BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
---------------------
VŨ THỊ MAI HƯỜNG
QU¶N Lý trêng tiÓu häc
theo tiÕp cËn qu¶n lý dùa vµo nhµ
trêng
Chuyên ngành
: Quản lý giáo dục
Mã số
: 62 14 01 14
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Minh Hiền
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án
là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng. Những kết quả
nghiên cứu của luận án chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào.
Tác giả luận án
Vũ Thị Mai Hường
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi những lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới cô giáo - PGS. TS.
Bùi Minh Hiền - người hướng dẫn khoa học đã tận tình hướng dẫn, động viên,
khích lệ, tạo động lực cho tôi trong suốt quá trình tiến hành nghiên cứu luận án.
Trong thời gian đó, tôi đã có một chỗ dựa vững chắc về tinh thần; học hỏi được
nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý giá trong nghiên cứu khoa học từ phía cô.
Tôi xin cảm ơn Phòng Sau đại học, Khoa Quản lý giáo dục - Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội, Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, Trường Tiểu học dân lập
Đoàn Thị Điểm đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập,
tiến hành nghiên cứu để hoàn thành chương trình học tập nghiên cứu sinh.
Tôi xin cảm ơn bạn bè và các thầy cô, anh chị đồng nghiệp, những người đã
chia sẻ, động viên, giúp tôi có thêm nhiều kinh nghiệm, kiến thức khoa học và nghị lực.
Lòng biết ơn sâu sắc của tôi dành cho gia đình và những người thân yêu. Sự
động viên, khích lệ và những ủng hộ rất thầm lặng của họ có giá trị rất lớn để tôi
say mê hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Hà Nội, tháng 12 năm 2015
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................3
Hà Nội, tháng 12 năm 2015................................................................................3
MỤC LỤC.............................................................................................................4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CBQL
CB
CL
GV
GD & ĐT
HĐT
HT
HS
NCL
NT
PHHS
PH,CĐ
QL
QLDVNT
THDL
TH
TV
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
Cán bộ quản lý
Cán bộ
Công lập
Giáo viên
Giáo dục và Đào tạo
Hội đồng trường
Hiệu trưởng
Học sinh
Ngoài công lập
Nhà trường
Phụ huynh học sinh
Phụ huynh, cộng đồng
Quản lý
Quản lý dựa vào nhà trường
Tiểu học dân lập
Tiểu học
Thành viên
DANH MỤC CÁC BẢNG
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................3
Hà Nội, tháng 12 năm 2015................................................................................3
MỤC LỤC.............................................................................................................4
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................3
Hà Nội, tháng 12 năm 2015................................................................................3
MỤC LỤC.............................................................................................................4
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................3
Hà Nội, tháng 12 năm 2015................................................................................3
MỤC LỤC.............................................................................................................4
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đến thập niên 80 của thế kỷ XX, trong trào lưu cải cách giáo dục lần thứ ba
[15], người ta tin rằng chất lượng giáo dục sẽ có những bước phát triển mới khi
cuộc cải cách giáo dục chuyển từ bình diện giáo dục trên lớp sang bình diện tổ
chức nhà trường, tái cấu trúc hệ thống giáo dục và phong cách quản lý. Ra đời
trong xu thế đó, phong trào cải cách quản lý giáo dục ở cấp độ nhà trường có tên
gọi là quản lý dựa vào nhà trường đã có vai trò quan trọng trong cải thiện chất
lượng giáo dục và nâng cao hiệu quả của nhà trường:
Quản lý dựa vào nhà trường (School - Based Management - SBM) tăng
cường năng lực của hiệu trưởng, giáo viên hoặc tăng cường động lực về chuyên môn
của đội ngũ bằng cách đề cao nhận thức của họ về quyền sở hữu đối với nhà trường.
Cuộc cải cách này đã tăng cường sự tham gia của cha mẹ học sinh và
cộng đồng vào các hoạt động của nhà trường. QLDVNT mang lại cho cha mẹ học
sinh và các liên đới cơ hội tăng cường kỹ năng quản lý, vì thế họ có thể trở thành
những tham dự viên có năng lực hơn trong quá trình thực hiện quản lý nhà trường,
đồng thời họ cũng chính là người hưởng lợi từ các hoạt động này. Khi người dân
địa phương được tham gia giám sát, ra quyết định đối với vấn đề về tài chính,
nhân sự của nhà trường, vào đánh giá học sinh, xem xét sự phù hợp giữa các nhu
cầu của nhà trường với các chính sách thì việc sử dụng các nguồn lực có hiệu quả
hơn, QLDVNT được mong đợi sẽ nâng cao thành tích học tập và những kết quả
khác của học sinh. Quá trình quản lý nhà trường là tự chủ, chịu trách nhiệm xã hội
nhằm phát huy dân chủ và tiềm năng của tất cả các thành viên trong nhà trường
cũng như các chủ thể có liên quan bên ngoài nhà trường.
Đặc trưng của toàn cầu hóa nói chung, trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục nói
riêng là sự hội nhập vào xu thế phát triển chung. Để có thể tồn tại, mỗi dân tộc cần bắt
kịp sự phát triển, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc mình. Xu thế đổi mới
QLDVNT đang lan tỏa mạnh mẽ tới từng khu vực, từng quốc gia trong đó có Việt
Nam. Do đó, ngoài việc nghiên cứu thực tiễn quản lý giáo dục, chúng ta cũng cần
nghiên cứu tìm hiểu những mô hình, xu thế phát triển của quản lý giáo dục trên thế giới
để từ đó có sự vận dụng phù hợp vào Việt Nam.
Tại Việt Nam, Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011- 2020
đã xác định đổi mới quản lý giáo dục là khâu đột phá cho sự phát triển giáo dục. Trọng
tâm của đổi mới quản lý giáo dục là tăng quyền tự chủ, trách nhiệm xã hội cho các nhà
trường. Cách tiếp cận trong xây dựng và triển khai quản lý dựa vào nhà trường nhằm
2
làm tăng cường hiệu quả quản lý của toàn bộ hệ thống giáo dục. Vì vậy QLDVNT vừa
là mục tiêu đồng thời vừa là bước đi quan trọng trong quá trình phân cấp quản lý giáo
dục hiện nay. Đây là vấn đề có tính cấp thiết về cả mặt lí luận và thực tiễn.
