Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

skkn một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc sử dụng đồ dùng, thiết bị môn vật lý ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.63 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

STT

1

2

3

Trang

Phần I : Đặt vấn đề
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu

2

Phần II : Giải quyết vấn đề

3

Chương I: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1. Vai trò của việc sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học (TBDH)
trong giảng dạy môn vật lý ở trường THCS

3

2. Chương trình và sách giáo khoa môn vật lý ở trường THCS


5

3. Cách kiểm tra đánh giá học sinh đối với bộ môn vật lý

6

Chương II: Cơ sở thực tế của vấn đề nghiên cứu.
1. Thực trạng về trang thiết bị dạy học bộ môn vật lý ở trường
THCS

6
6

1.1. Thuận lợi.
1.2. Khó khăn.

6
7

2. Thực trạng về việc sử dụng TBDH của giáo viên vật lý trong
các trường THCS thuộc địa bàn Hoa Lư.

8

2.1. Việc sử dụng TBDH.
2.2. Những nguyên nhân
Chương III: Một số giải pháp

8
9

9

1. Giải pháp cũ

9

2. Giải pháp mới
3. Hiệu quả
4. Điều kiên áp dụng

12
16
18

Phần III : Kết thúc vấn đề

19

1. Ý nghĩa của đề tài

19

2. Khuyến nghị

19

2
3

1


3


A.Tên sáng kiến:
“Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc sử dụng đồ dùng, thiết bị môn Vật
lý ở trường THCS”.
B. Tác giả sáng kiến:
Họ và tên: Hoàng Thị Hoa
Chức vụ: Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường THCS Ninh An
C. Nội dung sáng kiến
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài.
Như chúng ta đã biết Bộ môn Vật lý là môn khoa học thực nghiệm với
phương pháp nghiên cứu là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.
Mọi kết luận của nó đều rút ra được nhờ thực tiễn và kiểm chứng bằng quan sát
và thí nghiệm. Chính vì vậy trong các giờ dạy vật lý cần phải có thiết bị dạy học
để khơi dạy và phát triển năng lực tư duy khả năng tự học, hình thành cho các
em biết rõ phương pháp học và nghiên cứu bộ môn.
Các nghiên cứu giáo dục cũng đã khẳng định hiệu quả giáo dục tốt khi
học sinh thể hiện tính tích cực của mình trong quá trình học tập. Muốn phát huy
tính tích cực chủ động của học sinh thì một trong những yếu tố quan trọng của
người thầy là phương tiện dạy học. Phải xem thiết bị dạy học được sử dụng như
là nguồn thông tin và điều kiện dẫn dắt học sinh đến tri thức mới. Chính vì vậy
phương pháp thực nghiệm được xem như là một phương pháp nhận thức cơ bản
nhất trong quá trình tìm tòi nghiên cứu vật lý. Hiện nay chương trình vật lý ở
THCS chủ yếu là vật lý thực nghiệm, các kiến thức vật lý phải rút ra từ thực
nghiệm và được kiểm tra, đánh giá lại bằng thực nghiệm. Qua đó cho thấy việc
giảng dạy vật lý trong các trường phổ thông phải gắn kết chặt chẽ với việc sử

dụng ĐDDH (đồ dùng dạy học). Mặt khác việc sử dụng ĐDDH vật lý có tác
dụng to lớn trong việc tạo ra trực quan sinh động cho quá trình phát triển tư duy
của học sinh.
Từ khi thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa kéo theo sự đổi
mới các thiết bị dạy học. môn Vật lý thiết bị dạy học (TBDH) đã được đáp ứng
tương đối đầy đủ, đồng bộ đến từng tiết, từng bài mang tính chính xác hiện đại.
Đứng trước tình hình đó đòi hỏi người giáo viên phải có lòng say mê nghề
2


nghiệp, có trình độ nghịêp vụ cao, trình độ chuyên môn vững vàng đặc biệt là
khả năng thao tác, vận dụng và sử dụng TBDH thành thạo khoa học để tiết dạy
đạt hiệu quả, tạo hứng thú học tập cho học sinh, theo quan điểm: “ Học mà chơi,
chơi để học” đáp ứng yêu cầu phương pháp dạy học mới “ Thầy chủ đạo, trò chủ
động”. Tuy nhiên hiện nay với ý nghĩa lớn lao của việc sử dụng ĐDDH vật lí,
bên cạnh những giáo viên tâm huyết, nhận thức rõ tầm quan trọng của việc sử
dụng đồ dùng thiết bị trong dạy học thì vẫn còn một số bộ phận giáo viên vẫn
xem nhẹ vai trò thực nghiệm vật lí, làm thí nghiệm sơ xài, hình thức, thậm chí
còn ngụy biện cho ĐDDH hư hỏng, chưa thực sự chủ động tìm tòi, khai thác
ĐDDH từ đó dẫn đến việc dạy và học khô khan.
Là một giáo viên được đào tạo chuyên ngành môn Vật lí, đã tham gia
giảng dạy nhiều năm tại trường THCS, tôi luôn trăn trở việc sử dụng TBDH
trong giảng dạy nhằm phát huy hiệu quả những thí nghiệm thực hành bổ sung
cho lí thuyết bài dạy, rèn luyện kĩ năng thao tác thí nghiệm thực hành cho học
sinh. Đến nay là một cán bộ quản lí, trong điều kiện đổi mới giáo dục, điều trăn
trở ấy của tôi càng tăng thêm và tôi luôn đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “ Làm
thế nào để giáo viên vật lý sử dụng thật hiệu quả tiết bị dạy học”. Qua quá trình
giảng dạy và quản lí, và đã từng là người trực tiếp chỉ đạo chuyên môn của nhà
trường tôi đã rút ra một số kinh nghiệm chỉ đạo việc sử dụng thiết bị dạy học
môn Vật lí để đạt hiệu quả cao nên tôi đã chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu.

2. Mục đích nghiên cứu.
Nhằm nâng cao hiệu quả việc sử dụng TBDH trong giảng dạy môn vật lý
ở trường THCS góp phần đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực
chủ động của học sinh, giúp học sinh rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, đặc biệt là kỹ
năng, kỹ xảo thực hành, củng cố niềm tin khoa học nhằm hình thành thế giới
quan duy vật biện chứng.

PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Chương I: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1. Vai trò của việc sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học (TBDH) trong
giảng dạy bộ môn vật lý ở trường THCS
Vai trò của thiết bị dạy học đã được đề cập đến trong rất nhiều tài liệu:
như giáo dục học, lý luận dạy học, phương pháp giảng dạy vật lý.

3


Việc dạy học cho học sinh là việc hình thành những năng lực hoạt động
cho học sinh. Để hình thành năng lực ngoài vốn kiến thức còn phải xây dựng
tình cảm, thái độ tác phong và thói quen làm việc khoa học.
Đối với bộ môn vật lý là môn khoa học thực nghiệm. Sự hiểu biết thế giới
vật lý không thể đạt được đơn thuần bằng suy diễn lôgíc. Chỉ có những quan sát
và thực nghiệm mới cho phép ta kiểm tra được sự đúng đắn của một nhận định.
Như vậy khi giảng dạy bộ môn Vật lý phải hướng tới tạo điều kiện cho học sinh
chiếm lĩnh kiến thức thông qua hoạt động thực nghiệm và cao hơn nữa cho học
sinh tập được giải quyết một số vấn đề Vật lý trong thực tế. Đặc biệt môn vật lý
ở trường THCS được giảng dạy chủ yếu bằng phương pháp thực nghiệm, thiết bị
là phương tiện dạy học quan trọng quyết định đến hiệu quả giảng dạy, nó góp
phần đắc lực cho người giáo viên khi truyền thụ kiến thức cho học sinh và có
ảnh hưởng quan trọng đến tư duy sáng tạo của học sinh khi tìm hiểu và chiếm

lĩnh khoa học.
Việc sử dụng Thí nghiệm trong dạy học vật lý là một trong những biện
pháp quan trọng giúp nâng cao chất lượng dạy học, góp phần tích cực hóa hoạt
động nhận thức của học sinh. Thông qua thí nghiệm có thể tạo ra những tác
động có chủ định, có hệ thống của con người vào các đối tượng của hiện thức
khách quan, qua đó học sinh có thể thu nhận được tri thức mới, giúp học sinh
rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, đặc biệt là kỹ năng, kỹ xảo thực hành, củng cố niềm
tin khoa học nhằm hình thành thế giới quan duy vật biện chứng.
Thí nghiệm được sử dụng trong các giai đoạn khác nhau của tiến trình dạy
học từ khâu đề xuất vấn đề nhiệm vụ giải quyết vấn đề, hình thành kiến thức, kỹ
năng, củng cố kiến thức và kiểm tra đánh giá kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của học
sinh. Thí nghiệm góp phần vào việc phát triển toàn diện học sinh. Thông qua
tiến hành thí nghiệm, học sinh hiểu được bản chất của các hiện tượng, định luật,
qua trình vật lý... kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn của học sinh sẽ linh
hoạt và hiệu quả hơn. Thí nghiệm tạo cho học sinh dễ quan sát hơn và đưa ra
những dự đoán, những ý tưởng mới, nhờ đó hoạt động nhận thức của học sinh sẽ
được tích cực và tư duy của các em sẽ được phát triển.
Thí nghiệm vật lý có chức năng kiểm tra tính đúng đắn cuả tri thức. Thí
nghiệm vật lý góp phần tích cực vào hoạt động nhận thức của học sinh kiểm
chứng sự đúng đắn trong suy luận và kiến thức mà họ thu nhận được.
Thí nghiệm được sử dụng với tư cách là phương tiện thử nghiệm cho việc
vận dụng tri thức vào thực tiễn. Trong dạy học vật lý thí nghiệm không những
4


có vai trò rất lớn trong việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh,
không những chỉ ở góc độ của kiến thức, rèn luyện kỹ năng thao tác, tác động
đến giác quan, mà còn giúp học sinh củng cố vận dụng kiến thức một cách vững
chắc.
Thí nghiệm là một bộ phận của phương pháp nhận thức. Thí nghiệm xuất

hiện vấn đề nhu cầu; kiểm tra tính đúng đắn của giả thuyết, thu thập các thông
tin về đối tượng gốc làm cơ sở cho việc xây dựng mô hình, qua đó kiểm tra tính
đúng đắn của mô hình được xây dựng và chỉ ra giới hạn áp dụng của nó.
Nói tóm lại việc sử dụng thiết bị dạy học trong giảng dạy môn vật lý tại
trường THCS là một việc làm không thể thiếu được trong quá trình dạy học.
Muốn nâng cao hiệu quả giờ lên lớp, giáo viên phải khai thác triệt để và sử dụng
có hiệu quả các thiết bị dạy học.
2. Chương trình và sách giáo khoa môn Vật lý ở trường THCS
Nhận thức được vị trí quan trọng của thí nghiệm bao gồm thí nghiệm biểu
diễn lẫn thí nghiệm thực hành, chương trình Vật lý quy định cụ thể.
Khối lớp

Tổng số tiết

Số bài có thí nghiệm

Số tiết thực hành

6

37

26

2

7

37


25

2

8

37

23

2

9

74

39

8

Trong số những bài có thí nghiệm mỗi bài có một hoặc nhiều thí nghiệm
trong đó 80% thí nghiệm thực hành, 20% thí nghiệm biểu diễn.
Vấn đề sách giáo khoa: Đa số các thí nghiệm Vật lý được trình bày bằng
kênh hình, có gợi ý phương án làm thí nghiệm để học sinh chủ động tìm ra
phương án và tiến hành thí nghiệm. Với cách viết sách mở buộc học sinh phải
tiến hành thí nghiệm để rút ra nhận xét kết luận.
3.Cách kiểm tra đánh giá
Các khâu kiểm tra đánh giá phải gồm cả lý thuyết và thực hành có nội
dung liên quan đến các bài thực hành trong chương trình. Các nội dung có liên
quan đến các bài thực hành trong chương trình.

