Tải bản đầy đủ (.docx) (131 trang)

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẦU TƯ GIỮA CÁC QUỐC GIA VÀ CÔNG DÂN QUỐC GIA KHÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (840.92 KB, 131 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA LUẬT

LUẬT ĐẦU TƯ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẦU TƯ
GIỮA CÁC QUỐC GIA VÀ CÔNG DÂN
QUỐC GIA KHÁC

1


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI NÓI ĐẦU
.............................................................................................................................................
1
PHẦN NỘI DUNG
.............................................................................................................................................
4
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẦU TƯ GIỮA CÁC QUỐC GIA VÀ CÁC CÔNG DÂN QUỐC GIA
KHÁC
...........................................................................................................................................
4
1.1. Khái quát về đầu tư quốc tế và tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia và công
dân quốc gia khác
4
1.1.1. Khái quát về đầu tư quốc tế.......................................................................................
4


1.1.2. Khái quát về tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia và các công dân quốc gia
khác 11
1.2. Khái quát về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia và các công dân
quốc gia khác
16
1.2.1. Các phương thức giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia và công dân quốc
gia khác
16
1.2.2. Các cơ chế giải quyết tranh chấp đặc thù giữa các quốc gia và các công dân
quốc gia khác
19
1.2.3. Vai trò của các cơ chế giải quyết tranh chấp trong sự phát triển đầu tư
quốc tế
21

2


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẦU TƯ
GIỮA CÁC QUỐC GIA VÀ CÁC CÔNG DÂN QUỐC GIA KHÁC - KINH
NGHIỆM TỪ CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
...........................................................................................................................................
22
2.1. Thực trạng giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia và các
công dân quốc gia khác theo luật quốc tế
22
2.1.1.

Thực trạng sử dụng phương thức bảo hộ ngoại giao..........................................
22

2.1.2.

Thực trạng giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia và các

công dân quốc gia khác theo phương thức tòa án
23
2.1.3.

Thực trạng giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia và các

công dân quốc gia khác theo phương thức Trọng tài
24
2.1.4.

Thực trạng giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia và các

công dân quốc gia khác theo các phương thức khác
27
2.1.5.

Thực trạng giải quyết tranh chấp đầu tư giữa Việt Nam và các công dân
quốc gia khác............................................................................................................

2.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc giải quyết tranh chấp đầu tư
giữa các quốc gia và các công dân quốc gia khác.........................................................
2.2.1. Kinh nghiệm của Thái Lan..........................................................................
2.2.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc........................................................................
2.2.3. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ.............................................................................
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CÁC NƯỚC CHO
VIỆT NAM ĐỂ GIẢI QUYẾT HIỆU QUẢ CÁC TRANH CHẤP ĐẦU TƯ

GIỮA QUỐC GIA VỚI CÔNG DÂN NƯỚC KHÁC...................................................
3.1. Chú trọng đến cơ chế cảnh báo và ngăn ngừa tranh chấp.........................................
3.2. Xem xét tới việc tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế đa
phương có tính ràng buộc cao như ICSID....................................................................

3


3.3. Sự chuẩn bị các nguồn lực cần thiết để đối phó các tranh chấp với nhà đầu tư
nước ngoài tại Trọng tài Quốc tế....................................................................................
3.4. Chú ý trong việc đàm phán và ký kết các Hiệp định đầu tư quốc tế......................
KẾT LUẬN ........................................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................
PHỤ LỤC SỐ 1...................................................................................................................
PHỤ LỤC SỐ 2...................................................................................................................

4


DANH MỤC TỪ VIẾT
TẮT
Danh mục từ viết tắt tiếng
Anh

Từ viết tắt

Từ đầy đủ Tiếng Anh

Từ đầy đủ Tiếng Việt


ASEAN

Association of Southeast Asian
Nations

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

BIT

Bilateral investment treaty

Hiệp định đầu tư song phương

BTA

Bilateral trade agreement

Hiệp định thương mại song phương

CAFTA-DR

Dominican Republic-Central
America-United States Free Trade
Agreement

Hiệp định thương mại tự do giữa
Cộng hòa Dominica, Trung Mỹ và
Hoa Kỳ

COMESA


Common Market for Eastern and
Southern Africa

EIA

Economic integration agreement

Hiệp định hội nhập kinh tế

FDI

Foreign direct investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FET

Fair and Equitable

Đối xử công bằng và thỏa đáng

FTA

Free trade agreement

Hiệp định thương mại tự do

ICC


International Chamber of Commerce

Phòng thương mại quốc tế

ICJ

International Court of Justice

Tòa án công lý quốc tế

ICSID

Thị trường chung của khu vực
Đông và Nam châu Phi

International Centre for Settlement of Trung tâm quốc tế về xét xử tranh
chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và
Investment Disputes
Nhà nước tiếp nhận đầu tư

IIA

International investment agreement

Hiệp định đầu tư quốc tế

M&A

Merger & Acquisition


Mua bán và sáp nhập

MAI

Multilateral Agreement on Investment Hiệp định đa phương về đầu tư

MIGA

Multilateral Investment Guarantee
Agreement

Công ước bảo đảm đầu tư đa biên

NAFTA

North American Free Trade
Agreement

Hiệp định thương mại tự do Bắc
Mỹ

OFIO

Office of the Foreign Investment
Ombudsman

Văn phòng tư vấn đầu tư nước
ngoài

5



Overseas Private Investment
Corporation
Permanent Court of Arbitration

Công ty Đầu tư Tư nhân ra nước
ngoài
Tòa trọng tài thường trực

PCIJ

Permanent Court of International
Justice

Tòa thường trực về công lý quốc tế

SCC

Stockholm Chamber of Commerce

TNC

Transnational Corporation

Công ty xuyên quốc gia

TPP

Trans-Pacific Strategic Economic

Partnership Agreement

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương

OPIC
PCA

Phòng thương mại Stockholm

Trade-Related Investment Measures Các biện pháp đầu tư liên quan đến
thương mại

TRIMs
UNCITRAL
UNCTAD

United Nations Commission on
Ủy ban Liên hiệp quốc về Luật
International Trade Law
thương mại quốc tế
United Nations Conference on Trade Diễn đàn Thương mại và Phát triển

