Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Sự tác động của mạng xã hội đối với báo mạng điện tử TIỂU LUẬN CAO HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.94 MB, 62 trang )

Mục lục:
I. Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
3. Mục đích nghiên cứu
4. Đối tượng nghiên cứu
5. Phạm vi nghiên cứu
6. Phương án nghiên cứu
II. Nội dung
1.Cơ sở lý luận
1.1. Báo mạng điện tử
a. Báo mạng điện tử là gì
b. Lịch sử hình thành và xu hướng phát triển
c. Vai trò của Báo mạng điện tử
1.2. Mạng xã hội
a. Mạng xã hội là gì
b. Lịch sử hình thành và xu hướng phát triển
c. Vai trò của Mạng xã hội
1.3. So sánh các đặc điểm của Mạng xã hội và Báo mạng
điện tử
a. Điểm tương đồng
b. Điểm khác nhau
1.4. Sự tác động giữa Mạng xã hội và Báo mạng điện tử
1.4.1. Tác động tích cực
1.4.2. Tác động không có lợi
2. Khảo sát thực tế
1


2.1. Tiến hành khảo sát
2.2. Phân tích thực tế


2.3. Kết luận cuộc khảo sát
2.4. Kiến nghị và giải pháp
III. Kết luận
1. Khái quát vấn đề
2. Khẳng định tầm quan trọng của đề tài và kết quả nghiên cứu
3. Kết luận chung
4. Mở ra hướng nghiên cứu
5. Lời cảm ơn
Một số ý kiến của các nhà quản lý
Phỏng vấn sâu
Tài liệu tham khảo
Mẫu phiếu điều tra xã hội học

2


I. Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm 50 của thế kỷ XX, máy vi tính ra đời mở ra một kỷ nguyên
thông tin mới cho loài người. Đặc biệt, đến cuối thế kỷ XX, sự xuất hiện của
Internet –mạng thông tin toàn cầu đã liên kết con người bằng thông tin và
kết nối nguồn tri thức của toàn nhân loại trong một mạng lưu thông nhất
quán. Hàng triệu người trên khắp thế giới, thuộc mọi quốc gia, dân tộc có
thể trao đổi với nhau về tư tưởng, tình cảm, những kinh nghiệm sống, đọc
báo, tạp chí… qua mạng Internet.
Internet có khả năng lưu trữ và truyền tải thông tin không giới hạn,
không chịu ảnh hưởng của rào cản không gian, thời gian. Chính từ những lợi
thế đó, Internet đã trở thành môi trường đặc biệt thuận lợi, lý tưởng cho báo
mạng điện tử và các mạng xã hội phát triển.
Sinh sau đẻ muộn hơn báo mạng điện tử nhưng các mạng xã hội tỏ ra

thu hút sự chú ý, tham gia của cộng đồng hơn hẳn. Mạng xã hội tác động
không nhỏ đến đời sống sinh hoạt của mọi người, đến các phương tiện
truyền thông đại chúng, trong đó có báo mạng điện tử.
Bà Ennelie Ewars, Viện trưởng viện đào tạo báo chí FOJO, Thụy Điển
chia sẻ: “Mạng xã hội đang là chủ đề nóng trên thế giới, đang từng ngày
thách thức các phương tiện truyền thông truyền thống. Vai trò của các nhà
báo cũng đang thay đổi và chúng ta đang đứng giữa ngã tư đường: Ai sẽ
nắm quyền tác động và vai trò của nhà báo trong tương lai sẽ như thế
nào?”
Tại Việt Nam, các mạng xã hội cũng đang “làm mưa làm gió”, khẳng
định chỗ đứng của mình trong thế giới mạng. Và mạng xã hội cũng đang tác
động không nhỏ đến báo mạng điện tử. Vì thế, việc nghiên cứu những tác
3


động của mạng xã hội đối với báo mạng điện tử là vô cùng cần thiết để báo
mạng điện tử có thể đối phó được với những thách thức mà mạng xã hội
đem đến cũng như khai thác hiệu quả các mạng xã hội để phục vụ cho hoạt
động báo chí.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trên thế giới đã có rất nhiều bài viết, đề tài nghiên cứu về vấn đề này
bởi mạng xã hội được hình thành sớm và ảnh hưởng rất mạnh đến các kênh
báo chí chính thống. Có thể kể ra một số bài như: Facebook effect: “Social
network sways online news readership as people share, 'like' items” trên
trang www.vancouverobserver.com, “The Social Media Revolution:
Exploring the Impact on Journalism and News Media Organizations” của
Ruth A. Harper, “Internet and Social Media Affect Newspaper Numbers”
của Frank, “How has social media changed the way newsrooms work” của
Kevin Bakhurst…
Tại Việt Nam, hiện nay vẫn chưa có nhiều bài báo, bài nghiên cứu

chuyên sâu hay các cuộc hội thảo về vấn đề sự tác động của mạng xã hội đến
báo mạng điện tử như trên thế giới.
Mới đây nhất đã diễn ra “Hội thảo về mạng xã hội và báo chí” do Bộ
Thông tin và Truyền thông tổ chức tại Thừa Thiên Huế (vào ngày 28, 29-102011). Trên các trang báo mạng điện tử cũng có một số bài báo như: “5 lý
do các hãng truyền thông mới cần coi trọng mạng xã hội” của Vietnam+,
“Tương tác giữa mạng xã hội và báo chí”, www.cand.com.vn; “Cẩn thận
với thông tin trên mạng xã hội” của TTXVN, “Mạng xã hội và báo chí”
www.tapchicongsan.org.vn… Hầu hết các bài báo này đều là những bài dịch