Chính từ những căn cứ trên một lần nữa chúng ta khẳng định việc sử dụng
TBDH khi giảng dạy môn Vật lý là vô cùng cần thiết và có ảnh hưởng rất lớn
đến việc thu nhận kiến thức của học sinh.
5


Chương II: Cơ sở thực tế của vấn đề nghiên cứu
1.Thực trạng về trang thiết bị dạy học bộ môn Vật lý ở trường THCS
1.1 Thuận lợi
Số lượng và chất lượng của TBDH ở các trường THCS ngày càng tăng. Ở
nhiều trường được trang bộ các TBDH hiện đại như máy vi tính, máy chiếu đa
năng, cát sét, đầu quay...băng đĩa hình...Các nhà trường đã trang bị, nâng cấp
phòng máy, phòng học bộ môn, nối mạng internet, trang bị máy chụp hình, máy
quay phim, mua thêm các trang thiết bị dạy học để thay thế cho các thiết bị đã bị
hỏng hoặc không sử dụng được. Xây dựng danh mục thiết bị, tạo cơ sở hạ tầng
về CNTT, thiết bị dạy học giúp cho giáo viên sử dụng có hiệu quả vào dạy-học.
Có nhiều giáo viên tâm huyết với nghề, có tinh thần trách nhiệm trong
công việc. Luôn đầu tư trăn trở, học hỏi kinh nghiệm để sử dụng TBDH đạt hiệu
quả cao, góp phần nâng cao chất lượng dạy học; nhiều học sinh đã cố gắng vươn
lên trong học tập say sưa với các thí nghịêm trong các tiết học.
Hàng năm ngoài các thiết bị mua sắm, được cung cấp các nhà trường và
giáo viên học sinh tự làm và trang bị bổ xung thiết bị dạy học .
Qua điều tra 11 trường THCS trên địa bàn huỵện Hoa Lư, kết quả thu
được về các trang thiết bị phục vụ cho bộ môn Vật Lý như sau:
TT

Loại TBDH

Số trường có Tỷ lệ %


1

Mô hình mẫu vật

11/11

100%

2

Bộ thí nghiệm điện

11/11

100%

3

Bộ thí nghiệm điện từ học

11/11

100%

4

Bộ thí nghiệm nhiệt học

11/11


100%

5

Bộ thí nghiệm quang học

11/11

100%

6

Bộ thí nghiệm cơ học

11/11

100%

7

Băng hình

11/11

100%

8

Máy chiếu đa năng


14/11

127%

9

Máy chiếu hắt

6/11

60%

10

Phòng Vi tính

11/11

100%

6

Ghi chú


1.2 Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi cũng còn nhiều khó khăn như sau: ĐDDH vẫn
còn thiếu hụt theo yêu cầu ở một số bài, một số nội dung hoặc số chương, bên
cạnh đó chất lượng của một số đồ dùng dạy học cũng chưa được đảm bảo tốt về
tuổi thọ, độ bền, độ chính xác. Ví dụ:

- Các lực kế có độ chính xác chưa cao, khi đo cùng một vật có thể cho
các giá trị khác nhau. Các ống nghiệm, bình, cốc thuỷ tinh dễ bị vỡ khi tiếp xúc
với nhiệt; Cân Rôberval không chính xác; (vật lý lớp 6 và lớp 8)
- Khi nghiên cứu về môi trường truyền âm trong chất lỏng, trong chất khí
thì bộ thí nghiệm đặt nguồn âm vào trong chất lỏng (hình 13.3 SGK) sử dụng
chưa tốt, chưa có bộ thí nghiệm đặt nguồn âm ở điều kiện chân không (hình 13.4
SGK). Khi nghiên cứu phần nhiệt học thì thí nghiệm sự phóng điện ở các vật sau
khi bị cọ sát khó thành công (hình 17.2 SGK). (vật lí lớp 7)
- Mặt khác thiết bị dạy học thường bị hư hỏng như: các mạch điện thường
bị hở do chất lượng ĐDDH kém. Các dụng cụ đo điện như vôn kế, ampe kế
thường bị hư hỏng ở các chốt (+) và chốt (-).chốt cắm điện không sát, không dẫn
điện; hộp nguồn pin lỏng, không có điện; bút thử điện không bền...”.
- Bộ thí nghiệm kiểm nghiệm mối quan hệ Q ~ I2 trong định luật Jun Lenxơ cho kết quả có độ chính xác chưa cao. Bu- li ở động cơ điện - máy phát
điện thường bị vỡ bị gãy, chổ tiếp xúc của cổ góp máy phát điện chưa tốt . Các
máy biến thế chưa có độ chính xác khi làm thí nghiệm mối quan hệ tỷ lệ giữa
vòng dây quấn và hiệu điện thế ở mỗi cuộn dây. Các thiết bị trộn màu trong
phần trong phần quang học cho kết quả chưa rõ nét khi làm thí nghiệm do tác
động bởi ánh sáng xung quanh. Các ốc vít ở thiết bị thường bị hư hỏng
2. Thực trạng về việc sử dụng TBDH của giáo viên vật lý trong các
trường THCS thuộc địa bàn Hoa Lư
2.1 Việc sử dụng TBDH
Bên cạnh nhiều giáo viên tâm huyết với nghề, nhiều trường có nhân viên
phụ trách thiết bị được đào tạo bài bản, các trường đều trang bị tương đối đầy đủ
các TBDH môn vật lý thì việc sử dụng TBDH của các trường THCS trong cả
nước nói chung và trên đại bàn huyện Hoa Lư nói riêng vẫn còn nhiều vấn đề
cần phải bàn đến như:
7


Nhân viên phụ trách phòng thiết bị chưa thực sự nắm chắc chuyên môn

của mình, tuy được đào tạo nhưng chưa nắm hết các danh mục thiết bị hiện có.
Các TBDH thường được giáo viên sử dụng đưa trang thiết bị cho học sinh
tự nghiên cứu lập phương án và tiến hành thí nghiệm.
Việc sử dụng TBDH còn hạn chế rất nhiều, các thao tác thực hành của
giáo viên chưa chuẩn xác kết quả thí nghiệm chưa có tính khoa học nên chưa có
tính giáo dục cao.
Một số giáo viên còn ngại sử dụng TBDH, trình độ thực hành ở một số giáo
viên còn hạn chế. Giáo viên dạy vật lý một số không sử dụng đồ dùng dạy học, vì
đồ dùng cồng kềnh nên còn ngại không mang lên lớp. Một số giáo viên khi lên lớp
thiếu sự chuẩn bị, khi thấy đồ dùng hư hỏng nhẹ cũng không sửa lại để phục vụ
giảng dạy. Việc sử dụng thiết bị dạy học trong môn vật lý đòi hỏi giáo viên phải
chuẩn bị bài thật chu đáo cẩn thận, phải chuẩn bị đầy đủ các thiết bị dạy học cần
thiết, phải làm trước các thí nghiệm sao cho đạt kết quả mong muốn.
Nhiều giáo viên khi lên lớp chưa sử dụng được các phương tiện hiện
đại một cách thường xuyên như: đèn chiếu, băng hình. Một số giáo viên chưa
được tham gia đầy đủ các lớp tập huấn ĐDDH hoặc chưa được học tập nghiên
cứu tốt các tài liệu hướng dẫn sử dụng ĐDDH cũng như các phương tiện nghe
nhìn.
Qua điều tra, thăm dò, quan sát việc sử dụng TBDH ở 11 trườngTHCS
thuộc địa bàn huyện Hoa Lư tôi thu được kết quả như sau:
TT