WTO

and Development

của Liên hiệp quốc

World Trade Organization


Tổ chức thương mại thế giới

Danh mục từ viết tắt tiếng Việt

Chữ viết tắt

Tiếng Việt

GQTC

Giải quyết tranh chấp

6


LỜI NÓI ĐẦU

1.

Lý do chọn đề tài
Tranh chấp về đầu tư giữa các quốc gia và công dân các quốc gia khác

phát sinh ngày càng phổ biến trong tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế, đặc biệt khi hoạt động đầu tư nước ngoài ngày càng phát triển cả về quy mô,
phạm vi và tính chất.
Hiện nay, để điều chỉnh cũng như giải quyết các tranh chấp đầu tư giữa các
quốc gia và công dân các quốc gia khác chủ yếu dựa trên các IIA (International
Investment Agreement - Hiệp định đầu tư quốc tế), BIT (Bileteral Investment Treaty Hiệp định đầu tư song phương), “Công ước về giải quyết tranh chấp giữa các
quốc gia và công dân quốc gia khác” mà các quốc gia là thành viên. Tùy thuộc vào

nhu cầu quản lý, trình độ lập pháp và hệ thống pháp luật, các nước trên thế giới
cũng có những hệ thống quy định khác nhau điều chỉnh hoạt động đầu tư nước
ngoài. Trong số 40 quốc gia trên thế giới có một hoặc một số đạo luật trực tiếp quy
định về hoạt động đầu

tư (không kể Việt Nam), có 10 nước có đạo luật riêng chỉ

áp dụng đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, bao gồm: Afghanistan, Albania,
Bhutan, Bosnia

and Herzegovina, Hàn Quốc, Trung Quốc, Cộng hòa Iran và

Marshall Islands, Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ và Philippines.
Hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong những năm gần đây có
những bước phát triển mạnh mẽ, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh
tế. Tuy nhiên, những tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư giữa Việt Nam với nhà
đầu tư là công dân quốc gia khác cũng bắt đầu phát sinh. Để các nhà đầu tư nước
ngoài thực sự an tâm khi đầu tư vào bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nói chung
và tại Việt Nam nói riêng thì việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh
chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư là một nhu cầu cấp
bách.
Việc tìm hiểu cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư giữa các
quốc gia với công dân quốc gia khác trong hệ thống văn bản luật quốc tế là rất
quan trọng.

Từ đó tìm ra điểm tiến bộ cũng như thiếu sót của các nước để rút kinh

nghiệm và hoàn thiện hơn hoạt động giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư ở
Việt


Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc tìm hiểu về vấn đề giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia với công

dân quốc gia khác đã có nhưng chủ yếu là các nghiên cứu của nước ngoài, ví dụ như
7


các nghiên cứu của UNCTAD, các báo cáo của ICSID... Đối với Việt Nam, nghiên
cứu về tranh chấp đầu tư quốc tế với nhà đầu tư là công dân quốc gia khác đã có
song còn rất ít và mới chỉ tập trung vào một hoặc một số nội dung cơ bản. Ví
dụ vấn đề giải quyết tranh chấp thông qua ICSID - Trung tâm giải quyết Tranh chấp
Đầu tư Quốc tế đã được giới thiệu trong “Giới thiệu về cơ quan giải quyết tranh
chấp đầu tư quốc tế” đăng trên Cổng thông tin pháp luật của Bộ Công Thương; “Cơ
chế và thực tiễn của việc giải quyết tranh chấp đầu tư của Trung tâm giải quyết các
tranh chấp đầu tư quốc tế (ICSID)” của Đỗ Hoàng Tùng, nội dung bài nghiên cứu
“Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư với quốc gia thành viên theo quy định của
Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN” đăng trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư
pháp. Ngoài ra, còn có bài viết “Về cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua con
đường Trọng tài trong hiệp định thương mại Việt – Mỹ” của ThS. Lê Thị Thúy
Hương đăng trên tạp chí Khoa học Pháp lý số 6/2002...
3. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư của quốc tế và việc áp dụng, thực hiện
cơ chế đó tại Việt Nam.
- Nghiên cứu cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư của một số nước, tìm ra ưu nhược điểm
của mỗi nước trong thực hiện cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư từ đó rút ra bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Đưa ra các giải pháp để áp dụng bài học kinh nghiệm nói trên nhằm nâng cao năng lực
và hiệu quả giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế Việt Nam và nhà đầu tư là công dân
quốc gia khác.

4. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác nhau,
như: Phân tích, tổng hợp, thống kê, khảo cứu thực tiễn nhằm minh chứng cho những
lập luận, những nhận xét đánh giá, kết luận của nghiên cứu. Phương pháp phân tích
được sử dụng để đối chiếu đánh giá việc thực hiện những quy định pháp luật Việt
Nam, quốc tế và các nước trên thế giới về giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia với
công dân quốc gia khác, phương pháp so sánh dùng để tìm ra ưu nhược điểm của từng
cơ chế của mỗi nước.
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu

8


Các văn bản pháp luật Quốc tế và của Việt Nam về lĩnh vực giải quyết
tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia với công dân quốc gia khác, các bài nghiên cứu của
UNCTAD, các vụ kiện tại ICSID...
Phạm vi nghiên cứu
Khi nghiên cứu cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế giữa các quốc gia
với công dân quốc gia khác, nhóm nghiên cứu chọn Công ước 1965 về giải
quyết tranh chấp giữa các quốc gia và công dân quốc gia khác với sự ra đời của
Trung tâm ICSID, một số ví dụ về các IIA, BIT... làm cơ sở để đánh giá.
Khi nghiên cứu về thực tiễn giải quyết tranh chấp trên thế giới, một số
nước được nhóm nghiên cứu chọn lựa để nghiên cứu: Thái Lan, Hàn Quốc và
Hoa Kỳ.
6. Kết cấu bài nghiên cứu
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và các Phụ lục, đề tài được kết cấu thành 03
chương:
Chương 1: Khái quát chung về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các
quốc gia và các công dân quốc gia khác;
Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia và

các công dân quốc gia khác - Kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới;
Chương 3: Một số bài học kinh nghiệm từ các nước cho Việt Nam để giải
quyết hiệu quả các tranh chấp đầu tư quốc tế.

9


PHẦN NỘI
DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP ĐẦU TƯ GIỮA CÁC QUỐC GIA VÀ CÁC CÔNG DÂN QUỐC
GIA KHÁC
1.1. Khái quát về đầu tư quốc tế và tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia và công dân
quốc gia khác
1.1.1. Khái quát về đầu tư quốc tế
1.1.1.1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư quốc tế
Để hiểu về đầu tư quốc tế, trước hết cần làm rõ khái niệm đầu tư. Từ điển
tiếng Việt (2003, tr.103) định nghĩa đầu tư là việc bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào
công việc gì, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế xã hội. Trong tài chính, đầu tư là
việc mua một tài sản tiền tệ hay hàng hóa với hy vọng rằng nó sẽ tạo ra thu nhập
hoặc được đánh giá cao trong tương lai và bán được giá cao hơn

1

.

Từ góc độ kinh tế, đầu tư là hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại,
nhằm đem lại cho nền kinh tế, xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã sử dụng để đạt kết quả đó. Trong đó, nguồn vốn đầu tư có thể là
những tài sản hữu hình như tiền vốn, đất đai, nhà cửa, thiết bị, hàng hóa. Hay

những tài sản vô hình như bằng sáng chế, phát minh, nhãn hiệu hàng hóa, bí quyết kĩ
thuật, uy tín kinh doanh, bí quyết thương mại. Không những thế, các doanh nghiệp có
thể đầu tư bằng số cổ phần, trái phiếu và các quyền về sở hữu tài sản khác như
quyền thế chấp, cầm cố hay các quyền có giá trị về mặt kinh tế như quyền thăm
dò, khai thác, sử dụng tài

nguyên thiên

2

nhiên , ...
Dưới góc độ pháp lý, Luật Đầu tư 2014, với phạm vi điều chỉnh là hoạt
3

động đầu tư nhằm mục đích “kinh doanh ”, đã đưa ra định nghĩa “Đầu tư kinh doanh
là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua
việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ
4

chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư” . Các
nhà đầu tư tuân theo hình thức và cách thức mà pháp luật quy định để thực hiện hoạt
động đầu tư nhằm mục đích lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế, xã hội khác. Hoạt
động đầu tư có thể mang tính
1

Nghĩa của từ “Investment Definition” theo trang Investopedia, link truy cập:

, truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2016.



2

Giáo trình Kinh tế Đầu tư, Nguyễn Bạch Nguyệt, Từ Quang Phương, NXB Đại học Kinh tế
Quốc dân
(2003, tr. 15-17).
3

Khoản 16, Điều 14, Luật Doanh nghiệp 2014 định nghĩa “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục
một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung
ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”.
4

Khoản 5, Điều 3, Luật đầu tư năm 2014.

thương mại hoặc phi thương mại. Bên cạnh thực tiễn chính sách pháp luật, hoạt
động đầu tư trong khoa học pháp lý cũng được đề cập chủ yếu là hoạt động đầu tư
kinh doanh, với bản chất là việc sử dụng các nguồn lực để kinh doanh thu lợi
nhuận.
Định nghĩa về “đầu tư” cũng xuất hiện trong đa số các IIA. Trước đây,
nhiều hiệp định sử dụng định nghĩa chung như thuật ngữ “đầu tư” bao gồm
5

“việc bỏ vốn bằng mọi tài sản kể cả tất cả các quyền là lợi ích” . Các BIT có
khuynh hướng đưa ra định nghĩa chi tiết hơn, thường bắt đầu bằng việc định nghĩa
đầu tư ở phạm vi rộng, chẳng hạn như: “đầu tư bao gồm việc bỏ vốn bằng mọi
6

7

loại tài sản” hoặc “mọi hình thức đầu tư trên lãnh thổ” . Quy định tại Điều 9.1

Hiệp định TTP, giải thích rõ về đầu tư và hoạt động đầu tư (xem thêm Hộp 1).