Quá trình phân cấp quản lý giáo dục đang diễn ra mạnh mẽ với hai dạng thức
tiêu biểu là phân cấp trong quản lý nhà nước về giáo dục và phân cấp trong các cơ
sở giáo dục hay còn gọi là QLDVNT [23] - [37]. Phân cấp trong quản lý nhà nước
về giáo dục tương đối thống nhất về hành lang pháp lý cũng như áp dụng hành lang
pháp lý trong thực tiễn, đồng thời cũng thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của rất
nhiều học giả. Quản lý dựa vào nhà trường hay phân cấp trong các cơ sở giáo dục
chủ yếu diễn ra ở bậc đại học và Trung học phổ thông, tuy nhiên cũng mới chỉ ở
giai đoạn đầu. Thực tế cho thấy cơ sở pháp lý cho việc thực hiện phân cấp trong nhà
trường chưa cụ thể và rõ ràng; trong quá trình thực hiện phân cấp lại bị chi phối bởi
rất nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài nhà trường khiến hiệu quả không đạt được
như mong đợi, thậm chí dẫn đến tình trạng tự chủ hình thức. Trong hệ thống giáo
dục quốc dân, giáo dục tiểu học được xem là nền tảng; giúp học sinh hình thành
những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể
chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản; hình thành và phát triển những cơ sở nền tảng
nhân cách con người. Sản phẩm của giáo dục tiểu học có giá trị cơ bản, lâu dài, có
tính quyết định đối với cuộc đời mỗi con người. Trong các cơ sở giáo dục tiểu học,
khi thực hiện phân cấp, không thể phủ nhận tự chủ đã tạo nên động lực thúc đẩy
người lao động làm việc tự giác, tích cực, sáng tạo; từ đó đem lại nhiều giá trị hơn
cho xã hội, giúp gắn lý thuyết với thực hành và tăng tính linh hoạt, thích ứng của
giáo dục với môi trường xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc thực hiện phân cấp
quản lý cho nhà trường tiểu học còn nhiều hạn chế; trong bản thân trường tiểu học,
sự tham dự của các bên có liên quan như GV, nhân viên, PHHS, cộng đồng hết sức
mờ nhạt. Thêm vào đó, với sự tồn tại của nhiều loại hình nhà trường (trường công
lập, trường ngoài công lập, trường có yếu tố nước ngoài), sự thiếu đồng đều về chất
lượng giáo dục, trình độ giáo viên, học sinh, quản lý, sự đầu tư cho giáo dục của gia
đình và địa phương... dẫn đến quá trình phân cấp đang diễn ra với nhiều dạng thức,
mức độ khác nhau. Việc thực hiện đổi mới giáo dục với mô hình “trường học mới”
đang đòi hỏi một sự phân cấp mạnh mẽ trong quản lý nhà nước về giáo dục lẫn
trong bản thân mỗi nhà trường. Để phục vụ cho công cuộc đổi mới giáo dục nói
chung, giáo dục tiểu học nói riêng, các tổ chức, cá nhân đang đầu tư cần tiếp tục
nghiên cứu và hoàn thiện vấn đề phân cấp trong nhà trường trên cả hai bình diện lý
luận và thực tiễn quản lý.
3
Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài: "Quản lý trường tiểu học theo tiếp cận quản lý
dựa vào nhà trường" cho luận án tiến sỹ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý dựa vào nhà trường ở các
trường tiểu học trên địa bàn thành phố Hà Nội, đề tài đề xuất các biện pháp vận
dụng tiếp cận quản lý dựa vào nhà trường trong quản lý trường tiểu học nhằm tăng
cường quyền tự chủ, trách nhiệm xã hội; thu hút sự tham gia của các bên có liên
quan trong quản lý nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý nhà trường tiểu học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý trường tiểu học trên địa bàn thành phố Hà Nội theo tiếp cận quản lý
dựa vào nhà trường.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
4.1. Phạm vi về đối tượng nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu những vấn đề có tính lý luận về quản lý dựa vào nhà
trường, đặc biệt tập trung sâu hơn vấn đề chia sẻ và tham dự của các bên có liên
quan trong quản lý trường tiểu học.
- Kinh nghiệm quản lý dựa vào nhà trường tại một số nước ở các châu lục,
khu vực trên thế giới như: Châu Phi, khu vực Mỹ Latinh và Caribbean, khu vực
Trung Cận Đông, các nước nói tiếng Anh. Tuy nhiên, đề tài sẽ tập trung nhiều hơn
vào tìm hiểu kinh nghiệm quản lý dựa vào nhà trường ở các nước đang phát triển có
nhiều điểm tương đồng với Việt Nam.
- Thực trạng quản lý trong các trường tiểu học trên địa bàn thành phố Hà Nội
với tinh thần cơ bản của quản lý dựa vào nhà trường là sự tham dự của các bên có
liên quan.
- Đề xuất các biện pháp vận dụng quản lý dựa vào nhà trường trong quản lý
các trường tiểu học ở Việt Nam theo hướng tăng cường sự chia sẻ và tham dự của
các bên liên quan.
- Chủ thể quản lý chính là hiệu trưởng trường tiểu học; có sự phối hợp của
các bên có liên quan cũng như các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục các cấp.
4.2. Phạm vi về địa bàn và thời gian nghiên cứu
Đề tài triển khai nghiên cứu thực tiễn ở 32 trường tiểu học trên địa bàn thành
phố Hà Nội (Quận Cầu Giấy 6 trường; Quận Thanh Xuân 2 trường; Quận Hà Đông 2
trường; Quận Bắc Từ Liêm 2 trường; Quận Nam Từ Liêm 4 trường; Huyện Đông Anh
4
2 trường; Quận Hai Bà Trưng 4 trường; Quận Hoàn Kiếm 2 trường, Quận Ba Đình 2
trường; Phúc Thọ 2 trường; Huyện Ba Vì 2 trường; Huyện Ứng Hòa 2 trường).
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2012 đến 2015.
4.3. Phạm vi về khách thể khảo sát và thử nghiệm tác động
- Khách thể khảo sát: Cán bộ, lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo, hiệu
trưởng, giáo viên, phụ huynh học sinh, đại diện cộng đồng có liên quan trong các
trường tiểu học trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Thử nghiệm tác động: Đề tài tiến hành thử nghiệm tại Trường Tiểu học dân
lập Đoàn Thị Điểm, Khu Đô thị Mỹ Đình 2, Quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý dựa vào nhà trường tiêu biểu cho xu thế phân cấp cho các cơ sở giáo
dục đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Tại Việt Nam, các trường tiểu học tuy
đã được trao quyền tự chủ, trách nhiệm xã hội nhưng sự tham gia của các bên có liên
quan trong hoạt động quản lý nhà trường vẫn còn nhiều hạn chế, do đó, nếu nghiên
cứu và đề ra các biện pháp áp dụng tiếp cận quản lý dựa vào nhà trường với tinh thần
thu hút sự tham gia của các bên có liên quan vào quản lý nhà trường sao cho phù hợp
với hoàn cảnh Việt Nam sẽ tạo nên một cơ chế thông thoáng, theo hướng phát huy
tính tự chủ, trách nhiệm xã hội cao hơn nữa của các trường tiểu học để hướng tới mục
tiêu nâng cao chất lượng giáo dục.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quản lý dựa vào nhà trường và kinh
nghiệm thực hiện QLDVNT tại một số nước, khu vực trên thế giới.
6.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý trong các trường tiểu học trên địa
bàn thành phố Hà Nội theo tiếp cận QLDVNT.
6.3. Đề xuất các biện pháp vận dụng QLDVNT trong quản lý trường tiểu
học trên địa bàn thành phố Hà Nội và tổ chức thử nghiệm một tiểu biện pháp
trong số các biện pháp đã đề xuất.
7. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp tiếp cận
- Tiếp cận duy vật biện chứng: Phương pháp tiếp cận này đặt đối tượng
nghiên cứu trong mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng và ràng buộc lẫn nhau. Đối tượng ở
trạng thái luôn vận động, biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển; đây là
quá trình thay đổi về chất của các sự vật hiện tượng. Phương pháp tiếp cận duy vật biện
chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt, xem xét và đặt các khía cạnh khác nhau của
quản lý dựa vào nhà trường trong mối quan hệ tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Sự
5
phản ánh hiện thực, đúng thực trạng trở thành công cụ hữu hiệu giúp tác giả lựa chọn đề
xuất các biện pháp trong quản lý trường tiểu học theo tiếp cận quản lý dựa vào nhà
trường phù hợp với bối cảnh của Việt Nam.
