Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

tiểu luận cao học Tác phẩm “thà ít mà tốt” và quan điểm cải tiến bộ máy nhà nước cách mạng của lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.4 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nhằm chuẩn bị lý luận để xây dựng một nhà nước kiểu mới, trước khi
Cách mạng tháng Mười Nga thành công Lênin đã viết rất nhiều tác phẩm, nhiều
bài báo về vấn đề nhà nước. Nội dung chủ yếu của các tác phẩm như: "Nhà nước
và cách mạng", các bài giảng đọc tại các trường đại học và các báo cáo trong các
hội nghị có nội dung chủ yếu đó là: quy luật hình thành, phát triển và triển vọng
của Nhà nước. Nhưng nội dung Lênin quan tâm nhất vẫn là việc xây dựng một
nhà nước như thế nào, bộ máy nhà nước đã ra sao trong giai đoạn quá độ từ chủ
nghĩa tư bản (CNTB) lên chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Sau Cách mạng tháng Mười Nga thành công, giai cấp vô sản đã giành
được chính quyền, nhà nước Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô viết ra đời.
Bên cạnh việc xây dựng cách tổ chức, quản lý nền kinh tế mới XHCN, Lênin đặc
biệt quan tâm đến vấn đề cải tiến bộ máy nhà nước. Trong tác phẩm "Thà ít mà tốt"
- một trong những tác phẩm cuối đời của mình, Lênin đã đưa ra những nội dung
cụ thể, chi tiết để xây dựng một bộ máy nhà nước theo kiểu mới, một kiểu nhà
nước hoàn toàn khác hẳn về chất so với nhà nước tư bản chủ nghĩa. Đó là một
trong những định hướng lớn của Lênin về việc xây dựng nhà nước "chuyên
chính vô sản" trong thời kỳ quá độ.
Tuy rất ngắn, vẻn vẹn có 18 trang, nhưng cho đến bây giờ "Thà ít mà
tốt" vẫn được coi là một trong những tác phẩm quan trọng của Người nói về vấn
đề nhà nước. Tác phẩm không những đã thực sự giúp cho Đảng Bônsêvích Nga
không ngừng củng cố nhà nước thời bấy giờ mà còn có ý nghĩa là di huấn chính
trị có tầm quốc tế đối với các đảng mác-xít Lêninnít lãnh đạo chính quyền.
Nhận thức tầm quan trọng của tác phẩm, tiểu luận đi vào đề tài:
Tác phẩm “Thà ít mà tốt” và quan điểm cải tiến bộ máy Nhà nước
Cách mạng của Lênin ".

1



2. Tình hình nghiên cứu.
Cho đến nay, những quan điểm của Lênin về cải tiến bộ máy nhà nước đã
có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau đã được đê cập đến
trong các cuốn sách, tạp chí về chuyên ngành lý luận chính trị, tạp chí xây dựng
Đảng.
Trong các công trình nghiên cứu đó, tiêu biểu phải kể đến cuốn cuốn sách.
“Quan

điểm chính trị trong một số tác phẩm kinh điển Mác – Lênin” của tập thể

tác giả, do PGS.TS. Nguyễn Thanh Tuấn, PGS.TS. Trần Ngọc Linh,
PGS.TSKH. Trần Nguyễn Tuyên đồng chủ biên. Các tác giả đi sâu vào khái
quát Những quan điểm chung về chính trị trong các tác phẩm kinh điển Mác –
Lênin, tập trung vào những vấn đề lớn sau: vấn đề giai cấp, chính trị, nhà nước;
vị trí và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, cuộc đấu tranh giành quyền lực
chính trị của giai cấp công nhân; tổ chức quyền lực của giai cấp công nhân trong
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,…
“Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh”PGS, TS. Lê Minh Quân – Viện Chính trị học, Học viện Chính trị- Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội 4/2009
Ngoài những công trình nghiên cứu của các tác giả trên, những quan điểm
của Lênin về cải tiến bộ máy nhà nước còn được đề cập đến trong nhiều cuốn
sách, tạp chí chuyên ngành thuộc bộ môn chính trị học như: Chính trị học đại
cương của khoa chính trị học- Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Tập bài giảng
chính trị học của tác giả Nguyễn Văn Vĩnh chủ biên…
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những quan điểm của Lênin
về nhà nước và cải cách bộ máy nhà nước ở nhiều mức độ, khía cạnh khác nhau
một cách tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những quan điểm
chung nhất mà chưa đưa ra được những phương hướng, giải pháp để vận dụng
những quan điểm này vào tình hình thực tế ở Việt Nam. Chính vì những lý do
trên, tiểu luận này góp phần bổ sung những thiếu hụt đó trong quan điểm của


2


Lênin về cải cách bộ máy nhà nước đồng thời cố gắng trình bày những quan
điểm này một cách toàn diện và hệ thống nhất.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu.
Trên cơ sở làm rõ những quan điểm cơ bản của Lênin về cải tiến bộ máy
nhà nước trong tác phẩm “Thà ít mà tốt”, liên hệ với Việt Nam. Tiểu luận rút ra
ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm đối với công cuộc đổi mới bộ máy nhà nước ở
Việt nam hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu.
Với đề tài này, tiểu luận tập trung làm rõ một số vấn đề sau:
Quan điểm của Lênin về cải tiến bộ máy nhà nước trong tác phẩm “Thà ít
mà tốt”.
Liên hệ với thực tiễn đổi mới bộ máy nhà nước ở Việt Nam.
Ý nghĩa của tác phẩm đối với công cuộc đổi mới bộ máy nhà nước ở Việt
Nam
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
4.1 Cơ sở lý luận.
Tiểu luận được thực hiện trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước ta
về cải cách bộ máy nhà nước
4.2 Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin đó là phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử cùng với
các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Logic-lịch sử, phân tích-tổng hợp, so
sánh, hệ thống hoá,…
5. Kết cấu của tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Tiểu luận gồm
có 2 chương, 5 tiết và 32 trang.


