Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.32 KB, 15 trang )

Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

Thực trạng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức ở
Việt Nam hiện nay
Bởi:
Nguyễn Thị Lan Hương

Đánh giá tổng quan về công tác ĐT,BD CB,CC
Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước nói chung, của hệ thống hành chính nói riêng
được quyết định bởi phẩm chất năng lực và kết quả công tác của đội ngũ CB,CC nhà
nước. Phẩm chất của đội ngũ CB,CC ngoài khả năng và tinh thần tự học tập, lại phụ
thuôch rất nhiều vào công tác ĐT,BD thường xuyên kiến thức và kỹ năng thực hành cho
họ. Trong điều kiện đội ngũ CB,CC nhà nước ở nước ta hiện nay đa số đã được đào
tạo trong thời kỳ của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chưa được chuẩn hoá theo tiêu
chuẩn chức danh, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường, mở cửa để hội
nhập vời khu vực và quốc tế, đặc biệt là trong điều kiện khoa học công nghệ và thông
tin phát triển như vũ bão, thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, việc
ứng dụng những thành tựu khia học công nghệ tin học vào hiện đại hoá nền hành chính,
công tác ĐT,BD CB,CC trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.Vấn đề nâng cao chất lượng
ĐT,BD CB,CC là vấn đề cần được quan tâm giải quyếtmột cách thiết thực
Văn bản quy phạm pháp luật và việc thực hiện
Nhìn lại công tác ĐT,BD CB,CC trong thời gian qua, nhất là từ khi có Quyết định số
874/QĐ-TTg ngày 20-11-1996 của Thủ tướng Chính phủ về ĐT,BD CB,CC nhà nước
trong đó nêu rõ mục tiêu, đói tượn, nội dung và hình thức ĐT,BD. Hệ thống các cơ quan
QLNN về ĐT,BD CB,CC ( gồm có Học viện Hành chính Quốc gia, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, trường ĐT,BD CB,CC các bộ ngành trung ương, trường
chính trị các tỉnhthành phố, trung tâm chính trị các quận huyện) được củng cố và phát
triển, công tác ĐT,BD CB,CC đã có những chuyển biến tích cực. Nhà nước đã dành một
khoảnh kinh phí đáng kể cho công tác ĐT,BD CB,CC ở trong và ngoài nước. Hệ thống


thể chế và các chế độ, chính sách về ĐT,BD CB,CC được bổ sung và hoàn thiện. Sau
quyết định 874/QĐ-TTg, ngày 05/4/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị về
1/15


Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

việc cử Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, Thủ tướng các bộ và cấp tương đương tham gia khoá bồi dưỡng kiến
thức quản lý hành chính nàh nước tại Học viện Hành chính Quốc gia. Để nâng cao chất
lượng và đưa công tác ĐT,BD CB,CC đi vào nề nếp theo những quy định phqps lý thống
nhấ, ngày 04-8-2003, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số161/2003/QĐ-TTg ban
hành quy chế đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức là văn bản quan trọng, giải quyết mối
quan hệ phát sinh trong ĐT,BD CB,CC từ việc xác định hệ thống quản lý, hhệ thống
các cơ sở ĐT,BD CB,CC đến việc phân công , phân cấp ĐT,BD . Mặt khác để công tác
ĐT,BD CB,CC được thực hiện theo kế hoạch, ngày 07-5-2001, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số74/2001/QĐ-TTg về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2001-2005. Đến ngày 11-7-2003, Thủ tướng Chính
phủ ra Quyết định số 137/2003/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch ĐT,BD nguồn nhân lực
cho công tác hội nhập nền kinh tế quốc tế giai đoạn 2003-2010. Ngoài ra, trong chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 cũng xác định chương
trình xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ CB,CC, trong đó có phần quan trọng đề
cập đến nhiệm vụ ĐT,BD CB,CC. Như vậy, trong thời gian qua, Bộ nội vụ đã cùng các
cơ quan hữu quan tham mưu cho Chính phủ xây dựng và từng bước hoàn thành thể chế
về ĐT,BD CB,CC, đưa lĩnh vực công tác quan trọng này đi dần vào nề nếp, góp phần
đáng kể vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác ĐT,BD nâng cao trình dộ,
năng lực và phẩm chất của đội ngũ CB,CC , đáp ứng yêu cầu cơ bản của công cuộc cải
cách hành chính. Trong đó Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Kế hoạch ĐT,BD CB,CC là một trong những văn bản quy phạm pháp luật
quan trọng của nhà nước nhằm thực hiện chủ trương của Đảng về đẩy mạnh hoạt động

ĐT,BD xây dựng đội ngũ CB,CC trong giai đoạn mới, Khi ban hành Quyết định này
Thủ tướng đã yêu cầu các ngành, các cấp phải coi trọng việc xây dựng kế hoạch và tổ
chức triển khai thực hiện kế hoạch ĐT,BD CB,CC là nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch
phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn 2001-2005 của bộ, ngành, địa phương. Kết
quả nghiên cứu cho thấy đại bộ phận các bộ, ngành, địa phương đã có nhận thức đầy đủ
và triển khai thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ một cách chu đáo và kịp
thời. Nhiều bộ, ngành, địa phương đã có nghị quyết để triển khai, thực hiện, xây dựng
quy hoạch, kế hoạch cụ thể và tổ chức sơ kết quá trình thực hiện một cách nghiêm túc
với các hình thức khác nhau, vì vậy việc thực hiện đã đạt được những kết quả nhất định,
đối chiếu với mục tiêu chung cũng như các mục tiêu cụ thể, công tác ĐT,BD CB,CC đã
có bước chuyển biến rõ nét về nhiều mặt
Sau 3 năm thực hiện Quyết định 74 đã có 8 văn bản được ban hành, có thể nói, các văn
bản được xây dựng và ban hành chưa nhiều nhưng bước đầu đã xác định và tạo lập được
những cơ sở làm nền móng cho việc xây dựng và ban hành các văn bản khác về lĩnh vự
ĐT,BD CB,CC trong thời gian tới.