Hộp 1
Định nghĩa “Đầu tƣ” theo Hiệp định TPP
Điều 9.1: Giải thích từ ngữ:
Hoạt động/dự án đầu tƣ là toàn bộ tài sản do một nhà đầu tư trực tiếp hay
gián tiếp sở hữu và quản lý mang đặc điểm của một khoản đầu tư, bao gồm những
đặc điểm theo đúng cam kết về vốn hoặc nguồn vốn khác, đặc điểm về mức doanh
thu hay lợi nhuận kỳ vọng hoặc khả năng chấp nhận rủi ro. Các hình thức đầu tư bao
gồm:
(a) doanh nghiệp;
(b) cổ phần, cổ phiếu và các dạng góp vốn tham gia vào doanh nghiệp;
(c) trái phiếu, tín phiếu, các công cụ nợ khác và các khoản vay;
(d) các hợp đồng tương lai, quyền chọn và các hợp đồng phái sinh khác;
(e) đầu tư theo hình thức chìa khóa trao tay, xây dựng, quản lý, sản xuất, nhượng
quyền, chia sẻ doanh thu và các hợp đồng khác;
(f) quyền sở hữu trí tuệ;
(g) giấy chứng nhận, ủy quyền, giấy phép và các quyền tương tự theo quy định của luật
pháp của Bên tham gia Hiệp định; và
(h) tài sản hữu hình hoặc vô hình, tài sản di động hoặc bất động và quyền tài

5

BIT Đức – Sri Lanka (1963).

6

Điều I(a) của BIT Anh – Liên Xô (nay là Anh – Nga) và Điều 1(6) của ECT.


7

Điều I(1) của BIT Hoa Kỳ - Argentina.

sản liên quan bao gồm cho thuê, thế chấp, cầm cố và bảo lãnh.
Tuy nhiên, khoản đầu tư không bao gồm các quyết định hay phán quyết tư
pháp hay hành chính.
Những định nghĩa về đầu tư nói trên tuy có điểm khác biệt, nhưng tựu
chung lại, có thể rút ra những đặc trưng như sau:
Thứ nhất, mục đích của đầu tư là nhằm đem lại lợi ích, về mặt kinh tế, xã
hội. Đối với doanh nghiệp, lợi ích mà họ hướng đến trước tiên là thu hồi vốn,


tạo lợi nhuận, sau đó là phát triển vị thế của doanh nghiệp. Đối với Nhà nước,
hoạt động đầu tư lại nhắm tới việc tạo ra lợi ích kinh tế - xã hội như tạo việc làm,
cung cấp sản phẩm, dịch vụ công cộng, bảo vệ tài nguyên môi trường và sự phát
triển bền vững,

...

Thứ hai, hoạt động đầu tư chỉ có thể được tiến hành khi nhà đầu tư hay
chủ đầu tư đưa nguồn vốn của mình vào quá trình đầu tư. Chủ đầu tư có thể là các
tổ chức, cá nhân và cũng có thể là nhà nước. Vốn đầu tư có thể tồn tại dưới nhiều
hình thái như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, tài sản tài chính.
Thứ ba, đầu tư tiềm ẩn sự mạo hiểm. Như đã nói ở trên, đầu tư có mục
đích và kỳ vọng là đem lại lợi ích. Tuy nhiên, không có bất kỳ sự chắc chắn
tuyệt đối nào về sự tồn tại của lợi ích đạt được trong tương lai. Hoạt động đầu tư
bao gồm nhiều khâu, nhiều giai đoạn và thường diễn ra trong một khoảng thời gian
dài. Do đó nó ẩn chứa những mạo hiểm, rủi ro. Ngày nay, khi mà hoạt động đầu tư
đã vượt khỏi phạm vi lãnh thổ một nước, thì mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư

cũng ngày càng cao. Cùng với xu hướng này, các tranh chấp đầu tư đã phát sinh và
đang gia tăng về cả số lượng cũng như độ phức tạp.
Tóm lại, “Đầu tư” có thể được hiểu là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo
các hình thức, cách thức do pháp luật quy định để tiến hành hoạt động đầu tư
nhằm mục đích lợi nhuận.
Dựa trên những tiêu chí khác nhau, người ta có thể phân chia đầu tư
thành các loại khác nhau:
 Theo hình thức đầu tư: đầu tư theo hình thức thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư
góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp
đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư;
 Theo khu vực kinh tế tiếp nhận đầu vốn: đầu tư vào khu vực tư nhân và đầu tư
vào khu vực chính phủ;
 Căn cứ vào lĩnh vực đầu tư, có thể phân chia đầu tư thành nhiều loại như đầu tư
vào sản xuất, đầu tư vào thương mại hay dịch vụ;
 Căn cứ vào nguồn vốn: đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài (hay còn gọi là
đầu tư quốc tế).
Như vậy, theo cách phân loại như trên thì đầu tư nước ngoài hay đầu tư quốc
tế chính là một hình thức của hoạt động đầu tư. Đứng trên góc độ của một quốc
gia để xem xét hoạt động đầu tư từ quốc gia này sang quốc gia khác hoặc ngược
lại, chúng ta có thuật ngữ “đầu tư nước ngoài”. Nhưng nếu xét trên phương diện


tổng thể nền kinh tế thế giới thì tất cả các hoạt động đó được gọi là “đầu

tư quốc

tế”.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam không có khái niệm “đầu tư quốc tế”.
Thay vào đó là khái niệm về “nhà đầu tư nước ngoài” và “hình thức đầu tư ra nước
ngoài” (xem thêm hộp 2).

Hộp 2
Quy định của pháp luật Việt Nam về đầu tƣ quốc tế
• Khoản 14, Điều 3, Luật Đầu tƣ 2014
“Nhà đầu tư nước ngoài” là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành
lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
• Khoản 1, Điều 52, Luật Đầu tƣ 2014
Nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo các hình thức sau
đây:
 Thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu
tư;
 Thực hiện hợp đồng BCC ở nước ngoài;
 Mua lại một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của tổ chức kinh tế ở nước ngoài để tham
gia quản lý và thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại nước ngoài;
 Mua, bán chứng khoán, giấy tờ có giá trị khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư
chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài;
 Các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận
đầu tư.