Loại thiết bị dạy học

Tỷ lệ % GV thường Tỷ lệ % GV không thường
xuyên dùng TBDH xuyên dùng TBDH

1

Bộ TN cơ học


67%

33%

2

Bộ TN nhiệt học

54 %

46%

3

Bộ TN tĩnh điện

42,5%

57,5%

4

Bộ TN điện

62,1%

37,9%

5


Bộ TN từ và cảm ứng

63,8 %

36,2%

6

Bộ TN cơ học

68,5%

31,5%

7

Các mô hình và hình

85%

15%

8

Các loại tranh

65%

35%


8


2.2 Những nguyên nhân
Trang thiết bị không đồng bộ.
Chất lượng của TBDH còn kém, có TBDH mà không sử dụng được hoặc
chỉ sử dụng 1 vài lần là hỏng.
Thời gian bố trí một tíêt thực hành chưa hợp lý.
Các trường còn thiếu rất nhiều giáo viên được đào tạo môn Vật lý, do giáo
viên dạy kiêm nhiệm nên trình độ thực hành còn yếu, dẫn đến ngại làm thí
nghiệm.
Giờ lên lớp của giáo viên Vật lý trong một tuần nhiều nên thời gian chuẩn
bị TBDH ít, do đó chuẩn bị chưa chu đáo.
Các trường thiếu giáo viên phụ trách thiết bị. Chế độ thi cử còn nặng nề lý
thuyết, chưa quan tâm đúng mức đến thực hành.
Hiện nay một số trường THCS thuộc địa bàn huyện Hoa Lư nói chung
chưa có phòng học bộ môn, có cán bộ phụ trách thí nghiệm nhưng chưa giúp
cho giáo viên chuẩn bị tốt và thực hiện tốt các bài thí nghiệm thực hành do đó
việc sử dụng thiết bị của giáo viên còn gặp nhiều khó khăn.
Phong trào tự làm, tự sưu tầm, TBDH chưa cao.
Trình độ chuyên môn trong quản lý sử dụng còn thấp.
Trình độ ngoại ngữ của cán bộ giáo viên còn hạn chế.
Chương III
Một số giải pháp và hiệu quả đạt được
1. Giải pháp cũ thường làm
1.1 Bố trí phòng học bộ môn và phòng đựng thiết bị bộ môn
Phòng học bộ môn hiện nay ở nhiều trường chưa đúng tiêu chuẩn Quốc
gia. Cụ thể:
Diện tích phòng học còn hẹp.

Đại đa số bàn ghế đều kê theo các dãy hàng ngang do đó khi học nhóm,
làm thí nghiệm theo nhóm sẽ mất thời gian di chuyển, mất trật tự lớp học. Cũng
có những phòng học kê hai dãy bàn hướng vào nhau. Với cách làm này thì thuận
tiện cho khi học nhóm nhưng những khi không hoạt động nhóm thì học sinh rất
9


khó quan sát trên bảng, thậm trí tư thế ngồi của học sinh không cẩn thận sẽ bị
bệnh học đường như: cong vẹo cột sống, cận thị...
Các thiết bị vật lý cho từng khối học nhiều nhưng với diện tích một số
phòng bộ môn hiện nay rât khó sắp xếp để thuận tiện cho việc sử dụng.
1.2. Đối với giáo viên dạy bộ môn vật lý
Nhiều giáo viên chưa có kế hoạch mượn ĐDDH theo học kỳ hoặc cả năm.
Thực hiện phiếu mượn và trả ĐDDH mang tính đối phó. Chưa thường xuyên
nghiên cứu tài liệu hướng dẫn thí nghiệm vật lý THCS. Chưa phối hợp chặt chẽ
với cán bộ thiết bị để soạn, bố trí thiết bị và thao tác thử ĐDDH trước khi lên
lớp để phát hiện những hư hỏng hoặc cho kết quả chưa chính xác để kịp thời
khắc phục.
Giáo viên ít cho học sinh hoạt động nhóm mà chủ yếu là giáo viên làm
tthis nghiệm học sinh quan sát thí nghiệm rồi rút ra kết luận.
Việc sử dụng TBDH còn hạn chế rất nhiều, các thao tác thực hành của
giáo viên chưa chuẩn xác kết quả thí nghiệm chưa có tính khoa học nên chưa có
tính giáo dục cao.
Một số giáo viên còn ngại sử dụng TBDH, trình độ thực hành ở một số
giáo viên còn hạn chế. Giáo viên dạy vật lý một số không sử dụng đồ dùng dạy
học, vì đồ dùng cồng kềnh nên còn ngại không mang lên lớp.
Giáo viên chưa thực hiện đủ các giờ học thực hành không được cắt xén
các giờ thực hành biến thành bộ môn ôn tập hoặc chữa bài tập.
Giáo viên không phân loại các thí nghiệm và hướng dẫn, thực hiện theo
đặc điểm của từng loại thí nghiệm.

Giáo viên khi sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn mới chỉ tập chung vào nội
dung sinh hoạt phương pháp giảng dạy chung chưa quan tâm nhiều về nội dung
sử dụng thiết bị bộ môn, việc tiến hành các thí nghiệm trên lớp.
Giáo viên chưa cải tiến cách kiểm tra đánh giá kiến thức của học sinh, nội
dung kiểm tra chưa có bài tập thực nghiệm yêu cầu học sinh chỉ ra được các
dụng cụ cần dùng, phương án tiến hành đưa ra được những đại lượng xác định
thông qua thực nghiệm
1.3. Đối với công tác quản lý
Chưa thường xuyên kiểm tra ý thức sử dụng TBDH trong giờ lên lớp của
giáo viên. Chưa yều cầu nhân viên phụ trách thiết bị báo cáo theo từng tuần,
10