4


từ báo chí thế giới, còn lại là những bài viết dạng phản ánh hoặc ít đưa tin
chưa đi sâu phân tích cụ thể.
3. Mục đích nghiên cứu
Từ lịch sử nghiên cứu, tính cấp thiết của đề tài, trong môn học Nhập
môn Báo mạng điện tử, em đã lựa chọn đề tài “Sự tác động của Mạng xã
hội đối với Báo mạng điện tử”. Vì vậy, đề tài được nghiên cứu trong bài
tiểu luận không chỉ mang tính lý luận và thực tiễn mà còn là một vấn đề khá
mới mẻ, có tính thời sự. Nhưng trong khuôn khổ tiểu luận, rất khó để nghiên
cứu thấu đáo, chi tiết vấn đề này. Em rất mong nhận được những góp ý, bổ
sung từ phía thầy cô và các bạn.
Trước tiên, qua bài tiểu luận, em hy vọng sẽ cung cấp cho người đọc
hiểu biết về sự ra đời và xu hướng phát triển của báo mạng điện tử, mạng xã
hội. Tiếp đó là những tác động tích cực và tiêu cực của mạng xã hội đối với
báo mạng điện tử. Từ đó mọi người sẽ khai thác hợp lý mạng xã hội, đặc
biệt những sinh viên, phóng viên báo chí sẽ tận dụng được những tác động
tích cực ấy vào quá trình viết báo, tránh những tác động tiêu cực mà mạng
xã hội gây ra để có được những tác phẩm thú vị, ý nghĩa.
4. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính của bài tiểu luận là những hoạt động của
một số mạng xã hội nổi bật như Facebook, Yume; tên các website đầy đủ là:
www.facebook.com, www.yume.vn. Cụ thể là hoạt động truyền tải thông
tin, kết nối,… có ảnh hưởng, tác động đến báo chí nói chung và báo mạng
điện tử nói riêng. Hoạt động của các trang báo mạng điện tử trong việc khai
thác, tương tác với các mạng xã hội ấy, cụ thể là một số trang báo mạng điện
tử như các trang: Vnexpress, Vietnamnet; địa chỉ website đầy đủ là:
www.vnexpress.net, www.vietnamnet.vn. Từ đó, nghiên cứu, làm rõ sự tác
5


động của mạng xã hội đối với báo mạng điện tử bằng các cơ sở lý luận và
khảo sát thực tế.
Trong cuộc khảo sát, đối tượng khảo sát là những người trẻ, độ tuổi từ
18 đến 30 tuổi bởi vì đó là lứa tuổi truy cập Internet cao nhất; tiếp cận dễ
dàng với các phương tiện truyền thông đại chúng, các mạng xã hội và cập
nhật các trang báo mạng điện tử khá thường xuyên. Đó là những sinh viên,
những người đã đi làm và những nhà báo, phóng viên trực tiếp hoạt động
trong lĩnh vực báo chí, cho các trang báo mạng điện tử. Số lượng nam và nữ
được hỏi cân bằng nhau. Qua đó sẽ làm tăng giá trị thực tiễn, tính khách
quan cho bài tiểu luận.
5. Phạm vi nghiên cứu
Do dung lượng và thời gian hoàn thành bài tiểu luận không nhiều nên
em tập trung nghiên cứu các mạng xã hội, các trang báo mạng điện tử này
trong suốt tháng 11 năm 2011. Bên cạnh đó, cũng có những so sánh, dẫn
chứng, minh họa các trường hợp cụ thể phù hợp với đề tài: “Sự tác động
của Mạng xã hội đối với Báo mạng điện tử” ở các trang báo điện tử và các
mạng xã hội khác để tăng tính khái quát cho bài viết.
6. Phương án nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp truyền thống để khai thác tư liệu, khảo

sát như: so sánh, phân tích, đối chiếu, tổng hợp, suy luận, diễn giải.
Trong cuộc khảo sát, có sử dụng các phương pháp như: phương pháp
phỏng vấn, phương pháp điều tra xã hội học. Ba loại phiếu hỏi đã được phát
đi cho các nhóm: sinh viên, người đi làm và các nhà báo, phóng viên. Mỗi
nhóm này phát 10 phiếu khảo sát. Ngoài ra còn có các ý kiến cá nhân của
một số Tổng biên tập, phóng viên, công chúng về vấn đề này.
Tác giả đề tài cũng đã trực tiếp tham gia các mạng xã hội và thường
xuyên theo dõi các trang báo mạng điện tử để cập nhật thông tin.
6


II. Nội dung
1.Cơ sở lý luận
1.1. Báo mạng điện tử
a. Báo mạng điện tử là gì
Báo mạng điện tử là kết quả của sự tích hợp giữa công nghệ, Internet và
ưu thế của các loại hình báo chí truyền thống. Báo mạng điện tử là hệ quả
của sự xuất hiện Internet trong cuộc sống của con người trong lĩnh vực báo
chí, truyền thông đại chúng.
Trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại nhiều cách gọi khác
nhau đối với loại hình báo chí mới này như: Báo điện tử (Electronic journal),
Báo trực tuyến (Online newspaper), Báo mạng (Cyber newspaper), Báo
Internet và Báo mạng điện tử. Tuy nhiên các cách gọi trên đều chưa phản
ánh đúng bản chất và chưa được Việt hóa. Nhìn chung, chọn cách gọi như
thế nào là do thói quen của mỗi người và cũng chưa có tên gọi thống nhất;
quan trọng là người gọi phải hiểu đúng bản chất của loại hình này. Trong đề
tài, người viết sử dụng khái niệm “Báo mạng điện tử” của Học viện Báo chí
và Tuyên truyền.
Báo mạng điện tử là một loại hình báo chí được xây dựng dưới hình
thức của một trang web và phát hành trên mạng Internet.

b. Lịch sử hình thành và xu hướng phát triển
Kể từ sau khi cơn bão khoa học kỹ thuật và công nghệ “đổ bộ” xuống
các quốc gia trên thế giới thì mọi mặt của đời sống xã hội nói chung đã dần

