Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Quản trị rủi ro cho vay kinh doanh vận tải biển tại BIDV chi nhánh bắc hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (720.55 KB, 108 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đến nay diễn ra trên diện rộng, tác
động tiêu cực đến nhiều ngành nghề, lĩnh vực, nhiều thành phần kinh tế xã hội khác
nhau. Nền kinh tế Việt Nam đã có sự tham gia hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới. Bên cạnh những mặt tích cực từ việc hội nhập đến thúc đẩy hoạt động sản
xuất kinh doanh trong nước, đẩy mạnh xuất nhập khẩu, trao đổi thương mại sâu
rộng thì nền kinh tế cũng chịu những tác động không nhỏ của suy thoái kinh tế toàn
cầu. Ngân hàng thương mại là một cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân,
do đó, hệ thống ngân hàng trong nước cũng đối mặt với sức cạnh tranh gay gắt từ
các Ngân hàng nước ngoài cũng như tình hình khó khăn của các ngành nghề lĩnh
vực khác
Việt Nam là một đất nước có nhiều lợi thế trong hoạt động kinh doanh vận tải
biển. Chính phủ cùng các Bộ ban ngành đã chú trọng đầu tư phát triển ngành này
tại nước ta. Tuy nhiên, vận tải biển cũng là ngành chịu ảnh hưởng nặng nề của suy
thoái kinh tế thế giới.
BIDV Bắc Hà Nội là một trong những chi nhánh BIDV đi tiên phong trong
việc tài trợ cho hoạt động kinh doanh vận tải biển tại Việt Nam. Thời gian qua, dư
nợ trong lĩnh vực hoạt động này có xu hướng tăng và chiếm tỷ trọng ngày càng tăng
trong tổng dư nợ cho vay tại Chi nhánh.
Chính vì vậy, với tư cách là người làm trực tiếp trong công tác tín dụng tại
BIDV Bắc Hà Nội, tôi đã lựa chọn đề tài luận văn: Giải pháp hoàn thiện công tác
quản trị rủi ro trong cho vay lĩnh vực kinh doanh vận tải biển tại Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận liên quan đến quản trị rủi ro trong hoạt
động cho vay đối với các doanh nghiệp kinh doanh vận tải biển trong nghiệp vụ cho
vay của Ngân hàng thương mại.
- Đánh giá thực trạng việc quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay doanh




2

nghiệp kinh doanh vận tải biển tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
– Chi nhánh Bắc Hà Nội, từ đó rút ra những kết quả đạt được và những hạn chế còn
tồn tại.
- Đề xuất một số giải pháp đối với Chi nhánh và những kiến nghị đối với
Chính phủ, NHNN, cũng như các cơ quan chức năng có liên quan nhằm cải thiện
công tác quản trị rủi ro trong cho vay lĩnh vực kinh doanh vận tải biển tại Ngân
hàng TMCP ĐT&PT Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu việc quản trị rủi ro trong cho vay doanh nghiệp kinh doanh
vận tải biển tại Ngân hàng TMCP ĐT&PT Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội,
phạm vi nghiên cứu tập trung trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp duy vật biện chứng,
kết hợp với phương pháp phân tích tổng hợp, tư duy logic…để luận giải các vấn đề
đề cập trong nội dung bài viết.
5. Kết cấu đề tài:
Lời mở đầu
Chương 1: Những vấn đề chung về quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay
đối với lĩnh vực kinh doanh vận tải biển của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay đối
với doanh nghiệp kinh doanh vận tải biển tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển
Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong cho vay
lĩnh vực kinh doanh vận tải biển tại Ngân hàng TMCP ĐT&PT Việt Nam – Chi
nhánh Bắc Hà Nội.
Kết luận



3

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO
HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI LĨNH VỰC KINH DOANH
VẬN TẢI BIỂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tín dụng là hoạt động kinh doanh
đem lại lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng nhưng cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn rủi ro rất
lớn. Mặc dù hiện nay đã có sự chuyển dịch trong cơ cấu lợi nhuận của ngân hàng,
theo đó thu nhập từ hoạt động tín dụng có xu hướng giảm xuống và thu dịch vụ
có xu hướng tăng lên nhưng thu nhập từ tín dụng tỷ trọng lớn trong thu nhập
ngân hàng. Theo đó, kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro, theo đuổi lợi
nhuận với rủi ro chấp nhận được là bản chất ngân hàng. Rủi ro trong hoạt động
của ngân hàng thương mại rất đa dạng, trong đó rủi ro tín dụng là một trong
những nguyên nhân chủ yếu gây tổn thất và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất
lượng kinh doanh ngân hàng.
Rủi ro tín dụng: là rủi ro về sự tổn thất tài chính, phát sinh từ việc khách
hàng đi vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ trả nợ đúng
hạn theo đúng cam kết hoặc khách hàng mất khả năng thanh toán, có nghĩa là các
khoản thanh toán bao gồm cả phần gốc và lãi vay có thể bị trì hoãn, thậm chí là
không được hoàn trả. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ và ảnh
hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. Rủi ro tín dụng phát sinh khi ngân
hàng cấp tín dụng cho khách hàng bao gồm các hình thức cấp tín dụng: cho vay,
bảo lãnh, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán. Rủi ro tín dụng nếu xảy ra
có thể dẫn tới thiệt hại lớn cho ngân hàng, ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của
ngân hàng và có thể dẫn tới các rủi ro khác vì vậy việc hiểu và nhận biết tốt về rủi

ro tín dụng là cơ sở để quản trị rủi ro tín dụng.


4

Như vậy, có thể rút ra các nội dung cơ bản của rủi ro tín dụng như sau:
- Rủi ro tín dụng khi người vay không thực hiện đúng nghĩa vụ theo hợp
đồng, bao gồm gốc và/hoặc lãi, có thể hiểu là thanh toán chậm hoặc không thanh toán.
- Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất tài chính, tức là giảm thu nhập ròng.
Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ, hoặc ở mức độ cao hơn có
thể dẫn đến phá sản.
- Khi nói đến rủi ro cần lưu ý mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận (lợi nhuận
kỳ vọng càng cao thì rủi ro tiềm ẩn càng lớn).
- Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan, có thể đề phòng,
hạn chế chứ không thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước
trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng.
Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rủi ro tín dụng theo nghĩa xác suất là khả năng,
do đó có thể xảy ra hoặc không xảy ra tổn thất. Điều này có nghĩa một khoản vay dù
chưa quá hạn vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tổn thất, một ngân hàng có tỷ lệ nợ
quá hạn thấp nhưng nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ rất cao nếu danh mục đầu tư tín dụng
tập trung vào một nhóm khách hàng, ngành hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro.
1.1.2. Các loại rủi ro tín dụng
Rủi ro giao dịch: là rủi ro liên quan đến từng khoản vay hoặc từng khách
hàng vay cụ thể. Đây là loại rủi ro có thể phát sinh liên quan đến quá trình thẩm
định xét duyệt cho vay, kiểm soát sau khi cho vay hoặc do sơ hở trong việc thực
hiện bảo đảm tiền vay và những cam kết ràng buộc trong hợp đồng tín dụng.
Rủi ro danh mục: là rủi ro phát sinh liên quan đến sự kết hợp nhiều khoản tín
dụng trong danh mục tín dụng của ngân hàng do sản phẩm không phù hợp hoặc quá
tập trung cho vay vào một ngành, lĩnh vực.



