệ thống giao thông
đường bộ hiện đang được đầu tư một cách có hiệu quả. Thành phố đã có các
tuyến đường giao thông liên tỉnh cũng như giao thông nội thành bước đầu đáp
ứng được nhu cầu về vận tải, giao thương của thành phố. Tuyến đường sắt Hải
Phòng - Hà Nội dài 106 km. Đây là tuyến đường quan trọng vận chuyển hành
khách và hàng hoá từ cảng Hải Phòng lên Hà Nội. Tuyến đường sắt này góp
phần tăng cường khả năng vận tải của thành phố đến các tỉnh lân cận như: Hải
Dương, Hưng Yên, Hà Nội cũng như nội tỉnh Hải Phòng và các địa phương phía
Nam Trung Quốc qua các tỉnh Lào Cai, các tỉnh miền Trung và Nam Việt Nam.
Hiện nay, tuyến đường sắt này đang được nghiên cứu nâng cấp thành đường đôi
khổ rộng. Hải Phòng được bao bọc bởi các con sông lớn, trên địa bàn thành phố
có các cảng sông lớn vận chuyển hàng hoá đi các tỉnh lân cận và toàn quốc. Về
đường hàng không của Hải Phòng, sân bay Cát Bi dự kiến sẽ được nâng cấp
thành một sân bay quốc tế có thể đón được các máy bay hiện đại và mở rộng
thêm nhiều đường bay mới trong và ngoài nước. Hệ thống giao thông của thành
phố được quan tâm đúng mức, đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật cũng như đảm
bảo khả năng thông qua của các phương tiện. Tạo điều kiện thuận lợi cho các
hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh của doanh nghiệp cũng như hoạt động
kinh tế đối ngoại của Hải Phòng.
Hệ thống cấp nước của thành phố, hiện tại có 4 nhà máy xử lý và cấp
nước cho 4 khu vực, đạt 40 triệu m 3 trên một năm; hiện nay thành phố đang đầu
tư thêm 2 nhà máy nược tại thị trấn Minh Đức và quận Kiến An nhằm đáp ứng
yêu cầu nước sạch của nhân dân.
Hệ thống cấp điện của thành phố đã được đầu tư nâng cấp đáng kể từ
nguồn vốn ODA của Ngân hàng Phát triển Châu Á. Thành phố đã và đang chủ
13
động tập trung đầu tư nhằm cải thiện hệ thống thoát nước và xử lý rác thải của
thành phố bằng các nguồn vốn ngân sách và nguồn vốn ODA của Ngân hàng
Thế giới, Phần Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc… nhằm chấm dứt cơ bản tình trạng
ngập lụt của thành phố.
Cơ sở hạ tầng bưu chính viễn thông phát triển nhanh với công nghệ hiện
đại, đáp ứng kịp thời các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh
và đời sống nhân nhân. Các dịch vụ viễn thông được hiện đại hoá, áp dụng các
công nghệ tiên tiến trên thế giới nhằm đảm bảo các tiện ích sử dụng cũng như
phục vụ khách hàng.
Cơ sở hạ tầng xã hội đã và đang được đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp
các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề; các cơ sở y tế, các bệnh viện, các siêu
thị, trung tâm thương mại, khách sạn, các khu vui chơi giải trí..tạo chuyển biến
tích cực về chất lượng dịch vụ, từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật cũng như hạ tầng xã hội của thành phố đã được
phát triển, đặc biệt là những hạ tầng then chốt trong phát triển kinh tế và đảm
bảo đời sống xã hội. Những cơ sở hạ tầng đó đang ngày càng được đầu tư, cải
tạo, nâng cấp thông qua các nguồn đầu tư của Nhà nước và thành phố đáp ứng
yêu cầu phát triển của Hải Phòng.
Môi trường pháp lý: Thành phố đã có những cơ chế, chính sách ưu đãi,
khuyến khích, tạo sức hấp dẫn môi trường đầu tư, kinh doanh đẩy mạnh phát
triển kinh tế đối ngoại, nhất là thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI), phát triển xuất
khẩu. Thành phố đã ban hành nhiều quyết định về cơ chế, chính sách ưu đãi đối
với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Phòng. Thành phố cũng chỉ
đạo, rà soát bổ sung và hoàn thiện các văn bản mang tính pháp lý để phù hợp với
các văn bản pháp luật.