Xuất phát từ cách định nghĩa đầu tư nêu trên, có thể hiểu đầu tư quốc tế chính
là việc nhà đầu tư chuyển vốn hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào khác từ nước này
sang nước khác để tiến hành hoạt động đầu tư nhằm mục đích thu lợi nhuận
hoặc lợi ích kinh tế xã hội. Việc tiến hành hoạt động đầu tư phải tuân theo
hình thức mà nước pháp luật nước tiếp nhận đầu tư quy định. Về bản chất, đầu tư
quốc tế chính là một hoạt động xuất khẩu tư bản, bởi vốn được di chuyển qua
khỏi biên giới các quốc gia.
1.1.1.2. Đặc điểm của đầu tư quốc tế


Đầu tư quốc tế mang đầy đủ các đặc điểm của đầu tư nói chung. Bên cạnh
đó, nó cũng có những đặc điểm riêng để phân biệt với đầu tư trong nước. Điểm

khác biệt dễ thấy nhất chính là tính “quốc tế” của hoạt động này. Để xác định
được tính “quốc tế” của các hoạt động đầu tư, trước hết cần xác định quốc tịch của
nhà đầu tư. Các hiệp định đầu tư thường có điều khoản quy định về tiêu chí để một
nhà đầu tư được bảo hộ. Với nhà đầu tư là thể nhân hay pháp nhân, quy định
trong IIA thường dẫn chiếu đến luật quốc tịch của các bên ký kết.
Hoạt động đầu tư quốc tế còn đặc trưng bởi nó là một hình thức xuất khẩu
tư bản. Tức là việc đưa vốn, tư bản từ nước này sang nước khác, hay nói cách
khác là có sự dịch chuyển tài sản qua biên giới quốc gia. Về điểm này có thể thấy
hoạt động xuất khẩu tư bản hay đầu tư quốc tế cũng giống như việc xuất khẩu hàng
hóa thông thường. Tuy nhiên, đối với hàng hóa đã được xuất khẩu thì quyền sở
hữu sẽ chuyển từ người bán sang người mua. Trong khi đó, đối với hoạt động đầu
tư quốc tế, quyền sở hữu vốn, tài sản đầu tư vẫn thuộc về nhà đầu tư ban đầu.
1.1.1.3. Các nguồn luật điều chỉnh hoạt động đầu tư quốc tế
Hoạt động đầu tư ngày càng phát triển và mở rộng thì mức độ phức tạp cũng
không ngừng gia tăng. Cùng với đó, các tranh chấp đầu tư quốc tế cũng liên tục
phát sinh. Đối với việc giải quyết tranh chấp (GQTC) về đầu tư, luật áp dụng là
vấn đề quan trọng và có tính quyết định hàng đầu. Thực tiễn GQTC đầu tư quốc
tế cho thấy, các nguồn luật cơ bản được áp dụng là các Điều ước quốc tế về đầu
tư, Luật quốc gia, và tập quán quốc tế.
Điều ước quốc tế điều chỉnh về đầu tư bao gồm Công ước Washington 1965
về giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia với công dân các quốc gia khác (sau đây
8

gọi tắt là công ước ICSID) , các Hiệp định đầu tư quốc tế (IIA) và các hiệp định đầu
tư trong phạm vi song phương (BIT), khu vực và đa phương (EIAs). Các IIAs là
một trong những nguồn cơ bản điều chỉnh hoạt động đầu tư quốc tế. Theo UNCTAD
- Diễn đàn Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc, từ những năm 1990
cho đến nay, hệ
thống các IIAs đã mở rộng đáng kể với sự gia tăng nhanh chóng của các BIT và
DTT. Mặc khác, sự gia tăng các tranh chấp giữa nhà đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư

cũng có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của các IIA. Trước thực tiễn các tranh
chấp với những
8

ICSID là một Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế được thành lập theo Công ước
Washington 1965 về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia và công dân của các quốc gia khác


vấn đề phát sinh liên quan tới việc giải thích và áp dụng IIA của các hội đồng
Trọng tài, các quốc gia giờ đây đã đưa ra những điều khoản mới, ngôn ngữ mới
khi ký kết IIA để phòng ngừa và giải quyết các vấn đề này. Vì thế, các IIA đang có
xu hướng mở rộng phạm vi các vấn đề điều chỉnh, và ngày càng trở nên phức tạp và
rắc rối hơn. Tuy nhiên, tựu chung lại, nội dung của các văn bản này thường là các
vấn đề có liên quan tới khuyến khích và bảo hộ đầu tư; đối xử đầu tư; thỏa thuận
về việc dành cho nhau quy chế tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia; bồi thường thiệt
hại; trưng dụng tài sản của nhà đầu tư; chuyển nhượng vốn; các hình thức và
biện pháp GQTC về đầu tư...

nhưng

cũng có thể chỉ đề cập tới những nguyên tắc pháp lý chung cho các chủ thể khi
9

tham gia vào quan hệ đầu tư quốc tế . Ngoài ra hoạt động đầu tư quốc tế cũng có
thể được điều chỉnh một phần bởi các EIAs với mục tiêu khuyến khích sự phát
triển của thương mại nói chung và đầu tư nói riêng. Ví dụ như trong BTA có
Chương IV về phát triển quan hệ đầu tư, hoặc trong Hiệp định thương mại tự do
Bắc Mỹ (NAFTA) có Chương XI quy định về GQTC giữa nhà đầu tư và Nhà
nước tiếp nhận đầu tư.
Bên cạnh điều ước quốc tế, luật quốc gia cũng được coi là một trong các

nguồn luật quan trọng điều chỉnh hoạt động đầu tư quốc tế. Pháp luật của nước
tiếp nhận đầu tư là lựa chọn thường xuyên nhất trong các vụ tranh chấp liên quan đến
đầu tư. Bởi lẽ quốc gia tiếp nhận đầu tư khó có thể chấp nhận việc sử dụng luật của
quốc gia khác để GQTC. Có trường hợp, ngay cả khi nhà đầu tư không đồng ý,
và hai bên không đạt
được thỏa thuận về luật áp dụng, một cách đương nhiên, luật của nước tiếp nhận
10