5

Rủi ro tín dụng bao gồm 2 loại chính:
Rủi ro
tín dụng

Rủi ro
giao dịch

Rủi ro
xét duyệt

Rủi ro
kiểm soát

Rủi ro
danh mục

Rủi ro
bảo đảm

Rủi ro
cá biệt

Rủi ro
tập trung

1.1.3. Đặc điểm của rủi ro tín dụng
Để chủ động phòng ngừa rủi ro tín dụng có hiệu quả, nhận biết các đặc điểm

của rủi ro tín dụng rất cần thiết và hữu ích. Rủi ro tín dụng có những đặc điểm cơ
bản sau:
- Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp: Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng
chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi khách
hàng gặp những tổn thất và thất bại trong quá trình sử dụng vốn; hay nói cách khác
những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng là nguyên nhân chủ yếu
gây nên rủi ro tín dụng của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp: biểu hiện ở sự đa dạng và
phức tạp của các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cũng như các hậu quả do rủi
ro tín dụng gây ra. Nhận thức và vận dụng đặc điểm này, khi thực hiện phòng ngừa,
hạn chế và xử lý rủi ro tín dụng phải chú ý đến mọi dấu hiệu rủi ro, xuất phát từ
nguyên nhân bản chất và hậu quả của rủi ro để đưa ra biện pháp phù hợp.
- Rủi ro có tính tất yếu tức luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín dụng của
ngân hàng thương mại: Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng cố
gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Và nhìn
chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy


6

ra. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính
xác các vấn đề xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi
do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, đặc biệt tình trạng thông tin bất cân
xứng đã làm cho ngân hàng không thể nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro một cách
toàn diện và đầy đủ, nên bất cứ khoản cho vay nào cũng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro đối
với hoạt động tín dụng của các NHTM. Vì vậy trong quá trình cấp tín dụng cho
khách hàng, các NHTM cần chủ động có các biện pháp thích hợp để xác định rủi ro,
định lượng rủi ro, quản trị rủi ro và kiểm soát rủi ro. Kinh doanh ngân hàng thực
chất là kinh doanh rủi ro ở mức phù hợp và đạt được lợi nhuận tương ứng.
1.1.4. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng

Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Quản trị rủi ro tín dụng cần
xác định những nguyên nhân cụ thể, cách thức gây rủi ro tín dụng để có biện pháp
hạn chế.
1.1.4.1 Những nguyên nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm họ mất khả
năng thanh toán cho ngân hàng là các nguyên nhân khách quan liên quan đến môi
trường bên ngoài. Ví dụ: do thiên tai, dịch bệnh, hoả hoạn,..;do khủng hoảng hoặc
suy thoái kinh tế, lạm phát, mất thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối
đoái biến động thất thường,..; hoặc những thay đổi tầm vĩ mô (thay đổi chính phủ,
chính sách kinh tế,…) vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
1.1.4.2. Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay
- Nguyên nhân từ tư cách, đạo đức của khách hàng vay vốn: đây là một trong
những nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Rất nhiều người vay
vốn sẵn sàng mạo hiểm trong kinh doanh để thu được lợi nhuận cao. Để đạt được
mục đích của mình, họ không ngần ngại sử dụng các thủ đoạn lừa đảo để vay và
chiếm đoạt vốn của ngân hàng như: lập hồ sơ vay vốn giả mạo, cung cấp thông tin
sai sự thực, mua chuộc cán bộ ngân hàng… Nhiều khách hàng khác mặc dù có khả
năng trả nợ nhưng cố tình chây ỳ với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc kéo dài thời gian
chiếm dụng vốn. Các trường hợp này tuy không phải lỗi xuất phát từ phía ngân
hàng nhưng vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín, trách nhiệm
của các cán bộ nói riêng và toàn bộ ngân hàng nói chung.


7

- Nguyên nhân từ năng lực sử dụng vốn vay của khách hàng vay: khách hàng
vay vốn trung thực trong việc cung cấp thông tin cho ngân hàng và sử dụng vốn vay
đúng mục đích; tuy nhiên, trong quá trình hoạt động kinh doanh, khách hàng có
những yếu kém trong quản lý hoặc gặp phải các rủi ro không lường hết được trước
đó nên sản xuất kinh doanh không có hiệu quả, năng lực tài chính giảm sút và yếu

kém, không có hoặc không đủ nguồn thu để trả nợ ngân hàng. Những nguyên nhân
cụ thể đối với khách hàng là doanh nghiệp, hộ kinh doanh có thể kể đến như: trình
độ điều hành, quản lý yếu kém của chủ doanh nghiệp, thị trường đầu vào - đầu ra có
những biến động bất lợi gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh, năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp hạn chế, sản phẩm lỗi thời, lạc hậu, không có khả năng tiêu
thụ do sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ… Đối với khách hàng cá nhân,
những rủi ro như: mất việc làm, mất khả năng lao động, kinh tế gia đình gặp phải
những biến cố không mong đợi… là những nguyên nhân cụ thể dẫn đến khách hàng
không trả được nợ.
1.1.4.3. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
* Xuất phát từ chính sách, quy trình tín dụng và sự vận dụng chính sách,
quy trình tín dụng chưa nghiêm túc:
Các chính sách tín dụng không hợp lý, quá nhấn mạnh vào mục tiêu lợi
nhuận dẫn đến cho vay đầu tư quá liều lĩnh, tập trung nguồn vốn cho vay quá nhiều
vào một doanh nghiệp hoặc một ngành kinh tế nào đó.
Quy trình tín dụng thông thường được xác lập trên những quy định chung
của pháp luật về ngân hàng và những đặc thù trong hoạt động của riêng mỗi ngân
hàng. Thông thường, quy trình tín dụng được thống nhất qua các bước tuần tự như
sau: thiết lập hồ sơ khách hàng vay, thẩm định hồ sơ khách hàng vay, ra quyết định
và ký hợp đồng, giải ngân và thu nợ, thanh lý hợp đồng và xử lý tranh chấp. Quy
trình tín dụng nếu không phát huy được tác dụng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng quản
trị rủi ro tín dụng. Trên thực tế, không phải quy trình tín dụng của các NHTM luôn
đảm bảo tính hợp lý và chặt chẽ, biểu hiện như:
- Việc phân định rõ giữa khâu thẩm định và cho vay ở nhiều NHTM vẫn
chưa thật sự tách biệt. Chỉ một vài ngân hàng đang tiến hành triển khai, áp dụng quy