7


thay da đổi thịt. Các nước phát triển trên thế giới không ngừng phát minh ra
những sản phẩm công nghệ để phục vụ nhu cầu của con người.
Năm 1962, ý tưởng đầu tiên về mạng kết nối các máy tính với nhau của
J.C.R Licklider ra đời. Năm 1969, mạng này được đưa vào hoạt động và là
tiền thân của Internet; Internet –liên mạng bắt đầu xuất hiện khi nhiều mạng
được kết nối với nhau. Tiếp đó là hàng loạt phát kiến về giao thức chuyển
gửi tin TCP/IP (Transmision Control Pro –tocol và Interner Protocol), hệ
thống các tên miền DNS (Domain Name System) để phân biệt các máy chủ,
ngôn ngữ siêu văn bản HTML (Hyper Text Mark –up Language)….
Và trong guồng quay công nghệ đó, khi mọi lĩnh vực của cuộc sống đều
được ứng dụng khoa học công nghệ thì báo chí cũng không tránh khỏi
những tác động. Kết quả là, những tờ báo mạng điện tử ra đời theo xu thế
phát triển của thời đại.
Trên thế giới, tờ báo điện tử đầu tiên được ra đời tại Mỹ vào tháng 5
năm 1992, tờ Diễn đàn Chicago (Chicago Tribune). Dần dần, các tờ Báo
mạng điện tử xuất hiện nhiều hơn nhưng gặp phải không ít rào cản: số lượng
người có máy tính để đọc báo còn ít, sự hạn chế và trục trặc trong khâu kỹ
thuật, tâm lý người đọc còn e ngại trong việc sử dụng máy móc…
Ở Việt Nam, mạng toàn cầu được kết nối vào ngày 19-11-1997, điều
này đã tạo ra sự thay đổi mới trong phương thức thông tin của xã hội. Chỉ
một tháng sau, (31-12-1997), tạp chí Quê hương đã trở thành tờ báo mạng
điện tử đầu tiên của nước ta. Liên tiếp sau đó là sự ra đời của hàng loạt các
báo mạng điện tử khác như: Nhân dân, Lao động, Vietnamnet, Vnexpress,

Quốc tế…
8


Có thể chia thành hai giai đoạn phát triển của Báo mạng điện tử Việt
Nam.
Giai đoạn 1997 – 2005: Là giai đoạn đánh dấu sự ra đời của báo mạng
điện tử ở Việt Nam. Các tờ báo còn đơn giản cả về nội dung và hình thức,
thậm chí là những bản sao của các phiên bản báo in. Xuất hiện hàng loạt các
trang báo điện tử mà tiêu biểu như Thanhnien online, Tuoitre Online,
Vietnamnet, Vnexpress, Dân Trí... Ở thời kì này, các tờ báo đã dần khẳng
định được vị trí của mình trong làng báo, xây dựng được nhưng thương hiệu,
phong cách riêng.
Giai đoạn 2005 đến nay : Xuất hiện thêm các dạng blog, các địa chỉ
web của các cá nhân, cơ quan, các diễn đàn... tạo nên cái gọi là “báo chí
công dân”. Đời sống báo chí, nhất là báo chí trên mạng càng ngày càng
phong phú, sự cạnh tranh thông tin vì thế mà càng mạnh mẽ hơn.
Từ chỗ ban đầu những tờ báo mạng điện tử gần như chỉ là phiên bản
của những tờ báo in nay đã phát triển độc lập hơn, có đường nét hơn, dần
dần thoát khỏi cái bóng của người anh cả và ngày càng tỏ rõ ưu thế vượt trội
của mình.
Công nghệ đã cho phép Báo mạng điện tử ra đời và ngược lại, chính
Báo mạng điện tử cũng thúc đẩy sự phát triển của các công nghệ mới.
Những trình duyệt , ứng dụng liên tục được cải tiến. Báo mạng điện tử có
khả năng tích hợp các tính năng truyền thông đa phương tiện. Sự phát triển
của báo chí thúc đẩy hoạt động thương mại điện tử, tạo ra môi trường mới
cho ngành công nghiệp quảng cáo, các dịch vụ đi kèm phát huy những
phương cách mới, muôn hình vạn trạng…
9



Xu hướng phát triển của Báo mạng điện tử nói riêng và báo chí nói
chung đều hướng đến xã hội hóa, toàn cầu hóa và thương mại hóa báo chí,
hình thành tập đoàn báo chí. Đặc biệt, từ những đặc trưng riêng biệt của
mình, Báo mạng điện tử đang chú trọng đẩy mạnh các ưu điểm của mình
như: lấy tốc độ cập nhật thông tin làm trọng tâm, kết hợp truyền thông đa
phương tiện, sử dụng công nghệ Web 2.0 để tăng độ tương tác.
c. Vai trò của Báo mạng điện tử
Khi mới ra đời, Báo in không được tin tưởng bằng những lời truyền
miệng, Phát thanh được coi là trò nhảm nhí, Truyền hình là trò tiêu khiển,
phù thủy; còn Báo mạng điện tử thì bị cho là lá cải, không chính thống.
Nhưng theo quy luật phát triển tự nhiên, Báo mạng điện tử đã khẳng định vị
thế của mình trong làng báo. Báo mạng điện tử không thua kém, thậm chí
đang “lấn lướt” các loại hình báo chí khác.
Sự ra đời của Báo mạng điện tử đã làm thay đổi thói quen tiếp nhận
thông tin trước đây của một số bộ phận công chúng đọc giả. Nếu như trước
đây công chúng phải chờ đến một thời điểm nhất định trong ngày, thường là
buổi sáng để mua tờ báo in mới nhất và đọc nó, hoặc phải chờ đến một giờ
giấc nhất định để nghe đài, xem tivi. Thì nay, với sự ra đời và phát triển vượt
bậc của công nghệ Internet, báo mạng điện tử có thể đáp ứng nhu cầu thông
tin của công chúng vào bất cứ thời điểm nào trong ngày chỉ qua một cái kích
chuột.
Với những đặc trưng như tính tức thì, khả năng siêu liên kết và khả
năng lưu trữ thông tin, Báo mạng điện tử là một phương tiện truyền thông
hữu hiệu chủ trương, chính sách và đường lối của Đảng và Nhà nước, những
10


thành tựu lớn lao của công cuộc đổi mới với công dân trong nước, bạn bè
quốc tế cũng như với gần 3 triệu kiều bào xa Tổ quốc.