3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA LÊ-NIN VỀ CẢI TIẾN BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
TRONG TÁC PHẨM “THÀ ÍT MÀ TỐT”
1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm "Thà ít mà tốt" và vấn đề cải tiến
bộ máy nhà nước
Sau Cách mạng tháng Mười nước Nga đã gặp rất nhiều khó khăn, đó là
một thực tế. Lênin đã từng nhận định: Các cuộc cách mạng thực sự vĩ đại đều
phát sinh từ những mâu thuẫn giữa cái cũ, giữa xu hướng muốn sửa lại cái cũ, và
xu hướng hết sức trừu tượng muốn đi đến cái mới, mới đến nỗi không còn chứa
đựng một chút gì của cái cũ nữa. Và cuộc cách mạng ấy càng triệt để bao nhiêu
thì mâu thuẫn kia càng tồn tại lâu bấy nhiêu. Nước Nga lúc này cũng ở trong
hoàn cảnh đó. Sự tác động cản trở nước Nga Xô viết của các cường quốc tư bản
phương Tây bằng can thiệp chiến tranh, phá hoại. Sự can thiệp của các nước tư
bản phương Tây mặc dầu "chúng không đánh đổ được chế độ mới do cách mạng
thiết lập lên, nhưng chúng cũng đã không để cho chế độ đó có được ngay lập tức
một bước tiến, đúng theo dự kiến của những người xã hội chủ nghĩa và cho phép
những người xã hội chủ nghĩa phát triển được lực lượng sản xuất một cách hết
sức nhanh chóng; chúng không để cho chế độ đó phát triển được tất cả mọi khả
năng đủ để trở thành chủ nghĩa xã hội; không để cho chế độ đó chứng minh
được cho tất cả và cho mỗi người thấy rõ rằng, thấy hoàn toàn hiển nhiên rằng
chủ nghĩa xã hội chứa đựng những lực lượng vô biên, rằng nhân loại ngày nay
đã bước sang một giai đoạn phát triển mới, một giai đoạn có những tiền đồ rực
rỡ phi thường”[10, tr.455-456].
Về tình hình quốc tế, Lênin nhận định: Nước Nga đang có thuận lợi là
toàn thế giới hiện đang bước vào một phong trào nhất định sẽ đưa đến một cuộc

cách mạng XHCN toàn thế giới. Song cái bất lợi là bọn đế quốc đã chia thế giới

4


ra làm hai phe, và nước Đức - một nước thực sự phát triển theo chủ nghĩa tư bản
văn minh tiên tiến ngày nay đang phục hồi một cách khó khăn bởi sự xâu xé của
các cường quốc tư bản chủ nghĩa khác. Mặt khác, toàn bộ phương đông với
hàng trăm triệu người lao động bị bóc lột bần cùng hóa đến cực điểm đang lâm
vào hoàn cảnh là lực lượng thể chất và vật chất và quân sự của bất cứ nước nào ở
Tây Âu dù đó là nhỏ bé hơn nhiều.
Tình hình trong nước và quốc tế nhìn chung thuận lợi thì ít mà khó khăn
thì nhiều. Từ đó Lênin đã đặt ra nhiều câu hỏi: "Với nền sản xuất tiểu nông và
tiểu tiểu nông của ta, với tình trạng bị tàn phá của đất nước ta, liệu chúng ta có
thể đứng vững được cho đến khi các nước tư bản Tây Âu hoàn thành được bước
phát triển của họ lên chủ nghĩa xã hội không?"[10, tr.456]. Để giải quyết được
vấn đề này, Lênin nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần đến việc thực hiện một sách
lược phải làm thế nào để giữ vững và củng cố quyền hạn của giai cấp vô sản.
Lênin nêu lên: "Tình hình đó buộc nước ta phải có sách lược gì? cố nhiên là
sách lược sau đây: Chúng ta cần tỏ ra hết sức thận trọng để bảo toàn chính
quyền công nhân của ta, để duy trì tầng lớp tiểu nông và tiểu tiểu nông của ta
dưới quyền lực và dưới sự lãnh đạo của chính quyền đó"[10, tr.457]. Vấn đề căn
bản nhất để đương đầu với những khó khăn và bước đầu thực hiện những công
việc tiền đề cho chủ nghĩa xã hội là: "Chúng ta phải gắng sức xây dựng một nhà
nước, trong đó công nhân tiếp tục lãnh đạo nông dân, duy trì được lòng tin của
họ đối với mình và trừ bỏ được cả đến những lãng phí nhỏ nhất trong mọi lĩnh
vực đời sống xã hội, bằng cách thực hành tiết kiệm nghiêm ngặt"[10, tr.458].
Lênin phân tích rõ tại sao phải làm như vậy? Bởi vì chỉ có làm cho bộ
máy của chúng ta trong sạch đến tột mực, chỉ có giảm bớt đến mức tối đa tất cả
những cái không tuyệt đối cần thiết chúng ta mới có thể đứng vững được. Như

vậy với việc phân tích một cách khách quan những khó khăn, thuận lợi, trong
nước và quốc tế cũng như quy luật phát triển của xã hội, bằng tác phẩm "Thà ít
mà tốt" và những báo cáo về việc cải tổ Bộ dân ủy thanh tra công nông, Lênin
5


đã chỉ ra rằng: cần làm ngay và làm một cách nghiêm túc dứt khoát và mạnh mẽ
việc cải tiến bộ máy nhà nước trên cơ sở nền tảng khoa học của chủ nghĩa MácĂngghen và thực tiễn nước Nga lúc bấy giờ.
1.2. Nội dung cơ bản của vấn đề cải tiến bộ máy nhà nước của Lênin
1.2.1. Quan điểm của Lênin đánh giá nhà nước sau 5 năm Cách mạng
tháng Mười Nga thắng lợi
Trước khi đi đến những chủ trương cải tiến bộ máy nhà nước, Lênin
đánh giá đúng tính chất, bản chất, vai trò, ý nghĩa lịch sử trọng đại của Nhà nước
Xô viết. Người khẳng định: Nhà nước Xô viết đã tạo ra một xã hội mới, một kỷ
nguyên mới.
Người viết: "Trong hàng mấy trăm năm nay, người ta đã xây dựng lại
những nhà nước theo kiểu tư sản, và đây là lần đầu tiên, chúng ta đã tìm ra một
hình thức nhà nước không phải tư sản... Dẫu cho bộ máy nhà nước ta còn kém
cỏi, nhưng nó đã được sáng tạo ra, đó là một phát minh lịch sử vĩ đại nhất, một
nhà nước vô sản đã được sáng tạo ra"[10, tr.130].
Đồng thời, Lênin đã phân tích kỹ lưỡng thực trạng của bộ máy nhà nước
Nga lúc đó: "Tình hình bộ máy nhà nước của ta rất đáng buồn, nếu không muốn
nói là rất tồi tệ, đến nỗi trước hết chúng ta sẽ phải suy nghĩ nghiêm chỉnh xem
nên khắc phục những khuyết điểm của bộ máy ấy như thế nào"[10, tr.442-443].
Lênin cho rằng những khuyết điểm đó bắt nguồn từ quá khứ và nó tồn tại cho
đến lúc này. Điều đó là không tránh khỏi, vì Lênin cho rằng: "quá khứ này tuy
đã bị lật đổ, nhưng chưa bị tiêu diệt, nó chưa phải là một giai đoạn văn hóa đã
hết thời từ lâu"[10, tr.443]. Mặt khác, những gì mà xã hội mới - xã hội Xô viết
tiếp nhận và đào thải mới chỉ trong vòng 5 năm qua thì cố nhiên là không thể
nào khác được vì đó là văn hóa, là phong tục, tập quán, đã ăn sâu vào trong đời

sống của mọi người. Việc tiếp nhận hay khắc phục nó không phải là dễ, vì vậy
nếu hấp tấp vội vàng sẽ dẫn đến nguy hại. Câu kết luận và nên từ từ một chút thì
hơn. Vì nếu chúng ta tiến hành cải tiến bộ máy nhà nước khi những hiểu biết
6