8

trình tín dụng mới với việc phân chia độc lập giữa ba chức năng: quan hệ khách

hàng, quản trị rủi ro và quản lý nợ. Tuy vậy, giữa mô hình phân chia cũ và mới, bên
cạnh những ưu điểm vẫn tồn tại những hạn chế chưa thể khắc phục ảnh hưởng đến
công tác quản trị rủi ro tín dụng.
- Do sức ép cạnh tranh trong việc mở rộng thị phần tín dụng, trong quá trình
vận dụng không ít các NHTM đã bỏ qua các bước của quy trình, hạ thấp tiêu chuẩn
đánh giá khách hàng, không chú ý đúng mức đến tình hình tài chính, năng lực sản
xuất kinh doanh, khả năng trả nợ, nguồn trả nợ của khách hàng vay nên nảy sinh
nhiều vi phạm: về điều kiện vay vốn, hồ sơ vay vốn, về kiểm tra quản lý nợ vay, về
cơ cấu thời hạn trả nợ.
* Xuất phát từ công tác thẩm định
Đánh giá uy tín của khách hàng là vấn đề thật sự khó khăn đối với các cán bộ
thực hiện công tác thẩm định trong việc tiếp cận thông tin đầy đủ về khách hàng.
Hiện nay, công tác đánh giá uy tín của khách hàng chủ yếu dựa vào cảm tính và chủ
quan của cán bộ nghiệp vụ như dựa vào các quan hệ trong quá khứ hoặc một số
thông tin thu thập được.
Về việc đánh giá năng lực tài chính của khách hàng cũng gặp nhiều hạn chế,
công việc đánh giá được thực hiện chủ yếu dựa vào việc phân tích số liệu trên các
báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp. Hiện nay do Việt Nam chưa có quy định
minh bạch thông tin nên có thể nói độ tin cậy của các báo cáo tài chính chưa thật sự
cao, nhất là đối với các doanh nghiệp tư nhân. Từ những số liệu chưa thực sự tin
cậy nên việc phân tích báo cáo tài chính sẽ không phản ánh đúng thực chất năng lực
tài chính của khách hàng.
* Xuất phát từ tài sản bảo đảm
Quản trị danh mục tài sản bảo đảm là yêu cầu cần thiết trong công tác quản
trị rủi ro tín dụng và là mắt xích quan trọng trong quy trình cho vay thu hồi nợ, xử
lý các khoản nợ có vấn đề.
Theo quy định của pháp luật, việc xác định giá trị tài sản bảo đảm (TSBĐ)
tiền vay do các bên thoả thuận, hoặc thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác
định trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm xác định, có tham khảo đến các loại giá



9

như giá quy định của Nhà nước, giá mua, giá trị còn lại trên sổ sách kế toán và các
yếu tố khác về giá. Tuy nhiên, trên thực tế, trừ những động sản có giá trị lớn hàng tỷ
đồng, các NHTM mới thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn định giá còn lại đa
số việc định giá đều do các bên thoả thuận và như vậy cho thấy giá trị TSBĐ được
định giá còn mang tính chủ quan và thiếu tính khoa học.
Ngoài ra, về phương pháp định giá đối với từng loại tài sản chưa được các
NHTM sử dụng một cách thích hợp, dẫn đến việc nếu định giá thấp, khách hàng
không hài lòng nhưng nếu định giá cao, NHTM sẽ khó đảm bảo khả năng thu hồi
nợ vay và lãi vay trong trường hợp khách hàng mất khả năng thanh toán, khi đó
buộc NHTM phải xử lý tài sản cầm cố, thế chấp.
Đối với vấn đề bảo hiểm tài sản, cán bộ tín dụng thường không chú ý đôn
đốc, kiểm tra việc khách hàng có mua bảo hiểm đúng định kỳ để đến khi phương
tiện bị tai nạn, xảy ra hoả hoạn,…gây khó khăn lâu dài về khả năng thanh toán
khoản nợ vay.
Thông tin bất cân xứng về giá trị thực của TSBĐ giữa khách hàng và ngân
hàng cũng là vấn đề cần được quan tâm. Khi thế chấp, cầm cố chỉ có khách hàng
biết rõ về hiện trạng tài sản như sự hỏng hóc trong các dây chuyền sản xuất, máy
móc, thiết bị, hoặc ngôi nhà rất khó bán do một số đặc điểm đặc biệt. Trong khi đó
trình độ của cán bộ thường không đáp ứng đầy đủ chuyên môn trong tất cả các lĩnh
vực nên không thể đánh giá được chính xác hiện trạng của máy móc thiết bị cũng
như nắm được những thông tin tốt về đất đai, nhà ở, điều này ảnh hưởng rất lớn đến
giá trị mua bán của tài sản. Vì vậy khi xảy ra rủi ro, việc phát mại tài sản để thu hồi
nợ gặp không ít khó khăn.
Thêm vào đó, cơ chế pháp lý về bảo đảm tiền vay chưa rõ ràng, chịu sự điều
chỉnh, chi phối của nhiều văn bản luật, dưới luật chồng chéo, đặc biệt đối với TSBĐ
là bất động sản.
* Xuất phát từ hoạt động kiểm soát nội bộ

Hiện nay, các NHTM đều có bộ phận kiểm soát nội bộ, tuy nhiên, ở một số
ngân hàng bộ phận này chưa thật sự hoạt động có hiệu quả, nhất là tình trạng thiếu
nhân sự cũng như trình độ của cán bộ chưa đáp ứng cả về nghiệp vụ lẫn kinh


10

nghiệm nên không thể phát hiện các sai phạm để có những khuyến cáo kịp thời
nhằm chấn chỉnh và tư vấn cho Ban lãnh đạo về những rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
* Xuất phát từ cán bộ quản lý, cán bộ tín dụng
Đạo đức của cán bộ tín dụng là một trong những yếu tố quan trọng để giải
quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ hạn chế về năng lực có thể được
bồi dưỡng thêm để nâng cao trình độ, nhưng một cán bộ tha hoá về đạo đức mà lại
giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật sự nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
Điều này có thể nhận thấy qua các vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên
quan đến hoạt động ngân hàng đều có sự tiếp tay của những cán bộ tín dụng cùng
với khách hàng hoặc bản thân cán bộ tín dụng cố ý như thực hiện trái với quy trình
tín dụng, trực tiếp thu nợ nhưng không nộp mà dùng cho mục đích cá nhân, lập hồ
sơ giả để vay tiền; tẩy xoá, sửa chữa chứng từ có giá để thế chấp vay tiền; định giá
tài sản không đúng giá trị thực;…
Bên cạnh vấn đề đạo đức, năng lực, trình độ, kinh nghiệm của một bộ phận
cán bộ tín dụng hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu công việc. Nhân viên ngân
hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để
cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi
trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến
người vay. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình
độ để hiểu kỹ lưỡng, rủi ro tín dụng luôn rình rập họ.
Như vậy chất lượng nhân viên ngân hàng bao gồm trình độ và đạo đức nghề
nghiệp không đảm bảo là nguyên nhân của rủi ro tín dụng.
Tóm lại, các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng rất đa dạng, có những

nguyên nhân khách quan và những nguyên nhân do chủ thể tham gia quan hệ tín
dụng. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các NHTM
nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân hàng.
Các nguyên nhân chủ quan có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng và ngân
hàng có thể kiểm soát được nếu có những biện pháp thích hợp.