đầu tư sẽ được Hội đồng Trọng tài lựa chọn . Luật của nhà đầu tư hay một nước
thứ ba không phải là lựa chọn thường thấy khi GQTC.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận một thực tế là tập quán quốc tế vẫn đóng
một vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến
đầu tư. Thậm chí, trong trường hợp các bên có thỏa thuận về luật áp dụng, và
thỏa thuận này lựa chọn luật quốc gia tiếp nhận đầu tư mà không nhắc tới việc sử
dụng tập quán quốc tế, vẫn có những lí do để Hội đồng Trọng tài áp dụng tập quán
11

quốc tế . Các tập quán này được áp dụng trong GQTC với mục đích bổ sung cho các
khiếm khuyết, thiếu sót trong quy định của pháp luật của một quốc gia (vốn là vấn
đề tồn tại của bất cứ hệ thống pháp luật nào), cũng như bổ sung cho các quy
định của các BIT.
9

Ví dụ như: Công ước bảo đảm đầu tư đa biên (MIGA - Multilateral Investment Guarantee
Agreement); Hiệp định về các Biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS - Trade-Related


Investment Measure); Hiệp định đa phương về đầu tư (MAI); Công ước Washington 1965 về giải quyết
các tranh chấp liên quan đến đầu tư giữa nhà nước và công dân các nước khác (ICSID),...
10


Điều 42 Công ước Washington 1965 về giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia với công dân
các quốc gia khác
11

Chẳng hạn, trong vụ Maffezini v. The Kingdom of Spain, căn cứ vào BIT Tây Ban Nha – Áchen-ti- na và quốc gia của bị đơn, cho dù có các điều khoản về luật áp dụng trong BIT.


1.1.1.4. Tình hình hoạt động đầu tư quốc tế hiện nay
Kể từ giai đoạn đầu của quá trình hội nhập vốn quốc tế, cùng với sự phát
triển của kinh tế, gắn liền với quá trình toàn cầu hóa, hoạt động đầu tư quốc tế đã
không ngừng thay đổi và phát triển. Ở giai đoạn đầu, các nước thu hút cũng như
xuất khẩu vốn quốc tế chủ yếu là các nước công nghiệp. Ngược lại, nguồn vốn
đầu tư chảy vào các nước đang và kém phát triển rất nhỏ, dòng vốn đầu tư từ các
nước này lại càng ít hơn. Tuy nhiên, giai đoạn sau lại xuất hiện một xu hướng khác,
khi dòng chảy FDI vào những nước đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi tăng
dần. Đặc biệt cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu năm 2008-2009 đã
tác động mạnh mẽ đến dòng vốn đầu tư quốc tế. Theo đó, mặc dù vẫn duy trì được
vị thế là nguồn đầu tư FDI lớn nhất nhưng sự sụt giảm trong đầu tư FDI từ những
nước phát triển vẫn ngày một lan rộng. Trong khi đó, các nước có nền kinh tế
chuyển đổi và đang phát triển ngày càng củng cố mạnh mẽ hơn vị thế của họ trên
thế giới như là những nguồn đầu tư mới cho FDI. Đối với việc thu hút đầu tư, đầu
tư vào các nước phát triển so với các nước đang phát triển cũng đã giảm xuống
trong nhiều năm và có thể tiếp tục giảm trong tương lai.
Sau cuộc khủng hoảng từ cuối 2009, hoạt động đầu tư quốc tế trên toàn thế
giới đã có sự tăng trưởng trở lại vào nửa đầu năm 2010. Tuy nhiên, bước sang
giai đoạn năm 2011-2012, nền kinh tế toàn cầu lại tiếp tục đối mặt với một loạt
thách thức như cuộc khủng hoảng nợ công ngày càng nghiêm trọng của khu vực
đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), Mỹ - nền kinh tế hàng đầu thế giới phục hồi
chậm, còn Nhật Bản, Trung Quốc và các nước mới nổi khác, vốn cũng có

những vấn đề nội tại của mình
cũng bị ảnh hưởng không nhỏ. Dòng vốn FDI toàn cầu giảm trong năm 2014, đầu
12

tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu đã giảm 16% đến 1,23 nghìn tỷ USD . Do
những bất ổn của môi trường kinh tế toàn cầu, điều kiện tín dụng thắt chặt hơn và
lợi nhuận giảm sút khiến khả năng tài trợ các dự án ở nước ngoài của các công ty
yếu đi. Mặt khác, việc rủi ro ngày càng gia tăng đã làm xói mòn niềm tin của các
nhà đầu tư và do đó nhà đầu tư không còn muốn mở rộng hoạt động của mình ra thế
giới. Kết quả là nhiều công ty xuyên quốc gia (TNCs) lớn đang phải điều chỉnh
lại kế hoạch mở rộng
kinh doanh ra bên ngoài, và một loạt các dự án đầu tư mới (greenfield) cũng như
thông qua các hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp (M&A) bị đình lại
hoặc hủy bỏ. Tuy nhiên, UNCTAD dự báo một Xu hướng tăng dòng FDI hơn 1.5
nghìn tỷ USD trong năm 2016 và 1,7 nghìn tỷ USD vào năm 2017 do triển vọng


13

tăng trưởng ở Hoa Kỳ . Trong dài hạn, quá trình phục hồi hoạt động đầu tư
quốc tế nói chung và FDI nói
riêng được kỳ vọng sẽ trong đà tăng mạnh. Tuy tình hình phục hồi có khả quan
nhưng
12