2/15


Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

Kết quả cụ thể đạt dược
Số lượng CB,CC được đào tạo đã được tăng lên khá nhiều, công tác này đã có được
nhiều thành tích, góp phần vào thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước. Hàng năm
các cơ sở đã ĐT,BD được trên dưới 300.000 lượt CB,CC về lý luận chính trị, kiến thức
QLNN, về chuyên môn nghiệp vụ và ngoại ngữ, tin học, tạo ra được một phong trào
học tập rộng khắp trong tất cả các cơ quan, tổ chức đưa công tác ĐT,BD vào đúng vị
rí quan trọng của nó trong các hoạt động của cơ quan, tổ chức.Theo báo cáo, tổng số
CB,CC được ĐT,BD của 63/64 tỉnh, thành phố và 52/60 đầu mối bộ, ngành,trung ương
là gần 1.213.000 lượt người, trong đó khối bộ ngành khoảnh 238.000 lượt người, các

địa phương khoảng 975.000 lượt người; số được đào tạo về lý luận chính trị, kiến thức
QLNN và chuyên môn nghiệp ụ khoảng 1.128.000 lượt người (được đào tạo là 195.000
lượt người, được bồi dưỡng là 933.000 lượt người). Theo nguồn thống kê khác, chỉ trong
bốn năm (1997-2000) đã có 1.110.111 CB,CC được qua lớp ĐT,BD , riêng về lý luận
chính trị có 147.249 lượt người, QLNN: 283.932 lượt người, chuyên môn nghiệp vụ:
515.697 lượt người, ngoại ngữ: 36.551 lượt người, tin học: 68.617 lượt người, ĐT,BD
ở nước ngoài là 6.017 lượt người. Nội dung chương trình, giáo trình ĐT,BD được
cải tiến ngày một sát với yêu cầu nhiệm vụ thực tế. Trong nhiệm kỳ Hội đồng nhân
dân 1999-2004 đã có 124.698 đại biểu hội đồng nhân dân các cấp được ĐT,BD.Từ
2001-2002 ĐT,BD được 218.047 CB,CC , trong đó về lý luận chính trị: 32.213 người,
kiến thức QLNN: 98.465 người, chuyên môn nghiệp vụ: 60.701 người,tin học: 18.776
người, ngoại ngữ: 7.892 người. Riêng Học viện Hành chính Quốc gia trong năm 2003
đã tổ chức 2 lớp bồi dưỡng kiến thức QLNN ngạch chuyên viên cao cấp cho 165 học
viên, 14 lố ngạch chuyên viên chính cho 2.818 học viên và 20 lớp ngạch chuyên viêncho
1.525 sinh viên với 16 lớp hệ tại chức, tổ chức thi tôt nghiệp và cấp bằng tôt nghiệp hệ
tại chức cho 654 sinh viên thuộc 7 lớp. Về đào tạo sau đại học, đã tổ chức trao bằng tôt
nghiệp cho 44 học viên cao học khóa bốn, tổ chức bảo vệ luận văn tôt nghiệp cho 59
học viên cao học khoá 5, tổ chức thi tuyển được 86 học viên cao học khoá 8 và tổ chức
đào tạo 16 nghiên cứu sinh tiến sĩ hành chính cao học QLNN các khoá của học vịên là
211 người.
Hoạt động ĐT,BD CB,CC trong thời gian qua có những điểm nổi bật sau đây:
• Một là, ĐT,BD tập trung chủ yếu vào hai đối tượng là công chức hành chính và
CB,CC cơ sở nhằn nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy hành chính nhà
nước, phục vụ mục tiêu của chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đoạn 2001-2010.
• Hai là, ĐT,BD tập trung vào hai nội dung cơ bản là trang bị kiến thức lý luận
chính trị và kiến thức QLNN.
• Ba là, các bộ ngành, địa phương đã tập trung ĐT,BD xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo quản lý, đây là một chuyển biến tốt, thể hiện việc thực hiện nghiêm
túc chủ trương tiêu chuẩn hoá cán bộ của Đảng và Nhà nước, đồng thời nhằm


3/15


Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ nguồn cảu các cấp lãnh đạo
chiến lược thuộc các bộ, ngành, địa phương.
• Bốn là, có sự chuyển hướng về nội dung ĐT,BD CB,CC cụ thể là việc ĐT, BD
ngoại ngữ, tin học được chú trọng thực hiện theo yêu cầu công vụ ngày càng đi
vào chiều sâu, tập trung cho đối tượng mang tính chiến lược. Việc đào tạo tin
học và công nghệ thông tin đã chuyển hướng từ phổ cập sang trang bị kiến thức
chiến lược cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý.
• Năm là, một số bộ, ngành đã sáng tạo chủ động đưa những nội dung mới phù
hợp với đặc thù của bộ, ngành vào ĐT,BD CB,CC. Sáu là, đã thực hiện ĐT,BD
trng bị kiến thức và kỹ năng hoạt động thực thi công vụ chuên sâu theo chức
danh, như các khoá bồi dưỡng kỹ năng theo tác nghiệp cho chủ tịch Hội đồng
nhân dân, chủ tịch Uỷ ban NHân dân xã, nghiệp vụ cho cácn bộ làm công tác
hội nhập….Nếu đối chiếu với chỉ tiêu đề ra tron Quyết dịnh 74 cho các đối
tượng CB,CC thì đã có những chỉ tiêu thực hiện tương đối tốt, như các chỉ tiêu
“ xoá nợ”cề trình độ đại học, về tiêu chuẩn kiến thức QLNN, về lý luận chính
trị cho công tác hành chính; công tác ĐT,BD CB,CC cấp xã và trưởng thôn,
trưởng bản. Tuy nhiên có những chỉ tiêu thực hiện còn chậm như việc đào tạo
trình độ trung cấp cho các chức danh chuyên môn, trang bị kiến thức lý luận
chính trị cao cấp và trình độ đại học về chuyên môn cho cán bộ lãnh đạo cấp
huyện
Việc thực hiện kế hoạch ĐT,BD CB,CC ở ngoài nước thời gian qua cũng có nhiều
chuyển biến tích cực. Việc cử CB,CC đi học đã bước đàu mang tính quy hoạch, gắn với
sử dụng, tập trung vào đội ngũ cân bô quản lý và cán bộ nguồn, đào tạo tập trung vào
những nội dung thực sự cần thiết cho việc nâng cao trình độ, tầm nhìn và kinh nghiệm

trong lĩnh vực mà CB,CC đang công tác. Nhìn chung việc ĐT,BD CB,CC trong thời
gian qua đã tạo được những xhuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng góp phần
bước đàu nâng cao năng lực thực hiện và hiệu quả hoạt dộng của hệ thống CB,CC và bộ
máy nhà nước.
Một số mặt hạn chế
Cải cách hành chính là một chủ trương lớn của Đảng đối với hệ thống quản lý hành
chính nhà nước đã được triển khai trên 10 năm, nhưng cho đến nay tình hình cải cáh
hành chính như Đảng ta đã nhận định là: chậm trễ, hiệu qảu thấp và thiếu kiên quyết.
Nhận thức về cải cách hành chính, cấht lượng hoạt động của hệ thống chính trị, hiệu quả
quản lý hành chính Nhà nước cũng như các hoạt đọng chuyên môn nghiệp vụ cảu các
CB,CC cấp cơ sở nhìn chung chưa thực sự hiệu quả, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Các kiến thức về pháp luật hành chính và các kiến thức khác mà CB,CC đã được ĐT,BD
trong những năm qua chưa phát huy được tác dụng hoặc các kiến thức đó khó vận dụng
vào hoạt động thực tiễn. Bên cạnh những việc đã làm được, cũng có những nội dung
thực hiện còn chậm hoặc chưc thực hiện được:

4/15


Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

• Còn chưa thống nhất trong quản lý ĐT,BD từ trung ương đến cơ sở, chưa đồng
bộ trong việc ban hành các chủ trương, chế độ đối với ĐT,BD CB,CC.
• Công tác quy hoạch, kế hoạch ĐT,BD chưa được chú trọng, kế hoạch chưa xuất
phát từ nhu cầu của đơn vị
• Nội dung, chương trình ĐT,BD còn có phần chồng chéo, trùng lặp, nặng lý
thuyết, ít thực hành và kỹ năng làm ciệc thực tế
• Phương pháp ĐT,BD chậm được cải tiến, hiện đại hoá các trang thiết bị dạyhọc chưa được taqng cường cho phù hợp với yêu cầu hiẹn đại hoá. Đội ngũ
giáo viên còn yếu và thiếu, chưa được chú trọng, bồi dưỡng phát triển về
chuyên môn cũng như về nghiệp vụ

• Việc sử dụng kinh phí ĐT,BD chưa hợp lý và chưa có hiệu quả, trong chừng
mực nào đó, có thể nói rằng chúngta chưa thực sự quản lý một cách có hiệu quả
các nguồn kinh phí ĐT,BD CB,CC. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ làm công tác
quản lý ĐT,BD chưa được trang bị đầy đủ kiến thức cần thiết nên kết quả công
tác này chưa cao.
Đối với các bộ, ngành, địa phương điểm yếu trong công tác ĐT,BD CB,CC là công tác
quy hoạch chưa làm tốt, ĐT,BD chưa thực sự gắn với sử dụng còn có tình trạng người
không trong quy hoạch lại được cử đi ĐT,BD hoặc CB,CC đi học xong lại không bố
trí được công việc phù hợp. Một số bộ, ngành, địa phương chưa quan tâm đầy đủ đến
việc xây dựng và củng cố cơ sở ĐT,BD CB,CC. Sự phối hợp giữa các đợn vị chức năng
thực hiện nhiệm vụ quản lý với cơ sở đào tạo ở một số bộ, ngành, địa phương chưa
chặt chẽ và hiệu quả chưa cao.ĐT,BD còn chưa gắn với nhu cầu và kế hoạch sử dụng,
chưa nhằm vào mục tiêu, đối tượng cụ thể, nhiều trường hợp đi học để đối phó với yêu
cầu tiêu chuẩn hoá CB,CC . Việc xây dựng hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật, hệ
thống chương trình, giáo trình thống nhất việc phục vụ ĐT,BD ,việc triển khai nghiên
cứu, sắp xếp tổ chức và đổi mới cơ chế hoạt động của các cơ sở ĐT,BD CB,CC còn
nhiều hạn chế. Nội dung, chương trình phương pháp giảng dạy và học tập chậm đổi mới,
chất lượng ĐT,BD chưa cao, quản lý dào tạo còn lỏng lẻo. Đánh giá chung là công tác
ĐT,BD CB,CC còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đổi
mới.

ĐT,BD cán bộ quản lý
ĐT,BD tăng cường năng lực làm việc cho cán bộ quản lý đưcợ xác định là một trong
những nhiệm vụ quan trọng trong xây dựn, phát triển đội ngũ CB,CC tại các cơ quan, tổ
chức. Trong những năm qua chúng ta đã thực hiện công tác ĐT,BD đội ngũ cán bộ quản
lý ở các đơn vị, bộ, ngành, địa phương, mỗi năm có mmọt ssó lượng khá lớn các cán
bộ quản lý được tham gia vào các khoá ĐT,BD để nâng cao năng lực công tác và hoàn
thiện các tiêu chuẩn của ngạch, của từng vị trí, chức danh mà họ đang nắm giữ. Hoạt
động này ngày càng được củng cố và đi vào nề nếp. Tuy nhiên công tác ĐT,BD còn gặp
không ít khó khăn, vướng mắc cần phải giải quyết để từng bước nâng cao hiệu quả của

nó.
5/15


Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

Một trong những vấn đề hiện nay của công tác ĐT,BD là tập trung nhiều vào đáp ứng
các tiêu chuẩn nghiệp vụ ngạch công chức, mà chưa tập trung vào phát triển các chương
trình ĐT,BD nâng cao năn lực thực hiện công việc thực tế hàng ngày của cán bộ .Đây là
một công việc quan trọng trong bất kỳ một cơ quan tổ chức nào và nó cần được đưa vào
một kế hoạch có tính chiến lược. Nhiều tổ chức đã đưa ra được những chính sách, các
hoạt động và kế hoạch thực hiện nhằm phat triển đội ngũ cán bộ quản lý của họ.
Cán bộ quản lý là gười có trách nhiệm tạo ra những điều kiện cần thiết giúp cho nhân
viên xây dựng, thực hiện và kiểm tra theo dõi các nhiệm vụ , các hoạt động. Như vậy
họ không chỉ chỉ chịu trách nhiệm với các hoạt động của đơn vị, với vấn đề tài chính
mà còn có trách nhiệm với các thành viên của tổ chức. Họ phải có trách nhiệm tổ chức
tốt các hoạt động các nhiệm vụ của đơn vị mình đồng bộ với các hoạt động của cả tổ
chức. Cùng đơn vị xây dựng tầm nhìn và mục đích đó đã được theo đuổi, các hoạt động
của đơn vị phải được thực hiện tốt, được phát triển và làm chúng thích ứng với các điều
kiện, hoàn cảnh, nhu cầu lĩnh vực mới của hoạt động, có trách nhiệm tạo ra những điều
kịên cần thiết để cho nhân viên chủ động tham gia vào các hoạt động phát triển; luôn
tăng cường phát triển và làm thích nghi các kỹ năng quản lý đáp ứng với tình hình mới.
Quá trình ĐT,BD cán bộ quản lý chú trọng vào các hoạt động làm nổi bật các kỹ năng:
• Kỹ năng chiến lược: khả nănng khái quát chuyên môn, nhìn nhận bao quát về
tổ chức, về mục đích, môi trường, đó là những thứ liên quan trực tiếp đến năng
lực một tổ chức để thực hiện đúng các nhiệm vụ và đúng thời gian cần thiết.
• Kỹ năng chuyên môn: toàn bộ những kiến thức, kinh nghiệm trong lĩnh vực
công tác yêu cầu, đó là những thứ liên quan trực tiếp đến hiệu quả công tác đối
với sản phẩm hoặc dịch vụ.
• Kỹ năng học tập: khả năng áp dụng lý thuyết kinh nghiệm, sáng kiến vào thực