- Tiếp cận logic - lịch sử: Mọi sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội đều
có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Tiếp cận lịch sử cho phép xem xét
quản lý dựa vào nhà trường theo đúng trật tự thời gian và không gian như nó đã diễn
ra trong quá khứ (ra đời, phát triển, biến đổi phù hợp với bối cảnh khác nhau). Lôgic
là phương pháp vạch ra bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật dưới hình
thức lý luận trừu tượng và khái quát. Tiếp cận logic - lịch sử giúp tác giả luận án thực
hiện nhiệm vụ dựng lại cái logic khách quan trong sự phát triển của quản lý dựa vào
nhà trường, phản ánh được bản chất, tính tất yếu, quy luật phát triển của xu thế đổi
mới quản lý giáo dục này và cho thấy lịch sử phát triển của nó.
- Tiếp cận hệ thống, chỉnh thể: Hiệu quả của QLDVNT liên quan đến một hệ
thống gồm nhiều yếu tố, từ quản lý Nhà nước về giáo dục xuống đến các cơ sở giáo
dục và các đơn vị trong nhà trường. Phương pháp tiếp cận hệ thống giúp luận án lựa
chọn được những chỉ tiêu sát thực trong quá trình xây dựng các tiêu chí của QLDVNT.
- Tiếp cận quản lý sự thay đổi: Thế giới luôn thay đổi với tốc độ nhanh
chóng và đó là quy luật tất yếu của sự phát triển. Sứ mệnh của những nhà quản lý là
phải nắm bắt được sự thay đổi và điều chỉnh nó đi theo hướng có lợi cho tổ chức. Peter
Drucker cho rằng: Người thành công phải là người đón đầu sự thay đổi. Trong tổ chức
thì chủ thể quản lý chính là người tiên phong chuẩn bị mọi điều kiện cho quá trình thực
hiện sự thay đổi của tổ chức; phải có trách nhiệm với thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai.
Lý thuyết quản lý sự thay đổi quan niệm giữa phát triển và thay đổi có mối quan hệ
hữu cơ: Trong tổ chức, “thay đổi” là nhằm “phát triển”, đồng thời “phát triển” lại dẫn
tới những “thay đổi”. Tuy nhiên, không phải mọi “thay đổi” đều dẫn tới “phát triển”,
nhưng mọi sự “phát triển” đều dẫn tới “thay đổi”. QLDVNT với tinh thần cơ bản là
đổi mới phương thức quản lý cho phù hợp với xu thế phát triển của giáo dục thế
giới hiện đại. Với tiếp cận quản lý sự thay đổi, các cán bộ quản lý nhà trường cần
nhận thức đây là sự đổi mới mang tính tất yếu, cần chủ động đón nhận sự thay đổi
và thực hiện những thay đổi thành công để phát triển nhà trường. Để chuyển sang
tiếp cận QLDVNT, Hiệu trưởng nhà trường cần mạnh dạn đi tiên phong tiến hành
đổi mới từ tư duy đến những chiến lược hành động cụ thể hướng đến thu hút và
tăng cường sự tham dự của các bên có liên quan theo tinh thần của QLDVNT.
.
6
- Tiếp cận thực tiễn: Cách tiếp cận này cho phép vận dụng tiếp cận
QLDVNT trong các trường tiểu học phù hợp với tính đặc thù của cơ chế quản lý
giáo dục tiểu học Việt Nam nói chung và mỗi nhà trường tiểu học nói riêng. Căn cứ
vào quan điểm chỉ đạo chung về đổi mới quản lý giáo dục là trao quyền tự chủ và
trách nhiệm xã hội cho các cơ sở giáo dục, các trường tiểu học tùy vào loại hình
nhà trường, khả năng của mình mà lựa chọn cho mình lộ trình thay đổi phù hợp,
cũng như lựa chọn biện pháp áp dụng có tính khả thi.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nêu trên, luận án sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Hồi cứu và tổng hợp các tài liệu khoa học chuyên môn trong nước và nước
ngoài có liên quan đến QLDVNT: các sách chuyên khảo, các bài báo, tạp chí khoa
học, các công trình nghiên cứu của các tác giả có liên quan đến đề tài, các văn kiện,
Nghị quyết của Đảng, Nhà nước về GD - ĐT, các tài liệu của Bộ GD & ĐT, Sở
Giáo dục và Đào tạo thành phố Hà Nội…
- Phân tích các công trình khoa học nghiên cứu về QLDVNT của các tác giả
trong và ngoài nước.
- Nghiên cứu xu hướng áp dụng QLDVNT của các nước và khu vực trên thế
giới theo hướng tăng cường sự tham dự và chia sẻ của các bên có liên quan trong
quản lý nhà trường nói chung, trong các trường tiểu học nói riêng.
- So sánh thực tiễn QLDVNT của các nước và khu vực trên thế giới để rút ra
các ưu điểm và hạn chế của QLDVNT, đặc biệt là tại khối các nước đang phát triển
để có bài học vận dụng phù hợp cho Việt Nam. So sánh kết quả nghiên cứu với các
số liệu thống kê và kết quả nghiên cứu khác để rút ra những kết luận khoa học làm
cơ sở đề xuất các biện pháp, chứng minh giả thuyết của đề tài.
7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra, khảo sát: Đề tài tiến hành thu thập dữ liệu thông
qua điều tra, khảo sát bằng phiếu hỏi CBQL Phòng Giáo dục và đào tạo, HT,
GV, PHHS và cộng đồng của các trường tiểu học trên địa bàn thành phố Hà Nội
về thực trạng xây dựng văn hóa nhà trường có sự chia sẻ và tham dự, vận hành
hội đồng trường có sự tham dự của các bên liên quan , thực hiện chức năng ra
quyết định trong quản lý nhà trường , xác lập vai trò của hiệu trưởng trong quản
lý nhà trường, các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý trường tiểu học theo tiếp cận
QLDVNT, từ đó xác định các mặt mạnh, những mặt hạn chế cần khắc phục, các
yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng này.
7
- Phương pháp phỏng vấn: Đề tài tiến hành phỏng vấn các nhà QLGD, GV,
PHHS tại một số trường tiểu học và các lực lượng xã hội khác có liên quan về nội
dung khảo sát, đối chứng và thử nghiệm.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn: Tổng kết các kinh nghiệm từ
thực tiễn công tác quản lý trường tiểu học trên địa bàn thành phố Hà Nội và trong
các nhà trường thông qua các báo cáo tổng kết năm học hàng năm của Sở Giáo dục
và Đào tạo, các nhà trường tiểu học, biên bản sinh hoạt Tổ chuyên môn, họp phụ
huynh, bản thiết kế chương trình môn học của giáo viên.
- Phương pháp khảo nghiệm: Trưng cầu ý kiến bằng phiếu hỏi CBQL, GV,
PHHS đang làm việc tại các trường tiểu học trên địa bàn thành phố Hà Nội về mức
độ cần thiết và khả thi của các biện pháp quản lý trường tiểu học trên địa bàn thành
phố Hà Nội theo tiếp cận QLDVNT.
- Phương pháp thử nghiệm: Đề tài tiến hành thử nghiệm nhằm kiểm nghiệm
nội dung của một tiểu biện pháp trong số các biện pháp đã đề xuất.