11

1.2. Quản trị rủi ro tín dụng và một vấn đề cơ bản về Quản trị rủi ro tín dụng
của NHTM.
1.2.1. Khái niệm:
Rủi ro tín dụng luôn song hành với hoạt động tín dụng, do đó trên quan điểm
quản lý, một tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng phải luôn được xác
định trong chiến lược hoạt động chung. Khi ngân hàng đạt được một mức tổn thất
thấp hơn hoặc bằng tỷ lệ tổn thất dự kiến thì đó là sự thành công trong lĩnh vực
quản trị rủi ro. Ngân hàng phải sử dụng nhiều biện pháp tác động đến hoạt động tín
dụng để hạn chế tối đa rủi ro tín dụng, nhằm góp phần đạt tới mục tiêu hoạt động tín
dụng an toàn, hiệu quả trong tăng trưởng.
Trên quan điểm đó, có thể hiểu quản trị rủi ro tín dụng là quá trình ngân hàng
tác động đến hoạt động tín dụng thông qua bộ máy và công cụ quản lý để phòng
ngừa, cảnh báo, đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế đến mức tối đa việc không thu
được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc thu gốc và lãi không đúng hạn.
Do đó, quản trị rủi ro tín dụng là việc sử dụng các biện pháp nghiệp vụ để
nhận biết và đánh giá mức độ rủi ro, thực thi các biện pháp hạn chế khả năng xảy ra
rủi ro và giảm thiểu tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra, không để hoạt động ngân
hàng vào tình trạng xấu.
Việc quản trị rủi ro tín dụng cần đáp ứng các yêu cầu sau:
- Tạo lập được một danh mục tín dụng hợp lý, khả năng sinh lời cao, ít rủi ro.
- Tạo sự chủ động, nâng cao trách nhiệm của các bộ phận tác nghiệp nhằm

tìm kiếm các khoản vay có khả năng sinh lời cao và ít rủi ro.
- Đảm bảo phản ảnh minh bạch, chính xác chất lượng danh mục tín dụng,
trích đủ dự phòng để từ đó bù đắp những rủi ro phát sinh trong cho vay.
- Có hệ thống kiểm tra, kiểm soát thích hợp để phát hiện, ngăn ngừa và xử lý
kịp thời các rủi ro phát sinh đối với danh mục tín dụng.
1.2.2. Một số vấn đề cơ bản trong quản trị rủi ro tín dụng của NHTM
1.2.2.1. Định hướng Quản trị rủi ro trong hoạt động của NHTM.


12

• Sự cần thiết của công tác quản trị rủi ro:
Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình ngân hàng tác động đến hoạt động tín
dụng thông qua bộ máy và công cụ quản lý để phòng ngừa, cảnh báo, đưa ra các
biện pháp hạn chế đến mức tối đa việc không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của
khoản vay hoặc thu gốc và lãi không đúng hạn.
Quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả liên quan đến việc quản lý chặt chẽ mối
quan hệ giữa rủi ro/lợi nhuận và kiểm soát, giảm thiểu rủi ro tín dụng trong nhiều
khía cạnh khác nhau, chẳng hạn như chất lượng tín dụng, mức độ tập trung, thời
gian đáo hạn, hình thức bảo đảm tiền vay.
Kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng là loại kinh doanh đặc biệt, tiềm ẩn
nhiều rủi ro trong đó có rủi ro tín dụng. Hoạt động kinh doanh của các NHTM là
dùng uy tín của chính ngân hàng để có thể thu hút nguồn vốn huy động và dùng
năng lực quản trị rủi ro đặc biệt là quản trị rủi ro tín dụng để sử dụng nguồn vốn
huy động được và phát triển các dịch vụ khác với tư cách là người “đứng giữa” các
lực lượng cung và các lực lượng cầu về các dịch vụ ngân hàng.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM phụ thuộc vào mức độ rủi ro,
đặc biệt là rủi ro tín dụng. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan dẫn đến rủi ro, nhiều yếu tố bất khả kháng nên ngân hàng
không thể tránh khỏi rủi ro. Chính vì vậy, hàng năm các NHTM được phép và cần

phải trích lập quỹ bù đắp rủi ro hạch toán vào chi phí. Quy mô quỹ bù đắp rủi ro căn
cứ vào mức độ và khả năng rủi ro. Nếu rủi ro thấp thì hiệu quả kinh tế sẽ tăng và
ngược lại. Như vậy, hiệu quả kinh doanh của các NHTM tỷ lệ nghịch với mức độ
rủi ro. Khi rủi ro quá lớn đến mức các NHTM mất khả năng thanh toán khi đó sẽ
dẫn đến tình trạng phá sản.
Quản trị rủi ro tín dụng tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng tín
dụng của các NHTM. Vì vậy, những nhà quản trị NHTM cần được trang bị các kiến
thức về quản trị rủi ro, cung cấp những thông tin kinh tế cập nhật, có đội ngũ tham
mưu chuyên nghiệp và bộ máy kiểm tra, kiểm soát nội bộ hiệu quả là điều kiện cần
thiết để phòng ngừa, hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh.


13

• Khung quản trị rủi ro trong hoạt động tín dụng
Khung quản trị rủi ro trong hoạt động tín dụng bao gồm những công tác chủ
yếu mà NHTM phải tiến hành nhằm đảm bảo chất lượng của quá trình quản trị rủi
ro trong hoạt động tín dụng được tốt nhất.
Khung quản trị rủi ro được thiết lập dựa trên các nguyên tắc quản trị rủi ro
tín dụng của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng. Các thành phần của khung luôn
tương tác hỗ trợ lẫn nhau.