còn quá ít ỏi, và những yếu tố cần thiết để xây dựng bộ máy nhà nước xã hội chủ
nghĩa còn chưa đủ thì tốt nhất là phải từ từ. Lênin nói: "điều tai hại nhất ở đây là
hấp tấp. Điều tai hại nhất là tưởng rằng chúng ta biết được một tí như thế là đủ
rồi, hoặc tưởng rằng chúng ta đã có được một số yếu tố khá lớn để xây dựng
được một bộ máy thật sự mới và thật sự xứng đáng với danh hiệu là bộ máy xã
hội chủ nghĩa, bộ máy Xô viết"[10, tr.443].
Từ việc phân tích trên, Lênin nhấn mạnh: Không thể thay thế văn hóa
trong công cuộc cải tiến bộ máy nhà nước bằng những hành động liều lĩnh, xung
phong hay bằng sự táo bạo hay bằng nghị lực hay bằng bất cứ một trong những
đức tính tốt đẹp của con người. Chỉ có một cách là học tập, học tập và học tập.
Bên cạnh thực trạng trên, nước Nga lúc này cũng càng khó khăn hơn bởi
những người công nhân, công nhân đại công nghiệp phải ra mặt trận, để lại
chính quyền trong tay những người của chế độ cũ. Nước Nga Xô viết lúc này
vẫn là một nước lạc hậu về kinh tế, sản xuất nhỏ chiếm phần lớn. Nền sản xuất
nhỏ phân tán lạc hậu, là gốc rễ của bệnh quan liêu, tâm lý, thủ cựu, nhận thức
vấn đề không đầy đủ, không toàn diện, không triệt để. Đó là những cơ sở thuận
lợi cho sự tấn công của ý thức hệ tư tưởng của tư bản chủ nghĩa.
Đó là thực trạng, hay nói đúng hơn là những nguyên nhân mà Lênin đã
nêu ra để xác định một nhiệm vụ quan trọng của chính quyền Xô viết là phải cải
tiến bộ máy nhà nước.
1.2.2. Nội dung cơ bản của vấn đề cải tiến bộ máy nhà nước của Lênin
Trong tác phẩm "Thà ít mà tốt" viết năm 1923 Lênin đã chỉ ra những vấn
đề cốt lõi của việc cải tiến bộ máy nhà nước như sau:
Vấn đề thứ nhất đó là vấn đề lựa chọn con người.

Lênin nêu lên: Cần phải lựa chọn thật kỹ những con người có đủ năng
lực phẩm chất vào bộ máy nhà nước - đó là điều cốt yếu nhất để có một bộ máy
nhà nước thực sự là của nhân dân lao động. Từ quan điểm đó Lênin đề nghị xây
7


dựng Bộ dân ủy thanh tra công nông. Mục đích của Lênin khi xây dựng bộ này
là giống như một việc xây dựng bộ kiểu mẫu cho việc cải tiến bộ máy nhà nước,
bởi vì việc tuyển lựa người vào làm việc ở bộ này cần được tiến hành rất kỹ
lưỡng. Theo Lênin: "Những công nhân mà chúng ta chỉ định là ủy viên Ban
kiểm tra Trung ương phải là những người cộng sản không thể chê trách được...
Rồi thì để giúp việc họ, cần phải có một số thư ký nhất định mà ta đã cẩn thận
thẩm tra ba lần trước khi nhận. Sau hết, những người nào mà chúng ta quyết
định, ngoại lệ, nhận ngay vào các cơ quan thuộc Bộ dân ủy thanh tra công nông,
phải có đủ những điều kiện sau đây:
Một là, họ được nhiều đảng viên cộng sản giới thiệu.
Hai là, họ qua được một kỳ sát hạch chứng nhận rằng họ hiểu biết bộ
máy nhà nước của chúng ta.
Ba là, họ qua được một kỳ sát hạch chứng nhận rằng họ hiểu biết lý luận
thường thức về bộ máy nhà nước của chúng ta, những nguyên tắc của khoa học
quản lý, những giấy tờ sổ sách...
Bốn là, họ phải phối hợp tốt công tác với những ủy viên Ban kiểm tra
Trung ương với ban thư ký riêng của mình, sao cho chúng ta có thể đảm bảo cho
toàn thể bộ máy chạy tốt"[10, tr.446-447].
Lênin chỉ ra rằng: Những người đáp ứng được những yêu cầu trên chính
là những phần tử ưu tú trong Bộ dân ủy thanh tra công nông họ là những người
công nhân tiên tiến và sau nữa là những phần tử thật sự có học thức. Đó là
những người hoạt động cho cách mạng chứ không phải là những kẻ huyênh
hoang, những kẻ nói suông, những tên quan liêu, xa rời quần chúng, những kẻ
xu nịnh...

Đối với những cán bộ chủ chốt của bộ máy nhà nước: Họ thực sự phải là
những người cộng sản, và những người đó cũng cần được huấn luyện về những
vấn đề mục tiêu, phương pháp đào tạo cán bộ. Và muốn đạt được những mục
8


tiêu đó Lênin nhấn mạnh: chỉ có một cách là học tập. Lênin nói: "Muốn đổi mới
bộ máy nhà nước của chúng ta, phải cố hết sức tự đặt cho mình nhiệm vụ sau
đây: một là học tập, hai là học tập, ba là học tập mãi, và sau nữa, phải làm sao
cho học thức ở nước ta không nằm trên giấy hoặc là một lời nói theo mốt nữa,
phải làm sao cho học thức thật sự ăn sâu vào trí não, hoàn toàn và thực tế trở
thành một bộ phận khăng khít của cuộc sống của chúng ta"[10, tr.444]. Đó là
quan điểm vừa học vừa làm, lý luận phải được thử nghiệm trong thực tiễn. Có
được những con người như vậy mới làm cho bộ máy nhà nước hoạt động tốt.
Vấn đề thứ hai là phải xây dựng bộ máy nhà nước trên cơ sở khoa học,
gọn nhẹ và tiết kiệm.
Việc trước tiên là phải phá bỏ chính quyền cũ, xây dựng chính quyền
mới về tay nhân dân. Nhiệm vụ chính của chúng ta không chỉ là phải chiến
thắng bọn phản động trong nước mà còn phải thực hiện tổ chức xây dựng và
quản lý, điều hành nền kinh tế. Trước mắt phải làm thử nội bộ đó là bộ dân ủy.
Có thể lấy đó là mẫu để tiếp tục cải tiến được bộ máy khác. Muốn cải tiến được
bộ máy đó trong hoàn cảnh nước Nga còn lạc hậu, Lênin nêu lên: cần phải
nghiên cứu các loại sách của các tác giả trong nước đã nói về vấn đề này, ngoài
ra còn cần phải cử người tận tâm, sang Đức hay Anh để sưu tầm tài liệu và
nghiên cứu để học tập và vận dụng. Bộ Dân ủy thanh tra công nông phải cố gắng
làm việc hết khả năng và sức lực của mình, phải sáng tạo ra một cái gì thực sự
không chê trách được, một cái gì có thể làm cho tất cả và từng người phải tôn
trọng, không chỉ những chức vị và cấp bậc.
Về việc cải tổ Bộ dân ủy thanh tra, trong báo cáo gửi Đại hội XII của
Đảng, Lênin đề nghị mở rộng Ban kiểm tra Trung ương và trung bình, cứ hai