7.2.3. Phương pháp xử lí số liệu bằng thống kê toán học
Luận án sử dụng các phương pháp thống kê toán học và sử dụng phần mềm
SPSS để thống kê và xử lý các dữ liệu thu được qua điều tra, khảo sát.
8. Những đóng góp của luận án
- Đóng góp về mặt lý luận: Luận án hoàn thiện khung lý luận về QLDVNT
trên các bình diện: Khái niệm; Nguyên nhân hình thành; Các kiểu mô hình; Các cấp
độ; Đặc trưng của QLDVNT và quản lý trường tiểu học theo tiếp cận QLDVNT với
tinh thần cơ bản là tăng cường sự tham dự của các bên có liên quan trong quản lý
nhà trường với bốn nội dung cơ bản là: Thực hiện chức năng ra quyết định trong
quản lý nhà trường; Xây dựng văn hóa nhà trường có sự chia sẻ và tham dự; Vận
hành hội đồng trường có sự tham dự của các bên liên quan; Xác lập vai trò của hiệu
trưởng trong quản lý nhà trường.
- Đóng góp về mặt thực tiễn: Về mặt thực tiễn, Luận án đã i) Chỉ ra thực
trạng quản lý trường tiểu học trên địa bàn thành phố Hà Nội theo tiếp cận
QLDVNT; ii) Đề xuất các biện pháp để quản lý trường tiểu học trên địa bàn thành
phố Hà Nội theo tiếp cận QLDVNT.
9. Những luận điểm bảo vệ
- QLDVNT đang là cách tiếp cận phân cấp quản lý phổ biến trên thế giới
đặc biệt là ở các nước đang phát triển, phù hợp với định hướng đổi mới quản lý
giáo dục theo hướng tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo
dục tại Việt Nam.
8
- Trên thực tế đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục tiểu học và quản lý nhà
trường tiểu học ở Việt Nam đã thể hiện sự phân cấp, tự chủ và trách nhiệm xã hội ở mức
độ nhất định; tuy nhiên vẫn chưa tiếp cận được với các đặc trưng cơ bản của QLDVNT.
- Quản lý trường tiểu học theo tiếp cận QLDVNT với những giải pháp căn
bản: “nâng cao năng lực quản lý lãnh đạo của hiệu trưởng nhà trường trong bối cảnh
đổi mới quản lý”; “tăng cường vai trò của HĐT theo tinh thần tự chủ và trách nhiệm
xã hội”; “tăng cường sự tham dự của các bên có liên quan trong quá trình ra quyết
định quản lý nhà trường”; “xây dựng văn hóa nhà trường có sự chia sẻ” là một hướng
đi phù hợp và cần thiết trong đổi mới quản lý nhà trường tiểu học, phù hợp với xu
hướng quốc tế, thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học hiện nay .
10. Bố cục luận án
Luận án bao gồm phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo,
phụ lục và 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của quản lý trường tiểu học theo tiếp cận quản lý
dựa vào nhà trường.
Chương 2. Cơ sở thực tiễn về quản lý trường tiểu học theo tiếp cận quản
lý dựa vào nhà trường.
Chương 3. Biện pháp quản lý trường tiểu học theo tiếp cận quản lý dựa
vào nhà trường.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ TRƯỜNG TIỂU HỌC
THEO TIẾP CẬN QUẢN LÝ DỰA VÀO NHÀ TRƯỜNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Trong những thập kỷ gần đây, đổi mới quản lý giáo dục đã được quan tâm
trên thế giới và ở Việt Nam nhằm mục đích nâng cao chất lượng giáo dục và hiệu
quả hoạt động của nhà trường. Xu hướng phân cấp quản lý tăng quyền tự chủ, trách
nhiệm xã hội cho các cơ sở giáo dục hay QLDVNT trở thành xu thế phổ biến. Vấn
đề này thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong nước và nước ngoài.
Các vấn đề về QLDVNT tập trung nghiên cứu bao gồm:
1.1.1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về quản lý
dựa vào nhà trường
Lý luận về QLDVNT xuất hiện đầu tiên ở các nước nói tiếng Anh (Mỹ, Anh,
Ôtxtrâylia, Hà Lan...) trong những thập niên 70, 80 của thế kỷ XX, và xu thế cải cách
giáo dục này hiện nay vẫn đang tồn tại rất phổ biến. Do đó, số lượng các tác giả, tác
phẩm nghiên cứu rất đa dạng và phong phú. Những vấn đề có tính lý luận về
QLDVNT bao gồm cơ sở hình thành, định nghĩa, các đặc điểm cơ bản, các kiểu mô
hình, các cấp độ của quản lý dựa vào nhà trường cũng như những chỉ dẫn cơ bản để áp
dụng, được khái quát qua thực tiễn QLDVNT.
+ Các công trình của nhà nghiên cứu Caldwell, B. J. đã đi sâu và tiên phong
về QLDVNT. Các nghiên cứu của ông bao gồm cả lý luận và thực tiễn quản lý.
Hiện nay, quan điểm của Caldwel về khái niệm QLDVNT thường được dẫn ra trong
các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau. Theo ông QLDVNT là phi
tập trung hóa ở cấp độ nhà trường, trao cho nhà trường quyền ra quyết định đối với
các vấn đề có liên quan đến nhà trường như mục tiêu phát triển, chương trình,
chuẩn mực và trách nhiệm. Sự áp dụng mô hình quản lý này căn cứ vào từng hoàn
cảnh khác nhau nhưng điểm chung nhất là trao quyền tự chủ, trách nhiệm xã hội
cho nhà trường. Các tổng kết của ông dù ngắn gọn nhưng súc tích đã làm nổi bật
những vấn đề lý luận cơ bản nhất về quản lý dựa vào nhà trường. Tuy nhiên, những
luận điểm đưa ra được đúc rút trên cơ sở nghiên cứu trường hợp ở các nước mà sự
phân cấp diễn ra một cách mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực. Khi đưa các nghiên cứu
này áp dụng vào các nước đang phát triển cần linh hoạt và sáng tạo [65], [66],[67],
[68].
10
+ Ibtisam Abu - Duhou vào năm 1999 đã đưa ra những bình luận có tính
tổng kết về nguồn gốc và các đặc trưng cơ bản của phi tập trung hóa và diễn biến
của quá trình này dưới hình thức quản lý dựa vào nhà trường. Bản tổng hợp nhấn
mạnh tới bối cảnh xuất hiện cuộc cải cách, trình bày những nét khái quát nhất, rất
ngắn gọn về các khía cạnh của quản lý dựa vào nhà trường như: Quản lý dựa vào
nhà trường là như thế nào; Tóm tắt phong trào đổi mới quản lý giáo dục theo quản
lý dựa vào nhà trường tập trung vào các nước Châu Âu và các nước nói tiếng Anh;
đánh giá về sự tham gia trong quản lý dựa vào nhà trường. Mô hình nhà trường
tương lai cũng được giới thiệu dưới cơ chế quản lý mới [105].
+ Yin Cheong Cheng năm 1996 đã nghiên cứu phân biệt quản lý trong nhà
trường truyền thống và quản lý trong nhà trường áp dụng quản lý dựa vào nhà
trường. Trong tác phẩm của mình, tác giả đã làm sáng tỏ nguồn gốc xuất hiện cuộc
cải cách quản lý dựa vào nhà trường, các nguyên lý, cơ chế, sự thay đổi của người
lãnh đạo nhà trường, vai trò của các đối tác trong và ngoài nhà trường... Tác giả đã
gọi QLDVNT là cơ chế quản lý mới lấy nhà trường làm trung tâm với phương châm
chỉ có nhà trường mới hiểu chính xác nhu cầu của mình và các quyết định được ra
đời trên cơ sở sự am hiểu này. Tác giả đã đề xuất các cách thức để quản lý tài chính,
nhân sự, chương trình theo quản lý dựa vào nhà trường và khẳng định quản lý dựa
vào nhà trường là một cách thức quản lý làm tăng tính hiệu quả trong hoạt động của
nhà trường trong giai đoạn hiện nay [136].