Hầu hết các Báo mạng điện tử đã khai thác triệt để tính tương tác –một
lợi thế so với các loại hình báo chí khác –mở ra nhiều diễn đàn đối thoại sinh
động như về các vấn đề lao động việc làm, chống tiêu cực –tham nhũng,
giáo dục, đào tạo. Bạn đọc có thể trao đổi, góp ý kiến với tòa soạn, phóng
viên qua thư điện tử rất nhanh chóng và tiện lợi.
Một thực tế rõ ràng là trong các năm qua, dù Đảng và Nhà nước đã rất
quan tâm, có nhiều chủ trương, chính sách tích cực nhưng việc gửi báo chí
ra nước ngoài vẫn còn rất hạn chế vì giá cước cao, các địa chỉ lại phân tán.
Để có một cuốn sách, tờ báo, người Việt ở Châu Âu phải chờ một tuần, thậm
chí nửa tháng. Giờ đây, chỉ cần một thao tác vi tính là người ta có thể biết
được thông tin cập nhật mọi lúc, mọi nơi, mọi mặt của đất nước từ chính trị,
kinh tế, xã hội đến văn hóa, khoa học. Báo mạng điện tử cũng là một kênh
quan trọng giúp chúng ta cập nhật thông tin, tăng cường giao lưu văn hóa
với các nước trên thế giới.
Trên mạng thông tin Internet, ngoài thông tin mang tính báo chí, bạn
đọc có thể xem các clip, nghe nhạc, xem tivi… rất tiện lợi. Từ trang chủ của
một tờ báo, công chúng có thể liên kết với các tờ báo khác qua phần
Weblink rất tiện lợi.
Internet đang đến với cả những nơi xa xôi nhất và Báo mạng điện tử
cũng sẽ có mặt. Còn đối với các tỉnh, thành phố, khu đô thị đang hay đã phát
triển thì dường như lướt web, đọc các trang Báo mạng điện tử đã trở thành
thói quen thường nhật. Ngoài tính chất thông tin báo chí, Báo mạng điện tử
11


đã và đang là món ăn tinh thần không thể thiếu trong “thực đơn” hàng ngày
của đọc giả.
1.2. Mạng xã hội
a. Mạng xã hội là gì
Mạng xã hội, hay gọi là Mạng xã hội ảo, (Social network) là dịch vụ

nối kết các thành viên cùng sở thích trên Internet lại với nhau với nhiều mục
đích khác nhau không phân biệt không gian và thời gian.
Mạng xã hội có những tính năng như chat, e –mail, phim ảnh, voice
chat, chia sẻ file, blog và xã luận.
Mạng đổi mới hoàn toàn cách cư dân mạng liên kết với nhau và trở
thành một phần tất yếu của mỗi ngày cho hàng trăm triệu thành viên khắp
thế giới. Các dịch vụ này có nhiều phương cách để các thành viên tìm kiếm
bạn bè, đối tác: dựa theo group (ví dụ như tên trường hoặc tên thành phố),
dựa trên thông tin cá nhân (như địa chỉ e-mail hoặc screen name), hoặc dựa
trên sở thích cá nhân (như thể thao, phim ảnh, sách báo, hoặc ca nhạc), lĩnh
vực quan tâm: kinh doanh, mua bán...
Hiện nay thế giới có hàng trăm mạng mạng xã hội khác nhau, với
MySpace và Facebook nổi tiếng nhất trong thị trường Bắc Mỹ và Tây Âu;
Orkut và Hi5 tại Nam Mỹ; Friendster tại Châu Á và các đảo quốc Thái Bình
Dương. Mạng xã hội khác gặt hái được thành công đáng kể theo vùng miền
như Bebo tại Anh Quốc, CyWorld tại Hàn Quốc, Mixi tại Nhật Bản và tại
Việt Nam xuất hiện rất nhiều các mạng xã hội như: Zing Me, YuMe,
Tamtay...
12


b. Lịch sử hình thành và xu hướng phát triển
Mạng xã hội xuất hiện lần đầu tiên năm 1995 với sự ra đời của trang
Classmate với mục đích kết nối bạn học, tiếp theo là sự xuất hiện của
SixDegrees vào năm 1997 với mục đích giao lưu kết bạn dựa theo sở thích.
Năm 2002, Friendster trở thành một trào lưu mới tại Hoa Kỳ với hàng
triệu thành viên ghi danh. Năm 2004, MySpace ra đời với các tính năng như
phim ảnh (Embedded video) và nhanh chóng thu hút hàng chục ngàn thành
viên mới mỗi ngày. Các thành viên cũ của Friendster cũng lũ lượt chuyển
sang MySpace. Và trong vòng một năm, MySpace trở thành mạng xã hội

đầu tiên có nhiều lượt xem hơn cả Google và được tập đoàn News
Corporation mua lại với giá 580 triệu USD.
Năm 2006, sự ra đời của Facebook đánh dấu bước ngoặt mới cho hệ
thống mạng xã hội trực tuyến với nền tảng lập trình "Facebook Platform"
cho phép thành viên tạo ra những công cụ (apps) mới cho cá nhân mình
cũng như các thành viên khác dùng. Facebook Platform nhanh chóng gặt hái
được thành công vượt bực, mang lại hàng trăm tính năng mới cho Facebook
và đóng góp không nhỏ cho con số trung bình 19 phút mà các thành viên bỏ
ra để truy cập trang này mỗi ngày.
Những con số ấn tượng khiến nhiều người cho rằng Social Media là
cuộc cách mạng lớn nhất –kể từ cuộc Cách mạng Công nghiệp.