tháng, hội nghị toàn thể ấy chỉ họp một lần Ban Chấp hành Trung ương giao phó
công việc hàng ngày cho Bộ chính trị, cho bộ tổ chức, cho ban bí thư.
Và muốn cho Ban kiểm tra Trung ương, Bộ dân ủy thanh tra trở thành
công cụ để cải tiến bộ máy nhà nước thì chúng ta phải tự cải tổ bộ máy dân ủy
9


thực sự gương mẫu, được nhân dân tín nhiệm và phải bằng hành động thực tế,
chứng minh rằng: cán bộ của bộ đó gánh vác được những công việc mà nhân
dân giao phó. Tất nhiên để đạt được mục đích đó, sự lựa chọn cán bộ vào bộ đó
phải thật cẩn thận, dần dần từng bước. Bộ dân ủy thanh tra công nông cần có sự
kiểm tra thật chặt chẽ những cơ quan ngang dọc và có hướng công việc cho các
cơ quan đó sao cho phù hợp với trình độ khoa học hiện đại. Lênin đề nghị: nếu
Bộ dân ủy thanh tra công nông tán thành kế hoạch cải cách này thì có thể bắt
đầu chuẩn bị ngay và tiếp tục hành động có hệ thống cho đến khi chuẩn bị xong,
không vội vàng mà cũng không từ chối làm lại những việc có thể là đã làm qua
một lần rồi.
Để tinh giản và tiết kiệm, Lênin đưa ra ý kiến kết hợp một cơ quan Đảng
với một cơ quan chính quyền Xô viết. Lênin nói: "Thật vậy, tại sao lại không kết
hợp hai loại cơ quan đó lại khi lợi ích của công việc đòi hỏi phải như thế. Phải
chăng chưa bao giờ có ai nhận xét chẳng hạn rằng trong một bộ dân ủy như Bộ
dân ủy ngoại giao, việc kết hợp như thế thật là vô cùng có ích và đã được thực
hiện ngay từ khi bộ đó mới thành lập"[10, tr.452]. Đây là một quan điểm quan
trọng của Lênin trong việc tinh giản bộ máy nhà nước Xô viết. "Phải chăng sự
kết hợp linh hoạt của yếu tố chính quyền với yếu tố đảng lại không phải là một
nguồn sức mạnh phi thường trong chính sách của chúng ta”[10, tr.452] Lênin đã
khẳng định rằng sự hợp nhất là điều đảm bảo duy nhất cho một hoạt động có kết
quả.
Vấn đề thứ ba là vấn đề cải cách nền hành chính nhà nước.
Ông nói rằng: "Trong toàn bộ lĩnh vực những quan hệ xã hội, kinh tế và

chính trị, chúng ta đều tỏ ra là cách mạng "ghê gớm". Nhưng về mặt cấp bậc, về
mặt tôn trọng những hình thức và những thể lệ về thủ tục hành chính thì "tính
cách mạng" của chúng ta thường hay nhường chỗ cho tinh thần thủ cựu hủ bại
nhất"[10, tr.453-454]. Từ đó Lênin đã kết luận rằng: Mọi người chúng ta có thể
rất táo bạo, mạnh mẽ trong một công việc vĩ đại nhưng khi tiến hành một việc
10


nhỏ cỏn con trong cải cách hành chính thì lại rụt rè. Và ông cũng coi đó là một
việc khó vì nó chưa trở thành phong tục, chưa đi sâu vào tập quán của mọi
người. Nhưng đó là một việc phải làm trong cải tiến bộ máy nhà nước.
Để tăng cường tinh giản bộ máy nhà nước, thực hành tiết kiệm trong mọi
hoạt động, tăng cường bản chất giai cấp công nhân trong bộ máy nhà nước.
Lênin chỉ ra: "Chúng ta phải gắng sức xây dựng một nhà nước, trong đó công
nhân tiếp tục lãnh đạo nông dân, duy trì được lòng tin của họ đối với mình và trừ
bỏ được cả đến những lãng phí nhỏ nhất trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội,
bằng cách thực hành tiết kiệm nghiêm ngặt. Chúng ta phải thực hành tiết kiệm
tột mức trong bộ máy nhà nước của chúng ta. Chúng ta phải bài trừ mọi vết tích
lãng phí mà nước Nga quân chủ và bộ máy quan liêu tư bản chủ nghĩa của nó đã
để lại đầy dẫy"[10, tr.458].
Lênin đặt vấn đề về sự cải tiến bộ máy nhà nước của thời kỳ đầu nước
Nga Xô viết như là việc chuyển từ con ngựa này sang cưỡi con ngựa khác. Cụ
thể là chuyển từ con ngựa của người nông dân, của người mu gích, con ngựa
khốn khổ, tức là từ những doanh nghiệp không thể thiếu được trong một nước
nông dân phá sản sang con ngựa mà giai cấp vô sản đương tìm kiếm và không
thể không tìm kiếm cho mình, tức là đại công nghiệp cơ khí, điện khí hóa. Về
việc tinh giản bộ máy nhà nước Lênin đề nghị Đại hội XII của Đảng bầu vào
Ban kiểm tra Trung ương từ 75 đến 100 người ủy viên mới và tất nhiên là những
người đó phải trải qua những cuộc thẩm tra cẩn thận. Còn Bộ dân ủy thanh tra
công nông trước đây có 800 người nay sẽ phải rút xuống chỉ còn độ 300 hay 400

trăm nhân viên đã được đặc biệt kiểm tra về phương diện trung thực, cũng như
phương diện hiểu biết bộ máy nhà nước. Họ cũng sẽ phải trải qua một cuộc sát
hạch đặc biệt chứng nhận rằng họ thông hiểu những nguyên tắc tổ chức khoa
học vê lao động nói chung và nhất là về công tác quản lý, công tác văn phòng.
Họ phải được hưởng lương cao để giúp cho họ thoát khỏi "hoàn cảnh thực sự là
khốn khổ".
11


Việc giảm biên chế như Lênin nêu lên nhằm mục đích "sẽ làm tăng rất
nhiều cả chất lượng của những người làm việc trong Bộ dân ủy thanh tra công
nông lẫn chất lượng của toàn bộ công tác, như thế sẽ giúp cho bộ trưởng dân ủy
và cho những ủy viên trong ban lãnh đạo tập trung được hết công sức của mình
lại để tổ chức công tác và nâng cao chất lượng công tác một cách có hệ thống và
liên tục, điều rất khẩn thiết đối với chính quyền công nông và đối với với chế độ
Xô viết của chúng ta”[10, tr.438]
Ngoài ra Lênin còn đề nghị phải nghiên cứu để sát nhập một số viện
khoa học lại với nhau nếu như hợp lý và cũng cần phải chỉ rõ tính độc lập của
các viện này. Lúc này, vai trò của bộ trưởng các bộ càng vô cùng quan trọng và
nặng nề. Bộ trưởng phải nắm được tình hình chung, đồng thời cũng là người am
hiểu nghiệp vụ, công tác cải cách hành chính. Nhất là vấn đề bộ máy nhà nước
trong đó con người đóng vai trò quan trọng - những quan chức nhà nước.