từng tháng theo dõi việc đăng ký mượn và sử dụng TBDH và có báo cáo theo
từng tuần, từng tháng.
Chưa tổ chức được nhiều Hội thi tự làm đồ dùng dạy học.
Chưa phát huy việc sử dụng sáng tạo những vật dụng gần gũi với học sinh
để làm đồ dùng thí nghiệm.
Chưa đưa ra những quy chế phù hợp để kích thích những giáo viên tích
cực sử dụng thiết bị dạy học đồng thời xử lý những giáo viên thường xuyên
không sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học trên lớp.
Đã đầu tư kinh phí mua đồ dùng thiết bị dạy học nhưng chưa nhiều
1.4. Các biện pháp hạn chế hư hỏng và sửa chữa một số thiết bị dạy
học đơn giản
Thiết bị dạy học hiện nay tại các trường THCS rất dễ bị hư hỏng, đặc biệt
là các ĐDDH phần điện học. Tuy nhiên việc sữa chữa các thiết bị này đối với
giáo viên cũng chưa được quan tâm nhiều và cũng không phải giáo viên vật lý
nào cũng có thể sửa chữa, khắc phục được những hư hỏng ấy.
2. Giải pháp mới cải tiến
Nhóm giải pháp 1: Bố trí phòng học bộ môn và phòng đựng thiết bị

bộ môn
Phòng học bộ môn đúng tiêu chuẩn Quốc gia.
Diện tích phòng học phải đảm bảo, hệ thống cấp thoát nước theo quy định
hiện hành.
Bàn ghế nên kê hợp lý cho cả khi hoạt động nhóm và khi hoạt động cá
nhân. Theo tôi nên kê bàn ghế theo hàng ngang như lớp học bình thường nhưng
bàn ghế phải rộng, dài, phẳng để tiện làm thí nghiệm và đủ cho một nhóm hoạt
động.
Phòng học bộ môn phải liên thông với phòng đựng TBDH
Các thiết bị được sắp xếp khoa học theo khối khoa học, theo từng phân
môn.
Các thiết bị sắp xếp ngăn nắp trong từng ngăn tủ, mỗi ngăn chứa thiết bị
của từng phân môn.
Nhóm giải pháp 2: Đối với giáo viên day bộ môn vật lý
Giáo viên cần lên kế hoạch mượn ĐDDH theo học kỳ hoặc cả năm. Thực
hiện tốt phiếu mượn và trả ĐDDH theo quy định của trường. Thường xuyên
11


nghiên cứu tài liệu hướng dẫn thí nghiệm vật lý THCS, tùy theo bài nào, khối
lớp nào để có cách bố trí chọn dụng cụ thí nghiệm cho phù hợp, nắm vững
những điều cần chú ý trong thao tác thí nghiệm nhằm giúp cho học sinh thực
hiện tốt thí nghiệm trong mỗi bài học. Do đặc trưng môn học phải có sử dụng
ĐDDH nên phải khai thác tốt những ĐDDH hiện có trong bài. Cùng với tổ
chuyên môn để thường xuyên đề xuất những giải pháp sử dụng và bảo quản
ĐDDH cho tổ. Phối hợp với cán bộ thiết bị để soạn, bố trí thiết bị và thao tác thử
ĐDDH trước khi lên lớp để phát hiện những hư hỏng hoặc cho kết quả chưa
chính xác để kịp thời khắc phục. Hướng dẫn và dặn dò học sinh có nghiên cứu
trước các phương án tiến hành thí nghiệm và các ở nhà trong bài học mới sau
mỗi tiết dạy.

Tăng cường hoạt động nhóm cho học sinh trong mỗi tiết dạy, để học sinh
tự tay làm thí nghiệm và rút ra kết quả khách quan, sử dụng tốt các bảng phụ khi
lên lớp để giảm bớt nội dung ghi chép không cần thiết trên bảng. Giáo viên dạy
bộ môn phải thực hiện đầy đủ các thí nghiệm trong một giờ dạy, tổ chức cho học
sinh tiến hành các thí nghiệm không nguy hiểm từ khâu chọn dụng cụ, phương
án bố trí và tiến hành thí nghiệm, theo dõi quan sát ghi lại kết quả của thí
nghiệm.
Thực hành đủ 100% các giờ học thực hành không được cắt xén các giờ
thực hành biến thành bộ môn ôn tập hoặc chữa bài tập.
Giáo viên cần nắm vững, phân loại thí nghiệm và lưu ý phương pháp sử
dụng ĐDDH dạy đối với từng loại.
* Với thí nghiệm do giáo viên làm.
Thí nghiệm phải liên hệ hữu cơ với bài giảng, đề xuất và giải quyết mâu
thuẫn đã nảy sinh hoặc minh hoạ, nhấn mạnh một vấn đề nào đó trong bài dạy,
tránh làm thí nghiệm xuất hiện không đúng lúc, tuỳ tiện hoặc khái quát kết quả
không tự nhiên. Thí nghiệm biểu diễn phải thành công ngay, do thời gian quy
định, đặc biệt là để học sinh tin tưởng vào kết quả thí nghiệm, tăng thêm uy tín
của giáo viên, để đảm bảo yêu cầu nay giáo viên phải chuẩn bị thí nghiệm một
cách chu đáo, phải làm thử nhiều lần trước khi lên lớp.
Ví dụ: Thí nghiệm về chuyển động đều trong bài 3: “ Chuyển động đềuchuyển động không đều” nếu giáo viên không chuẩn bị kỹ và làm thư nhiều lần
trước khi lên lớp thì chắc chắn sẽ mất rất nhiều thời gian trong giờ dạy và khó
đạt được kết quả như mong muốn.
12