tiễn hay đưa vào môi trường hoặc hoàn cảnh mới, khả năng định dướng thay
đổi, phát triển cơ chế học tập, đó là những thứ trự tiếp liên quan đến hiệu quả
làm việc của cá nhân.
• Kỹ năng quan hệ: kả năng phối hợp, hợp tác thông tin giao tiếp, hiểu biết về
con người, công bằng, quản lý xung đột, đó là những thứ quan trọng quyết định
đền s hiệu quả của tổ chức.
• Kỹ năng nghiệp vụ: vai trò và khả năng giải quyết mmọt số vấn đề noà đó, khả
năng phấn đấu vươn lên, khă năng phân tách, sáng kiến rút ra kết luận, kiểm
soát, ra quyết định. Đó là tập hợp những thứ có tầm quan trọng quyết định đến
sự sáng tạo và năng suất của đơn vị.
Thời gian qua, với những thành công đáng kể của sự nghiệp đổi mới và công cuộc cải
cách hành chính, chúng ta đã khẳng định được con đường đi lên, khẳng định năng lực
cạnh tranh và năng lực tổ chức quản lý kinh tế, xã hội của mình, những thắng lợi đó đều
nổi lên vai trò to lớn của công tác cán bộ, công tác đào tạo phát triển đội ngũ cán bộ
quản lý của các ngành, các cấp, Đảng và nhà nước luôn quan tâm trú trọng tới công tác

6/15


Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

ĐT,BD cho cán bộ quản lý, ở hầu hết các cơ quan,tổ chức đều xây dựng các kế hoạch
phát triển và tăng cường nhận thức đối với ĐT,BD cán bộ quản lý. Đội ngũ cán bộ quản
lý phát triển được trên một khung pháp lý đồng bộ, thống nhất và có định hướng phát
triển một cách tương đối rõ ràng. Để công việc ĐT,BD có kết quả chúng ta đã xá định
rõ chức năng nhiệm vụ, công việc của từng vị trí cũng như quyền hạn và nghĩa vụ công
tác cho cán bộ quản lý một cách cụ thể, nhằm xác định những kỹ năng làm việc cần thiết
cho từng vị trí và từ đó mới xác định được những thiếu hụt trong kỹ năng làm việc của
cán bộ quản lý, đó cũng là cơ sở để đánh giá nhu cầu ĐT,BD để từ đó xây dựng các
chương trình ĐT,BD cho từng nhóm đối tượng khác nhau. Các khoá bồi dưỡng ngắn

hạn về lãnh đạo và quản lý, về quản lý nhân sự, quản lý hành chính do các bộ cấp vụ,
cấp phòng ở trung ương và cán bộ cấp cơ sở, cấp phòng ở địa phương đá hữu ích rất
nhiều cho công việc quản lý của họ hàng ngày.
Bên cạnh đó chúng ta đã tăng cường công tác hợp tác quốc tế trong công tác ĐT,BD
phát triển cán bộ quản lý bằng việc gửi những cán bộ ở trung ương và địa phương đi
ĐT,BD ở ngoài nước, ở những ngành, những môn học mà trong nước chưa có điều kiện
đào tạo hoặc đào tạo chưa tốt chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Hình thức ĐT,BD
khác nhau từ đào tạo ở nước ngoài đến đào tạo trong nước nhưng do giáo viên nước
ngoài đảm nhận, công việc này có sự đầu tư thoả đáng đã góp phần nâng cao năng lực
ch án bộ, tá động đến tầm nhìn và nét văn hoá của họ. Có hệ thống học bổng để ĐT,BD
ở ngoài nước cho những cán bộ quản lý trẻ có năng lực công tác, có khả năng quản lý
và có năng lực ngoại ngữ nhất định nhằm phát triển hơn nữa đội ngũ cán bộ quảnlý cho
bộ máy quản lý nhà nước

ĐT,BD cán bộ công chức cấp cơ sở
CB,CC cấp cơ sở là nhưng người ngoài việc trực tiếp tổ chức thực hiện mọi chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn phải trực tiếp giải quyết
hàng ngày những vấn đề dân quyền, dân sinh, dân trí. Do vậy, việc xây dựng đội ngũ
CB,CC cấp cơ sở là yêu cầu cơ bản và cấp bách nhằm đảm bảo ổn định chính trị- xã hội
, tạo ra động lực mới, phat huy nội lực cơ sở , đáp ứng dòi hỏi nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước, góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước. từ khi Đảng Cộng
sản Việt nam ra đời cho đến nay, công tác ĐT,BD cán bộ cơ sở luôn là vấn đề được
quan tâm. Những năm gần đây, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về CB,CC cấp cơ
sở nhằm củng cố, phát triển nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ này.Quán triệt tinh
thần chỉ đạo của Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX,công tác xây dựng đội gũ CB,CC
cơ sở đã được các cấp các ngành liên quan triển khai khẩn trương tích cực và bước đầu
đạt được những kết quả nhất định Trên cơ sở Pháp lệnh CB,CC sửa đổi, bổ sung năm
2003, Chính phủ đã ban hành nghị định số114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về CB,CC
xã, phường, thị trấn; Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21-10-2003về chế độ, chính
sách dối với CB,CC xã, phường, thị trấn. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt định hướng

ĐT,BD CB,CC xã, phương, thị trấn đến năm 2010. Bộ nội vụ và các ngành liên quan
đã kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành. Cấp uỷ đảng và chinhs quyền các
7/15


Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

địa phương đã tích cực thực hiện chủ trương kiện toàn, củng cố đội ngũ CB,CC cơ sở ,
trong đó đặc biệt chú trọng công tác quy hoạch và ĐT,BD. Nhờ đó, đội ngũ CB,CC cơ
sở đã có bướ phát triển mới cả về lượng và chất, góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu
lựccủa hệ thống chính trị cơ sở.
Về số lượng và cơ cấu
Việc quy định số lượng cơ sở phải phù hợp với đặc điểm, tính chất của các vùng, miền
và điều kiện phát triển kinh tế –xã hội của từng loại hình cơ sở. Điều kiện, hoàn cảnh
của các đơn vị hành chính cấp cơ sở ở nươc ta rất khác nhau: có xã diện tích chỉ vài km2,
dân số chưa đến 1000 người, nhưng có xã diện tích bằng một huyện, hoặc có phường
dân số lên đến 60-70 ngàn dân , nguồn thu ngân sách ở các xã cũng khác nhau. Do đó,
việc quy định số lượng và bố trí CB,CC cơ sở cũng như áp dụng các chế độ,chính sách
phải căn cứ vào việc phân loại đơn vị hành chính cấp cơ sở , trong đó yếu tố quyết định
là quy mô dân số và diện tích. Cơ cấu CB,CC phải đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ, thiết
thực. Các tổ chức cơ sở vừa có các mối quan hệ ngang, vừa có mối quan hệ dọc từ trung
ương đến. Do đó, một mặt, việc xây dựng đội ngũ CB,CC cơ sở không thể tiến hành một
cách độc lập mà phải được đặt trong mối quan hệ tổng thể các mối quan hệ đó, mặt khác
cần quán triệt quan điểm hạn chế khuynh hướng “hành chính hoá” “định biên hoá ” bộ
máy các tổ chức chính trị, xã hội.
Thực trạng ĐT,BD CB,CC cơ sở hiện nay
Ưu điểm
Đại bộ phận CB,CC cơ sở vẫn giữ vững bản lĩnh chính trị, kiên định mục tiêu chủ nghĩa
xã hội , vẫn giữ được phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh, giản dị, gắn
bó với nhân dân. Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thi trường, đội ngũ CB,CC cơ

sở không những tích cực học tập nhằm khắc phục những hụt hẫng vvề trình độ và năng
lực mà còn vượt lên những cám dỗ, tác đọng tiêu cực của môi trương xã hội. Trình độ
học vấn, lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và quản lý hành chính Nhà nước đã
được nâng ao rõ rệt; tác phong điều hành công việc đã năng động, chủ động và sáng tạo
hơn; tính chủ quan, tuỳ tiện, thụ động, ỷ lại trong giải quyết công việc từng bước được
khắc phục. Nhìn chung, đội ngũ CB,CC cơ sở đã có những chuyển biến kịp thời và bước
đầu đáp ứng được những yêu cầu của quá trình đổi mới đóng vai trò tích cực trongcông
cuộc cải cách hành chính ở địa phương và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.Từ những
ưu điểm đó mà công tac ĐT,BD đã đạt được nhưng kết quả cụ thể, nhẽng công tác đang
được thực hiện hiện nay là
• Mở các khoá ĐT,BD cơ nảm về văn hoá và chuyên môn nghiệp vụ đối với số
CB,CC cơ sở đương nhiệm đang ở độ tuổi 25-35, chính sách điều kiện và khả
năng phát triển

8/15


Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

• Lựa chọn học sinh, thanh niên có trình độ văn hoá tốt nghiệp pgổ thông trung
học và nguyện vọng công tác lâu dài ở cơ sở đưa đi đào tạo về chuyên môn
nghiệp vụ theo diện cử tuyển và hợp đồng
• Có chế độ, chính sách hợp lý để thu hut sinh viên là ngườ địa phương tốt
nghiệp các trường đại học, cao đẳng về cơ sở để công tác
• Phối hợp, liên kết với lực lượng công an, quan đội để có kế hoạch ĐT,BD
những thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự thành nguồn kế cận cho đội
ngũ CB,CC cơ sở, đặc biệt là đối với hai chức danh chuyên môn: trưởng công
an xã và xã đội trưởng
• Quy định chế độ luân chuyển CB,CC cấp huyện và cấp tỉnh về cấp cơ sở, đặc
biệt là đối với CB,CC trẻ mới được tuyển dụng về đảm nhiệm các chức danh

chuyên môn ở cấp xã trong một thời gian nhất định
• Về lâu dài, tính đến việc xây dựng các chương trìnhd riêng các chức danh
CB,CC cơ sở , kể cả chức danh chủ chốt và chức danh chuyên môn
• Cán bộ do bầu cử là những cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của các tổ chức
trong hệ thống chính trị ở cấp cơ sở chỉ làm việc không quá hai nhiệm kỳ, đã có
các phương án luân chuyển hợp lý và bố trí kiên nhiệm trong những điều kiện
cho phép
• Các chức danh chuyên môn nghiệp vụ là những công chức làm việc kgông theo
nhiệm kì, dược sử dụng ổn định, lâu dài, o đó họ cần phải có trình độ văn hóa
cơ bản và phải qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ thấp nhất là trình độ trung
cấp
• Hiện nay chương trình đào tạo trung cấp hành chính đã được phê duyệt để cấp
bằng theo hệ giáo dục quốc dân. Tiến hành thí điểm đào tạo trung cấp theo
hướng thống nhất chương trình lý luận chính trị và chương trình quản lý hành
chính Nhà nước với thời gian đào tạo 2 năm, được cấp bằng theo hệ giáo dục
quốc dân
• Phương thức ĐT,BD linh hoạt, đa dạng phù hợp với từng loại đối tượng CB,CC
cơ sở. Tích cực đổi mới phương pháp ĐT,BD, gắn lý thuýet với thực hành,
quan điểm lý luận với hoạt động thự tiễn thông qua các chính sách và việc xử
lý các công việc cụ thể, trang bị kiến thức và các kỹ năng làm việc, phát huy
tính tích cực, chủ đông, sáng tạo của học viên
• Xây dựng củng cố đội ngũ giảng viên chuyên cho việc ĐT,BD CB,CC cơ sở.
Nhược điểm
Bên cạnh những chuyển biếm tích cực nói trên, đội ngũ CB,CC cơ sở cũng đã bộc lộ
một số hạn chế và yếu kém.Trình đọ nhìn chung còn thấp, trình độ học vấn thấp đã ảnh
hưởng đến khả năng tiép thu chủ trương, đường lối. Chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước để triển khai thực hiện trong thực tế. Những hạn chế này cũng đã ảnh hưởng
không nhỏ đến kết quả đào tạo CB,CC cơ sở. Mặt khác trong quá trình đào tạo còn tồn
tại một số khó khăn vướng mắc cũng như những vấn đề mới phát sinh cấn f được nghiên
cứu và giải quyết. Đó là số lượng đinh biên CB,CC cơ sở được quy địnhtheo khung quá