1.1.1.3. Kinh tế đối ngoại của Hải Phòng trước năm 1991
Ngay từ thời Bắc thuộc, nhiều thuyền buôn Trung Quốc đã theo con đường
ven biển qua cửa Cấm, Bạch Đằng để buôn bán với Giao Châu. Ngày nay, các nhà
khoa học đều khẳng định, những tư tưởng manh nha về phát triển kinh tế đối ngoại ở
14
Hải Phòng xuất hiện vào thời nhà Mạc. Khi đó Mạc Đăng Dung đã cho xây dựng
Hải Phòng trở thành trung tâm giao thương với nước ngoài bằng đường biển. Qua
các thời kỳ lịch sử, cùng với sự phát triển của thành phố, kinh tế đối ngoại của Hải
Phòng ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong sự phát triển của thành phố. Và
theo thời gian điều đó đã tạo nên nét đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thành phố với
các lĩnh vực chủ lực: ngoại thương, thu hút đầu tư, công nghệ, dịch vụ quốc tế.
Từ sau ngày giải phóng (13 - 5 - 1955), phát huy tiềm năng và lợi thế của
mình trước mặt là biển, sau lưng là hệ thống sông ngòi dày đặc đi khắp các tỉnh
đồng bằng sông Hồng, là cửa tiến vào đất liền cũng như ra biển thông thương với
quốc tế, thành phố đã tập trung đầu tư mở rộng hình thành một hệ thống cảng liên
hoàn, hệ thống giao thông đồng bộ tạo điều kiện cho việc giao lưu với các tỉnh
trong nước và quốc tế. Trong thời kỳ này, hoạt động kinh tế đối ngoại của thành
phố chủ yếu là tiếp nhận hàng viện trợ và trao đổi hàng hoá với các nước XHCN.
Việc buôn bán với các nước tư bản lúc này còn rất hạn chế. Vào thời điểm năm
1955, mới chỉ có 6 công ty của Nhật Bản, 16 công ty của Hồng Kông, 2 công ty
của Pháp xin mở chi nhánh ở Hải Phòng. Hàng nhập khẩu gồm: gạo, máy móc,
thiết bị, nông cụ, y tế, vải... Hàng xuất khẩu là các sản phẩm: gỗ, hàng mây tre đan,
mỹ nghệ, nguyên vật liệu.
Trải qua 2 cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, Hải Phòng cùng cả nước bước vào thời kỳ mới vừa xây dựng chủ nghĩa xã
hội, vừa đấu tranh bảo vệ thành phố, bảo vệ Tổ quốc. Hoạt động kinh tế đối ngoại
với mũi nhọn là xuất, nhập khẩu tạo chuyển biến tích cực đóng góp nguồn vốn
ban đầu để xây dựng thành phố và giải quyết những khó khăn trước mắt về kinh
tế, đời sống. Đến năm 1985, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 10,6 triệu đô la gấp 10
lần so với năm 1975, gấp 2 lần so với năm 1981 [23].
Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, thành phố Hải
Phòng cùng cả nước tập trung xây dựng kinh tế - xã hội thành phố với mục tiêu
“Đưa Hải Phòng mau chóng trở thành thành phố có Cảng hiện đại, có công nghiệp nông nghiệp - văn hoá phát triển, là một trong những trung tâm du lịch, dịch vụ, xuất
nhập khẩu, là một pháo đài thép chống xâm lược” [11, tr. 174]. Triển khai thực hiện
15
3 chương trình kinh tế lớn, Thành uỷ Hải Phòng đã ra Nghị quyết chuyên đề số 02,
05, 06/NQ-TU xác định phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện chương
trình hàng xuất khẩu thời kỳ 1986 - 1990 nhằm phát huy thế mạnh của thành phố
Cảng: “Phát triển mạnh các ngành kinh tế, tạo nguồn hàng xuất khẩu tại chỗ. Đề
nghị Trung ương cho phép Hải Phòng xuất khẩu trực tiếp sang thị trường vùng Viễn
Đông Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Phát triển mạnh ngành du
lịch. Tăng cường xuất khẩu lao động. Phấn đấu nâng kim ngạch xuất khẩu lên trên
mức bình quân những năm 1981 - 1985. Vận dụng đúng đắn các chính sách về xuất
khẩu và kinh tế đối ngoại của nhà nước. Củng cố tổ chức, bộ máy, cán bộ làm kinh
tế đối ngoại” [11, tr. 179].