+ Ngân hàng Thế giới (World Bank) với tư cách là nhà tài trợ cho nhiều
chương trình cải cách giáo dục của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt dành cho
các nước đang phát triển ở khu vực Mỹ Latinh, Châu Phi, Châu Á đã đưa ra những
báo cáo chi tiết và công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trên
cơ sở đó tổng hợp thành hệ thống lý luận của QLDVNT.
Các tài liệu của tổ chức này đã tổng hợp những đánh giá về quản lý dựa vào
nhà trường, theo đó một đánh giá toàn diện sẽ bao gồm ba bước: thứ nhất là phải
hình thành một định nghĩa rõ ràng về sự can thiệp hay tham dự; thứ hai là mô tả
chính xác kết quả đầu ra khi áp dụng quản lý dựa vào nhà trường; thứ ba là định rõ
các mối quan hệ giữa sự tham dự và các biến đầu ra. Bên cạnh đó, bản tổng kết
cũng làm rõ các khía cạnh của thuật ngữ tham dự, nêu ra các yếu tố ảnh hưởng và
xác định ảnh hưởng của các chương trình quản lý dựa vào nhà trường. Một phần có
giá trị của công trình chính là các số liệu được cụ thể qua các hình vẽ, sơ đồ, bảng
biểu để minh chứng cho ảnh hưởng của quản lý dựa vào nhà trường [134].
11
Ngân hàng Thế giới thông qua thực tiễn tài trợ và nghiên cứu đã cung cấp
những chỉ dẫn cần thiết cho việc thiết kế các đánh giá ảnh hưởng của quản lý dựa
vào nhà trường ở các nước đang phát triển, các thành tố để đánh giá sự tham dự (định
nghĩa sự tham dự, các phương tiện để một tổ chức tham gia chương trình, thiết lập mối
tương quan để đo lường đầu ra và thời gian áp dụng chương trình…). Tổ chức này đã
cố gắng cung cấp quan điểm ngắn gọn về định nghĩa và các mục tiêu của quản lý dựa
vào nhà trường, các quan điểm trái chiều trong quá trình áp dụng mô hình quản lý này,
các dạng tồn tại trên cơ sở sự tham dự của các bên liên quan ở cấp độ nhà trường, theo
đó sẽ tồn tại các kiểu mô hình yếu, trung bình, mạnh vừa, mạnh và rất mạnh [131].
Không ít chương trình của Ngân hàng Thế giới kết luận Quản lý dựa vào nhà
trường dù diễn ra dưới dạng thức nào cũng có chung một mục tiêu là nâng cao sức
mạnh của nhà trường thông qua việc trao cho cha mẹ, các thành viên nhà trường
nhiều quyền ra quyết định. Để làm được điều này, một khâu quan trọng là phải đào
tạo cha mẹ, các thành viên của cộng đồng để họ đủ trình độ tiếp nhận quyền tự chủ.
Ngân hàng Thế giới đã cung cấp các nguyên tắc chung nhất để mở rộng phạm vi
vận dụng cải cách quản lý dựa vào nhà trường. Những chỉ dẫn được diễn đạt thông
qua hệ thống câu hỏi trên các phương diện: mục tiêu và cấu trúc của chương trình,
điều chỉnh hệ thống quản lý nhà nước về giáo dục và xác định rõ vai trò của từng cơ
quan có liên quan, thúc đẩy phát triển kế hoạch nhà trường, cải thiện cơ chế tài
chính để chuyển quyền tới cấp nhà trường, thiết lập hệ thống thông tin liên lạc đảm
bảo tính tự chủ, trách nhiệm xã hội của nhà trường, đảm bảo mọi thành viên nhà
trường hiểu và có kỹ năng cần thiết để áp dụng quản lý dựa vào nhà trường. Các chỉ
dẫn rất chi tiết, dễ hiểu và dễ vận dụng [130].
Nghiên cứu có tính chất lý luận chung về quản lý dựa vào nhà trường tại Việt
Nam của Trần Thị Bích Liễu đã đưa ra những nội dung có tính khái quát về cơ sở hình
thành QLDVNT, các quan niệm khác nhau liên quan đến khái niệm, hoạt động của hội
đồng trường theo QLDVNT hướng tới nâng cao chất lượng giáo dục [57]. Đây là tác
phẩm chuyên khảo duy nhất tại Việt Nam đến thời điểm này viết riêng về QLDVNT.
1.1.2. Nghiên cứu vận dụng quản lý dựa vào nhà trường
Đây là nội dung mà Ngân hàng Thế giới và các nhà nghiên cứu tập trung đầu
tư nhiều nhất, xuất phát từ các nghiên cứu trường hợp, các tác giả đã rút ra các đặc
điểm chung để từ đó có thể điều chỉnh, áp dụng rộng rãi sao cho đem lại hiệu quả
tốt nhất, hướng tới việc nâng cao chất lượng giáo dục. Dưới đây là một số tổng hợp
các hướng nghiên cứu thực tiễn vận dụng QLDVNT:
- Những nghiên cứu mô tả thực tiễn áp dụng QLDVNT
12
+ Những chương trình QLDVNT của Ngân hàng Thế giới theo đó là các
nghiên cứu trường hợp được triển khai rộng khắp các nước đang phát triển ở các
châu lục, tập trung ở khu vực Mỹ latinh, Châu Á, Châu Phi [61], [65], [66], [67],
[68], [70], [75], [81], [110], [128], [129], [130], [134], [131]. Thực tiễn cho thấy,
quản lý dựa vào nhà trường là xu hướng tất yếu trong đổi mới quản lý giáo dục dù
nghiên cứu trường hợp được thực hiện ở những nước có điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội và trình độ phát triển khác nhau. Những nỗ lực cải cách cần bắt đầu từ nhu
cầu của các nhà trường nhằm đạt mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục nhưng lại
cần các Chính phủ đồng tình tiến hành đổi mới, thậm chí thay đổi cơ chế quản lý
[75], [81], [110], [129], [130]. Trên thực tế, có nhiều nước áp dụng thành công quản
lý dựa vào nhà trường [61], tuy nhiên cũng không ít khu vực trong một nước hay cả
một chương trình quản lý dựa vào nhà trường chưa thành công [130].
+ Với những ưu điểm đã được chứng minh, một số tác giả đi vào nghiên cứu
để giải quyết vấn đề làm thế nào để áp dụng thành công QLDVNT, tiêu biểu là tác
giả Priscilla Wohlstetter và Susan Albers Mohrman năm 1993 và Peter Coleman
năm 1984. Peter Coleman cho rằng, muốn cải thiện nhà trường thông qua quản lý
dựa vào nhà trường cần kêu gọi sự tham gia của giáo viên và cha mẹ học sinh,
nguồn lực quan trọng nhà trường cần chi phối được là tài chính. Còn Priscilla
Wohlstetter và Susan Albers Mohrman nhắc tới 4 nguồn lực là quyền ra quyết định,
tri thức, thông tin và sự thừa nhận; việc thực hiện quản lý các nguồn lực này ở cấp
nhà trường và quận [117], [122].