12


CHƯƠNG 2
LIÊN HỆ THỰC TIỄN TÌNH HÌNH VIỆT NAM VÀ Ý NGHĨA
CỦA TÁC PHẨM ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI BỘ MÁY NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Thực trạng bộ máy nhà nước Viêt Nam hiện nay
Từ năm 1945, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Trải qua
những thời kỳ dài của công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng
đất nước, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã không ngừng củng cố, cải tiến, bộ máy nhà nước cho phù hợp với từng
thời kỳ cách mạng. Những năm tháng kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, bộ
máy nhà nước ta hoạt động trong cơ chế bao cấp, tuy rằng còn có nhiều hạn chế
nhưng điều kiện hoàn cảnh lúc bấy giờ không cho phép chúng ta cải cách toàn
diện bộ máy nhà nước.
Điều cần nói ở đây là từ năm 1976, sau khi miền Nam được hoàn toàn
giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước cùng chung nhiệm vụ là xây dựng chủ
nghĩa xã hội (CNXH) thì bộ máy nhà nước ta vẫn ở trong tình trạng là bộ máy
nhà nước của cơ chế kế hoạch, tập trung, bao cấp.
Lúc này, không chỉ mọi vấn đề kinh tế, xã hội đang chìm trong vòng
cương tỏa của một cơ chế cũ mà cả bộ máy nhà nước cũng chưa có gì đổi mới
cho phù hợp với tình hình thực tế của thời kỳ quá độ lên CNXH. Sự tồn tại của
cơ chế đó kéo dài cho đến năm 1986, chúng ta mới có bước đột phá trong mọi
lĩnh vực, trong đó có vấn đề bộ máy nhà nước.
Trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, vấn đề cải tiến bộ máy nhà nước đã được nhìn nhận, đánh giá và tiến
hành từng bước. Thông qua các hội nghị của BCHTW Đảng khóa VII, Hội nghị
TW3 và 7 khóa VIII, Đảng ta đã đánh giá bộ máy nhà nước ta đã hoàn thành tốt
nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng với những ưu điểm như sau:
13


Nó thể hiện bản chất của nền dân chủ một cách nhất quán của một
nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Có nhiều văn bản pháp quy về tổ chức bộ máy nhà nước, về hành
chính nhà nước có một đội ngũ những người quản lý nhà nước và công

chức có tinh thần yêu nước, trung thành với tổ quốc, phục tùng sự lãnh
đạo của Đảng và tôn trọng lợi ích của nhân dân.
Bộ máy nhà nước phát huy hiệu lực góp phần vào những thắng lợi
của cách mạng.
Bên cạnh những ưu điểm, bộ máy nhà nước của ta còn có những yếu
kém:
Cơ cấu tổ chức chưa hợp lý, chưa xác định đúng và phân biệt rõ sự
lãnh đạo của Đảng và vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước. Các chức
năng lập pháp, hành pháp, tư pháp, đặc biệt là thẩm quyền của bộ máy
nhà nước chưa được phân định rõ ràng.
Bộ máy quản lý nhà nước và nền hành chính chưa phân biệt giữa
quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh.
Tổ chức bộ máy nhà nước cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian,
nhiều đầu mối rườm rà, vừa tập trung vừa phân tán, tản mạn, không đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đội ngũ công chức nhà nước vừa thiếu lại vừa thừa không được
đào tạo kiến thức quản lý hành chính nhà nước, pháp luật chu đáo; thiếu
một quy chế công chức nhà nước hoàn chỉnh có tính pháp lý.
Thủ tục hành chính rườm rà; bệnh cửa quyền, tham nhũng trở nên
phổ biến và nghiêm trọng.
Đảng ta đã chỉ ra rằng: những khuyết điểm trên làm cho bộ máy nhà
nước không đủ quyền lực, năng lực, hiệu lực, hiệu quả để quản lý nhà nước đặc

14


biệt là để đảm đương chức năng, nhiệm vụ mới của Nhà nước trong công cuộc
đổi mới.
2.2. Vấn đề đổi mới bộ máy nhà nước ở Việt Nam
Để khắc phục những mặt hạn chế còn tồn tại trong tổ chức bộ máy nhà

nước, Đảng ta chủ trương xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng
lực và từng bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của
Nhà nước. Vận dụng quan diểm của Lênin, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khóa
VII đã đề ra mục tiêu cải cách hành chính một cách nhất quán, lâu dài và thiết
thực, từng bước, liên tục trong nhiều năm, không nóng vội, giản đơn.
Nội dung của cải cách hành chính được đưa ra với 4 nội dung chủ yếu:
Cải cách thể chế của nền hành chính.
Chấn chỉnh tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.
Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức.
Cải cách tài chính công
Hội nghị Trung ương 3 và Trung ương 7 khóa VIII cũng đã đặt vấn đề
cải cách hành chính trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị nói chung và được
coi là yếu tố, là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Thực hiện các nghị quyết của Đảng và Quốc hội về cải cách hành chính,
thông qua việc thi hành các chỉ thị của thủ tướng chính phủ về đẩy mạnh công
tác cải cách thủ tục hành chính (Nghị quyết số 38/CP ngày 4/5/1994 và chỉ thị
342/TTg ngày 22/5/1997) cho đến nay chúng ta đã đạt được một số kết quả lớn
về cải cách thể chế của nền hành chính.
Những thành tựu và kết quả đạt được về cải cách, kiện toàn bộ máy
hành chính nhà nước.
Kết quả nổi bật là bộ máy hành chính nhà nước đã chuyển dần sang chức
năng quản lý nhà nước, làm rõ hơn chức năng quản lý vĩ mô của Chính phủ và
15


các bộ, ngành. Phân định rõ chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước với chức
năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp.
Chính phủ đã thực hiện một bước quan trọng sắp xếp tổ chức bộ máy
hành chính từ Trung ương đến địa phương, các bộ đã chuyển sang quản lý đa
ngành, nhiều lĩnh vực.