Báo cáo UNCTAD (2015, tr.ix)

13

Báo cáo UNCTAD (2015, tr.2)



vẫn cần thận trọng. Lí do là vì cuộc khủng hoảng toàn cầu chưa kết thúc và
những rủi ro tại các thị trường như châu Âu, Mỹ với tình trạng nợ công vẫn còn
tiềm ẩn.
Cũng theo báo cáo này, những nền kinh tế mới nổi và đang phát triển sẽ tiếp
tục chiếm quy mô ngày càng tăng trong hoạt động đầu tư toàn cầu. Khu vực châu Á
, đặc biệt là Đông Á và Đông Nam Á, được xem như là nơi thu hút vốn đầu tư
lớn nhất trong khi khu vực châu Âu và những nước như Pháp, Đức, Anh lại có sự
khôi phục tương đối

14

yếu hơn . Trong khi dòng vốn đầu tư đang có xu hướng

chảy vào các nước
đang phát triển, một thực tế là phần lớn các nước này có hệ thống pháp luật chưa
hoàn thiện, trong đó có pháp luật về đầu tư. Điều này dẫn tới nhiều vấn đề pháp lý
phức tạp và làm tăng nguy cơ phát sinh tranh chấp giữa nhà đầu tư với cơ quan Nhà
nước ở các quốc gia này.
Bên cạnh đó, lĩnh vực đầu tư cũng đã có những thay đổi nhất định. Nếu
như trước kia, vốn đầu tư chủ yếu chảy vào sản xuất thì hiện nay, đã trải rộng trên
nhiều lĩnh vực như công nghiệp dịch vụ, hóa chất, khai khoáng, và cả các ngành
kinh doanh có chu kì kinh doanh nhạy cảm như thiết bị điện, điện tử, kim loại
và gỗ...Tuy vậy, quy mô đầu tư vào từng ngành khác nhau thì tăng, giảm khác
nhau. Đặc biệt, vốn đầu tư vào các ngành kinh tế ít phát thải Carbon đã xuất hiện
và chiếm tỉ trọng ngày càng lớn.
Có thể nói, nhìn một cách tổng thể, hoạt động đầu tư quốc tế đã và đang
phát triển mạnh mẽ, và ngày càng phức tạp. Điều này đặt ra yêu cầu về hoàn thiện
môi trường pháp lý và đặt ra nhiều vấn đề pháp lý đối với các bên tham gia quan hệ

đầu tư (các nhà đầu tư, Nhà nước của nhà đầu tư, Nhà nước tiếp nhận đầu tư).
1.1.2. Khái quát về tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia và các công dân quốc gia
khác
1.1.2.1. Khái niệm tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia và các công dân quốc gia khác
Tranh chấp là một khái niệm pháp lý có rất nhiều cách hiểu và định nghĩa
khác nhau. Theo từ điển pháp lý Black’s Law Dictionary, tranh chấp được định
nghĩa là sự bất đồng hay mâu thuẫn về quyền lợi hay các yêu cầu, đòi hỏi giữa hai
chủ thể. Để xác định sự tồn tại của tranh chấp trong các vụ tố tụng, trong một vụ
việc do Tòa thường trực về công lý quốc tế (PCIJ) giải quyết, tòa đã đưa ra một
định nghĩa rộng về tranh chấp. Đó là “sự bất đồng trên cơ sở
tế, sự mâu thuẫn về quan điểm

luật pháp hay thực


14

Theo báo cáo UNCTAD (2015, tr.x) cho thấy dòng vốn FDI trong năm 2014 vào Châu Á
tăng tới mức cao lịch sử 9%, đạt gần 500 tỷ USD, FDI vào Đông và Đông Nam Á tăng 10% đến 381tỷ
USD.


15

pháp lý hoặc về quyền lợi giữa hai chủ thể” . Theo quy định tại Khoản 1 Điều 25
Công ước ICSID thì “tranh chấp đầu tư” là “bất kỳ tranh chấp pháp lý nào phát
sinh trực tiếp từ hoạt động đầu tư”. Từ những cách định nghĩa trên, có thể hiểu
tranh chấp pháp lý có đặc điểm là sự bất đồng, mâu thuẫn trên cơ sở luật pháp hay
thực tế về quyền lợi hay nghĩa vụ giữa các chủ thể. Sự mâu thuẫn và bất đồng
này có thể phát sinh trong nhiều loại quan hệ pháp luật (dân sự, hình sự hoặc hành