+ Các nghiên cứu vận dụng quản lý dựa vào nhà trường tại Việt Nam đã tập
trung nghiên cứu kinh nghiệm chủ yếu của Hoa Kỳ để đề xuất hướng vận dụng vào
Việt Nam, cụ thể trong các trường phổ thông [15], [17], [18]. Các tác giả cũng đã đề
cập đến quản lý dựa vào nhà trường như một xu hướng phổ biến và hiện đại trên thế
giới để xây dựng trường học hiệu quả, các quan niệm khác nhau, mối quan hệ giữa
tính tự chủ, trách nhiệm xã hội, hoạt động của hội đồng trường trong quản lý dựa
vào nhà trường. Đây là một trong những cơ sở quan trọng để tác giả đề xuất xây
dựng trường phổ thông hiệu quả tại Việt Nam [33].
Liên quan và làm cơ sở để thực hiện phân cấp ở cấp độ nhà trường ở Việt Nam
còn xuất hiện các công trình nghiên cứu về tự chủ, trách nhiệm xã hội và phân cấp
quản lý giáo dục Việt Nam nói chung. Cải cách giáo dục Việt Nam những năm trở lại
đây đang hướng vào tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục,
đặc biệt là giáo dục đại học. Mục tiêu của chương trình cải cách là tăng thêm quyền ra
quyết định cho các cơ sở giáo dục đối với các nội dung hoạt động của nhà trường, giảm
13
bớt sự điều hành của chính quyền trung ương. Cuộc cải cách này chính là một hình
thức của quản lý dựa vào nhà trường trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
+ Thực tế cho thấy hiện trạng vấn đề phân cấp quản lý đang diễn ra với nhiều
vấn đề bức xúc, có sự chưa tương thích giữa lý luận và thực tiễn, giữa điều hành chỉ
đạo và thực tế trong các cơ sở giáo dục cũng như các cấp có thẩm quyền. Các giải pháp
để thực hiện phân cấp một cách hiệu quả cũng bước đầu được đề xuất [23 - 33], [52].
+ Hệ thống văn bản mới nhất về phân cấp quản lý giáo dục của nước ta đã tạo
hành lang pháp lý vô cùng quan trọng cho sự định hình về trách nhiệm của các cơ quan
có nghĩa vụ quản lý nhà nước về giáo dục từ cấp xã cho đến Bộ, Chính phủ [8].
- Sự tham gia của Hội đồng trường trong quản lý dựa vào nhà trường
Tinh thần của quản lý dựa vào nhà trường là tăng cường sự tham gia của các
bên liên quan trong quá trình ra các quyết định quản lý. Sự tham gia thể hiện rõ nhất
ở các nghiên cứu về Hội đồng trường trong quản lý dựa vào nhà trường.
+ Hai trong số các lĩnh vực quản lý quan trọng mà Hội đồng trường tham gia
ra quyết định là tài chính và nhân sự. Các số liệu công bố thông qua nghiên cứu về
quản lý dựa vào nhà trường ở nhiều nước và khu vực cho rằng thành công trong
quản lý tài chính và nhân sự nhấn mạnh đến sự tham gia của giáo viên, nhưng người
chịu trách nhiệm cuối cùng lại là hiệu trưởng. Trong quá trình phân cấp quản lý ở
cấp độ nhà trường, không chỉ có giáo viên tham gia vào quá trình ra quyết định mà
còn có phụ huynh, các bên liên quan khác có quan hệ với nhà trường. Do đó, để có
kết luận toàn diện cần phải điều tra trên diện rộng hơn nữa [135], [102].
+ Tác giả Alfred Lakwo và Vasco Kura năm 2004 đã tập trung giới thiệu về
hội đồng trường trong quản lý dựa vào nhà trường bao gồm thành phần, vai trò của
hội đồng trường; đặc biệt hai tác giả Alfred Lakwo và Vasco Kura đã đưa ra cách
thức để đào tạo cho các thành viên trong hội đồng trường về quản lý dựa vào nhà
trường để hội đồng trường có thể phát huy vai trò của mình trong điều hành nhà
trường. Các nội dung trên được bố trí theo bài học một cách khoa học, ngắn gọn và
dễ để áp dụng trong thực tiễn, giúp những người được giao nhiệm vụ đào tạo có một
chương trình cơ bản để có thể hướng dẫn các thành viên hội đồng [62].
+ Nhóm tác giả J. Adebayo Ogundele & Modupe A. Adelabu năm 2009 dựa trên
nghiên cứu trường hợp về hội đồng trường ở Nigieria đã đưa ra tổng kết sự tồn tại của
hội đồng trường là nguyên tắc của nhà trường tự chủ, thúc đẩy quyền tự chủ của nhà
trường. Các tác giả đã đưa ra 7 mục tiêu hoạt động của hội đồng trường. Vấn đề được
nghiên cứu cụ thể là vai trò của hội đồng trường với việc giải quyết vấn đề sức khỏe
học đường liên quan đến bệnh sốt rét rất phổ biến ở Châu Phi [106].
14
+ Vấn đề khác có liên quan đến mảng nghiên cứu trên là về vai trò của cha mẹ,
cán bộ công nhân viên và lãnh đạo nhà trường trong quản lý dựa vào nhà trường,
mối quan hệ giữa họ và họ có ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động của nhà trường
cũng như kết quả học tập của học sinh. Tác giả Hon Keung Yau và Alison Lai Fong
Cheng năm 2011, sau khi nghiên cứu quản lý dựa vào nhà trường tại Hồng Kông đã
nghiên cứu 9 trường tiểu học ở Hồng Kông về vai trò của hội đồng trường bằng hệ
thống bảng hỏi và phỏng vấn trực tiếp về hệ thống chính sách trong nhà trường bao
gồm tầm nhìn, mục tiêu và kế hoạch phát triển trường. Đây là bằng chứng cho sự
thay đổi vai trò của HT, GV, PHHS so với cách nghĩ truyền thống, họ trở thành một
phần trong chính sách phát triển nhà trường. Tuy vậy, đây mới chỉ là nghiên cứu
bước đầu chưa toàn diện và chưa có tính khái quát cao. Quản lý dựa vào nhà trường
cần được khái quát hóa ở tầm lý luận để phân biệt với quản lý tập trung truyền
thống, đặc biệt thành phần tham gia quản lý không chỉ có hiệu trưởng và giáo viên,
vấn đề nhà trường quyết định không chỉ là vấn đề chính sách. Do vậy sẽ cần thêm
các công trình nghiên cứu rộng hơn [103].
+ N. P. Prabhakar và K. V. Rao năm 2011 nghiên cứu về sự tham gia của cộng
đồng vào chương trình kế hoạch trong quản lý dựa vào nhà trường ở Ấn Độ. Trong
nghiên cứu của mình, các tác giả đã nêu lên tầm quan trọng của kế lập kế hoạch đối
với sự phát triển của nhà trường. Khi thực hiện phân cấp quản lý giáo dục, nếu
không có một bản kế hoạch chiến lược thì khó có thể thành công. Tính hiệu quả của
nhà trường được quyết định bởi một phần không nhỏ của bản kế hoạch này. Các
nghiên cứu phân tích cũng chỉ ra rằng, tại Ấn Độ, chương trình kế hoạch trong
trường tư không có sự tham gia của phụ huynh học sinh và cộng đồng; trong khối
trường công sự tham dự này không đáng kể [114].