13


Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon cũng khẳng định các
phương tiện báo chí mới, mạng xã hội, đang mở ra những cơ hội chưa từng
có cho mọi người trong việc tạo ra và tiếp nhận thông tin, thúc đẩy dân chủ
và tiến bộ xã hội.
Nhận thức được điều đó, các nhà mạng cũng đã biết tận dụng, khai
thác những lợi ích mà mạng xã hội đem lại. Về phía những người sáng tạo ra
các trang mạng xã hội, họ cũng luôn đổi mới về mặt hình thức, bổ sung các
tính năng, tiện ích để công chúng có thể giải trí, kết nối, sẻ chia… được
nhiều nhất.
Các mạng xã hội như Facebook, MySpace, Twitter, ZingMe,
TamTay… mới chỉ hoạt động được vài năm song đã nhanh chóng trở thành
một hiện tượng phổ biến toàn cầu và thu hút đông đảo người sử dụng nhất là
giới trẻ. Trong các hoạt động của giới trẻ Việt Nam trên các mạng xã hội,
một điều dễ nhận thấy chính là kết nối bạn bè và giải trí.
Ở Việt Nam, số lượng người sử dụng Internet ngày càng tăng, tính

đến hết tháng 10-2011, đã có hơn 26 triệu người sử dụng, tương đương với
khoảng 31% tổng dân số và đứng đầu các nước ASEAN về số lượng người
dùng Internet. Trong đó, gần 2/3 số người sử dụng Internet tại các thành phố
lớn ở độ tuổi dưới 30. Nhóm dân số sử dụng Internet nhiều nhất là 20-24
tuổi (chiếm hơn ¼). Tỷ lệ nam –nữ sử dụng Internet tương đối cân bằng ở
nhóm tuổi 15-19, nhưng khi tuổi càng cao thì tỷ lệ nữ dùng Internet càng
giảm. Hầu hết người dùng mạng xã hội có độ tuổi từ 15 đến 29 tuổi. 72%
dân số có độ tuổi từ 18 đến 30 và 43% dân số lớn tuổi sử dụng mạng xã hội
để tương tác với bạn bè.

14


Hiện nay, người ta dùng điện thoại di động để truy cập mạng xã hội
thấp hơn nhiều so với dùng máy tính (48% dân số của mạng xã hội truy cập
thông qua máy tính, trong khi 33% truy cập thông qua điện thoại di động).
Những phản ứng của giới trẻ Việt Nam với mạng xã hội khá tốt, đặc
biệt với những chương trình, kế hoạch hành động mang tính cộng đồng cao.
Ví dụ như chiến dịch SEAChange YouthSays phát động ở Việt Nam chủ yếu
trên Facebook, sau một tháng đã thu hút 15.000 bạn trẻ tham gia trả lời và
ủng hộ chiến dịch Người trẻ Đông Nam Á cùng thay đổi.
Một số fanpage của các nhãn hiệu Việt Nam cũng đạt xấp xỉ 10.000
người hâm mộ, báo hiệu cho một tương lai phát triển mạnh mẽ của chiến
lược quảng cáo qua các mạng xã hội.
Đó là những con số đáng khích lệ với sự phát triển của cộng đồng
mạng xã hội ở Việt Nam. Trong tương lai, mạng xã hội sẽ còn tăng nhiều
tính năng, tích hợp nhiều tiện ích để phù hợp với nhu cầu sử dụng của công
chúng. Mạng xã hội có xu hướng gắn kết chặt chẽ hơn với các trang báo
mạng điện tử qua weblink và cũng sẽ là nơi “chọn mặt gửi vàng” của các
doanh nghiệp, công ty, nhãn hàng lớn.

c. Vai trò của Mạng xã hội
Theo kết quả nghiên cứu Net Index do công ty Yahoo và công ty
nghiên cứu thị trường Kantar Media thực hiện tại 4 thành phố lớn là Hà Nội,
Đà Nẵng, Sài Gòn và Cần Thơ trong hai tháng đầu năm nay thì số người sử
dụng Internet hàng ngày tại Việt Nam đã vượt qua báo giấy và radio. Cụ thể,
số người dùng Internet đạt 42% trong khi số người đọc báo giấy chỉ chiếm
40% và nghe radio chiếm 23%.
15


Ngoài ra, một khảo sát khác của công ty nghiên cứu thị trường toàn
cầu Nielsen cũng cho biết có đến 96% số người sử dụng Internet tại Việt
Nam đều đã từng ghé qua một trang mạng xã hội. Thêm vào đó, họ lại là
những người bị ảnh hưởng nhiều nhất từ các thông tin đăng trên mạng xã hội
so với cư dân các nước khác trong khu vực Đông Nam Á. 80% người dùng
cho rằng Internet là công cụ hữu ích để liên hệ với bạn bè, người thân và gặp
gỡ những người mới.
Ông Ban Ki –moon, Tổng thư ký Liên hợp quốc cũng cho rằng, Mạng
xã hội giúp truyền tải thông tin của các chính phủ đến công chúng và giúp
các cơ quan lãnh đạo nắm bắt được những phản biện từ công chúng.
Mạng xã hội đã liên kết cộng đồng qua những mạng lưới thông tin,
hình ảnh và công cụ, tiện ích. Mạng xã hội như xã hội thu nhỏ, ngôi nhà lớn
của các cư dân mạng.
Tương lai, mạng xã hội sẽ còn phát triển hơn nữa và sẽ khẳng định
vai trò của mình sâu đậm hơn trong cuộc sống con người. Và báo mạng điện
tử cũng sẽ không nằm ngoài sự tác động của mạng xã hội.
1.3. So sánh các đặc điểm của Mạng xã hội và Báo mạng
điện tử
a. Điểm tương đồng
Báo mạng điện tử và Mạng xã hội đều tồn tại nhờ sự phát triển của

công nghệ thông tin –Internet, qua các giao tiếp trực tuyến, bằng các giao
thức, ngôn ngữ, ký hiệu… của tin học.