Thí nghiệm biểu diễn phải bố trí sao cho học sinh dễ quan sát, đủ sức
thuyết phục học sinh, các hiện tượng thí nghiệm với số liệu thu được phải chính
xác và việc khái quát để đi đến kết luận phải tự nhiên, không gượng ép, miễn
cưỡng hoặc biến thành một trò “ảo thuật” đối với học sinh.
*Thí nghiệm do học sinh tự làm là loại thí nghiệm được tiến hành

thường xuyên trên lớp đối với bộ môn vật lý
Thí nghiệm học sinh liên hệ chặc chẽ với bài học, nghiên cứu hoặc kiểm
chứng một hiện tượng vật lý nào đó trong bài học. Hoạt động học tập của học
sinh được tiến hành theo nhóm và cùng một nhịp độ, liên tục có qui tắc tuân theo
một chương trình thống nhất của cả lớp, với một thời gian qui định. Giáo viên
kiểm tra trực tiếp được quá trình làm việc của các nhóm học sinh trên lớp trong
một tiết dạy. Học sinh thể hiện rõ nét tính tập thể hổ trợ, cộng tác, hợp tác nhau
trong quá trình làm thí nghiệm nhóm.
Thí nghiệm do học sinh giữ vai trò rất quan trọng, nó có tác dụng hổ trợ
bổ sung kiến thức cho thí nghiệm biểu diễn và chuẩn bị tích cực cho thí nghiệm
thực hành. Thí nghiệm học sinh có ưu điểm ở chổ có nhiều nhóm học sinh tiến
hành cùng một thí nghiệm, nên có thể thu được một số kết quả cùng lúc, các kết
quả có thể so sánh với nhau và rút ra kết luận. Điều đó cho học sinh thấy được
tính khách quan của các hiện tượng, qui luật đang được nghiên cứu trong môn
học vật lý.
Với loại thí nghiệm do học sinh làm giáo viên phải triệt để khai thác hoạt
động nhóm và thường xuyên tạo cho học sinh có thói quen tự tìm tòi các phương
án làm thí nghiệm đông thời tự tạo ra các dụng cụ thí nghiệm bằng các vật dụng
trong đời sống hàng ngày.
Ví dụ: Khi dạy bài: “ Sự nở vì nhiệt của chất khí”, giáo viên nên cho học
sinh dựa vào các kiến thức đã học về sự nở vì nhiệt của chất lỏng và chất rắn để
yêu cầu học sinh chuẩn bị ở nhà các dụng cụ để nghiên cứu tìm hiểu về sự nở vì
nhiệt của chất khí. Học sinh đã tìm các dụng cụ thay thế như: Dùng vỏ cái chai
nhựa đậy kín( hay đựng nước uống, dùng vỏ hộp sữ bằng giấy để đựng không
khí khi nhúng vào nước ấm. hoặc dùng bóng bay là một vật rất gần gũi với các
em để tìm hiểu về sự nở vì nhiệt của chất khí. Học sinh sẽ thấy hứng thú hơn và
gần gũi hơn với môn học, đồng thời các em sẽ thấy tin tưởng hơn, dễ nhớ hơn
các kết luận rút ra.

13



* Thí nghiệm thực hành
Là thí nghiệm sau khi học sinh học xong một bài hay một phần nào đó
trong một chương trình có, giúp học sinh ôn tập , đào sâu khái quát hoá những
vấn đề cơ bản của chương trình, rèn luyện kỹ năng sử dụng dụng cụ thí nghiệm.
Để tiến hành có hiệu quả thí nghiệm thực hành cho học sinh ôn tập trước phần lý
thuyết có liên quan đến nội dung bài thí nghiệm, hướng dẫn trước những yêu cầu
cần thiết ở bài thực hành.
Giáo viên phải thường xuyên sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn. nội dung
sinh hoạt phong phú tập trung thảo luận phương pháp giảng dạy bộ môn việc
tiến hành các thí nghiệm trên lớp. Giáo viên chính ban tổ chức các buổi thảo
luận, hướng dẫn cho giáo viên kiêm nhiệm tiến hành những thí nghiệm khó.
Giáo viên cần cải tiến cách kiểm tra đánh giá kiến thức của học sinh, nội
dung kiểm tra cần có bài tập thực nghiệm không yêu cầu học sinh tiến hành thí
nghiệm mà học sinh chỉ ra được các dụng cụ cần dùng, phương án tiến hành đưa
ra được những đại lượng xác định thông qua thực nghiệm.
Ví dụ: Hãy nêu phương án thí nghiệm để xác định khối lượng riêng của
một cái bát sứ, nếu cho các dụng cụ: một bình hình trụ đựng nước, một cái
thước mili mét và một cái bát sứ.
Để giải được bài tập này học sinh phải kết hợp giữa kiến thức lý thuyết và
kiến thức thí nghiệm thực hành, rèn cho học sinh phải có thói quen học lý thuyết
kết hợp với năng lực thực hành.
Nhóm giải pháp thứ 3: Đối với công tác quản lý
Thường xuyên giáo dục và kiểm tra ý thức sử dụng TBDH trong giờ lên
lớp của giáo viên. Phân công nhân viên phụ trách thiết bị theo dõi việc đăng ký
mượn và sử dụng TBDH và có báo cáo theo từng tuần, từng tháng. BGH phải
luôn động viên khích lệ tạo điều kiện tốt nhất để giáo viên khắc phục khó khăn
khi điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu, các thiết bị đôi khi còn
chưa chính xác nhưng phải có chế tài cụ thể trong quy chế đối với những giáo

viên không sử dụng DDTB dạy học. Đưa việc sử dụng phương tiện dạy học vào
tiêu chuẩn phấn đấu dánh giá cán bộ giáo viên để chấm dứt tình trạng giáo viên
không có thói quen sử dụng phương tiện dạy học, chấm dứt tình trạng giáo viên
sử dụng thiết bị không thành thạo nên ngại không muốn sử dụng TBDH.
14


Có kế hoạch mua sắm TBDH thiết thực, phù hợp đảm bảo nâng cao chất
lượng giờ lên lớp. Khi có trang thiết bị phải gắn liền với tập huấn cho giáo viên
sử dụng TBDH.
Tăng cường kiểm tra, dự giờ lên lớp của giáo viên để theo dõi việc sử
dụng thiết bị dạy học của giáo viên, góp ý cùng tổ chuyên môn về những chuyên
đề sử dụng thiết bị dạy học sao cho có hiệu quả cao nhất.
Chỉ đạo các tổ nhóm chuyên môn thường xuyên tổ chức các buổi sinh
hoạt chuyên đề đưa ra bàn bạc trao đổi những vấn đề trong đổi mới phương pháp
dạy học. Từ đó rút ra những kinh nghiệm, những bài học bổ ích trong việc sử
dụng đồ dùng thiết bị dạy học sao cho có hiệu quả cao nhất nhằm không ngừng
đổi mới để nâng cao chất lượng dạy học.
Cần quan tâm hơn nữa vai trò của công nghệ thông tin, công nghệ hiện
đại vào lĩnh vực giáo dục. Tổ chức các buổi hội thảo, chuyên đề sử dụng các
thiết bị và phương tiện nghe nhìn, trao đổi và học tập cách sử dụng các thiết bị
công nghệ thông tin trong tổ chuyên môn, tham gia thảo luận,hội thảo cách soạn
và sử dụng giáo án điện tử.
Tổ chức chỉ đạo cho giáo viên thường xuyên kiểm tra, tu bổ, bảo dưỡng
TBDH để có thể sử dụng lâu bền hơn.
Hàng năm duy trì và tổ chức hội thi tự làm đồ dùng dạy học nhằm khích
lệ phong trào. Kích thích giáo viên tích cực tham gia phong trào làm ĐDDH của
trường và các đợt dự thi làm ĐDDH của ngành: nghiên cứu trong bài dạy phần
nào, chương nào ĐDDH còn thiếu mà khả năng có thể thực hiện được để lên kế
hoạch, dự trù kinh phí làm và tham gia dự thi. Có ý kiến đề xuất với tổ chuyên