Nhìn chung xu hướng việc sắp xếp lại với mục tiêu là: giảm đầu mối
theo xu hướng tinh gọn. Chính phủ cũng đã sắp xếp lại một số tổ chức theo
ngành dọc và thành lập một số tổ chức như Bảo hiểm xã hội Việt Nam, ủy ban
chứng khoán nhà nước...
Công tác cải cách hành chính đã chú ý tới việc giảm công việc sự vụ, bớt
thì giờ hội họp, tập trung làm tốt chức năng nghiên cứu chiến lược, chính sách vĩ
mô... góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo và điều hành hoạt động của bộ
máy hành chính.
Xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức và các văn bản quy phạm
pháp luật hướng dẫn thực hiện, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng, quản lý và
sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Đưa công tác quản lý nhân sự từ
khâu xây dựng chức danh, tiêu chuẩn, thi tuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, sử
dụng, đề bạt, thuyên chuyển, điều động khen thưởng, kỷ luật cán bộ. Trong xây
dựng đội ngũ cán bộ công chức đã thực hiện chế độ tuyển dụng qua thi tuyển.
Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức cũng được quan tâm, chú
ý hơn trước. So sánh các năm từ 1998 đến năm nay, số lượng cán bộ công chức
được đào tạo bồi dưỡng năm sau đều cao hơn năm trước từ 5 - 10%. Nội dung
chương trình đào tạo được cải tiến, đổi mới.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, Chính phủ đã thông
qua các đề án về việc giảm 15% biên chế hành chính các cơ quan Đảng và Nhà
nước (theo nghị quyết trung ương 7 khóa VIII). Trên cơ sở xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ khối lượng công việc, cơ cấu tổ chức bộ máy để xác định cơ
16


cấu, số lượng đội ngũ cán bộ công chức gắn với việc từng bước hiện đại hóa
phương tiện và điều kiện làm việc và xác định số lượng tỉ lệ giảm biên chế.
Bên cạnh đó, Đảng, Nhà nước cũng quan tâm đến việc cải cách chế độ
tiền lương, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chế độ chính sách đối với cán bộ
công chức nhằm khuyến khích động viên nâng cao chất lượng thực thi, công vụ.

Ban hành chế độ phụ cấp giáo viên, phụ cấp y tế dự phòng; chế độ bồi dưỡng
độc hại... cho cán bộ, công chức trong một số ngành, khu vực.
Bên cạnh những thành tựu và kết quả đạt được, cải cách hành chính và
cải tiến bộ máy nhà nước đến nay vẫn còn những hạn chế.
Nhìn chung về tổ chức bộ máy vẫn còn cồng kềnh, nhiều đầu mối, tầng
lớp trung gian, chất lượng hoạt động và hiệu quả thấp. Việc phân định chức
năng nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ giữa các tổ chức cấu
thành, giữa các cấp trong hệ thống hành chính nhà nước chưa rõ ràng. Đó là việc
phân cấp thẩm quyền giữa Chính phủ và các bộ, ngành, giữa Trung ương và địa
phương.
Đội ngũ cán bộ công chức chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách hành
chính, yêu cầu của thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Đội ngũ cán bộ đông nhưng không mạnh, không đồng bộ, vẫn còn
tình trạng vừa thiếu vừa thừa. Trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo quản lý
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Một bộ phận cán bộ công chức thoái hóa
biến chất về đạo đức lối sống, lợi dụng chức quyền để rút tiền của Nhà nước,
buôn lậu, làm giàu bất chính, quan liêu, gia trưởng, độc đoán, cục bộ, kèn cựa
địa vị, cơ hội, kém tổ chức kỷ luật.
Chính sách đối với cán bộ công chức, nhất là chính sách tiền lương còn
nhiều bất hợp lý, chưa tạo được động lực để phát huy tài năng của đội ngũ cán
bộ công chức.

17


Chương trình, phương pháp đào tạo cán bộ, công chức chưa đảm bảo,
chậm đổi mới. Nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo, quản lý công tác cán bộ và
nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được cụ thể hóa, chức năng nhiệm vụ chưa rõ
ràng; việc phân cấp cán bộ quản lý tiến hành chậm.
Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém trong cải cách hành chính ở nước

ta hiện nay đó là:
Cải cách hành chính ở nước ta đang được triển khai cùng với một loạt các
cuộc cải cách khác, đó là đổi mới từng bước hệ thống chính trị, cải cách lập
pháp ,cải cách tư pháp, cải cách kinh tế, cải cách doanh nghiệp nhà nước …
Nhiều vấn đề, vốn thuộc cải cách hành chính, nhưng tự thân cải cách hành chính
không thể cải cách được, mà phải đặt trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị
để xem xét giải quyết. Chính sự không đồng bộ của cải cách hành chính
(CCHC) với các cuộc cải cách khác là một trong những nguyên nhân làm cho
cải cách hành chính chậm, hiệu quả thấp.
Cải cách hành chính hiệu quả chưa cao, có nguyên nhân về nhận thức. Nhận
thức của chúng ta về một nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của
Đảng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN còn rất hạn chế, điều đó
cũng ảnh hưởng nhất định đến kết quả cải cách ở các lĩnh vực, trong đó có
CCHC.
Mặc dù mấy năm gần đây có những chuyển biến tích cực trong sự chỉ đạo
của chính phủ, nhưng nhìn chung chưa có sự chỉ đạo kiên quyết, tập trung của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với toàn bộ quá trình cải cách hành chính
trong phạm vị cả nước .
Các thành viên Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh chưa đặt thường xuyên
thực hiện nhiệm vụ CCHC trong phạm vi trách nhiệm của mình. Ban chỉ đạo cải
cách hành chính các cấp hoạt động còn hình thức, chưa phát huy vai trò, trách
nhiệm giúp người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp trong chỉ đạo và kiểm
tra thực hiện các nhiệm vụ CCHC đã xác định

18


Chế độ công vụ, công chức mới chưa hoàn chỉnh, đội ngũ cán bộ côngchức
còn chưa ngang tầm với yêu cầu nhiêm vụ quản lý mới trong quá trình chuyển
đổi .Nhìn chung chưa tạo được động lực cho CCHC, trong đó có vấn đề chế độ

chính sách cho đội ngũ cán bộ, công chức. Chế độ tiền lương vẫn chưa được cải
cách cơ bản theo yêu cầu của NQ TW 7 Khoá VIII năm 1999, chưa đảm bảo đời
sống của cán bộ, công chức và gia đình họ. Điều này tác động không nhỏ đến
động cơ và thái độ làm việc , đến những biểu hiện tiêu cực như: không an tâm
làm việc, móc ngoặc, trục lợi, nhũng nhiễu trong một bộ phận cán bộ, công chức
.
Ngoài những nguyên nhân chủ yếu trên đây, công tác cải cách hành chính
còn gặp nhiều cản trở vì một số lý do, đáng chú ý là: một mặt nhận thức chưa
đầy đủ về vị trí, tính chất, yêu cầu của cải cách hành chính, mặt khác cải cách
hành chính đụng chạm đến bộ máy, con người nên rất khó khăn, phức tạp; mặt
khác thói quen, nếp nghĩ, cách làm của đội ngũ cán bộ, công chức và của bản
thân bộ máy hành chính còn mang nặng dấu ấn của cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp không dễ dàng thay đổi.
Những nguyên nhân gây cản trở này cần phải được nhận thức đầy đủ
để có những giải pháp khắc phục một cách có hiệu quả trong thời gian tới. Đẩy
mạnh cải cách hành chinh, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh là
nhiệm vụ và giải pháp rất cần được quan tâm.
Phương hướng và nhiệm vụ trong công cuộc đổi mới.
Đổi mới thể chế
Hình thành về cơ bản và vận hành thông suốt, có hiệu quả thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới thể chế và thủ tục hành chính,
tập trung trước hết vào xoá bỏ những quy định mang nặng tính hành chính quan
liêu, bao cấp, gây phiền hà, sách nhiễu quản lý và nhân dân, kìm hãm sự phát
triển lực lượng sản xuất. Xây dựng và thực hiện chương trình đổi mới thể chế
trong từng năm. Bảo đảm các văn bản pháp quy có nội dung đúng đắn, nhất
19


quán, khả thi. Chỉ đạo sát từ khâu soạn thảo, thông qua đến phổ biến, thực hiện
và tổng kết.