Về chương trình kinh tế đối ngoại, Hải Phòng triển khai thực hiện theo 7
hướng: phát triển mạnh ngành du lịch; củng cố đội tàu viễn dương, cảng địa
phương, đội ngũ công nhân, thuỷ thủ; tăng cường xuất khẩu lao động; vận dụng
đúng đắn các chính sách về xuất khẩu và kinh tế đối ngoại của Nhà nước; củng cố
tổ chức, bộ máy, cán bộ làm kinh tế đối ngoại; phấn đấu nâng kim ngạch xuất khẩu
lên trên mức bình quân những năm 1981 - 1985.
Tháng 1 - 1989, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố họp Hội nghị lần thứ
10, quyết định những nhiệm vụ cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại trong 2
năm 1989 -1990: “Phát triển mạnh kinh tế đối ngoại, huy động nhiều thành phần
kinh tế cùng làm, khai thác tiềm năng các mặt hàng xuất khẩu, tiếp nhận và sử
dụng các nguồn viện trợ, tranh thủ đầu tư, liên doanh, liên kết với nước ngoài,
lập các khu chế xuất; vay vốn ngoại tệ để thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn
và xây dựng kết cấu hạ tầng” [11, tr. 197].
Thực hiện chủ trương đó, Thành uỷ Hải Phòng chú trọng triển khai
phương thức hợp tác, đầu tư trong chương trình kinh tế đối ngoại. Trong năm
1989 có 60 đoàn với 202 lượt người nước ngoài vào Hải Phòng nghiên cứu, tìm
kiếm cơ hội hợp tác đầu tư. Một số đơn vị, ngành đã ký kết được hợp đồng kinh
tế quan trọng với các tỉnh, thành phố thuộc khu duyên hải Liên Xô. Liên doanh,
liên kết sản xuất gia công hàng xuất khẩu phát triển hơn. Nhờ đó, giá trị hàng
xuất khẩu địa phương đạt 10,5 triệu rúp. Việc nhập hàng tiêu dùng giảm. Năm
16
1990, thành phố chỉ đạo xây dựng 39 phương án đầu tư và vay ngoại tệ mạnh
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội [11, tr. 200]. Phương thức liên doanh, liên kết
trong các ngành dịch vụ du lịch, xuất khẩu hàng hoá được coi trọng.
Chặng đường 1986 - 1990, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, dưới sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ thành phố, hoạt động kinh tế đối ngoại của thành
phố có chuyển biến trên một số mặt, kim ngạch xuất khẩu năm 1990 đạt trên 46,1
triệu USD tăng gần 4 lần so với năm 1985 [25, tr. 35]. Mặt hàng thuỷ sản chế biến
có tín nhiệm, kim ngạch xuất khẩu tăng dần. Từ năm 1989 hàng hoá buôn bán với
thị trường phía Nam Trung Quốc được nối lại, giá trị xuất khẩu chính và tiểu ngạch
tăng nhanh. Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến trên, kinh tế đối ngoại của
thành phố vẫn còn rất nhiều yếu kém: các hình thức liên kết, liên doanh tạo nhiều
nguồn hàng xuất khẩu thực hiện chưa tốt; chưa đầu tư thoả đáng để tạo nguồn
nguyên liệu địa phương và công nghiệp chế biến để nâng cao giá trị hàng xuất
khẩu, việc tìm kiếm thị trường còn yếu. Do thị trường Đông Âu và Liên Xô bị thu
hẹp nên một số mặt hàng xuất khẩu bị giảm sút. Đầu tư nước ngoài vào Hải Phòng
còn quá ít, giá trị đầu tư không đáng kể. Tuy Luật đầu tư nước ngoài đã có hiệu lực,
nhưng do chưa thực sự quan tâm và có sự chuẩn bị trước nên trong 2 năm 1988 1989, Hải Phòng thu hút chưa đến 10 dự án với số vốn trên 10 triệu USD [25, tr.
36]. Qui mô các dự án còn nhỏ.
Có thể khẳng định, công cuộc đổi mới toàn diện, sâu sắc đã mang lại
những khởi đầu có ý nghĩa lớn cho hoạt động kinh tế đối ngoại của thành phố.
Trước những tác động thăng trầm của hoàn cảnh trong nước và quốc tế, đặc biệt
là cuộc khủng hoảng nghiêm trọng của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu khiến nguồn viện trợ bị cắt giảm, thị trường xuất, nhập khẩu truyền
thống bị hẫng hụt, Đảng bộ thành phố đã có nhiều cố gắng trong lãnh đạo, chỉ
đạo phát triển kinh tế nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng. Tuy nhiên, do
chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò, nội dung của kinh tế đối ngoại; chủ trương
phát triển kinh tế đối ngoại chưa có những bước đột phá mang đặc thù của thành
phố, trong quá trình chỉ đạo thực hiện chưa có phương hướng, giải pháp điều
chỉnh, bổ khuyết kịp thời, hiệu quả, hợp lý trong tổng thể chương trình kinh tế 17
xã hội của thành phố và đây cũng là yêu cầu khách quan đặt ra cho Đảng bộ
thành phố trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo kinh tế đối ngoại trong những năm
tiếp theo.