9/15


Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

hẹp và cơ cấu chức danh còn cứng nhắc; chế độ chính sách đối với cán bộ không chuyên
trách và mức tiền lương đối với CB,CC cơ sở là những người đang được hưởng chế độ
hưu nhưa hợp lý; lực lượng giảng viên và điều kiện vật chất của các cơ sở ĐT,BD chưa
đảm bảo yêu cầu; đặc biệt là việc thay thế những CB,CC không đủ tiêu chuẩn trình độ,
nghiệp vụ bằng lực lượng trẻ đã qua đào tạo gặp không ít khó khăn, thậm trí ở một số
địa phương không thể thực hiện được do vấn đề chế độ, chính sách chưa thoả đángcơ sở
Thực trạng ở vùng dân tộc thiểu số:
Ngay từ Đại hội đảng lần thứ VI, Đảng ta đã chủ trương phát triển kinh tế- xã hội miền
núi, đòng bào dân tộc thiểu số. Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc ĐT,BD
cán bộ dân tộc thiểu số. Trong thời gian qua, đội ngũ CB,CC dân tộc thiểu số đã tèng
bước phát triển vững chắc cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được
giao, giữ vững an ninh chính trịvà trật tự an toàn xã hội ở những vùng khó khăn và nhạy
cảm. Năm 2004 qua số liệu thông kê ở 34 địa phương của Uỷ ban Dân tộc về trình đọ
đào tạo của CB,CC dân tộc thiểu số ở 3 cấp tỉnh, huyện, xã cho thấy về cơ bản CB,CC
dân tộc thiểu số nói chung chưa được đào tạo một cách thường xuyên, có quy hoạch kế
hoạch.
* Trình độ đội ngũ CB,CC dân tộc thiểu số:
Trình độ đội ngũ CB,CC dân tộc thiểu số Cấp tỉnh(%) Cấp huyện(%) Cấp xã(%)
Tiểu học

0,2

1,5


23,2

Trung học cơ sở

16,6

18,5

47,9

Chuyên môn sơ cấp

4,7

15,5

4,1

Chưa qua đào tạo về chuyên môn

8,7

40,8

80,3

Trìng độ lý luận chính trị sơ cấp

14,8


7,1

14,4

Chưa qua đào tạo về lý luận chính trị

45,4

23,6

54,6

Trình độ sơ sấp về quản lý hành chính

27,1

17,1

-

Chưa qua đào tạo về quản lý hành chính

48,6

64,6

72

Do trình độ cán bộ thấp nên gây nhiều khó khăn cho việc tăng cường chất lượng CB,CC
, tiêu chuẩn hoá các ngạch công chức. Chính vì vậy nhu cầu ĐT,BD CB,CC dân tộc

thiểu số là rất lớn. Hiện nay số CB,CC dân tộ thiểu số chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tống
số CB,CC cơ sở, trong khi đó cơ cấu CB,CC dân tộc thiểu số lại không đều, còn bất hợp
lý và vhưa đảm bảo tính kế thừa, phát triển. Thời gian qua Đảng và Nhà nước xác định
công tac ĐT,BD CB,CC dân tộc thiểu số là một công tác quan trọng trong chiến lược
phát triển dất nước . Các bộ, ngành, địa phương đã có nhiều chính sách, chế độ cụ thể

10/15


Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

nhằm khuyến khích đội ngũ này tham gia hoc tập nâng cao trình độ, năng lực công tác
của mình. Hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú, các trường dự bị đại học dâ tộc
đã được xây dựng dể đảm đương công tác tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số đồng thời
ban hành nhiều hế độ ưu tiên cho công tác ĐT,BD tạo nguồn cho đội ngũ này . Nhiều
khoá đào tạo đã được tiến hành, đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số không nhẽng được đào
tạo về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị mà còn về quản lý hành chính và tin học,
tuy nhiên trên thực tế vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ, ở 34 tỉnh, có khoảng trên 142.600
CB,CC chưa được đào tạo . ông tác ĐT,BD mới hỉ đáp ứng việc hoàn thiện các tiêu huản
của ngạch công chức và chức danh cán bộ. Số lượng CB,CC dân tôch thiểu số cần được
đào tạo được chia nhỏ ra ở cấp tỉnhlà gần 11.200 người cấp huyện là gần 29.400 người,
cấp xã là 103.000 người
Đã có những chính sách , chế độ cho công tác ĐT,BD dân tộc thiểu số, nhưng trên thực
tế chưa có một chính sách chung mà tuỳ thuộc vào điều kiện của từng cơ quan, đơn vị để
có những chính sách, chế độ khác nhau, như hỗ trợ cán bộ đi học đại học là 200.000đ/
người/ tháng, có nơi hỗ trợ gấp hai lần ; hỗ trợ kinh phí cho người học thạc sĩ, tiến sĩ.
Tuy vậy, việc động viên, khuyến khích thông qua phương thức hỗ trợ bằng tiền mới chỉ
tạo ra sự ưu tien về mức chi, về vật chất chứ chưa có những chính sách liên quan đến
những vấn đề lớn hơn như tuyển chọn, tuyển dụng,bổ nhiệm, sử dụng, tăng lương, đề
bạt. Công tác quy hoạch, lập kế hoạch cho công tác ĐT,BD chưa thực sự được quan

tâm, tiến hành một cách khoa học nghiêm túc, mà chỉ khi nào thực hiện được điều này
hiệu quả thì mới thực sự có được chính sách, chế độ khuyến khích ĐT,BD CB,CC dân
tộc thiểu số.
• Một số xã điển hình về công tác ĐT,BD CB,CC cơ sở :
Kể từ khi trở thành đơn vị hành chính cấp tỉnh độc lập Quảng nam rất cchú trọng xây
dựng đội ngũ CB,CC vưng mạnh, đặc biệt là đội ngũ CB,CC cấp cơ sở , tích cực khắc
phục những hụtt hẫng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Qua đó trình độ học vấn,
lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và quản lý hành chính Nhà nước đã được nâng
lên một bước; tác phong điều hành công việc năng động, chủ động sáng tạo hơn. Đôij
ngũ này đóng một vai trò tích cực trong công cuộc cải cách hành chính và thực hiện
quy ché đan chủ ở cơ sở. Theo thống kê của Sở Nội vụ Quảng Nam, toàn tỉnh có 4.206
CB,CC (trong đó miền núi là 1.654 người, đồng bằng là 2.552 người) thuộc các chức
danh cán bộ chuyên trách và công chức chuyên môn . trình độ học vấn của đọi ngũ này
được thể hiện ở bảng sau:
- Về trình độ học vấn:

11/15


Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

- Về trình độ chuyên môn:

-Về trình độ lý luận chính trị:

Thực tế trên là một rong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị ở phần lơn cơ sở của Quảng Nam còn yếu kém, đây cũng là một
thực trạng chung cho rất nhièu xã khác – bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý tổ
chức thực hiện và vận động quần chúng, cũng như trong viẹc điều hành công việc ở
địa phương, dẫn đến việc giải quyết công việc còn tuỳ tiện, thụ động, còn buông lỏng

quản lý. Cac biệt còn một số CB,CC lợi dụng chức quyền và những khe hở trong cơ chế,
chính sách để làm giàu bất chính, tham nhũng, tiêu xài lãng phí của công. Những hiện
tượng này đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến viêck quản lý và điều hành ở ấp cơ sở ,
làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào Đảng và chính quyền
Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ CB,CC cấp xã ở Quảng Nam:
12/15


Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

• Xây dựng tiêu chuẩn cụ thể đối với các chức danh công chức cấp xã, là căn cứ
đẻ tuyển dụng, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng có hiệu quả đội
ngũ CB,CC trên cơ sở những tiêu chuẩn chung được quy định tại Nghị định số
114/2003/NĐ-CP ngày 10-10-2003 và căn cứ vao dặc điểm đội ngũ CB,CC
thực tế ở xã: Tiêu chuẩn về độ tuổi bổ nhiệm lần đầu tuyển dụngtheo hướng trẻ
hoá đội ngũ ; Tiêu chuẩn về trình độ học vấn, đong bằng nhất thiết phải tôt
nghiệp trung học phổ thông, riêng ở miền núi ở một số bộ phận có thể thấp
hơn; Tiêu chuẩn về trình độ chuyên mon nghiệp vụ; Tiêu chuẩn về trình độ lý
luận chính trị
• Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng ĐT,BD CB,CC cấp xã, đay la tiền đề quan
trọng nhằm từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ CB,CC .
*Tỉnh Điện Biên mới được chia tách và đi vào hoạt đong từ ngày 10-10-2004, gồm 21
dân tộc sinh sống; 88 xã, phường, thị trấn, trong đó có 59 xã đặc biệt khó khăn. Tính đến
tháng 8-2004 tính óc 1.844 CB,CC cấp xã, đa số là người dân tộc thiểu số, họ phải quản
lý trên địa bàn rộng, hiểm trở, dân cư thưa thớt, trình độ dân chí thấp và thường xuyên
phải giải quyết những vấn đề liên quan đến an ninh chính trị, chủ quyền biên giới quốc
gia. Trên thực tế, trình độ của học lại rất kém, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ
và tháp hơn nhiều so với mặt bằng chung.Theo thông kê, cán bộ cơ sở có trình độ văn
hóa tiểu học chiếm 40%, trung học cơ sở chiếm 47%, trung học phổ thông 13%; trình độ
chuyênmôn sơ cấp 7%; cao đẳng, đai học 1%; chưa qua đào tạo 86%; trình độ lý luận sơ

cấp 12%, trung cấp 26%, cao cấp 0,2%, chưa qua đào tạo 61,8 %. Phần lớn CB,CC cấp
xã chưa được đào tạo về kiến thức , kỹ năng quản lý hành chính Nhà nước .
Sau khi tách tỉnh, Điện Biên tiếp tục triển khai thực hiện Quyêt định số 874/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủvà công tác ĐT,BD CB,CC cấp xã của tỉnh ngày càng đi vào
nề nếp. Công tác ĐT,BD thu được những kết quả nhất định với hơn 900 cán bộ cơ sở
được bồi dưỡng, gần 400 người được đào tạo trung cáp ký kuận chính trị, hơn 300 người
dược ĐT,BD về chuên môn. Đặc biệt 100% đại biểu Hội đồng Nhân dân cấp xã nhiệm
kỳ 1999-2004 được tham gia bồi dưỡng nâng cao trình độ. Tuy nhiên hoạt đong QLNN
đối với công tác ĐT,BD chưa thông suôt , nhịp nhàng, hiệu quả. Năng lực hoạt động
của các cơ sở còn yếu kém, chưa ngang tầm nhiệm vụ. Công tác ĐT,BD thiếu cân đối
đồng bọ, thiên về đào tạo lý luận chính trị, bồi dưỡng kiến thức QLNN, còn việc ĐT,BD
văn hoá, chuyên môn, ký năng quản lý hành chính Nhà nước chưa được chú ý, quan tâm
đúng mức, vì vậy kết quả đào tạo thấp chưa đáp ứng yêu cầu
Công tác ĐT,BD CB,CC ở một số tỉnh, thành phố
ĐT,BD CB,CC ở tỉnh Thừa Thiên – Huế
Qua thời gian đổi mới, hẹ thông CB,CC củ tỉnh Thừa Thiên –huế không ngừng trưởng
thành cả về số lượng và chất lượng, kiến thức và năng lực thực tiễn không ngừng được
nâng lên, có bản lĩnh chính trị, kiên định lập trường, quyết tâm thực hiện công cuộc đổi

13/15


Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

mới theo chủ trương của đát nước. Hiênj nay tàon tỉnh có trên 17.000 CB,CC , trong đó
có 1.753 người làm nhiệm vụ quản lý hành chính Nhà nước, 15.540 người ở các đơn vị
sự nghiệp. Về chất lượng đội ngũ CB,CC có trình độ chuyên môn nghiệp vụ: đại học
và trên đại học chiếm 65,37%; cao daqngr và trung cấp chiếm 21,09 %; sơ cấp chiếm
1,96%; cao cấp và đai học chính trị chiếm 10,05 %; trung cấp chiếm 12,94%. Trình độ
QLNN chiếm31,03%. ử nhân tin học chiếm 0,52%. Tin học cơ sở chiếm47,53%. Cử