Đổi mới phương thức và quy trình xây dựng thể chế, cải tiến sự phối hợp
giữa các ngành, các cấp có liên quan, coi trọng sử dụng các chuyên gia liên
ngành và dành vai trò rất quan trọng cho tiếng nói của nhân dân, của doanh
nghiệp. Đặc biệt tăng cường việc chỉ đạo, kiểm tra, nâng cao kỷ luật và hiệu lực
thi hành pháp luật trong bộ máy nhà nước và trong xã hội.
Kiện toàn hợp lý tổ chức bộ máy nhà nước
Trên cơ sở tách chức năng quản lý nhà nước với hoạt động kinh doanh,
xúc tiến việc đổi mới tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động và quy chế làm việc của
các cơ quan nhà nước. Thực hiện mạnh mẽ việc phân cấp trong hệ thống hành
chính đi đôi với nâng cao tính tập trung, thống nhất trong việc ban hành thể chế.
Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng cấp, từng tổ chức, từng cá nhân.
Đề cao trách nhiệm cá nhân, khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh. Khắc phục tình
trạng trùng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, gây khó khăn, chậm trễ trong công việc
và giải quyết khiếu kiện của dân. Nâng cao vai trò của toà hành chính trong việc
giải quyết khiếu kiện hành chính.
Tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp. Khuyến
khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi
ích của nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức thực hiện một số dịch
vụ công với sự giám sát của cộng đồng như vệ sinh môi trường, tham gia giữ gìn
trật tự trị an xóm, phường…
Xúc tiến nhanh và có hiệu quả việc hiện đại hoá công tác hành chính, đặc
biệt là ứng dụng công nghệ thông tin. Kiện toàn bộ máy và tinh giản biên chế
một cách cơ bản. Có chính sách giải quyết thoả đáng người dôi ra.
Nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức

20


Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức với chương trình, nội
dung sát hợp; chú trọng đội ngũ cán bộ xã, phường. Đổi mới và đưa vào nền nếp

việc thực hiện quy chế tuyển chọn, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật, nghỉ hưu. Thực
hiện nguyên tắc người phụ trách công việc có quyền hạn và trách nhiệm trong
việc tuyển chọn, sử dụng cán bộ, công chức dưới quyền. Thanh lọc những kẻ
tham nhũng, vô trách nhiệm; chuyển đổi công tác những người không đủ năng
lực.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, bảo
đảm cho dân tiếp xúc dễ dàng các cơ quan công quyền, có điều kiện kiểm tra
cán bộ, công chức, nhất là những người trực tiếp làm việc với dân.
Ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, quan liêu
Nghiêm trị những kẻ tham nhũng, vô trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng; người lãnh đạo cơ quan để xảy ra tham nhũng cũng phải bị xử lý về trách
nhiệm. Bảo vệ những người kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng; khen
thưởng người phát hiện đúng những vụ tham nhũng.
Thực hiện các biện pháp ngăn chặn tham nhũng, quan liêu:
Đổi mới và hoàn thiện thể chế, thủ tục hành chính, kiên quyết chống tệ
cửa quyền, sách nhiễu, “xin – cho” và sự tắc trách, vô kỷ luật trong công việc.
Thực hiện nghiêm những điều cấm đối với cán bộ, công chức đã quy định trong
pháp luật.
Tăng cường quản lý, kiểm tra, ngăn chặn lãng phí, tham nhũng tiền và tài
sản công, nhất là trong khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Thực hiện quy chế dân chủ và công khai tài chính ở cơ sở, và các cấp
chính quyền; thực hiện chế độ kê khai tài sản đối với cán bộ lãnh đạo cac cấp,
các ngành. Phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân và phương tiện thông tin
đại chúng.

21


Cải cách tiền lương đi đôi với tăng cường giáo dục và kiểm tra việc thực
hiện công vụ của cán bộ, công chức”.

2.3. Ý nghĩa của tác phẩm đối với vấn đề đổi mới bộ máy nhà nước ở
Việt Nam hiện nay
Gần 8 thập kỷ đã trôi qua nhưng những tư tưởng, quan điểm của V.I. Lênin về tổ chức bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn giữ nguyên giá trị. Trong
điều kiện Đảng, Nhà nước ta đang tiến hành đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước, trong đó có đổi mới bộ máy tổ chức nhà nước theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua nghiên cứu tác
phẩm này, chúng ta rút ra được những bài học vô cùng quý báu.
Thứ nhất, khi tiến hành đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, cần phân tích,
đánh giá một cách khách quan tình hình để có quyết sách phù hợp.
Khi đặt vấn đề về đổi mới tổ chức bộ máy Bộ Dân ủy thanh tra công
nông, V.I. Lê-nin đã nêu và phân tích một cách thấu đáo bối cảnh cần đổi mới tổ
chức bộ máy của cơ quan này. Người đã đi từ sự phân tích bối cảnh tình hình
cách mạng ; đánh giá tình hình bộ máy nhà nước với yêu cầu đổi mới; nguyên
nhân dẫn đến tình hình đó cũng như những điều kiện để tiến hành đổi mới.
Lê-nin không hề che dấu hay xuê xoa những yếu kém của bộ máy nhà
nước Xô viết lúc đó, mặc dù trong bối cảnh các nước đế quốc đang tìm mọi cách
bôi nhọ, xuyên tạc bản chất của Nhà nước xô viết - Nhà nước xã hội chủ nghĩa
đầu tiên và duy nhất trên thế giới tại thời điểm đó. Người thẳng thắn chỉ ra rằng :
"Tình hình bộ máy nhà nước của ta rất đáng buồn, nếu không muốn nói là rất tồi
tệ, đến nỗi trước hết chúng ta phải suy nghĩ nghiêm chỉnh xem nên khắc phục
những khuyết điểm của bộ máy ấy như thế nào”[10, tr.442-443] Theo Lê-nin, bộ
máy đó là kết quả của một quá trình cải tiến bộ máy không hiệu quả : "Thế là đã
năm năm, chúng ta ra sức cải tiến bộ máy nhà nước của ta. Nhưng đó chỉ là một
hoạt động phí công, một hoạt động, qua năm năm, đã chỉ cho chúng ta thấy rõ
22


rằng hoạt động đó chỉ là vô hiệu, thậm chí còn vô ích, hay thậm chí còn có hại là
khác. Nhìn hoạt động phí công ấy thì tưởng là chúng ta công tác, nhưng thực tế,
hoạt động đó đã làm cho những cơ quan và đầu óc của chúng ta đóng cáu