16


Báo mạng điện tử và Mạng xã hội đều có khả năng tương tác cao với
công chúng. Đều truyền tải những thông tin, hình ảnh, đa phương tiện.
Báo mạng điện tử và Mạng xã hội có sức chứa to lớn cả về không gian
và thời gian, dường như không giới hạn dung lượng thông tin.
Cả hai đều có tính tức thời và phi định kỳ. Tính tức thời, phi định kỳ ở
Báo mạng điện tử thể hiện ở việc công chúng có thể phản hồi ngay lập tức
khi bài báo ra lò; cập nhật thông tin bất cứ lúc nào. Các bài báo có thể được
đẩy lên trang không theo kỳ, theo phiên, không giới hạn số lượng bài. Còn ở
các trang mạng xã hội, các thông tin của thành viên cũng có thể được phản
hồi tức thì từ phía bạn bè. Người dùng có thể truyền link, đăng tin, trạng
thái… bất cứ khi nào họ muốn. Điều này tạo sự chủ động, cập nhật cho mọi
người.
Để được công nhận, các trang mạng xã hội hay báo mạng điện tử đều
phải được cấp phép, thừa nhận. Sự tồn tại, phát triển của mạng xã hội và báo
mạng điện tử đều phụ thuộc vào công chúng, vào lượng truy cập, lượng ủng
hộ.
b. Điểm khác nhau
Do ra đời trước nên số lượng các trang báo mạng điện tử lớn hơn nhiều
so với các trang mạng xã hội. Mỗi tờ báo mạng điện tử lại hoạt động dựa
trên những tôn chỉ, mục đích riêng. Các trang báo mạng điện tử là đại diện,
cơ quan ngôn luận cho những cơ quan chức năng khác nhau. Hầu hết các
trang báo mạng điện tử đều chứa những thông tin tổng hợp, phù hợp cho các
đối tượng truy cập ở các nhóm tuổi khác nhau, bên cạnh đó cũng có một số
trang báo mạng điện tử hướng đến các đối tượng tiếp nhận riêng biệt.

17


Để truy cập các trang báo mạng điện tử, bạn chỉ cần biết địa chỉ website
của báo hoặc tìm kiếm trên cách trang tìm kiếm. Để truy cập các trang mạng
xã hội, bạn cần tạo tài khoản, là thành viên của trang mạng xã hội ấy. Bạn có
thể tự phát triển “nhà” –trang cá nhân của mình trên các mạng xã hội bằng
cách kết bạn, viết bài, chia sẻ hình ảnh, thông tin…. Mạng xã hội tạo cơ hội
cho bạn làm chủ còn báo mạng điện tử giữ vai trò là người cung cấp thông
tin, bạn là người tiếp nhận.
Về giao diện, Báo mạng điện tử hầu như có cách trình bày khá giống
nhau. Đầu tiên sẽ là tên báo, hình ảnh đại diện của báo. Tiếp đó là phần triển
khai các chuyên mục lớn của báo. Bên dưới là những tin tức nổi bật và
những bài viết mới của các mục ấy. Những thông tin quan trọng thường
được để ở phía trên, bên lề trái của giao diện. Những thông tin ít quan trọng
hơn sẽ dần dần đầy xuống dưới và có xen kẽ các phần quảng cáo. Phía dưới
cùng của giao diện là thông tin về tòa soạn báo. Còn giao diện của các trang
mạng xã hội thì được trình bày sinh động, đa dạng hơn, ít có quy chuẩn cố
định mà đặt tiêu chí bắt mắt, tiện ích với người dùng lên hàng đầu; thành
viên trong mạng sẽ được tự do chỉnh “nhà” của mình.
Mạng xã hội ở Việt Nam được sử dụng với mục đích chủ yếu là giải
trí, cập nhật thông tin, hình ảnh của bạn bè, người thân và giao lưu, kết bạn.
Ngoài ra, có các hoạt động như kêu gọi, gửi lời mời tham gia các sự kiện,
đăng tin quảng cáo… Mạng xã hội đã tạo không gian hoạt động cho các
“nhà báo công dân” với các trang blog riêng. Nhưng thông tin trên các mạng
xã hội không chính thống như trên các trang báo mạng điện tử.
Nguồn tin, bài ở các trang báo mạng điện tử do các nhà báo, phóng viên
viết, biên tập hoặc dịch lại từ các nguồn báo chí khác trên thế giới; được
18



kiểm duyệt bởi Ban biên tập, sự xét duyệt của Tổng thư ký tòa soạn. Các tin
bài này mang những đặc trưng của báo chí, giúp báo chí thực hiện vai trò,
nhiệm vụ và chức năng xã hội của mình. Còn nguồn tin, bài ở các trang
mạng xã hội do người dùng sưu tầm hoặc tự viết ra, đậm chất cá nhân; nội
dung thông tin hạn chế, chủ quan. Không có sự kiểm duyệt, xác minh từ phía
các cơ quan quản lý, các cơ quan chức năng có tính pháp lý hợp pháp.
Về tính tương tác, khi những tin bài được lấy từ báo mạng điện tử,
được truyền link hoặc ghi chép lại trên mạng xã hội thì người dùng có thể
bình luận, phản hồi ngay lập tức, lan truyền đến nhiều người. Còn trên báo
mạng điện tử thì chỉ những chuyên mục có phần ý kiến bạn đọc, bạn đọc
mới gửi được phản hồi, bình luận trực tiếp trên mục ấy. Ngoài ra, họ có thể
gửi email, gọi đến đường dây nóng để phản hồi, góp ý.
Về bản chất, báo chí tác động đến người đọc về lý trí còn mạng xã hội
tác động đến người đọc về mặt tâm lý, tình cảm.
Những thông tin sai trên báo mạng điện tử sẽ bị dư luận phản ứng, bị
kiện tụng và thậm chí Tổng biên tập báo bị cách chức, báo ngừng hoạt động
còn những thông tin sai trên mạng xã hội không ai đứng ra chịu trách nhiệm,
không ai chịu trách nhiệm xác minh, trừng phạt theo luật pháp.
Những bài viết có giá trị trên báo chí có thể được vinh danh, nhận giải
thưởng còn những bài viết hay, ý nghĩa trên mạng xã hội sẽ chỉ dừng lại ở
việc được “like” (thích), lan truyền và ủng hộ của bạn bè; trừ những bài đặc
biệt khác biệt và ấn tượng thì sẽ được giới truyền thông để ý.
1.4. Sự tác động