môn, ban chuyên môn của trường phần nào, bài nào trong chương trình ĐDDH
còn thiếu, hoặc hư hỏng để có kế hoạch khắc phục, sửa chữa hoặc thay mới.
Nâng cao năng lực sử dụng phương tiện day học trong đội ngũ cán bộ
giáo viên của nhà trường. Muốn vậy các nhà quản lý cần thực hiện các giải pháp
sau:
- Cử cán bộ giáo viên đi tham quan học tập để nâng cao nghiệp vụ sử dụng
TBDH.
- Tổ chức bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học cho giáo viên.
- Xây dựng cơ chế phối hợp trong việc sử dụng phương tiện dạy học.
- Trong điều kiện thực tế của từng nhà trường cần có sự phối hợp đồng bộ
và quy định trách nhiệm rõ ràng đối với từng bộ phận khi sử dụng phương tiện
15


dạy học, có cơ chế thưởng phạt bồi thường thoả đáng nếu hư hỏng do thiếu trách
nhiệm của người sử dụng.
Tăng cường khai thác cơ sở vật chất ở ngoài nhà trường để phục vụ vào
giảng dạy. Có thể cho học sinh tham quan một số công trình khoa học, các nhà
máy, xí nghiệp có liên quan đến kiến thức vật lý ở địa phương để giúp học sinh
gắn liền với lý luận thực tiễn, giáo dục cho các em lòng yêu quê hương đất nước.
Nhóm giải pháp thứ 4: Các biện pháp hạn chế hư hỏng và sửa chữa
một số thiết bị dạy học đơn giản
Ban giám hiệu phải có kế hoạch tu sửa một số đồ dùng đơn giản dễ sửa
chữa trong năm học. Chỉ đạo giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học một cách khoa
học, tự giác tu sửa những thiết bị đơn giản để sử dụng.
Nhân viên thiết bị có kế hoạch bảo quản, tu sửa đồ dùng theo định kỳ,
phải nắm được các nguyên tắc cơ bản của một số thiết bị đơn giản. Sắp xết thiết
bị phải khoa học theo từng môn, từng lớp...
Công tác bảo quản thiết bị là một trong những yếu tố quyết định đến độ
bền của các đồ dùng thí nghiệm, cho nên việc bảo quản đồ dùng là rất cần thiết.

Trước hết đó là việc sắp xếp đồ dùng ở phòng thiết bị cũng như phòng bộ môn
phải khoa học hợp lí đúng từng danh mục. Phải lau chùi sạch sẽ và lau khô thiết
bị sau khi thực hành xong. Các thiết bị về điện như nguồn pin, đèn pin,...phải để
ở vị trí khô ráo và để xa các loại đồ dùng về chất lỏng, dung môi. Các loại kim
nam châm không được để gần với các nam châm có từ tính mạnh. Phải tiến hành
kiểm tra công tác bảo quản thường xuyên và lau chùi thiết bị đúng định kì.
Đối với dụng cụ thí nghiệm vật lí, trong quá trình giảng dạy người giáo
viên phải xác định được những loại đồ dùng nào dễ hỏng, dễ khắc phục và loại
đồ dùng nào việc hỏng hóc ít xảy ra.
3. Hiệu quả kinh tế và xã hội đạt được
Sau khi áp dụng một số giải pháp trên, qua điều tra chúng tôi thấy việc sử
dụng TBDH ở các trường THCS thuộc địa bàn huyện Hoa Lư đã có nhiều khả
quan hơn cụ thể như sau:
1. 1. Đối với giáo viên
Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức về việc sử dụng thiết bị dạy
- học vào đổi mới phương pháp giảng dạy.
16


Trường THCS Ninh An đã có 100% giáo viên đã đăng ký sử dụng thiết bị
phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của bài dạy, giáo viên đã sử dụng giáo án điện tử,
phát huy được vai trò của hệ thống ti vi đã được trang bị ở các lớp học.
Thường xuyên tham gia báo cáo chuyên đề sử dụng ĐDDH ở tổ.
100% Giáo viên trong trường đã tham gia học tốt và có chứng chỉ A và
50% giáo viên có chứng chỉ B tin học, hầu hết phát huy được tác dụng trong
việc nghiên cứu giảng dạy. Việc soạn giảng và sử dựng trình chiếu Powerpoint
được 100% giáo viên thực hiện thành thạo.
Đề tài kinh nghiệm giúp các giáo viên phát huy tốt phương pháp dạy học
theo hướng tích cực.
Mặc dù còn gặp rất nhiều khó khăn, nhưng nhiều giáo viên đã đầu tư mua

máy tính xách tay để phục vụ cho giảng dạy. Điều đó thể hiện sự yêu nghề, tâm
huyết với nghề, khát khao học hỏi để nâng cao hiệu quả cách dạy của giáo viên
và cách học của học sinh.
Qua điều tra viêc sử dụng TBDH ở các trường trong huyện Hoa Lư sau
khi áp dụng đề tài tôi thấy việc sử dụng TBDH cũng thường xuyên hơn, tỷ lệ
dùng TBDH cao hơn so với trước. Cụ thể thu được kết quả như sau:
TT