nhân ngoại ngữ chiếm 4,56%, cơ sở chiếm 46,83%. Về tuổi đời, dưới 30 tuổi chiếm
22,84 %; từ 30-50 chiếm 72,61%, trên 50 chiếm16,14 5 . Đại bộ phận được đào tạo
chuyên mon nghiệp vụ, lý luận chính trị, vân đè cần quan tâm là sự thiếu hụt về lý luận
chính trị và trình độ tin học, sự thiếu đồng bộ về một số ngành và lĩnh vực, nhất là đầu
đàn và chuyêngia giỏi. Phâng đông số cán bộ trẻ năng đọng nhưng thiêud kinh nghiệm
trong quản lý điều hành. Đã có hiện tượg chảy máu chất xámdo một số sau khi cho đi
đào tạo sau đại học đã bỏ cơ quan Nhà nước đi lmf viẹc cho những ddơn vị liên doanh
co thu nhập cao.
Trong nhiều năm trở lại đây, việc tuyển dụng viên chức thông qua thi tuyển theo quy
định của Nhà nước, việc ĐT,BD CB,CC để đạt chuẩn được tiến hành thường xuyên nên
chất lượng đội ngũ không ngừng được nâng cao.
Trong những năm qua Tỉnh đã mở được những lớp đào tạo ngắn hạn, nhưng số lượng
chủ yếu là cán bộ khối công chức Nhà nước, hiện nay đang hướng vào bồi dưỡng cho
viên chức ngành giáo dục về trình độ lý luận chính trị, QLNN để đảm boả đến năm 2007
đạt từ 25-30% giáo viên có trình độ lý luận chính trị trung cấp. Đối với CB,CC Nhà
nước ngạch chuyên viên và chuyên viên chính trong độ tuổi đều phải qua chương trình
đào tạo lại theo quy định của ngạch. Đối với số cán bộ trẻ có triển vọng, lớp cán bộ tạo
nguồn cần đào tạo cơ bản, toàn diện để có kiến thức cơ bản, có năng lực thực tiễn và
có kỹ năng thực hành nhất định để có thể đảm đương được nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu
về lâu dài. Đối với CB,CC mới tuyển vào cơ quan phải có trình độ chuyen môn chuyên
ngành, trình độ B ngoại gnữ trở len và thành tahọ vi tính
Tỉnh tiến hành tách chức năng QLNN với chức năng điều hành hoạt động sự nghiệp để
nâng cao hiệu lưc, hiệu quả quản lý của các cơ quan quản lý Nhà nước và hiệu lực hoạt
dộng của các đơn vị sự nghiệp. Công tá ĐT,BD CB,CC được chú trọng ở cả ba cấp và
đạt được kết quả nhất đinh. Công tachính sách đào tạo tập trung vào kỹ năng thực hành,
nâng cao khả năng quản lý thực tiễn, đối phó với những tình huống cụ thể, và đặc biệt t\
rất coi trọng công tác tạo nguồn cán bộ đảm bảo đội ngũ CB,CC nagỳ cang hoàn thiện
về trình độ nghiệp vụ và năng lưc thực thi công việc
ĐT,BD CB,CC ở tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc được tái thành lập và đi vào hoạt động theo đơn vị hành chính mới tờ

ngày01-01-1997. Đến nay, mọi mặt đời cống kinh tế –xã hội trong tỉnh đều phat triển
nhanh theo hướng tích cực, dể có được điều này thì vai trò của CB,CC Nhà nước có vị

14/15


Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

trí đặc biệt quan trọng trong đó có công tác ĐT,BD CB,CC. Theo số liêu thống kê, đến
ngày 31-07-2003 Tỉnh có 15.136 công chức, trong đó có 1145 công chức Nhà nước ,
12436 công chức sự nghiệp giáo dục, 1125 công chức sự nghiệp y tế, 192 công chức
sự nghiệp văn hoá nghệ thuật,118 công chức sự nghiẹp nghiên cứu khoa học, 119công
chức sự nghiẹp khác. Để thực hiện theo chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tcs
ĐT,BD CB, CB,CC giai đoạn 2001-2005, hàng năm căn cứ vào quan điểm, đường lối
của Đảng, chính sách của Nhà nước , vào chiến lược phát triển kinh tế –xã hội của địa
phương, vào thực trạng đội ngũ CB,CC Nhà nước của các ngành, Tỉnh đã xây dựng kế
hoạch ĐT,BD CB,CC Nhà nước.Kết quả đào tạo đã phản ánh đầy đủ sự nỗ lực của các
ngành, địa phương, cụ thể là: đào tạo 22 lớp với 1974 học viên , bồi dưỡng kiến thức
QLNN và bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành 41 lớp với 5332 học viên, bồi dưỡng công
tác mặt trận và các đoàn thể 40 lớp với2378 học viên. Ngoài ra, được sự giúp đỡ của Học
viện Hành chính Quốc gia, Tỉnh đã TTHCổ chức được 4 lớp bồi dưỡng kiến thức QLNN
chương trình chuyên viên chính với 260 học viên, 2 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác
TTHCổ chức Nhà nước với 180 học viên. Tỉnh đã cử gần 60 lượt đại biểu HĐND tỉnh,
thành viên UBND tỉnh về bồi dưỡng kiến thức QLNN tại Học viện Hành chính Quốc
gia. Sau mỗi khó học, hầu hết học viên đã phát huy được năng lực trong quá trình thực
thi côg vụ được giao. Hnàg năm trong hội nghị tổng kết của các gành, cá địa phương đã
đánh giá để nhìn nhận một cách đầy đủ về công tá ĐT,BD CB,CC
Một vài điểm chưa được: Xây dựng kế hoạch hàng năm chưa sát thực tế, chưa thực sự
khoa học; Nội dung giáo trình chưa phản ánh đầy đủ yêu cầu cấp bách của nền hành
chính Nhà nước ; Kết quả sau đào tạo chưa được đánh giá một cách đầy đủ, khách quan,

nhất là đối với cán bộ chính quỳên, Đảng và đoàn thể ở ccấp xã; Các cơ sở đào tạo chưa
thực sự được quan tâm đúng mức. Tổ chức bộ máy và phân cấp quản lý chưa thống nhất,
dội ngũ giảng dạy chưa đủ cả về số lượng và trình độ; Nguồn tài chính đảm bảo cho
công tác ĐT,BD còn hạn hẹp và phân tán. Các ngành,các địa phương chưa huy đọng
được sức mạnh tổng hợp
Biện pháp khắc phục: Xây dựng kế hoạch ĐT,BD dài hạn và ngắn hạn, cá sở ngành, các
địa phương đều xây dựng đề án cải cách hành chính của ngành và địa phương mình. Từ
kế hoạh đó, Sở Nội vụ tông hợp và báo cáo UBND tỉnh phê duyệt; Việc ĐT,BD có trọng
tâm trọng điểm, chấm dứt tình trạng tràn lan, gắn liền ông tác đào tạo với chiến lược cán
bộ; Huy đọng sức mạnh tổng hợp từ ba nguồn kinh phí (Nhà nước, các cơ quan đơn vị
và cá nhân) dể đầu tư cho công tác ĐT,BD. Gắn trách nhiệm vật chất của ngườ đi học
với nhiệm vụ ĐT, BD cán bộ; Củng cố và sắp xếp lại các cơ sở ĐT,BD, hiện nay ở tinh
có Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trung tâm hước nghiệp dạy nghề, trường trung
học kinh tế kỹ thuật, trường trung cấp y, Trường trung học văn hóc nghệ thuật, Trường
chính trị tỉnh. Cần đầu tư cơ sở vật chất và đội ngũ ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ;
Thường xuyên kiểm tra các cơ sở đào tạo, kịp thơi phát hiện những vưỡng mắc, những
tồn tại để kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có biện pháp khắc phục.

15/15



×