1.1.2. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ Hải Phòng về kinh tế đối
ngoại từ năm 1991 đến năm 1995
1.1.2.1. Quan điểm phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đại hội VI của Đảng (12 - 1986) là bước đột phá lớn trên con đường đổi mới
toàn diện đất nước, trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế. Quan điểm của Đại hội
VI là “kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thiết lập và hình thành
đồng bộ cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa” [14, tr. 218]. Đại hội khẳng định nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là
đặc trưng của thời kỳ quá độ. Việc nhấn mạnh vai trò của hoạt động kinh tế đối
ngoại trong quan hệ quốc tế được coi là bước đổi mới tư duy đặt cơ sở cho sự
chuyển hướng công tác đối ngoại từ ngoại giao chính trị đơn thuần sang ngoại giao
chính trị - kinh tế của Đảng. Có thể nói Đại hội VI của Đảng đã đặt nền móng cho
quá trình đổi mới kinh tế, trong đó có đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại.
Tháng 12 - 1987, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành
(được thực hiện từ tháng 01 năm 1988). Với 41 điều khoản quy định những hình
thức đầu tư, biện pháp quyền lợi của những đối tác đầu tư, Luật đầu tư đã thể
hiện tư duy về kinh tế đối ngoại. Đây là mốc quan trọng đánh dấu việc mở ra
một thời kỳ mới về hoạt động kinh tế đối ngoại, thời kỳ nền kinh tế mở rộng ra
bên ngoài và đa phương hóa quan hệ đầu tư.
Ngày 05 - 9 - 1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số
139/HĐBT quy định chi tiết việc thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Cuối năm 1988, Nhà nước công bố Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước
ngoài tại Việt Nam. Pháp lệnh là một bước tiến cả về nhận thức và biện pháp
thực hiện trong việc đổi mới việc tiếp nhận, chuyển giao công nghệ từ nước
ngoài vào Việt Nam.
Ngày 20 - 5 - 1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13/NQ - TW về nhiệm vụ
và chính sách đối ngoại trong tình tình mới - nhấn mạnh nhiệm vụ ngoại giao phục
18
vụ ổn định chính trị, ưu tiên phát triển kinh tế là hàng đầu. Nghị quyết 13 đã tháo gỡ
những vấn đề quan trọng để đẩy mạnh quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam và các
nước. Nghị quyết nêu nhiệm vụ: Kiên quyết và chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ
tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình “làm thất thế
bao vây và cô lập Việt Nam về kinh tế và chính trị”.
Nghị quyết số 06 - NQ/TW ngày 29 tháng 3 năm 1989, kiểm điểm hai
năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phương hướng, nhiệm vụ ba năm tới, đề
ra những đổi mới cơ bản về cơ chế quản lý và tổ chức kinh doanh theo hướng
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế tập trung có sự quản lý
của Nhà nước; đồng thời, đề ra chủ trương xây dựng và thực hiện chiến lược
kinh tế đối ngoại theo quan điểm mở cửa, nhằm đưa nền kinh tế Việt Nam tham
gia vào phân công lao động quốc tế:
Hội nghị lần thứ 11 BCHTƯ Đảng (khóa VI) họp từ ngày 07 đến 12 - 01 1991 nhấn mạnh một trong những yếu tố phản ánh hoạt động kinh tế đối ngoại
đang có sự thay đổi về chất như đã tự cân đối nhiều hơn bằng sức mình, gần đạt
cân đối xuất, nhập khẩu, tuy nhập khẩu còn thấp hơn so với yêu cầu.
Cương lĩnh năm 1991 của Đảng ra đời trong bối cảnh chế độ XHCN ở các
nước Đông Âu sụp đổ, Liên Xô đứng trước ngưỡng cửa của sự tan rã. Ở Việt Nam,
công cuộc đổi mới tuy đạt được những thành tựu bước đầu đáng khích lệ, song vẫn
phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Sản xuất vẫn đình đốn, lạm phát vẫn
cao (1991: 67%). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội nêu lên một trong những định hướng lớn về chính sách đối ngoại là “hợp tác
bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội
khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”.