chính) và giữa các chủ thể khác nhau. Trong quan hệ về đầu tư, tranh chấp có thể
phát sinh giữa các nhà đầu tư với nhau hoặc giữa nhà đầu tư và Nhà nước. Trong
phạm vi của đề tài nghiên cứu khoa học này, người viết chỉ xem xét đến tranh chấp
đầu tư giữa các quốc gia với công dân quốc gia khác.
Từ định nghĩa về tranh chấp, khái quát được tranh chấp đầu tư quốc tế
chính là sự bất đồng, mâu thuẫn về quyền lợi hoặc nghĩa vụ giữa các chủ thể là
quốc gia tiếp nhận đầu tư với công dân quốc gia khác.
Để hiểu rõ khái niệm tranh chấp giữa các quốc gia với công dân quốc gia
khác, cần hiểu được hai khái niệm là các quốc gia với công dân quốc gia
khác.Trong Công ước ICSID, “quốc gia” được hiểu là bất kỳ quốc gia nào ký kết
công ước này. Còn trong các IIA, “quốc gia”được hiểu là một bên ký kết trong
mối quan hệ với nhà đầu tư của bên ký kết khác.
“Công dân quốc gia khác” hiểu theo một cách khái quát là người tiến hành
các hoạt động đầu tư nhằm mục đích sinh lợi. Nhà đầu tư bao gồm thể nhân (cá
nhân) và pháp nhân (doanh nghiệp, tổ chức kinh tế,v.v..) có hoạt động đầu tư. Xét
theo mục đích bảo hộ của các hiệp định đầu tư, có hai vấn đề cần phải xem xét
khi định nghĩa thuật ngữ này, đó là tiêu chí để nhận định một thể nhân hay pháp
nhân là nhà đầu tư và căn cứ để quyết định một nhà đầu tư là nhà đầu tư nước ngoài.
Thông qua việc làm rõ khái niệm “đầu tư”, tiêu chí nhận biết “nhà đầu tư” trong
một vụ tranh chấp sẽ được cụ thể hóa tùy thuộc vào hiệp định đầu tư của các quốc
gia ký kết.
Theo Khoản 2(a) Điều 25 Công ước ICSID thì công dân của quốc gia ký kết là
người mang quốc tịch của các nước ký kết không phải là quốc gia tranh chấp tại
thời điểm mà các bên thỏa thuận giải quyết bằng hòa giải hoặc Trọng tài. Như vậy,
định nghĩa này khẳng định Trung tâm không có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp nếu thể nhân trong tranh chấp mang hai quốc tịch và một trong hai quốc tịch
16

đó là quốc tịch của nước tiếp nhận đầu tư . Ngoài ra, quốc tịch của nhà đầu tư
sẽ ảnh hưởng đến



15

Phán quyết số 2 của vụ Mavrommatis Palestine Concessions, năm 1924, PCIJ, series A, No.2,
trang
11.
16

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 4/2008, Cơ chế và thực tiễn giải quyết tranh chấp đầu tư
của
trung tâm giải quyết đầu tư quốc tế ICSID, Đỗ Hoàng Tùng, trang 72.


phạm vi bảo hộ của các IIA do các hiệp định này được ký kết với mục đích bảo hộ
17

các hoạt động đầu tư nước ngoài . Việc xác định quốc tịch của nhà đầu tư là thể
nhân trong các hiệp định đầu tư thường dẫn chiếu đến Luật quốc gia của các bên
ký kết. Ví dụ như BIT giữa Việt Nam và Ác-hen-ti-na có quy định khái niệm
“nhà đầu tư” là bất kỳ thể nhân là công dân một Bên ký kết phù hợp với pháp luật
18

Bên ký kết đó . Một số IIA đưa thêm các yếu tố khác bên cạnh luật quốc tịch của
19

quốc gia ký kết, đó là thời gian cư trú hoặc nơi cư trú. Với thể nhân mang từ hai
quốc tịch trở lên, việc xác định quốc tịch trong quá trình GQTC giữa nhà đầu tư
nước ngoài Nhà nước tiếp nhận đầu tư và sẽ gặp nhiều khó khăn, nhất là khi một
trong số đó là quốc tịch của nước tiếp nhận (Xem thêm tại Hộp 1.2).

Với pháp nhân, các hiệp định đầu tư có thể chỉ quy định đơn giản là bảo hộ
cho pháp nhân thành lập phù hợp luật pháp của các bên ký kết. Theo Khoản 2(a)
Điều 25 Công ước ICSID quy định pháp nhân có quốc tịch của quốc gia ký kết
không phải là quốc gia tranh chấp vào thời điểm đưa ra thỏa thuận giải quyết
bằng hòa giải hoặc Trọng tài thì thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước. Các
IIA có thể đưa thêm yếu tố là pháp nhân phải có trụ sở và hoặc thực tế kinh
doanh tại quốc gia ký kết (ví dụ như BIT Việt Nam – Vương quốc Ô-man sử dụng
thuật ngữ “kinh doanh đáng kể”). Trong quan hệ đầu tư quốc tế, vấn đề quốc tịch
của pháp nhân có thể bị lợi dụng qua hiện tượng “treaty shopping”, hiện tượng
gây ảnh hưởng đến mục đích bảo hộ của các hiệp định đầu tư (Xem thêm tại Hộp
Hộp 3
Khó khăn về vấn đề xác định quốc tịch của nhà đầu tƣ trong các IIA
Hiệp định đầu tư được ký kết nhằm bảo hộ các hoạt động đầu tư nước ngoài.
Để xác định được tính “ngoại” của các hoạt động đầu tư, cần xác định được quốc
tịch của nhà đầu tư. Các hiệp định đầu tư thường có điều khoản quy định về tiêu chí
để một nhà đầu tư được bảo hộ. Với nhà đầu tư là thể nhân hay pháp nhân, quy định
trong IIA thường dẫn chiếu đến luật quốc tịch của các bên ký kết. Tuy nhiên, việc
xác định quốc tịch của nhà đầu tư theo các IIA thường gặp các khó khăn sau:
Với nhà đầu tư là thể nhân, các BIT gặp khó khăn trong việc xác định nhà đầu tư được
bảo hộ khi thể nhân mang hai quốc tịch gồm quốc tịch của quốc gia nhận đầu tư và
quốc tịch của quốc gia còn lại. Lúc này, theo tập quán của pháp luật
1.2).


17

Điều này được hiểu là các IIA có mục đích bảo hộ nhà đầu tư có quốc tịch của một Bên ký kết
khác với Bên ký kết là quốc gia tiếp nhận đầu tư của nhà đầu tư đó.
18


Xem Điểm a, Khoản 2, Điều 1, BIT Việt Nam – Ác-hen-ti-na.

19

Xem Điểm c, Khoản 1, Điều 1, BIT Việt Nam – Úc.


×