+ Tại Việt Nam, vấn đề HĐT đã được tác giả Nguyễn Tiến Hùng nghiên cứu. Tác
giả đã đưa ra mô hình HĐT trường phổ thông để hướng tới xây dựng một nhà trường
hiệu quả. Tác giả cũng xác định rất cụ thể sự tham dự của các bên có liên quan chủ yếu
là cha mẹ học sinh và cộng đồng trong quản lý nhà trường thông qua HĐT. Tuy nhiên
đây là mô hình chung cho mọi cấp học và loại hình trường, khi vận dụng vào các trường
tiểu học cần có sự phân tích phù hợp hơn với đặc trưng của cấp học này [33].
+ Tác giả Trần Thị Bích Liễu cũng đưa ra các nghiên cứu về HĐT, tuy nhiên
đó là các bản có tính tổng hợp dịch thuật lại thực tiễn HĐT các nước trên thế giới
thực hiện QLDVNT ở cấp độ mạnh như: Mỹ, Anh, Canada. [57]
- Nghiên cứu về vai trò lãnh đạo của Hiệu trưởng trong quản lý dựa vào nhà trường
15
Sự thay đổi lãnh đạo trong quản lý dựa vào nhà trường là một vấn đề quan
trọng mà nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu từ lý luận đến thực tiễn quản lý. Các tác giả
khai thác sự thay đổi phong cách lãnh đạo từ lãnh đạo truyền thống tới lãnh đạo khi
nhà trường được trao nhiều quyền tự quyết. Đó là phong cách lãnh đạo hướng tới
hiệu quả công việc, cởi mở, có tính động viên, khuyến khích cao đối với nhân viên.
+ Kazi Enamul Hoque, Gazi Mahabubul Alam, Mohammad Raduan B. Mohd
Aiff, Pradip Kumar Mishra và Talukder Golam Rabby năm 2011 tiến hành nghiên
cứu trên 127 hiệu trưởng và 694 giáo viên. Các tác giả nhận định rằng, vai trò của
hiệu trưởng có ảnh hưởng quyết định đến sự áp dụng quản lý dựa vào nhà trường.
Cơ sở cho thành công trong quản lý chính là việc chia sẻ các quyết định quản lý của
hiệu trưởng với cấp dưới [108].
+ Tác giả Helen Gunter năm 2001 sau khi tổng hợp bốn xu hướng chính trong
nghiên cứu về lãnh đạo đã kết luận: với QLDVNT trong giai đoạn mới lãnh đạo
chuyển đổi sẽ là lựa chọn cho công việc quản lý có hiệu quả. Bài viết khai thác sâu về
lãnh đạo chuyển đổi từ xu hướng nghiên cứu, định nghĩa và những định hướng trong
vận dụng để phù hợp với QLDVNT. Các ý kiến mà tác giả tổng hợp là cơ sở quan
trọng cho việc tiếp tục nghiên cứu sâu hơn vấn đề này [100].
+ Nico Botha nghiên cứu về lãnh đạo trong quản lý dựa vào nhà trường khẳng
định lãnh đạo nhà trường đóng vai trò quan trọng trong thực hiện quản lý dựa vào
nhà trường cũng như hiệu quả của chương trình này. Qua khảo sát, tác giả đã nhận
thấy hiệu trưởng có vai trò lớn đối với hiệu quả hoạt động của nhà trường [115].
+ Tác giả K. Pushpanadham cũng nghiên cứu về lãnh đạo trong quản lý dựa
vào nhà trường. Theo nhà nghiên cứu, lãnh đạo là thành tố quan trọng đối với chất
lượng giáo dục, do đó không ít các nước đang phát triển đã và đang đầu tư để đào
tạo phát triển đội ngũ này. Trong bài viết, tác giả đã trình bày khái quát về quản lý
dựa vào nhà trường và đưa ra các kiến giải cho vấn đề lãnh đạo sẽ làm tăng tính
hiệu quả của quản lý dựa vào nhà trường. Để giải quyết vấn đề này cần có một
chương trình đào tạo các lãnh đạo giáo dục [109].
1.1.3. Nghiên cứu đánh giá lại quản lý dựa vào nhà trường
Sau nhiều thập kỷ tồn tại và phát triển thành xu thế quản lý chủ đạo trên thế
giới, có nhiều tác giả đã đi nghiên cứu xem xét lại quản lý dựa vào nhà trường trong
bối cảnh mới [77], [120], [136].
+ Các tác giả Priscilla Wohlstetter và Allan Odden năm 1992 đã mở ra một
hướng nghiên cứu khác về quản lý dựa vào nhà trường. Bên cạnh xem xét các
trường hợp áp dụng thành công, cũng cần đánh giá hạn chế, thách thức thậm chí chỉ
16
ra các trường hợp chưa thành công để có cái nhìn toàn diện, đa chiều về cách thức
quản lý này [120].
+ Nghiên cứu đa chiều về quản lý dựa vào nhà trường trong giai đoạn hiện nay
được tác giả Yin Cheong Cheng công bố tại hội thảo về quản lý dựa vào nhà trường
tại Israel năm 2001. Tác giả coi toàn cầu hóa, khu vực hóa đang là một xu thế tất
yếu của thời đại. Trong xu thế đó, QLDVNT nhấn mạnh việc trao quyền cho cấp độ
nhà trường là cách thức chính thúc đẩy việc ra quyết định một cách hiệu quả, đề cao
quá trình bên trong cũng như các nguồn lực cho dạy và học. Mặc dù có nhiều thách
thức và khó khăn nhưng việc áp dụng quản lý dựa vào nhà trường tạo cho nhà
trường, phụ huynh, các giáo viên và nhà giáo dục, các nhân viên giáo dục thậm chí
là lãnh đạo giáo dục có những suy nghĩ mới để nâng cao chất lượng đầu ra cho nhà
trường. Tác giả đã đưa ra các thách thức cho quản lý dựa vào nhà trường trong giai
đoạn mới. Một mô hình giáo dục mới cũng được đề xuất trong cái nhìn so sánh với
mô hình truyền thống: mô hình mới cho việc học, cho việc dạy, tiến xa hơn là mô
hình nhà trường mới. Cuối cùng tác giả nêu lên những giá trị thêm vào và các giá trị
được tạo ra từ quản lý dựa vào nhà trường [136].
+ Mối liên quan giữa quản lý dựa vào nhà trường và chất lượng giáo dục đã
được nghiên cứu bởi nhóm tác giả Fullan, M và Watson, N. năm 2000. Trong quá
trình nghiên cứu, nhóm tác giả đã nhận thấy hai xu hướng mà quản lý dựa vào nhà
trường tác động tới chất lượng giáo dục - xét trên bình diện chất lượng đầu ra của
quá trình giáo dục. Thứ nhất, QLDVNT có ảnh hưởng không rõ rệt đến chất lượng
giáo dục, nghĩa là các nghiên cứu trường hợp không đưa ra bằng chứng rõ ràng về
tác động của quản lý dựa vào nhà trường tới chất lượng người học. Thứ hai,
QLDVNT ảnh hưởng ít tới chất lượng đầu ra của giáo dục. Các tác giả cho rằng với
mối liên hệ chưa rõ ràng với chất lượng như vậy, QLDVNT bộc lộ những khía cạnh
cho thấy xu thế đổi mới này chưa thật thành công. Các tác giả đã nỗ lực đưa ra tổng
kết các chiến thuật chính để thiết lập quyền lực ở cấp độ nhà trường sao cho tạo ra
những ảnh hưởng tích cực tới chất lượng giáo dục [77].