19


Cùng được khai sinh nhờ sự ra đời của Internet, Mạng xã hội và Báo
mạng điện tử có nhiều điểm giống nhau nhưng cũng có không ít điểm khác

nhau. Điều đó tạo nên những ưu điểm và hạn chế riêng. Từ những đặc điểm
ấy mà chúng tác động qua lại với nhau theo đúng quy luật tất yếu của sự
phát triển và tồn tại.
Trước tiên cần hiểu “tác động” là gì. Tác động nghĩa là làm cho bị ảnh
hưởng. Trong đó có ảnh hưởng có lợi và ảnh hưởng bất lợi, ảnh hưởng xấu
và ảnh hưởng tốt. Ảnh hưởng này có thể mang tính hai chiều, gồm cả phản
ứng, ảnh hưởng trở lại từ đối tượng tác động đến đối tượng bị tác động. Như
vậy, đề tài nghiên cứu tập trung vào việc làm rõ sự ảnh hưởng của mạng xã
hội đối với báo mạng điện tử cũng như sự tương tác giữa hai loại.
Trước khi có mạng xã hội, báo mạng điện tử tỏ ra hút công chúng hơn
cả. Việc giao lưu, kết bạn… thường diễn ra trên các diễn đàn của một số
website nhưng phạm vi hoạt động của các diễn đàn này không đa dạng và
lớn mạnh như ở các trang mạng xã hội bây giờ. Mạng xã hội xuất hiện đã
thu hút sự quan tâm, lượng truy cập của công chúng.
Thực tế, ở khía cạnh như là một kênh thông tin (News chanel), ảnh
hưởng của mạng xã hội ở Việt Nam chưa thật sự nổi trội. Nhìn vào bảng
đánh giá top 10 trang web được truy cập nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay
của Alexa, 4/10 là những trang thông tin (News) hay báo điện tử. Như vậy,
khẳng định rằng người sử dụng các mạng xã hội ở Việt Nam khá khác biệt
so với Mỹ, quê hương của Facebook và MySpace. Trong khi đó, ở danh
sách top 10 trang web được truy cập nhiều nhất ở Mỹ, chúng ta không hề
thấy có một trang báo điện tử hay thông tin nào cả. Những sinh viên của
Việt Nam đã sống ở Mỹ nhiều năm nhận định: mỗi ngày họ chỉ cần vào
20


MySpace (trước đây) hay Facebook (hiện nay) là đã có tất cả những thông
tin, hình ảnh của bạn bè, những trò chơi trực tuyến và cả những thông tin
báo chí nổi bật được các hãng tin hàng đầu thế giới được cập nhật thông qua
các mạng xã hội.

Các đánh giá, xếp hạng trên cho thấy trên thế giới, mạng xã hội đang
thực sự là “sát nhân nguy hiểm” của những trang báo mạng điện tử. Vai trò
và ảnh hưởng của mạng xã hội dường như chiếm ưu thế so với báo mạng
điện tử.
Còn ở Việt Nam, do sự du nhập, đi sau nên các mạng xã hội mới chỉ
đang bắt đầu phát triển. Tuy nhiên, nó cũng đã tác động đến báo mạng điện
tử và có những tác động như sau:
1.4.1. Tác động tích cực
a. Cung cấp thông tin, là nguồn đề tài cho báo mạng điện tử
Tại Việt Nam, mạng xã hội thu hút hàng nghìn người truy cập mỗi
ngày, trong đó có nhiều lứa tuổi, tầng lớp. Ở đó có nhà ảo của các học sinh,
sinh viên, người đi làm, các ngôi sao nổi tiếng. Họ kết bạn với nhau và cập
nhật thông tin của nhau nhanh chóng. Đặc biệt là với những người nổi tiếng,
mọi trạng thái, lời nói,hình ảnh của họ trên các mạng xã hội luôn được quan
tâm theo dõi.
Những điểm mới của các ngôi sao, những phát ngôn, hình ảnh của họ
là đề tài nóng hổi để các mục văn hóa, giải trí khai thác. Rồi các hiện tượng
nổi bật trên mạng xã hội của bất cứ “người thường” nào có ảnh hưởng đến
nhiều người cũng là tâm điểm để báo chí khai thác.

21


Những thông tin ấy chủ yếu được sử dụng viết cho các mục giới trẻ, tin
học, văn hóa, giải trí; hầu như để dành cho giới trẻ, hướng đến đối tượng bạn
đọc trẻ.

Từ vnexpress.net

Từ vietnamnet.vn


b. Đưa thông tin của Báo mạng điện tử đến gần hơn với công chúng
Các trang mạng xã hội hiện nay áp dụng sử dụng công cụ liên kết
weblink, công nghệ web 2.0… cho phép người dùng chia sẻ link, lập trang
ghi chép cá nhân, tải ảnh lên mạng. Công nghệ tích hợp truyền thông đa
phương tiện giúp người sử dụng hưởng “n tiện ích trong 1”. Điều đó tạo điều
kiện cho việc quảng bá, cập nhật tin bài cho các báo mạng điện tử. Về phía
chủ quan, các cơ quan báo chí có thể tự lập tài khoản trên các trang mạng xã
hội, kết bạn và cập nhật các bài báo mới, nổi bật của báo mình trên mạng xã
hội để chia sẻ cho mọi người. Tiếp đó, mạng xã hội sẽ hoàn thiện công đoạn
lan tỏa thông tin. Về phía khách quan, công chúng khi cảm thấy ấn tượng
với bài báo nào, vấn đề nào có thể đăng link dẫn của bài báo đó trên trang cá
nhân của mình và bạn bè để cùng chia sẻ thông tin, thảo luận, phản biện.

