Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH THÀNH PHỐ HƯNG YÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4 MB, 77 trang )

CHƢƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Khái quát về rủi ro tín dụng trong ngân hàng thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro là biến cố không mong đợi khi xảy ra dẫn tới tổn thất về tài sản của ngân
hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi
phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định. Trong hoạt động
kinh tế nói chung và trong hoạt động của ngân hàng nói riêng thì vấn đề rủi ro là
không thể tránh khỏi. Vì thế, các nhà quản trị không thể loại bỏ được rủi ro mà chỉ có
thể phát hiện kịp thời để có những biện pháp chủ động xử lý. Trong sự cạnh tranh gay
gắt của nền kinh tế thị trường, các nhà quản trị phải biết nhận biết và dự đoán trước
các rủi ro để sớm đưa ra các giải pháp phòng ngừa chống đỡ tác hại của nó.
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại. Nguồn thu từ hoạt
động tín dụng luôn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu nghiệp vụ ngân hàng và đem lại
phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng lại là hoạt động có
nhiều rủi ro nhất và phức tạp nhất. Hoạt động tín dụng liên quan chặt chẽ đến mọi lĩnh
vực của nền kinh tế. Mỗi rủi ro trong các lĩnh vực này đều tiềm ẩn rủi ro trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng thương mại. Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng thương
mại luôn đặt ra mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, đồng thời tối thiểu hoá rủi ro. Để đạt
được mục tiêu đó đòi hỏi ngân hàng thương mại phải có những giải pháp thích hợp để
quản lý và phòng ngừa rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng là rủi ro trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, là khả năng
gây ra tổn thất, thiệt hại của ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ (vốn gốc
và/hoặc lãi) theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Điều này có nghĩa là một khoản
vay dù chưa quá hạn vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tổn thất. Nhận thức được vấn đề
này sẽ giúp ngân hàng chủ động trong phòng ngừa, trích lập dự phòng, đảm bảo bù
đắp tổn thất khi xảy ra rủi ro.
1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng
1.1.2.1. Rủi ro hệ thống
Rủi ro hệ thống là rủi ro tác động đến toàn bộ hoặc hầu hết các khoản vay của


ngân hàng. Sự bấp bênh của môi trường kinh tế nói chung như sự sụt giảm GDP, biến
động lãi suất, tốc độ làm phát thay đổi,… là những minh chứng cho rủi ro hệ thống,

1

Thang Long University Library


những biến đổi này tác động đến khả năng trả nợ của khách hàng. Rủi ro hệ thống bao
gồm các loại sau:
(1) Rủi ro thị trƣờng: Rủi ro xuất hiện do phản ứng của các nhà kinh doanh đối
với các hiện tượng trên thị trường. Chẳng hạn như sự thiếu quy hoạch phân bổ đầu tư
một cách hợp lý dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành. Nền kinh tế
thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, nếu để sự canh tranh phát triển một cách tự
phát mà không có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước sẽ dẫn đến sự ra tăng quá đáng vốn
đầu tư tại các ngành đó, gây khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia.
(2) Rủi ro lãi suất: Rủi ro này xảy ra khi sự biến đổi lãi suất thị trường thay đổi
không theo dự tính của ngân hàng. Sự thay đổi lãi suất thị trường có thể ảnh hưởng
mạnh đến lợi nhuận và chi phí của ngân hàng.
(3) Rủi ro hoạt động: Là loại rủi ro dẫn đến tổn thất trực tiếp (hoặc gián tiếp
cho ngân hàng. Rủi ro hoạt động không phải là một khái niệm mới đối với các ngân
hàng. Chúng xảy ra hàng ngày trong ngành ngân hàng, có thể ảnh hưởng tới uy tín và
kết quả kinh doanh của ngân hàng như lỗi trong khi ghi sổ sách kế toán, lỗi th tín
dụng, hay một số thiết bị trong hoạt động ngân hàng bị hỏng.... Một số sự kiện có thể
gây ra tổn thất rất lớn như các hoạt động kinh doanh chứng khoán trái ph p, tham
nhũng, làm giả sổ sách hay các yếu tố bên ngoài như thiên tai, hỏa hoạn....
1.1.2.2. Rủi ro phi hệ thống
Rủi ro phi hệ thống là rủi ro chỉ tác động đến một loại tài sản hoặc một nhóm tài
sản, nghĩa là rủi ro này chỉ liên quan đến một khoản vay cụ thể nào đó. Rủi ro phi hệ
thuống bao gồm các loại sau:

(1) Rủi ro tín dụng do đọng vốn: Đây là rủi ro mà ngân hàng huy động vốn
nhưng không có kênh cho vay hoặc đầu tư. Để huy động được vốn, ngân hàng phải trả
lãi hay nói cách khác là chi phí vốn. Nếu không cho vay ra được, ngân hàng vẫn phải
chịu chi phí cho nguồn vốn đầu vào. Nếu tình trạng này kéo dài ngân hàng sẽ gặp trở
ngại đáng kể.
(2) Rủi ro trong thu hồi vốn và lãi: Rủi ro này gắn liền với hoạt động quan
trọng nhất và có quy mô lớn nhất của ngân hàng thương mại đó là hoạt động tín dụng.
Rủi ro hoạt động thu hồi vốn và lãi là khả năng tổn thất xảy ra khi khách hàng không
hoàn trả hoặc hoàn trả không đúng hạn gốc và lãi. Theo quy định trong văn bản hợp
nhất 22/VBHN-NHNN thì rủi ro tín dụng trong hoạt động thu hồi vốn và lãi được
phân loại như sau:
Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín
dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn; các khoản nợ
2


quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc
và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại; các khoản nợ được
phân loại vào nhóm 1 theo quy định.
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;
các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ
chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ
nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu); các khoản nợ được phân loại vào
nhóm 2 theo quy định.
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến
180 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh
kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định; các khoản nợ được miễn
hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định.
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360

ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định.
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn trên 360
ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ
hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; các khoản nợ cơ cấu lại
thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; các khoản nợ
khoanh, nợ chờ xử lý; các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định.
1.1.3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro hay nói cách khác hoạt động ngân
hàng luôn đối diện với rủi ro. Có hai nhóm nguyên nhân cơ bản dưới đây:
1.1.3.1. Nguyên nhân khách quan
Môi trƣờng kinh tế - xã hội
Rủi ro tín dụng xuất phát từ sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của
môi trường kinh tế thế giới, cùng những rủi ro tất yếu từ quá trình tự do hóa tài chính,
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách không
hợp lý dẫn đến khủng hoảng về đầu tư trong một số ngành.
Môi trường kinh tế tác động mạnh đến lĩnh vực kinh doanh ngân hàng cũng như
các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định thì các doanh
3

Thang Long University Library


nghiệp làm ăn có hiệu quả và có nhiều khả năng trả nợ cho ngân hàng. Ngược lại, khi
nền kinh tế rơi vào tình trạng bị suy thoái, mất ổn định làm cho các doanh nghiệp gặp
rất nhiều khó khăn trong hoạt đông kinh doanh, sản xuất bị đình trệ, sức mua giảm sút,
hàng hóa ứ đọng. Điều này làm cho các doanh nghiệp làm ăn k m hiệu quả, từ đó ảnh
hưởng trực tiếp tới việc trả nợ cho ngân hàng.

Ngoài ra, các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Chính phủ cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động của ngân hàng, có thể gây khó khăn cho một số khách hàng
của ngân hàng khi theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao đã làm tăng tỷ lệ lạm
phát dẫn đến giá của các nguyên liệu đầu vào tăng, giá thành sản phẩm tăng, hàng hóa
khó tiêu thụ được. Hơn nữa, việc nhập khẩu tràn lan những mặt hàng mà ở trong nước
có thể sản xuất được, từ đó làm tăng tính cạnh tranh cho các hàng hóa trong nước,
chậm tiêu thụ,… Trong một môi trường kinh tế lành mạnh, tiềm năng sản xuất và tiêu
dùng của xã hội còn lớn thì hoạt động sản xuất kinh doanh còn có nhiều cơ hội để phát
triển và ngược lại, khi nền kinh tế có hiện tượng lạm phát tăng vọt k o theo đồng tiền
nội địa bị mất giá dẫn đến kinh doanh trong nước gặp nhiều trở ngại và khó khăn khiến
cho rủi ro tín dụng tăng, khả năng thu hồi vốn tín dụng của ngân hàng bị hạn chế.
Môi trƣờng pháp lý
Cùng với môi trường Kinh tế - Xã hội, môi trường pháp lý tạo nên môi trường
cho vay của các ngân hàng thương mại. Môi trường cho vay có thể ảnh hưởng tích cực
hay tiêu cực, có thể hạn chế hay làm tăng thêm rủi ro đối với các hoạt động kinh doanh
tín dụng của ngân hàng thương mại.
Việc triển khai luật và các văn bản đã có vào hoạt động của ngân hàng còn chậm
chạp và gặp nhiều vướng mắc bất cập như việc cưỡng chế thu hổi nợ đều có quy định
là trong trường hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền xử lý tài sản đảm
bảo nợ vay. Nhưng trên thực tế các ngân hàng thương mại không làm được điều này,
vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải một cơ quan quyền lực Nhà nước,
không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng
để xử lý hoặc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay cho Tòa án xử lý qua con đường tố tụng
rất phức tạp với những thủ tục rườm rà, dẫn đến tình trạng NHTM không thể giải
quyết kịp thời nợ tồn đọng và tài sản tồn đọng.
Thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh
Đây là những rủi ro mà cả khách hàng và ngân hàng đều không lường trước được
đối với khoản tín dụng của mình, khách hàng gặp khó khăn ảnh hưởng đến khả năng
trả nợ vay ngân hàng. Mặc dù loại rủi ro này có thể được hạn chế bằng cách mua bảo
hiểm, nhưng khi loại rủi ro này xảy ra cả khách hàng và ngân hàng cũng phải mất