Đại hội VII của Đảng (1991) nhấn mạnh nhiệm vụ cần nhạy bén nhận
thức và dự báo được những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ
quốc tế, sự phát triển mạnh của lực lượng sản xuất và xu thế quốc tế hóa của nền
kinh tế thế giới để có những chủ trương đối ngoại phù hợp. Căn cứ vào mục tiêu
chặng đường đầu thời kỳ quá độ lên CNXH, chủ trương của Đảng về hoạt động
kinh tế đối ngoại được tiếp tục khẳng định: “Đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả
19
của hoạt động kinh tế đối ngoại. Huy động tiềm năng của nền kinh tế, phát huy
lợi thế tương đối, vừa đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và đời sống trong nước, vừa
hướng mạnh về xuất khẩu” [15, tr. 64].
Năm 1992, Hiến pháp do Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ XI công bố và có
hiệu lực từ ngày 18 - 4 - 1992. Hiến pháp đã thể chế hóa chủ trương về hoạt động
kinh tế đối ngoại của Đảng, quy định rõ quyền lợi của bất cứ cá nhân, tổ chức nước
ngoài nào muốn phát triển đầu tư và cư trú ở Việt Nam: “Điều 24. Nhà nước thống
nhất quản lý và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển các hình thức quan
hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền và cùng có lợi, bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước” [32, tr. 35].
Nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào
Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế, Nhà
nước Việt Nam “bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và quyền lợi
khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
không bị quốc hữu hóa. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam định
cư ở nước ngoài đầu tư về nước” [32, tr. 35].
Chủ trương đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại của Đảng tiếp tục được
bổ sung tại Hội nghị BCHTƯ lần thứ 3 (khóa VII), tháng 6 - 1992 thông qua
Nghị quyết về chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại. Nghị quyết nêu rõ
nhiệm vụ: “Cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc
tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát
triển Châu Á (ADB)... mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực, trước
hết là ở Châu Á - Thái Bình Dương” [32, tr. 36].
1.1.2.2. Chủ trương về kinh tế đối ngoại của Đảng bộ Hải Phòng
Thấm nhuần những chủ trương, quan điểm đổi mới hoạt động kinh tế đối
ngoại của Đảng, trong điều kiện thực tiễn của thành phố thời kỳ tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng bộ thành phố Hải Phòng đã họp Đại hội Đảng bộ
thành phố lần thứ X xác định mục tiêu phát triển của thành phố: “Phấn đấu xây
dựng Hải Phòng trở thành thành phố Cảng có công nghiệp, nông nghiệp, ngư
nghiệp, dịch vụ, văn hoá, khoa học - công nghệ phát triển, trung tâm thương mại
20
và du lịch vùng, an ninh, quốc phòng vững mạnh” [11, tr. 233]. Với phương
châm chỉ đạo là “tập trung ổn định và phát triển kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh 4
chương trình kinh tế - xã hội: sản xuất và cân đối lương thực, thực phẩm; sản
xuất hàng tiêu dùng; xuất nhập khẩu - kinh tế đối ngoại. Đẩy mạnh hoạt động
kinh tế đối ngoại với nhiều hình thức, chú ý thị trường các tỉnh phía Nam Trung
Quốc, tăng nhanh các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu như thuỷ sản, thảm len, từng
bước khôi phục xuất khẩu các mặt hàng da giầy, may mặc, thịt, rau, thủ công mỹ
nghệ..” [11, tr. 234].
Với lợi thế nhiều mặt, trong quá trình lãnh đạo kinh tế đối ngoại của
thành phố, Đảng bộ Hải Phòng đã đưa ra định hướng “Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của thành phố, lấy kinh tế đối ngoại làm mũi nhọn, đòn xeo; khôi
phục, phát triển công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp…đẩy mạnh hoạt
động của Cảng” [11, tr. 238].
Hải phòng là thành phố cảng, trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ
du lịch của vùng duyên hải Bắc bộ, do vậy trong quá trình đổi mới mở cửa kinh
tế đất nước, Hải Phòng được Trung ương xác định là cực tăng trưởng của vùng
kinh tế trọng điểm phía Bắc, là địa phương thí điểm cơ chế “Thành phố mở”.
Thông báo số 67/TB ngày 3 - 3 -1992 của Hội đồng Bộ trưởng ghi rõ: “Thường
trực Hội đồng Bộ trưởng đồng ý về nguyên tắc cho Hải Phòng xây dựng dần là
thành phố mở về kinh tế” [11, tr. 239].
Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng, tháng 4 - 1992, Thường vụ Thành
uỷ ra Nghị quyết số 05, ngày 28 - 4 - 1992 về kinh tế đối ngoại. Nghị quyết đã nhận
định tình hình, đánh giá thực trạng kinh tế đối ngoại của thành phố trong những
năm qua: “Những năm qua, Đảng bộ thành phố đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo về
kinh tế đối ngoại, một số mặt có chuyển biến. Kim ngạch xuất khẩu năm 1990 tăng
gần 4 lần so với năm 1985, nội dung hoạt động của kinh tế đối ngoại phong phú
hơn. Tuy nhiên, những kết quả đạt được chưa vững chắc, chưa tương xứng với
tiềm năng, thế mạnh của thành phố; tốc độ tăng bình quân hàng năm về kim ngạch
xuất khẩu thấp và tổng kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ bé chưa đủ sức thúc đẩy, tạo
đà cho nền kinh tế thành phố; chưa tạo được những mặt hàng xuất khẩu chủ lực có
21
giá trị kinh tế cao; việc tranh thủ các nguồn viện trợ khá hơn nhưng chưa nhiều và
hiệu quả sử dụng thấp; thu hút vốn đầu tư cho nước ngoài chưa đáng kể; du lịch
quốc tế và dịch vụ đối ngoại còn hạn chế” [54, tr. 1].
Trên cơ sở đánh giá những thành tựu và hạn chế của kinh tế đối ngoại thành
phố, Nghị quyết thẳng thắn, nghiêm túc chỉ rõ những nguyên nhân hạn chế. Ngoài
nguyên nhân khách quan thì nguyên nhân chủ yếu được Nghị quyết chỉ ra ở đây:
“Về mặt lãnh đạo, chỉ đạo chậm thấy và chưa thấy hết mối quan hệ khăng khít giữa
chính sách đổi mới với chính sách mở cửa của nền kinh tế; kinh tế đối ngoại chỉ phát
triển mạnh khi gắn chặt giữa được giữa đổi mới với mở cửa về kinh tế; có đường lối,
chính sách mở cửa nhất quán, đúng đắn và hấp dẫn; do vậy chưa có ý thức chuẩn bị
tạo các điều kiện sẵn sàng đón thời cơ mở cửa phù hợp với lợi thế thành phố ven
biển. Nhận thức về kinh tế đối ngoại chưa ngang tầm với vị trí, hiệu quả của nó và
nội dung hoạt động còn bó hẹp trong phạm vi xuất, nhập khẩu - một trong ba chương
trình kinh tế lớn. Chậm xây dựng chiến lược về kinh tế đối ngoại của thành phố với
kế hoạch, bước đi thích hợp. Chậm quan tâm và quan tâm chưa đúng mức việc chỉ
đạo xây dựng bổ sung hoàn chỉnh qui hoạch tổng thể làm cơ sở cho phát triển kinh tế
đối ngoại. Chưa tích cực chuẩn bị về tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý, nhà
doanh nghiệp, chuyên gia và công nhân kỹ thuật để đáp ứng cho nhiệm vụ mở rộng
hoạt động kinh tế đối ngoại” [54, tr. 1].
Từ nhận thức đó, Nghị quyết xác định vai trò, vị trí của kinh tế đối ngoại
trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố: “Kinh tế đối ngoại là một ngành
kinh tế mũi nhọn, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của thành phố,
là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng [11, tr. 239].
Với phương hướng là chủ động tranh thủ thời cơ, vận dụng sáng tạo chính
sách đổi mới, mở cửa để phát triển toàn diện, khai thác mạnh mẽ, tối đa tiềm
năng của thành phố, của vùng, khu vực, trong và ngoài nước, thúc đẩy nhiệm
vụ: xây dựng Hải Phòng trở thành thành phố cảng có công nghiệp, nông nghiệp,
ngư nghiệp, dịch vụ, văn hoá, khoa học công nghệ phát triển, trung tâm thương
mại và du lịch vùng. Làm thay đổi rõ rệt cơ cấu kinh tế của thành phố theo
hướng thúc đẩy tốc độ phát triển công nghiệp và dịch vụ, tăng nhanh sản lượng
22
hàng xuất khẩu, giải quyết nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân. Phấn
đấu hoàn thành chỉ tiêu hàng năm, thực hiện vượt mức, mục tiêu, chỉ tiêu về
kinh tế đối ngoại do Đại hội X Đảng bộ thành phố đề ra đến năm 1995 kim
ngạch xuất khẩu là 95 triệu USD; đồng thời tích cực chuẩn bị điều kiện về mọi
mặt nắm, đón và tạo thời cơ để có những bước tiến nhanh hơn và hiệu quả hơn.