Hoạch định
chiến lược
Xác định rủi ro
hiện có và rủi
ro tiềm tàng

Hệ thống tính
điểm tín dụng


Rủi ro tín dụng

Trách nhiệm cá
nhân đối với
chất lượng tín
dụng

Cơ cấu tổ chức

Xây dựng
chính sách và
quy trình tín
dụng
Giám sát và
kiểm tra tín
dụng

Hình 1.1: Khung quản trị rủi ro trong hoạt động tín dụng
* Hoạch định chiến lược hoạt động tín dụng
Hoạch định chiến lược hoạt động tín dụng là bản tuyên ngôn của Ban lãnh
đạo về các mục tiêu trong hoạt động tín dụng nhằm xác định thái độ của ngân hàng
đối với rủi ro và thái độ sẵn sàng chấp nhận các rủi ro.
Chiến lược hoạt động tín dụng cần được hoạch định định kỳ, phù hợp với
mức độ rủi ro từng thời kỳ và phải được phổ biến đến từng nhân viên ngân hàng.
* Xác định rủi ro hiện có và rủi ro tiềm tàng
Xác định rủi ro được hiểu bao gồm: nhận biết rủi ro và đo lường rủi ro


14


Xác định rủi ro được thực hiện theo từng khoản vay, từng khách hàng, nhóm
khách hàng, theo mặt hàng và lĩnh vực đầu tư, theo khu vực địa lý, theo dạng
TSBĐ, theo trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng,…
Đo lường rủi ro không phải là một biện pháp tuyệt đối mà chỉ là một biện
pháp đo xác suất các kết quả.
* Xây dựng các chính sách và quy trình tín dụng
Xây dựng các chính sách và quy trình tín dụng phải đảm bảo phù hợp với các
quy định của pháp luật, đảm bảo phù hợp với chiến lược tín dụng của ngân hàng
nhằm để duy trì các chuẩn mực tín dụng an toàn và kịp thời phát hiện cũng như
quản lý chặt chẽ các khoản tín dụng có vấn đề.
* Giám sát và kiểm tra tín dụng
Giám sát và kiểm tra từng khoản vay (kiểm tra trong và sau khi cho vay,
kiểm tra và đánh giá lại tài sản thế chấp,...)
Giám sát và kiểm tra tổng thể danh mục tín dụng:
* Cơ cấu tổ chức
Về cơ cấu tổ chức, cần bảo đảm tạo môi trường hoạt động tín dụng có kiểm
soát. Các bộ phận chủ chốt có trách nhiệm liên quan đến quá trình quản trị rủi ro tín
dụng bao gồm: Hội đồng quản trị, Ban điều hành, Uỷ ban quản trị rủi ro tín dụng,
Ban giám đốc Chi nhánh, các trưởng phó phòng tín dụng.
* Trách nhiệm cá nhân đối với chất lượng cho vay
Con người là nhân tố quyết định chất lượng quản trị rủi ro tín dụng. Do đó
cần có cơ chế thù lao phù hợp, đảm bảo lựa chọn nhân viên đủ năng lực đảm đương
công việc. Ngoài ra cũng cần có cơ chế bổ nhiệm, thưởng phạt có hiệu quả, cơ chế
đào tạo và đào tạo lại nhằm khuyến khích nâng cao trách nhiệm cá nhân đối với
chất lượng tín dụng.
* Hệ thống tính điểm tín dụng
Hệ thống tính điểm tín dụng cần được tiến hành thực hiện trên cơ sở các
thông tin định lượng và thông tin định tính nhằm thống nhất đánh giá rủi ro tín dụng
đối với khách hàng theo một thàng điểm chuẩn. Hệ thống tính điểm tín dụng là cơ

sở quan trọng để phân loại và xếp loại khách hàng cũng như khoản vay.


15



Các nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng

Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking
supervision – BCBS) được thành lập vào năm 1975 bởi một nhóm các Ngân hàng
Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel,
Thuỵ Sỹ nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập
kỷ 80.
Quan điểm của Uỷ ban Basel: sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một
quốc gia, dù quốc gia phát triển hay đang phát triển, sẽ đe doạ đến sự ổn định về tài
chính trong cả nội bộ quốc gia đó. Vì vậy, nâng cao sức mạnh của hệ thống tài
chính là điều mà Uỷ ban Basel quan tâm.
Uỷ ban Basel có đưa ra các nguyên tắc về quản trị rủi ro tín dụng, đảm bảo
tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động cấp tín dụng. Các nguyên tắc này tập trung
vào các nội dung cơ bản sau đây:
Nguyên tắc 1: Hội đồng quản trị (HĐQT) có trách nhiệm phê duyệt và rà
soát định kỳ (ít nhất là hàng năm) chiến lược và chính sách về rủi ro tín dụng của
ngân hàng. Chiến lược này phản ánh sức chịu đựng của ngân hàng đối với rủi ro và
mức độ sinh lời mà ngân hàng dự kiến đạt được khi phải gánh chịu các loại rủi ro
tín dụng.
Nguyên tắc 2: Ban điều hành phải có trách nhiệm triển khai thực hiện chiến
lược rủi ro tín dụng do HĐQT phê duyệt và xây dựng chính sách, quy trình để nhận
dạng, đo lường, kiểm soát và hạn chế rủi ro tín dụng. Những chính sách và quy trình
này cần chỉ rõ rủi ro tín dụng trong toàn bộ hoạt động của ngân hàng ở từng khoản

tín dụng cũng như ở cấp độ quản lý danh mục.
Nguyên tắc 3: Ngân hàng cần phải xác định và quản trị rủi ro tín dụng phát sinh
trong tất các sản phẩm và các hoạt động. Ngân hàng phải đảm bảo rằng rủi ro của các
sản phẩm và hoạt động mới phải được kiểm soát và thực hiện theo quy trình quản trị
rủi ro thích hợp trước khi sản phẩm và hoạt động đó được ban hành hoặc triển khai và
phải được phê duyệt trước bởi hội đồng quản trị hoặc một uỷ ban thích hợp.
Các nguyên tắc này quy định ngân hàng cần phải thiết lập một môi trường
rủi ro tín dụng phù hợp hay nói cách khác là phải xác định được mức độ chấp nhận


16

rủi ro hay khẩu vị rủi ro của ngân hàng.
Nguyên tắc 4: Ngân hàng phải hoạt động trong phạm vi các tiêu chí cấp tín
dụng được xác định rõ ràng và hiệu quả. Những tiêu chí này cần bao gồm những chỉ số
rõ ràng về thị trường mục tiêu của ngân hàng và sự hiểu biết thấu đáo của người vay
vốn hay đối tác, nguồn trả nợ của khách hàng cũng như mục đích và cơ cấu tín dụng.
Nguyên tắc 5: Ngân hàng phải xây dựng các hạn mức tín dụng tổng thể cho
mỗi khách hàng hoặc đối tác vay vốn, hoặc nhóm khách hàng có liên được tổng hợp
lại theo các loại rủi ro khách nhau theo các phương pháp có nghĩa và có thể so sánh
được cả trong sổ ngân hàng và sổ kinh doanh cả trong và ngoài bảng tổng kết tài sản.
Nguyên tắc 6: Ngân hàng cần phải có quy trình rõ ràng cho việc phê duyệt
mới, sửa đổi, cấp lại hoặc tái tài trợ các khoản tín dụng hiện tại.
Nguyên tắc 7: Việc cấp tín dụng phải được thực hiện trên nguyên tắc thận
trọng và khách quan. Cụ thể là các khoản tín dụng cho các công ty và cá nhân có
liên quan phải được giám sát và quan tâm đặc biệt, cần có những biện pháp thích
hợp để kiểm soát và giảm thiểu rủi ro trong việc cho vay.
Nguyên tắc 8: Ngân hàng cần phải có một hệ thống để thực hiện quản trị và
giám sát thường xuyên, liên tục danh mục các khoản cho vay có rủi ro.
Nguyên tắc 9: Ngân hàng cần phải có hệ thống giám sát điều kiện của từng