4


nhiều thời gian để lấy được khoản tiền bảo hiểm từ các công ty bảo hiểm để trả nợ vay
cho khách hàng.
1.1.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Từ phía khách hàng
Những nguyên nhân chủ yếu từ phía khách hàng như:
Sử dụng vốn vay sai mục đích, không có thiện trí trả nợ vay: Lợi dụng điểm sơ
hở của ngân hàng trong khâu thẩm định hồ sơ vay vốn, nhiều khách hàng sử dụng hồ
sơ giả để xin vay vốn. Vì vậy nhiều khách hàng lập dự án kinh doanh để xin vay vốn
nhưng khi được giải ngân lại sử dụng với mục đích khác, đầu tư những dự án thiếu an
toàn. Điều này làm cho nguồn trả nợ của khách hàng bấp bênh, thậm chí là mất khả
năng thanh toán. Nhiều khách hàng đến hạn thanh toán lại trốn tránh nhiệm vụ, gây
khó khăn cho cán bộ tín dụng trong việc thu hồi nợ khiến thu nhập của ngân hàng
giảm và còn làm thất thoát vốn.
Khả năng quản lý kinh doanh kém: Khi các doanh nghiệp vay tiền để mở rộng
quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh
nghiệp mạnh dạn đầu tư để thay đổi cung cách quản lý, đầu tư cho bộ phận giám sát
kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh lớn vượt quá
tư duy quản lý chính là nguyên nhân dẫn đến thất bại của những dự án có tính khả thi
mà đáng ra phải rất thành công trên thực tế.
Tình hình tài chính yếu kém, thiếu minh bạch: Khách hàng xin vay vốn không đủ
khả năng tài chính để trả nợ, gây khó khăn cho việc thu hồi nợ của ngân hàng. Ngoài
ra, những thông tin, chứng chỉ do khách hàng cung cấp chỉ mang tính hình thức chứ
không phải là thực chất nên khi cán bộ ngân hàng phân tích tài chính thường thiếu
thực tế. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng luôn coi nặng phần tài sản thế chấp
như là chỗ dựa cuối cùng để ngăn ngừa và hạn chế hậu quả của rủi ro tín dụng.
Từ phía ngân hàng
Ngân hàng là một ngành kinh doanh đặc biệt, đi vay rồi cho vay để hưởng phần

chênh lệch lãi. Do đó ngân hàng luôn phải xem xét kỹ lưỡng trước khi cho vay để đạt
hiểu quả, tránh rủi ro mất vốn. Vì thế rủi ro tín dụng do nguyên nhân từ phía ngân
hàng thường là các nguyên nhân sau:
Chính sách tín dụng không hợp lý: Quá nhấn mạnh vào mục tiêu lợi nhuận dẫn
tới cho vay đầu tư quá liều lĩnh, tập chung nguồn vốn cho vay quá nhiều vào một
doanh nghiệp hay một ngành kinh tế nào đó.