Để thực hiện được nhiệm vụ đó, Nghị quyết đã xác định tư tưởng chỉ đạo
trong phát triển kinh tế đối ngoại của thành phố là phải mạnh dạn chủ động đề
xuất cơ chế, chính sách mới, dám làm, dám khẩn trương, dám chịu trách nhiệm,
làm từ nhỏ đến lớn và có thể làm lớn ngay khi có thời cơ, vừa làm, vừa rút kinh
nghiệm; chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ỉ lại, ngại khó, nóng vội, giản đơn, thận
trọng; đa phương hoá trong quan hệ trong quá trình tìm đối tác nước ngoài và
hình thức đầu tư, tìm thị trường, tìm nguồn viện trợ; vừa giữ tốt mối quan hệ với
những bạn hàng cũ, vừa tích cực tìm kiếm những bạn hàng mới trên nguyên tắc
bình đẳng, cùng có lợi, khuyến khích các thành phần kinh tế, các địa phương,các
đơn vị sản xuất kinh doanh tham gia kinh tế đối ngoại [54, tr. 3].
Nội dung hoạt động của kinh tế đối ngoại của thành phố sẽ được mở rộng
trong quá trình triển khai các chính sách mở về kinh tế của cả nước. Vì vậy,
trước mắt, Nghị quyết đã nêu ra 5 nhiệm vụ đối với từng lĩnh vực cụ thể của
kinh tế đối ngoại:
Về xuất, nhập khẩu, tận dụng ưu thế vị trí địa lý, tài nguyên và cơ sở vật
chất hiện có của địa phương và vùng để đẩy mạnh hoạt động xuất, nhập khẩu;
trước mắt, bằng những biện pháp có hiệu quả đẩy nhanh sản xuất và nâng cao
chất lượng các mặt hàng xuất khẩu nhất là các mặt hàng truyền thống, đồng thời
mở rộng liên doanh, liên kết với các tỉnh trong vùng và khu vực tạo nguồn
nguyên liệu và tăng lượng hàng hoá xuất khẩu; hình thành các khu vực sản xuất,
dịch vụ có giá trị kinh tế lớn với những sản phẩm xuất khẩu chủ lực tăng nhanh
kim ngạch xuất khẩu; khẩn trương khôi phục lại thị trường truyền thống, tranh
thủ mở rộng thị trường phía Nam Trung Quốc, các nước Đông Nam Á và các thị
trường khác, coi trọng thị trường trong nước, đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng
có thể thay thế hàng ngoại nhập; thực hiện tốt về mọi mặt để thực hiện hiệp định
vận tải hàng hoá quá cảnh của Nhà nước ta với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) và
23
chương trình hợp tác đã ký và sẽ ký với tỉnh Vân Nam và các tỉnh Quảng Tây,
Quảng Đông [54, tr. 3].
Về dịch vụ thu ngoại tệ, phát huy lợi thế của thành phố Cảng được mở cửa
về kinh tế để phát triển các loại dịch vụ vừa giải quyết việc làm vừa tăng thu
ngoại tệ; chú ý các loại dịch vụ hàng quá cảnh chuyển khẩu, hàng hải, hàng
không, kho vận, sửa chữa tàu biển, tiền tệ, thông tin liên lạc, tư vấn pháp lý, bảo
vệ sức khoẻ, văn hoá, thể thao.. [54, tr. 3].
Về thu hút đầu tư nước ngoài, nhanh nhạy nắm bắt thời cơ để trong quá
trình từng bước mở cửa về kinh tế, tranh thủ mọi khả năng thu hút nguồn vốn
ngoại tệ, khoa học công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến vừa phục
vụ nhiệm vụ xuất, nhập khẩu trước mắt, vừa chuẩn bị tạo ra những bước ngoặt
về kinh tế đối ngoại; kiến nghị với Trung ương cho thành phố được thực hiện
sớm và trước cơ chế mở về kinh tế để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đến Hải
Phòng; chủ động xây dựng các dự án khả thi nhằm đáp ứng yêu cầu của các nhà
đầu tư nước ngoài có vốn nhỏ, vốn vừa, vốn lớn, hướng vào đầu tư các cơ sở sản
xuất công nghiệp và vật liệu xây dựng, nuôi trồng, chế biến nông, hải sản,
thương mại, du lịch, dịch vụ, xây dựng cơ sở hạ tầng [54, tr. 4].