khoản tín dụng bao gồm cả việc xác định đủ mức dự phòng rủi ro tín dụng.
Nguyên tắc 10: Ngân hàng cần có hệ thống đánh giá rủi ro tín dụng nội bộ để
quản trị rủi ro tín dụng. Hệ thống định hạng cần phải nhất quán với bản chất, quy
mô và mức độ phức tạp trong hoạt động của ngân hàng.
Nguyên tắc 11: Ngân hàng phải có hệ thống thông tin và các kỹ thuật phân
tích để trợ giúp cán bộ quản lý có thể đo lường rủi ro tín dụng phát sinh trong các
hoạt động trong và ngoài Bảng cân đối kế toán. Hệ thống thông tin quản lý cần cung
cấp đủ thông tin về cơ cấu của danh mục tín dụng để có thể nhận dạng các rủi ro tín
dụng do tập trung vào một ngành, lĩnh vực.
Nguyên tắc 12: Ngân hàng phải có hệ thống giám sát cấu trúc tổng thể và
chất lượng danh mục tín dụng.


17

Nguyên tắc 13: Ngân hàng cần phải đánh giá đầy đủ những biến động và
điều kiện kinh tế có thể xảy ra trong tương lai khi xem xét từng khoản tín dụng cũng
như danh mục cho vay của mình và cần đánh giá mức độ rủi ro tín dụng trong điều
kiện xấu nhất.
Nguyên tắc 14: Ngân hàng phải xây dựng hệ thống rà soát, đánh giá độc lập
và liên tục quy trình quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng, kết quả rà soát phải
được báo cáo trực tiếp Hội đồng quản trị và Ban điều hành.
Nguyên tắc 15: Ngân hàng phải được đảm bảo rằng chức năng cấp tín dụng
được quản lý đúng mức và rủi ro tín dụng được kiểm soát theo các giới hạn và
chuẩn mực nội bộ. Ngân hàng cần thiết lập và thực thi hệ thống kiểm tra nội bộ và
các thông lệ khác để đảm bảo rằng các trường hợp ngoại lệ so với chính sách, quy
trình và hạn mức được báo cáo một cách kịp thời tới cấp quản lý thích hợp để xử lý.
Nguyên tắc 16: Ngân hàng phải có hệ thống cảnh báo sớm đối với các khoản
tín dụng có nguy cơ giảm sút, quản lý các khoản cho vay có vấn đề và các trường
hợp nợ xấu tương tự.

1.2.2.2. Chính sách Quản trị rủi ro tín dụng của NHTM
Chính sách Quản trị rủi ro tín dụng (QLRRTD) là hệ thống các quan điểm,
chủ trương và biện pháp của NHTM, để nhận diện và QLRRTD một cách có hiệu
quả nhằm giảm thiệt hại và nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Nói cách
khác, chính sách QLRRTD là cơ chế và là chính sách cụ thể để giám sát và
QLRRTD một cách có hệ thống và iệu quả.
Do đó, các NHTM cần xây dựng cơ chế cấp tín dụng hợp lý như phân cấp
quản lý và uỷ quyền trong phê duyệt tín dụng; xác định thị trường, ngành nghề, lĩnh
vực cho vay; xây dựng các giới hạn trong hoạt động tín dụng; xây dựng chính sách
khách hàng; quy định về TSĐB…
Vì vậy, việc xây dựng chính sách quản trị rủi ro phải dựa trên một số nội
dung như sau:
 Nghiên cứu khách hàng:
Khi giao tiền cho người vay ngân hàng chỉ có quyền sở hữu, quyền sử dụng
đã trao cho người vay. Do đó, khi người vay sử dụng tiền không đúng mục đích, thì


18

nguy cơ dẫn đến khoản vay không được hoản trả xuất hiện. Vì vậy, việc xem xét
đánh giá khách hàng trước khi quyết định cho vay là một việc quan trọng. Các
nguyên tắc cho vay và điều kiện đảm bảo tín dụng cơ bản mà hầu hết các ngân hàng
đề ra là:
-

Tư cách pháp nhân và uy tín của người vay .

-

Mục đích sử dụng tiền vay, kế hoạch hoàn trả tín dụng.


-

Các đảm bảo tín dụng các giá trị tài sản thế chấp, năng lực bảo lãnh, bảo
hiểm của người vay.

Mặt khác, việc dánh giá khách hàng có thể đánh giá qua người lãnh đạo của
doanh nghiệp, các sản phẩm của doanh nghiệp, thị trường của doanh nghiệp.
 Áp dụng các biện pháp phân tán rủi ro.
San sẻ rủi ro là một biện pháp được nhiều ngân hàng sử dụng từ trước tới
nay, san sẻ rủi ro có ba hình thức chủ yếu:
- Tránh dồn vốn: Cách phân phối tín dụng tốt nhất đối với một ngân hàng
muốn tránh rủi ro là dải tiền của mình vào nhiều khoản đầu tư, nhiều khách hàng
khác nhau. Không cho vay quá nhiều để sản xuất kinh doanh một hàng hoá đặc biệt
là loại hàng hoá không thiết yếu, Nhà nước không khuyến khích sản xuất, năng lực
cạnh tranh không ổn định quá trình sản xuất kinh doanh dễ gặp rủi ro.
- Liên kết đầu tư: Nhằm cung cấp những khoản tín dụng lớn mà ngân hàng
không đủ khả năng cho vay, khó xác định trước mức độ rủi ro. Các ngân hàng sẽ kết
hợp với nhau thành từng nhóm cùng xem xét đánh giá khách hàng, phân tích khả
năng sinh lời của dự án để đầu tư. Các ngân hàng cùng tham gia đầu tư phải ký với
nhau một hợp đồng liên kết thoả thuận rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng thành
viên.
- Bảo hiểm tín dụng: Là biện pháp rất an toàn, hiệu quả cao. Có 3 hình thức
bảo hiểm tín dụng:
+ Khách hàng vay vốn mua bảo hiểm cho ngành nghề mà họ kinh doanh.
Đây là biện pháp mà khách hàng chủ động trang bị cho mình một sự bảo đảm khi
sản xuất kinh doanh gặp rủi ro. Nguồn tiền từ việc mua bảo hiểm sẽ giúp cho họ