Loại thiết bị dạy học

Tỷ lệ % GV thường
xuyên dùng TBDH

Tỷ lệ % GV TBDH sử
dụng không thường xuyên

1

Bộ TN cơ học

73%

27 %

2

Bộ TN nhiệt học

67%


46 %

3
4

Bộ TN tĩnh điện
Bộ TN điện

57,5 %
62,1%

43,5 %
37,9%

5

Bộ TN từ và cảm ứng

59,7%

41,3%

6

Bộ TN cơ học

75,8%

24,2%


7

Các mô hình và hình

90%

10%

8

Các loại tranh

92 %

8%

1.2. Đối với học sinh
Học sinh tiếp thu tốt kiến thức vật lý, thái độ chăm chỉ và hứng thú bộ
môn, nâng cao chất lượng học tập, hạn chế học sinh yếu kém bỏ học.
Đa số học sinh được rèn luyện kỹ năng sử dụng các đồ dùng đo lường vật
lý phổ biến, tự lắp ráp và tiến hành được những thí nghiệm đơn giản. Học sinh
có kỹ năng xử lý tốt thông tin và cả dữ liệu thu thập được từ quan sát, nghe nhìn
17


hoặc thí nghiệm; thể hiện được tính cần cù, chăm chỉ và trung thực trong thu
thập kết quả thí nghiệm; có tinh thần hợp tác hoạt động nhóm trong thí nghiệm,
trong nghiên cứu.
Chất lượng học tập của học sinh ở các lớp được nâng lên. Tạo tiền đề cho
HSG dự thi cấp huyện, tỉnh có hiệu quả cao trong những năm trước đây.

Bước đầu giúp học sinh nắm bắt, tiếp thu được bài giảng qua lĩnh vực
công nghệ thông tin trong học tập bộ môn.
* Kết quả đại trà:
Khối 6

Khối 7

Khối 8

Khối 9

Năm học

Điểm
5

Điểm
8

Điểm
5

Điểm
8

Điểm
5

Điểm
8


Điểm
5

Điểm
8

2011-2012

92%

52%

91%

65%

89%

58%

92%

58%

2012- 2013

93%

52,5% 91,5%


66%

89,5% 58,8% 92,8%

59%

2013-2014

94%

55,2% 92,8%

74%

92,1% 62,5%

93,5

68%

2014-2015

96.5%

96,5%

72%

56%


96%

78%

94%

68%

* Kết quả mũi nhọn học sinh giỏi môn vật lý:

STT

Năm học

Số học sinh
đạt giải cấp
huyện

Xếp thứ

Số học sinh
đạt giải cấp
tỉnh

Xếp thứ

1

2011- 2012


2

2

1

2

2

2012- 2013

2

2

1

2

3

2013-2014

2

2

1


2

4

2014-2015

3

1

2

1

Đội tuyển Vật Lý 8, 9 của trường THCS Ninh An nhiều năm gần đây
luôn có giải cấp huyện, cấp tỉnh và được xếp thứ hạng cao trong toàn huyện.
Riêng năm học 2014-2015 có 02 giải ba cấp tỉnh.
4. Điều kiện và khả năng áp dụng.
Đề tài có thể áp dụng rộng rãi trên địa bàn các trường THCS

18


PHẦN III: KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
1. Ý nghĩa của đề tài
Vật lý là môn khoa học thực nghiệm yêu cầu giảng dạy của bộ môn Vật lý
đúng tính chất của môn khoa học thực nghiệm. Tuy nhiên giữa nhận thức và
thực tiễn còn nhiều những bất cập phải có những biện pháp mạnh mẽ mang tính
chiến lược để giải quyết những bất cập đó.

Vì vậy chúng ta phải thấy được tầm quan trọng của đề tài “ Chỉ đạo nâng
cao hiệu quả việc sử dụng thiết bị dạy học vật lý ”. Đề tài giúp chúng ta chuyển
biến nhận thức cần quan tâm hơn nữa trong việc nghiên cứu, tìm tòi phát huy sự
sáng tạo của các cá nhân và tập thể vào phong trào “ khai thác và sử dụng thiết
bị dạy học vật lý ”. Kịp thời khắc phục những vướng mắc khi sử dụng ĐDDH,
tăng cường khai thác tốt ĐDDH cũng như phương tiện nghe nhìn trong giảng
dạy vật lý, đồng thời phải tích cực tiếp thu và chuyển hoá mạnh mẽ các thành
tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin vào việc dạy học trong giai đoạn
mới của thế kỷ XXI mà cả thế giới đang đón nhận sự bùng nổ tri thức khoa học
và công nghệ, nhằm góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.
Đề tài kinh nghiệm giúp bản thân từng giáo viên phát huy tốt phương
pháp dạy học theo hướng tích cực. Từng bước đã đầu tư nghiên cứu soạn giảng
giáo án điện tử và phục vụ giảng dạy qua máy tính kết nối với Projektor.
Đề tài kinh nghiệm được tổ chuyên môn, BGH đồng tình và đánh giá cao,
đã áp dụng có hiệu quả trong giảng dạy vật lý ở trường.
Sau khi áp dụng đề tài giáo viên tích cực sử dụng TBDH hơn làm học
sinh phát triển toàn diện, rèn tính cần cù, cẩn thận, kiên trì, trung thực, kỹ năng,
kỹ xảo, tính khoa học, hiện đại. Nhận thức thế giới một cách khoa học, giúp học
sinh hiểu sâu sắc hơn về bản chất sự vật và hiện tượng tự nhiên, chinh phục tự
nhiên, chinh phục thế giới.
Đề tài góp phần để bộ môn Vật lý được thực sự giảng dạy như môn khoa
học thực nghiệm trước hết các thiết bị giáo dục phải được sử dụng có hiệu quả
cao nhất, đáp ứng yêu cầu về nội dung và phương pháp được quy định trong
chương trình.
2. Khuyến nghị
Để sử dụng tốt TBDH bộ môn Vật lý tôi xin có một số khuyến nghị sau:
19


Chính quyền địa phương cùng với ngành giáo dục sớm mở lớp đào tạo

giáo viên phụ trách thiết bị.
Cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa người làm chương trình người viết
sách với những người nghiên cứu thiết kế TBDH.
Chú trọng đến chất lượng của TBDH đảm bảo tính khoa học sư phạm,
tính kỹ thuật, mỹ thuật.
Cán bộ quản lý các trường THCS nên quan tâm, chỉ đạo tốt việc sử dụng
TBDH ở trường.
Cần xây dựng hệ thống các văn bản , qui chế qui định về công tác quản lý
và sử dụng thiết bị riêng cho từng trường.
Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng kỹ năng sử dụng thiết bị , bồi
dưỡng ngoại ngữ và tin học cho giáo viên.

XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG

Ninh An, ngày 10 tháng 5 năm 2015
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

Hoàng Thị Hoa
NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SKKN

20


21



×