Các công trình nghiên cứu đã có đóng góp quan trọng về mặt khoa học làm
sáng tỏ nhiều phương diện của quản lý dựa vào nhà trường: Đưa ra nguyên nhân
hình thành xu thế cải cách quản lý giáo dục và nguồn gốc xuất hiện quản lý dựa vào
nhà trường; Nêu lên các định nghĩa, các dạng khác nhau về quản lý dựa vào nhà
trường; Nguyên lý hoạt động của nhà trường; Đánh giá các ảnh hưởng đối với chất
lượng giáo dục, các đối tác trong và ngoài nhà trường của cuộc cải cách. Phần lớn
các tác giả đã trình bày nghiên cứu về thực tế áp dụng quản lý dựa vào nhà trường
17
trên thế giới theo các khu vực, châu lục hay theo các khối nước: các nước đang phát
triển, các nước phát triển hay các nước nói tiếng Anh... Đặc biệt, có tác giả đã
nghiên cứu những khía cạnh mới của quản lý dựa vào nhà trường như cần suy nghĩ
lại về quản lý dựa vào nhà trường hay quan niệm mới về quản lý dựa vào nhà trường
trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa và cá nhân hóa; hay những bài học kinh
nghiệm, những chỉ dẫn rút ra từ thực tế thực hiện các chương trình cải cách theo lý
thuyết quản lý dựa vào nhà trường do tổ chức Ngân hàng Thế giới tài trợ để từ đó có
thể áp dụng cho các nước khác nhau trong quá trình cải cách quản lý giáo dục...
Như vậy, các tác giả đã tìm hiểu và khai thác những khía cạnh khác nhau của
quản lý dựa vào nhà trường: quản lý dựa vào nhà trường với vấn đề nâng cao chất
lượng giáo dục, vấn đề tài chính, tham gia của người học trong cải cách giáo dục
theo xu thế này hay mô hình quản lý giáo dục xét trên bình diện lý luận và thực tiễn
vận dụng tại Hoa Kỳ... Khái niệm quản lý dựa vào nhà trường mà các tác giả Việt
Nam đưa ra khá thống nhất. Đặc biệt các tác giả đã bước đầu đi vào những khía
cạnh để có thể áp dụng quản lý dựa vào nhà trường trong giáo dục Việt Nam nói
chung, giáo dục phổ thông nói riêng.
Các tác phẩm trong nước và nước ngoài có nhiều cách tiếp cận vấn đề,
những khía cạnh được đề cập khá toàn diện tuy nhiên vẫn tồn tại một số vấn đề cần
giải quyết.
Thứ nhất, nội dung của quản lý dựa vào nhà trường, cách thức để thực hiện
thành công... đã được đề cập với nhiều quan điểm khác nhau nhưng các vấn đề còn
được đề cập rất rải rác, mỗi tác giả khai thác ở một khía cạnh khác nhau. Thậm chí
có tác giả chỉ khảo sát thực trạng mà chưa có nhận xét, đánh giá. Các nội dung chủ
yếu tập trung vào các nghiên cứu nước ngoài; các nghiên cứu trong nước không
nhiều hoặc đề cập với dung lượng hạn chế.
Thứ hai, các tác giả đã có nhiều định nghĩa về quản lý dựa vào nhà trường nhưng
lại chưa đi đến một định nghĩa thống nhất, chưa khái quát được thành lý luận chung về
các cấp độ của QLDVNT dựa trên sự tham dự của các bên có liên quan đến nhà trường.
Thứ ba, các nghiên cứu trường hợp về quản lý dựa vào nhà trường diễn ra
cho các cấp học, bậc học của hệ thống giáo dục quốc dân, nghiên cứu riêng về quản
lý dựa vào nhà trường tại các trường tiểu học ít được tách riêng.
Thứ tư, đặc biệt tại Việt Nam các công trình nghiên cứu chủ yếu mang tính
lý luận, hay chỉ là tập hợp các văn bản có tính chất pháp lý, thực tiễn đổi mới quản
lý giáo dục đang rất đa dạng nhưng lại không thống nhất trong toàn hệ thống giáo
18
dục, mỗi cơ sở có cách làm riêng, vận dụng riêng, do đó thiếu tổng kết toàn diện về
quá trình đổi mới cũng như các nghiên cứu về thực tiễn một cách toàn diện.
1.2. Lý luận về quản lý dựa vào nhà trường
1.2.1. Khái niệm
- Quản lý dựa vào nhà trường (SBM)
"Quản lý dựa vào nhà trường" tiếng Anh là School-Based Management, viết
tắt là SBM, là chiến lược cải cách trong quản lý giáo dục đang diễn ra trên khắp thế
giới. Những thuật ngữ khác thể hiện cuộc cải cách này bao gồm: Quản lý thuộc về
nhà trường (School site based management), Ra quyết định thuộc về nhà trường
(site based decision making, school based decision making), chia sẻ trong ra quyết
định quản lý (share decision making)… Dù được gọi bằng thuật ngữ nào thì cuộc
cải cách rộng lớn có phạm vi toàn cầu này đều nhấn mạnh việc mở rộng quyền hạn
và trách nhiệm của các hội đồng trường. Hiện nay, quản lý dựa vào nhà trường đang
được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn chưa
đưa ra một quan điểm thống nhất.
Caldwell. B.J cho rằng: quản lý dựa vào nhà trường là sự phân cấp quản lý từ
chính quyền trung ương đến các trường học. [65], [67]
Malenet Al định nghĩa: Quản lý dựa vào nhà trường được xem như sự thay đổi
cấu trúc quyền lực một cách chính thức, hay nói cách khác đó là sự phân cấp quản
lý ở cấp độ trường học, từ đó, xác định các thành viên có quyền đưa ra những quyết
sách nhằm duy trì, củng cố và phát triển nhà trường. [72]
Từ các quan niệm đã được tổng hợp, chúng tôi cho rằng: Quản lý dựa vào nhà
trường là cách thức quản lý giáo dục nhằm phân cấp quản lý tới cấp độ nhà
trường, thu hút sự tham gia của các thành viên trong và ngoài nhà trường vào việc
ra quyết định quản lý đối với các hoạt động của nhà trường hướng tới mục tiêu cao
nhất là nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục.
1.2.2. Nguyên nhân hình thành quản lý dựa vào nhà trường
Vào những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, các dấu hiệu của sự khủng
hoảng trong quản lý công đi ngược lại quá trình tập trung quyền lực đã xuất hiện.
Thứ nhất là sự yếu kém trong kiểm soát chi tiêu công cũng như tính hiệu quả của tổ
chức. Bộ máy hành chính do Nhà nước thành lập và điều phối thay vì phục vụ
quyền lợi của người dân lại tỏ ra yếu kém, khiến họ cảm thấy nặng nề, trói buộc và
không hiệu quả. Thứ hai là sự phụ thuộc của người dân vào bộ máy quan liêu và bộ
máy có tính thứ bậc làm người lao động trong các tổ chức giảm sự chủ động và
sáng tạo đã gây những tác hại tiêu cực đến năng lực và khả năng hoạt động hiệu quả
để đạt đến mục tiêu của tổ chức. Trong lĩnh vực giáo dục, hai thành tố ảnh hưởng