lại”[10, tr.445]. Đây là một sự thừa nhận rất dũng cảm, rất cách mạng mà dường
như ngay chính về lâu dài, ở nhiều lúc, nhiều nơi, những người cộng sản không
hẳn đã có được. Vì lý do này, lý do khác, nhiều đảng cộng sản đã không dám
nhìn thẳng vào những hạn chế trong tổ chức bộ máy đảng, bộ máy nhà nước và
trong phương thức lãnh đạo, quản lý của mình, "tô hồng" chế độ để rồi, sau
những biến cố dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng hệ thống xã hội chủ nghĩa trên
thực tế ở hàng loạt nước, nhìn nhận ra thì đã muộn. Cái giá phải trả cho bài học
thiếu khách quan, thiếu dũng cảm trong việc nhìn nhận và sửa chữa những hạn
chế của chính mình của một số đảng cộng sản, thời gian qua là quá "đắt".
May mắn cho chúng ta, trong bối cảnh cực kỳ nguy nan đó, Đảng ta đã
kịp thời đề ra chủ trương "nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật", để rồi từ đó
mà tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng từ Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng. Bài học về thái độ dũng cảm
trong việc nhìn nhận và sửa chữa những hạn chế của chính mình mà Lê-nin để
lại đã được Đảng ta quán triệt và vận dụng, đã góp phần mở ra một thời kỳ phát
triển mới cho cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, sau hơn 15 năm
tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, thành tựu chúng ta đạt được
cũng nhiều nhưng những hạn chế cũ còn lại và những khuyết điểm mới phát
sinh cũng không phải ít. Bộ máy nhà nước của chúng ta vẫn cồng kềnh, hoạt
động kém hiệu qủa và hiệu lực ; tình trạng tham nhũng, quan liêu, xa rời dân vẫn
chưa khắc phục được. Vì vậy hiện nay, những người đảng viên chân chính vẫn
cần phải tiếp tục trau dồi bài học của Lê-nin, thực hành tiếp bài học của Người
để chỉnh đốn lại đội ngũ và tổ chức bộ máy đảng, bộ máy chính quyền của mình
để có thể tiếp tục giữ vững, giương cao ngọn cờ cách mạng.

23


Thứ hai, đổi mới bộ máy nhà nước phải tiến hành một cách kiên quyết,
nhưng vững chắc từng bước, không được nóng vội.

Để tiến hành việc đổi mới bộ máy một cách có hiệu quả bộ máy nhà nước,
Lê-nin yêu cầu "Phải tuân theo quy tắc này : thà ít mà tốt. Phải tuân theo quy tắc
này : thà mất hai năm hay thậm chí ba năm, còn hơn là hấp tấp vội vàng mà
không có chút hy vọng nào”[10, tr.445]. Như vậy, một bộ máy, một tổ chức
mạnh không phải do số lượng, do quy mô, mà chủ yếu là ở chất lượng của nó.
Cho nên, đòi hỏi bộ máy nhà nước và nhân viên của nó phải có chất lượng cao
và thật sự gương mẫu - "thà ít mà tốt".
Lê-nin cũng dự liệu trước những khó khăn trong việc thực hiện đổi mới
bộ máy nhà nước : "Tôi biết rằng giữ vững quy tắc ấy và vận dụng được nó vào
tình hình thực tế của chúng ta là khó khăn. Tôi biết là quy tắc ngược lại thế sẽ tự
mở cho nó một con đường bằng muôn nghìn ngõ ngách. Tôi biết rằng sẽ phải
kháng cự lại một cách mãnh liệt, sẽ phải tỏ ra kiên trì phi thường ; rằng công tác
ấy, ít nhất là trong những năm đầu, sẽ vô cùng ít hiệu quả”[10, tr.445] . Như
vậy, Lê-nin đã nhìn thẳng vào những khó khăn trong chặng đường tới mà hành
động, không chủ quan, xem thường nhưng cũng không một chút bi quan, nao
núng. Tư tưởng cách mạng đã vượt lên trên mọi khó khăn, thách thức.
Thứ ba, phải biết chọn khâu đột phá trong tổ chức bộ máy nhà nước để
tiến hành đổi mới.
Việc đổi mới một cách toàn diện và triệt để bộ máy nhà nước, nhất là
trong hoàn cảnh phức tạp của nước Nga xô-viết lúc đó là một việc không đơn
giản. Thiên tài của Lê-nin ở đây thể hiện qua việc Người đã biết chọn khâu đột
phá để qua đó, tác động tới toàn thể bộ máy nhà nước. Đó chính là bộ máy cơ
quan Bộ Dân ủy thanh tra công nông, mà trong tác phẩm này, Người đánh giá
rằng : đây chính là "công cụ để cải tiến bộ máy (nhà nước) của ta" ; tương tự
như trong một tác phẩm khác, Người đã coi cơ quan này là "trung tâm của hệ
24


thần kinh" mà nếu tác động đến nó sẽ làm rung chuyển toàn bộ bộ máy nhà
nước.

Ở nước ta, khi bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
Đảng, Nhà nước ta đã kế thừa và phát triển bài học của Lê-nin về việc biết lựa
chọn khâu đột phá để đổi mới, đó chính là lĩnh vực kinh tế. Qua đổi mới kinh tế,
chúng từng bước thúc đẩy các lĩnh vực khác cũng phát triển ; vừa phát triển kinh
tế ; nâng cao đời sống nhân dân ; vừa giữ vững được định hướng chính trị ; ổn
định xã hôi... Tuy nhiên, trong lĩnh vực đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị nói chung cũng như trong lĩnh vực đổi mới tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước nói riêng trong những năm qua vẫn còn hạn chế. Đảng đã
có nhiều nghị quyết về đổi mới bộ máy tổ chức nhà nước, như : Nghị quyết
Trung ương 8 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 7
(khóa VII), các Nghị quyết của Đại hội Đảng các khóa, mới đây là Nghị quyết
Đại hội lần thứ IX của Đảng. Vừa qua, Bộ Chính trị mới ban hành Nghị quyết
quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới, trong đó có đề cập đến vấn đề cải cách hệ thống các cơ
quan tư pháp. Chúng ta cũng hy vọng rằng, với việc xác định đúng "trọng tâm
công tác tư pháp" cần đổi mới, nền tư pháp của chúng ta sẽ sớm được cải cách
một cách triệt để, có hiệu quả cao.
Thứ tư, phát huy tối đa nội lực ; trong đó, coi con người là yếu tố quyết
định thành công của việc đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước.
Khi đề cập đến việc đổi mới Bộ dân ủy thanh tra công nông, với quan
điểm chung là "tất cả cái gì thật sự là ưu tú trong chế độ xã hội của chúng ta phải
được đem sử dụng một cách hết sức thận trọng, có suy nghĩ và với một sự am
hiểu cặn kẽ”[10, tr.444], Lê-nin thực sự đã đề cao việc phát huy nội lực trong
việc đổi mới bộ máy nhà nước.

25


×