Về du lịch quốc tế, Nghị quyết nhận định: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng
Ninh là trục du lịch chính của khách quốc tế ở phía Bắc nước ta. Khai thác tốt ưu
thế này để đón khách quốc tế đến du lịch tại Hải Phòng hoặc có thể tạm dừng
nghỉ tại Hải Phòng. Chuẩn bị về qui hoạch, địa điểm và phương án cụ thể để từng
bước xây dựng các khu vui chơi giải trí, tham quan cho nhân dân, khách du lịch
trong và ngoài nước tương xứng với thành phố mở về kinh tế, có khu kinh tế đặc
biệt, khu chế xuất (Cát Bà, Đố Sơn, các giải trung tâm nội thành..) khi có điều
kiện sẽ xây dựng khu vui chơi giải trí riêng cho người nước ngoài. Trước mắt
nâng cao trình độ ngoại ngữ nghiệp vụ, chất lượng và thái độ phục vụ của hệ
thống dịch vụ du lịch, tu bổ nâng cấp các khách sạn hiện có và liên doanh xây
dựng khách sạn mới, đào tạo và đào tạo lại nhân viên khách sạn, hướng dẫn viên
du lịch [54, tr. 4].
24
Về tranh thủ viện trợ quốc tế, chủ động quan hệ trực tiếp hoặc thông qua
các cơ quan Trung ương để tìm nguồn và lập các dự án nhằm tranh thủ mọi
nguồn viện trợ của Chính phủ các nước, các tổ chức phi chính phủ, nhân đạo
quốc tế, bổ sung cho các nguồn vốn phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm, phát
triển văn hoá, giáo dục đào tạo. Có kế hoạch sử dụng và tăng cường quản lý
thống nhất các nguồn viện trợ vào Sở Tài chính, kiểm tra thường xuyên để đảm
bảo các nguồn viện trợ được sử dụng hiệu quả nhất [54, tr. 4].
Để hiện thực hoá các mục tiêu, nhiệm vụ trên, Nghị quyết cũng đã đề ra
những giải pháp chủ yếu: Về cơ chế chính sách; về qui hoạch tổng thể; xây dựng
các dự án gọi đầu tư, tranh thủ viện trợ; xây dựng cơ sở hạ tầng; giữ vững ổn
định chính trị - xã hội đảm bảo thuận lợi cho xây dựng kinh tế nhằm tích cực
khai thác các hoạt động kinh tế đối ngoại, coi đây là “đòn xeo, mũi nhọn” góp
phần quan trọng thúc đẩy các ngành kinh tế cùng phát triển, đồng thời giải quyết
các vấn đề xã hội.
Nghị quyết số 05, ngày 28 - 4 - 1992 của Thành uỷ Hải Phòng đã đánh dấu
một bước phát triển có tính bước ngoặt trong tư duy kinh tế nói chung và về kinh tế
đối ngoại nói riêng của Đảng bộ thành phố, tạo cơ sở, nền tảng cho những chuyển
biến về chất của kinh tế đối ngoại. Đây là lần đầu tiên Đảng bộ thành phố ban hành
một Nghị quyết chuyên sâu về kinh tế đối ngoại, đồng thời cũng là lần đầu tiên
những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế đối ngoại đã
được cụ thể hoá trên từng lĩnh vực. Nghị quyết đã khắc phục được những hạn chế
của nối tư duy bảo thủ cũ, đặt nền móng cho một nối tư duy mới “tư duy mở” đã
hình thành từ trước đó nhưng bị trói buộc bởi những cơ chế cũ được phá kén và
phát triển. Thành phố đã bắt đầu ý thức được tiềm năng, lợi thế của mình trong xu
thế phát triển chung của đất nước cũng như thế giới khi hội nhập, mở cửa đã trở
thành tất yếu. Nghị quyết cũng là kết quả của một quá trình chủ động tìm tòi,
nghiên cứu, khảo nghiệm những hướng đi, cách làm phù hợp của Đảng bộ thành
phố trong quá trình triển khai thực hiện đường lối đổi mới của Đảng nhằm tìm ra
một hướng đi riêng để phát huy được sức mạnh nội tại tiềm tàng của thành phố, mở
ra một thời kỳ mới cho sự phát triển kinh tế đối ngoại của Hải Phòng, hoàn toàn
25