19


trang trải được phần nào vốn vay ngân hàng.
+ Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên
nghiệp. Đây là hình thức bảo hiểm hay thực chất là ngân hàng san sẻ với các công
ty bảo hiểm về những rủi ro mà họ phải gánh.
 Áp dụng các biện pháp về bảo đảm tín dụng:
Trong những trường hợp cần thiết như gặp những khách hàng chưa quen
biết, mức độ tín nhiệm của ngân hàng với khách hàng chưa cao, đòi hỏi ngân hàng
phải sử dụng các biện pháp tín dụng để giảm bớt mức độ rủi ro, tạo điều kiện thu
hồi nợ chắc chắn.
- Bảo lãnh: Người bảo lãnh phải có đủ tư cách pháp nhân (nếu là một tổ
chức), có đủ năng lực pháp lý và năng lực hàng vi (nếu là cá nhân), phải có đủ khả
năng kinh tế để trả nợ thay trong trường hợp người vay không trả được nợ.
- Cầm cố: là việc ngân hàng cho khách hàng vay vốn bằng việc người vay
đưa tài sản của mình đến ngân hàng đảm bảo cho khoản vay mà họ có thể nhận
được món vay tối đa bằng 70% giá trị tài sản cầm cố. Đến hết thời hạn trả nợ mà
người vay không chịu trả hoặc không có khả năng trả nợ thì ngân hàng sẽ bán đấu
giá vật cầm cố để thu hồi nợ.
- Thế chấp tài sản: khi sử dụng hình thức thế chấp phải sử lý chặt chẽ các vấn
đề sau:
+ Tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người vay và phải có giá trị
trao đổi trên thị trường.
+ Tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người vay và phải có giá trị
trao đổi trên thị trường.
+ Nếu là động sản mà ngân hàng khó quản lý được trong thời gian người vay
sử dụng vốn vay thì ngân hàng có thể yêu cầu người vay mua bảo hiểm động sản đó
và trao giấy tờ gốc cho ngân hàng. Những động sản thuộc quyền sở hữu của người
vay nhưng pháp luật không có quy định phải có giấy tờ chứng minh quyến sở hữu
thì nên áp dụng cho vay cầm cố và được quản lý tại kho của ngân hàng.
- Cho vay tín chấp: Chỉ áp dụng đối với khách hàng đã trở nên tin cậy với

ngân hàng.
 Đa dạng hóa đầu tư:


20

Việc đa dạng hóa đầu tư và cấp tín dụng là một nguyên lý quan trọng của
việc quản lý kinh doanh của ngân hàng vì nó thực hiện đa dạng hóa mối quan hệ
giữa ngân hàng với khách hàng. Đây cũng là việc phân tán rủi ro trên các món cho
vay. Mặt khác, ta thấy rủi ro tín dụng còn phụ thuộc vào một số yếu tố như tính chất
tín dụng, kì hạn tín dụng... Vì vậy, ngân hàng cần có những quyết định đúng đắn,
hợp lý trong tín dụng để hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
1.2.2.3. Cơ cấu tổ chức trong hoạt động Quản trị rủi ro tín dụng của NHTM

Hình 1.2. Mô hình quản trị rủi ro theo 03 cấp độ


21

Hình 1.3. Mô hình quản trị rủi ro tại các NHTM
• Hội đồng quản trị rủi ro: trực thuộc HĐQT,thực hiện giám sát tất cả các loại
rủi ro trong toàn ngân hàng, qua đó sẽ có sự khái quát tổng thể về rủi ro, nhằm đưa
ra được các chính sách đồng bộ, hợp lý, hiệu quả nhất.
Hội đồng quản trị rủi ro có nhiệm vụ :
 Đảm bảo rằng tuyên bố chính sách rủi ro về mỗi loại rủi ro được chuẩn bị
để HĐQT phê duyệt.
 Đảm bảo rằng chính sách rủi ro đã được thực hiện nghiêm chỉnh.
 Quản lý nguồn vốn của ngân hàng.
 Đảm bảo xây dựng các hạn mức rủi ro thị trường và tín dụng.
 Quản lý Hồ sơ rủi ro tổng thể của RRTN trong các mảng kinh doanh.

 Rà soát hoạt động của Uỷ ban quản trị rủi ro.
• Uỷ ban quản trị rủi ro: trực thuộc Ban điều hành, có nhiệm vụ:
 Giám sát một cách tích cực quá trình quản trị rủi ro trong ngân hàng;
 Chịu trách nhiệm xây dựng Khung quản trị rủi ro;


22

• Thành viên Uỷ ban quản trị rủi ro bao gồm: Tổng giám đốc (làm Chủ tịch),
trưởng các Phòng QLRR và các phòng ban liên quan.
• Uỷ ban hoạt động thông qua các cuộc họp định kỳ hoặc bất thường
• Phòng QLRR TSC: có trách nhiệm giúp Ban lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
QLRR:
 Hỗ trợ Ban điều hành, giúp Ban điều hành chứng minh với các cơ quan
quản lý, kiểm toán và các cấp QL cao hơn rằng công tác QLRR đã được thực hiện;
 Làm đầu mối, chủ động triển khai vào thực tế, đến các bộ phận, các Chi
nhánh, đơn vị, phòng ban các khâu trong quá trình QLRR của ngân hàng.
• Phòng QLRR Chi nhánh: có nhiệm vụ:
 Giúp Ban giám đốc Chi nhánh thực hiện QLRR, thực hiện các báo cáo liên
quan đến QLRR...
 Triển khai hoạt động QLRR tại Chi nhánh dưới sự hướng dẫn, giám sát của
Phòng QLRR TSC.
• Bộ phận Kiểm toán: Chức năng kiểm toán nội bộ độc lập với quá trình quản
trị rủi ro, nhằm kiểm tra tính hiệu quả của chính sách và khung quản trị rủi ro. Ban
kiểm toán cần thực hiện xem xét lại quy trình quản trị rủi ro và phương pháp đo
lường nhằm đảm bảo:
 Tính tuân thủ quy trình quản trị rủi ro
 Chất lượng, nội dung các phương pháp và kết quả của các phương pháp đó.
• HĐQT và Ban Lãnh đạo:
 Thông thường một trong những giao diện quan trọng nhất giữa HĐQT và

Ban Lãnh đạo là thông qua Hội đồng quản trị rủi ro.
 Hội đồng quản trị rủi ro thường bao gồm chủ yếu là các thành viên HĐQT
và có nhiệm vụ định hướng rủi ro chiến lược.
 Ban Lãnh đạo Cấp cao có trách nhiệm vận hành hoạt động triển khai chác
chính sách về quản trị rủi ro đã được HĐQT phê duyệt.
1.2.2.4. Giải pháp xử lý nợ xấu trong quản trị rủi ro của các NHTM
Xử lý nợ xấu là một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động


23

quản trị rủi ro tín dụng của các NHTM, gốm một số biện pháp như sau:
- Ngân hàng chủ động tăng mức trích lập dự phòng các khoản nợ xấu,
chấp nhận giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ. Việc làm này sẽ giúp ngân hàng thương mại
nhanh chóng bù đắp tổn thất, giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp. Đồng thời, có
thể giảm quỹ lương nhưng làm tăng khả năng tài chính nội tại của ngân hàng.
- Ngân hàng chứng khoán hóa các khoản nợ khó đòi. Nếu doanh nghiệp có
lịch sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ trả nợ gốc hoặc do
các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động… có thể chuyển một phần
nợ gốc thành trái phiếu trung hạn. Điều này nhằm hỗ trợ thanh khoản và giúp doanh
nghiệp tồn tại, phát triển.
Chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần. Đồng thời, chuyển vị thế các
ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ đông lớn nắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau
tái cấu trúc doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển. Đây là cách thức xử lý
khá phổ biến theo thông lệ thế giới.
- Thực hiện tái cơ cấu cho các Doanh nghiệp khó khăn, mà trọng tâm là tái
cơ cấu tài chính, nhằm nâng cao năng lực của các Doanh nghiệp. Xử lý nợ xấu, tái
cơ cấu các TCTD, các ngân hàng phải đi đôi với việc tiến hành tái cơ cấu DN.
Không thể tồn tại một hệ thống ngân hàng mạnh trên cơ sở một nền kinh tế có các
DN yếu kém.