22


Như vậy, các tác phẩm báo chí đã đến với công chúng nhanh chóng.
Và mạng xã hội là người trung gian hoàn hảo, vũ khí PR hữu hiệu cho các tờ
báo.
c. Nắm bắt tâm lý công chúng
Từ việc quảng bá, giới thiệu link dẫn, ghi chép lại các bài báo mạng
trên các mạng xã hội, các nhà báo, phóng viên có thể nắm bắt được tâm lý
tiếp nhận của công chúng về vấn đề đã đề cập trong bài báo bằng cách theo
dõi các bình luận, góp ý. Họ cũng có thể khám phá những “ngôi nhà” của
những người dùng khác nhau trên các trang mạng xã hội để biết được mọi
người đang bận tâm về vấn đề gì, có sự kiện gì nổi bật được họ truyền cho
nhau… Nếu là sự kiện sắp diễn ra, các phóng viên sẽ có cơ hội viết tin bài
về sự kiện ấy. Nếu là những phản ánh của người dùng về khía cạnh đặc biệt
nào đó, phóng viên có thể đi xác minh, điều tra để viết bài…

Một cách thức nữa là phóng viên có thể gửi phiếu thăm dò đến công
chúng qua các mạng xã hội, trực tiếp hỏi trên trang cá nhân của các thành
viên đang tham gia mạng xã hội về các vấn đề…

(Phóng viên đăng phiếu khảo sát trên Facebook)
Tóm lại, phóng viên có nhiều cách khai thác mạng xã hội để nắm bắt
tâm lý công chúng. Từ đó họ có thể biết công chúng cần gì, công chúng

23


đánh giá gì về thông tin báo chí đưa ra…để có những bài viết hay hơn, sát
với thực tế, thị hiếu người đọc hơn.

d. Là nơi giao lưu, học hỏi giữa nhà báo với nhà báo, nhà báo với công
chúng
Mạng xã hội du nhập vào nước ta lúc đầu còn khá mới mẻ, lạ lẫm
nhưng sau đó, mọi người rất hào hứng đón nhận. Các nhà báo, phóng viên
cũng khá cởi mở đón nhận hình thức giao tiếp mới này: xã hội ảo. Nhiều nhà
báo, phóng viên rất thường xuyên sử dụng các trang mạng xã hội, thậm chí
họ còn sử dụng nhiều mạng xã hội cùng lúc. Có người đăng lại những bài
viết của mình, có người giới thiệu các bài viết hay từ các nguồn khác nhau,
… Họ xây dựng “ngôi nhà” của mình bằng những blog dạng nhật ký tác
nghiệp; mỗi bài được đăng lên như những diễn đàn để cùng nhau bàn luận,
trao đổi.

(Blog của nhà báo Nguyễn Quyết –Báo Người lao động)
24



Nhà báo Nguyễn Quyết cho biết, anh hiện đang sử dụng 5 mạng xã
hội: Facebook, Zingme, Yume, Twitter, Wordpress. Trên Facebook, Twitter
anh chia sẻ các link báo, các bình luận, giải trí còn trên 3 trang còn lại, anh
đăng các bài viết của mình hoặc những bài sưu tầm. Anh luôn muốn có
nhiều bạn bè. Họ là những người đóng góp ý tưởng cho bài viết, bình luận
bài viết… là kênh thông tin tốt để anh tham khảo. Đồng nghiệp của anh cũng
thường xuyên truy cập các trang xã hội. Họ cũng góp ý giúp anh nhiều vấn
đề xung quanh bài viết, cách khai thác vấn đề…
e. Tạo áp lực giúp báo điện tử phát triển
Ở các nước trên thế giới, mạng xã hội hiện đã tiến quá xa. Mạng xã hội
có thể thay thế báo mạng điện tử bởi các tin tức cũng đã được đăng tải cập
nhật, thường xuyên. Người dùng tỏ ra say mê với mạng xã hội, có những hội
chứng “nghiện”. Ở Việt Nam, mạng xã hội vẫn còn “e dè” báo mạng điện tử
nhưng chẳng ai có thể khẳng định mạng xã hội sẽ không chiếm ngôi của báo
mạng điện tử trong lòng công chúng.
Bên cạnh việc tìm kiếm thông tin, người dùng cũng cần được giao lưu,
giải trí và một khi mạng xã hội đã tích hợp được “n tiện ích trong 1” thì việc
báo mạng điện tử lao đao cũng là tất yếu. Hơn nữa, cũng đã có những quyết
định mở cửa cho mạng xã hội hoạt động ở nước ta.
Trên thực tế, các mạng xã hội của Việt Nam như Zingme, Yume...
cũng đang “báo chí hóa”. Trên các trang này cũng đã xuất hiện các bài viết
cập nhật, thời sự hoặc sưu tầm từ các nguồn khác nhau; có nhiều chuyên
mục được sắp xếp như trang báo mạng điện tử. Với lượng truy cập lên đến
con số hàng triệu, thông tin của các mạng xã hội đến với công chúng theo
cấp số nhân. Đây là áp lực cho báo mạng điện tử. Để đảm bảo sự tồn tại cho
mình, báo mạng điện tử buộc phải thay đổi để đến gần hơn với công chúng.
Đó là thay đổi về nội dung, hình thức, các tiện ích… Bởi dân số Việt Nam
25



×