- Thực hiện xử lý TSBĐ của Doanh nghiệp để thu hồi nợ vay.
- Thực hiện xử lý nợ xấu bằng quỹ Dự phòng rủi ro.
- Xử lý nợ xấu bằng biện pháp cơ cấu lại nợ.
- Xử lý nợ xấu bằng biện pháp bán nợ.
1.3. Đặc thù hoạt động quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay các Doanh
nghiệp kinh doanh Vận tải biển:
1.3.1. Khái quát doanh nghiệp vận tải biển và hoạt động kinh doanh vận tải biển.
1.3.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vận tải biển:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn


24

định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh.
Tàu biển là tàu hoặc cấu trúc nổi di động khác chuyên dùng cho hoạt động trên
biển. Tàu biển trong hoạt động vận tải biển phân chia theo công dụng tàu, gồm:
- Tàu chở hàng rời: là tàu chở hàng hoá khô như: gạo, bông, v.v...
- Tàu chở hàng lỏng: là tàu chở dầu, nước ngọt, hoá chất ở thể lỏng, khí đốt tự
nhiên,v.v... Nhóm tàu loại này thường có dung tích và trọng tải lớn.
- Tàu chở container: là tàu chở hàng được đóng trong container riêng biệt,
thông dụng là container 20 hoặc 40 feet. Xu hướng tàu chở container ngày càng
phát triển.
- Tàu chở hàng đặc biệt: là tàu chở súc vật, hàng đông lạnh,v.v…
Tuyến vận tải biển là đoạn đường mà tàu biển hành trình được để vận chuyển
hàng hoá, hành khách giữa hai cảng liền nhau để thuận tiện cho tổ chức, quản lý và
khai thác đối với hoạt động vận tải biển. Tuyến vận tải biển phân theo phạm vi hoạt
động sẽ gồm: Tuyến vận tải biển nội địa và Tuyến vận tải biển quốc tế.
Vận tải biển là phương thức vận tải dùng tàu biển (hoặc các phương thức vận
tải đường biển khác) để tiến hành việc chuyên chở hàng hoá, hành khách trên các

tuyến vận tải biển.
Trong khuôn khổ luận văn, tác giả chỉ xem xét doanh nghiệp vận tải biển dưới
giác độ là doanh nghiệp vận chuyển, xếp dỡ hàng hóa hoặc doanh nghiệp thực hiện
quá trình phục vụ cho hai quá trình trên (môi giới hàng hải, mua bán tàu, mua bán
trang thiết bị hàng hải, phục vụ tàu tại cảng, tư vấn hàng hải,v.v...); không bao gồm
các doanh nghiệp thi công đóng tàu.
1.3.1.2. Khái quát về hoạt động kinh doanh vận tải biển
a) Vị trí
Vận tải đường biển ra đời rất sớm, từ thế kỷ thứ X trước công nguyên. Ngay từ
khi các phương thức vận tải bằng đường sắt, đường hàng không chưa ra đời thì vận
tải đường biển đã được sử dụng một cách phổ biến. Sự phát triển của vận tải đường
bộ, vận tải hàng không, vận tải đường sắt sau này không những không làm giảm vị
trí của vận tải đường biển, thậm chí càng khẳng định vị trí của vận tải đường biển.


25

Vận tải đường biển chuyên chở tới 80% khối lượng hàng hoá, chiếm khoảng 64%
giá trị hàng hoá trong thương mại quốc tế. Có thể khẳng định, vận tải đường biển
giữ một vị trí quan trọng đối với vận chuyển quốc tế.
b) Vai trò
Vận tải biển có mối quan hệ rất chặt chẽ với thương mại thế giới thông qua
việc trao đổi hàng hoá, đặc biệt những giao dịch có khối lượng lớn, tuyến vận
chuyển dài. Vận tải biển thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển, góp phần làm thay
đổi cơ cấu hàng hoá và cơ cấu thị trường trong thương mại quốc tế.
Theo số liệu thống kê của UNCTAD, chi phí vận tải đường biển chiếm trung
bình 10-15% giá FOB hoặc 8-9% giá CIF của hàng hoá thương mại quốc tế. Chi phí
vận tải càng rẻ, việc chuyên chở hàng hoá càng thuận lợi thì khối lượng vận chuyển
hàng hóa quốc tế càng lớn, là động lực thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển.
c) Đặc điểm:

- Về các tuyến vận tải biển: Các tuyến vận tải biển đi lại trên mặt biển nên
không đòi hỏi đầu tư vốn, nguyên vật liệu, sức lao động. Con người chỉ tập trung
xây dựng các công trình bổ trợ cho các tuyến vận tải biển như phao, cảng, hải đăng,
… hỗ trợ cho các tuyến vận tải biển.
- Về năng lực vận tải: Năng lực vận tải đường biển là rất lớn do năng suất
trong vận tải biển lớn, đặc biệt là tàu biển. Nếu vận tải bằng ô tô chỉ có khả năng
chuyên chở dưới 20 tấn/chuyến, bằng máy bay có khả năng chuyên chở 110
tấn/chuyến, bằng tàu hoả cũng chỉ có khả năng chuyên chở 4-6.000 tấn thì vận tải
bằng tàu biển cỡ nhỏ và trung bình cũng có khả năng chuyên chở từ 6-12.000 tấn,
bằng tàu biển cỡ lớn có khả năng chuyên chở hàng trăm nghìn tấn, thậm chí có tàu
có khả năng chở hàng trăm nghìn tấn… Đây thực sự là lợi thế của vận tải đường
biển so với các phương thức vận tải khác. Nhờ trọng tải lớn làm giảm giá thành vận
tải, do đó vận tải đường biển có điều kiện vận chuyển được những mặt hàng có giá
trị thấp như than quặng, nguyên liệu,… Hơn nữa, trên cùng một tuyến đường biển
có thể tổ chức chạy nhiều chuyến tàu trong cùng một thời gian cho cả hai chiều,
cước vận tải đường biển là cước thấp nhất. Nếu so cùng trên một đoạn đường thì
cước vận tải đường biển khoảng 0,7USD/kg, cước vận tải đường hàng không


×