5

Thang Long University Library


Do thiếu am hiểu về thị trường: Thiếu thông tin hay phân tích thông tin không
đầy đủ dẫn đến cho vay không hợp lý.
Do cạnh tranh của các ngân hàng: Các ngân hàng mong muốn có lợi nhuận cao
hơn các ngân hàng khác.
Do cán bộ tín dụng: Các cán bộ không tuân thủ nguyên tắc tín dụng, không chấp
hành đúng quy trình cho vay. Cán bộ tín dụng yếu kém về trình độ nghiệp vụ; cán bộ
tín dụng vi phạm đạo đức kinh doanh.
Do tài sản đảm bảo: Việc định giá tài sản không chính xác, không thực hiện đầy
đủ các thủ tục pháp lý cần thiết, hay không đảm bảo các nguyên tắc về tài sản đảm bảo
là dễ định giá, dễ chuyển nhượng quyền sở hữu và dễ tiêu thụ. Ngoài ra, có thể do
tranh chấp trong nội bộ doanh nghiệp hoặc tranh chấp giữa các ngân hàng dẫn đến
không phát mại được tài sản.
1.1.4. Hậu quả của rủi ro tín dụng
1.1.4.1. Đối với ngân hàng thương mại
Hoạt động của một ngân hàng thương mại tại một quốc gia có liên quan đến cả
hệ thống ngân hàng, các tổ chức Kinh tế - Xã hội và cá nhân trong nền kinh tế tại quốc
gia đó. Do vậy nếu một ngân hàng có rủi ro trong hoạt động tín dụng cao không chỉ
ảnh hưởng tới lợi nhuận của ngân hàng, làm giảm tính thanh khoản mà còn ảnh hưởng

xấu đến các ngân hàng cùng hệ thống và các bộ phận kinh tế khác. Nếu NHNN và
Chính phủ không kịp thời can thiệp thì sẽ tác động lớn đến tâm lý và hành vi của
người gửi tiền, họ sẽ đồng loạt rút tiền ra khỏi ngân hàng làm cho các ngân hàng vô
hình dung mất đi khả năng thanh toán. Khi ngân hàng mất khả năng thanh toán, phải đi
vay từ nhiều nguồn khác nhau, uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ bị
giảm đi. Hơn nữa tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao cũng là một chỉ tiêu quan trọng
để đánh giá không tốt về tình hình hoạt động của ngân hàng, điều này sẽ ảnh hưởng
đến tâm lý đối tác của ngân hàng, dẫn đến việc huy động vốn trở nên khó khăn hơn và
gặp nhiều trở ngại trong việc cạnh tranh với các ngân hàng khác.
Những ngân hàng thương mại trực tiếp tham gia nghiệp vụ do không thu hồi
được nợ (gốc, lãi và các loại phí) làm cho nguồn vốn ngân hàng bị thất thoát, trong khi
ngân hàng vẫn phải chi trả tiền lãi cho nguồn vốn huy động, làm cho lợi nhuận giảm
sút, nợ xấu tăng cao, thậm trí nghiêm trọng hơn có thể dẫn tới phá sản. Nếu lợi nhuận
không đủ thì ngân hàng phải dùng chính vốn tự có của mình để bù đắp thiệt hại. Điều
này có thể làm ảnh hưởng đến quy mô hoạt động của NHTM.

6


1.1.4.2. Đối với nền kinh tế
Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức trung gian tài
chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức, các doanh
nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền sở hữu những khoản cho
vay vẫn là quyền sở hữu của những người gửi tiền vào ngân hàng. Bởi vậy, khi rủi ro
tín dụng xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt mà quyền lợi của người gửi tiền
cũng bị ảnh hưởng.
Ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế, là kênh thu hút và bơm tiền
cho nền kinh tế, vì vậy rủi ro tín dụng gây nên sự phá sản cho một ngân hàng sẽ làm
cho nền kinh tế bị rối loạn; hoạt động kinh tế bất ổn định và trì trệ; lạm phát, thất
nghiệp, tệ nạn xã hội gia tăng. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh

tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu
vực và thế giới. Mặt khác, mối liên hệ tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất mạnh
nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước liên
quan.
Tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra sẽ làm ảnh hưởng ở các mức
độ khác nhau: Nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi phải trích lập dự phòng,
không thu hồi được lãi cho vay. Nặng nhất thì ngân hàng không thể thu hồi được nợ
gốc và lãi vay, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình
trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hiệu quả
nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy
đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng cần phải hết sức thận trọng và có những biện pháp
thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.
1.2. Quản trị rủi ro tín dụng trong ngân hàng thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị rủi ro chính là trung tâm của hoạt động quản trị điều hành của mỗi ngân
hàng thương mại. Hiểu một cách đơn giản thì quản trị rủi ro chính là quá trình các
ngân hàng thương mại áp dụng các nguyên lý, phương pháp và kinh nghiệm quản trị
ngân hàng vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng mình để giám sát phòng ngừa, hạn
chế và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng, đầu tư và các hoạt động kinh doanh
khác để ngăn chặn tổn thất cho ngân hàng, đồng thời không ngừng nâng cao sức mạnh
và uy tín của ngân hàng trên thương trường. Quản trị rủi ro là bộ phận quan trọng
trong chiến lược kinh doanh của mỗi ngân hàng thương mại, đồng thời với mỗi loại rủi
ro cụ thể lại áp dụng những phương pháp quản trị riêng. Theo Basel II: “Quản lý rủi
ro là một quá trình liên tục cần được thực hiện ở mọi cấp độ của một tổ chức tài chính
7

Thang Long University Library


và là yêu cầu bắt buộc để các tổ chức tài chính có thể đạt được các mục tiêu đề ra và

duy trì khả năng tồn tại và sự minh bạch về tài chính.”
Như vậy, có thể hiểu quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các
chiến lược, các chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu
an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững. Đồng thời, phải tăng cường các biện pháp
phòng ngừa, hạn chế và giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh tín dụng, từ đó
tăng doanh thu, giảm chi phí và nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh cả trong
ngắn hạn và dài hạn của ngân hàng thương mại. Quản trị rủi ro tín dụng được hiểu như
một quá trình bao gồm nhiều hoạt động của nhà quản trị như nhận diện, đo lường,
giám sát và tài trợ rủi ro nhằm tối đa hóa lợi nhuận ở mức rủi ro có thể chấp nhận được.
1.2.2. Sự cần thiết của việc quản trị rủi ro tín dụng
Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang trong thời kỳ quá độ để chuyển sang một nền
kinh tế thị trường. Bản thân mỗi doanh nghiệp, tổ chức kinh tế chưa thoát khỏi tư
tưởng bao cấp, tư duy về nền kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế, do đó việc làm ăn
của các doanh nghiệp có nguy cơ dẫn đến rủi ro là rất lớn. Vì thế để nâng cao năng lực
quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng không chỉ là người cung cấp vốn cho các doanh
nghiệp mà ngân hàng còn phải là người hiểu rõ hơn ai hết về lĩnh vực kinh doanh của
doanh nghiệp, có như thế thì ngân hàng mới mở rộng được các dịch vụ của mình như
dịch vụ tư vấn... giúp ngân hàng tránh khỏi được những rủi ro không đáng có.
Nâng cao năng lực cạnh tranh
Điều quan trọng để thu hút được khách hàng sử dụng các dịch vụ của ngân hàng
là yếu tố thương hiệu và tính an toàn, gia tăng được tiện ích, dịch vụ khác biệt và đảm
bảo quyền lợi tốt nhất cho khách hàng sử dụng. Để ngân hàng có thể đứng vững trong
cuộc cạnh tranh này, một trong những yếu tố không thể thiếu là phải tăng cường công
tác quản trị và nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng nhằm giữ chân khách hàng,
giúp ngân hàng nắm bắt được những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động kinh doanh
để chủ động trong việc tìm kiếm đầu ra phù hợp cho nguồn vốn.
Đảm bảo tính thanh khoản
Tính thanh khoản của ngân hàng được xem như khả năng tức thời để đáp ứng
nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân các khoản tín dụng đã cam kết. Vì vậy quản trị rủi ro

tín dụng là vô cùng cần thiết, góp phần đảm bảo tính an toàn cho nguồn vốn của ngân
hàng, giúp ngân hàng có khả năng cung ứng đầy đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu của
khách hàng.
8


Đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh
Hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng trong nền kinh tế
thị trường, nhưng cũng là nơi chứa đựng nhiều rủi ro nhất, vì vậy ngân hàng không thể
không quan tâm đến sự an toàn với các khoản cho vay. Chính vì thế, vấn đề nâng cao
năng lực quản trị rủi ro tín dụng là vấn đề quan trọng, sống còn đối với ngân hàng để
có thể nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh một cách tối ưu, vừa là yếu tố đảm bảo
cho ngân hàng duy trì hoạt động, vừa giúp ngân hàng phát triển.
Gia tăng uy tín
Một trong những tiêu chí để khách hàng lựa chọn và tìm đến với ngân hàng là
chất lượng sản phẩm dịch vụ cũng như uy tín thương hiệu của ngân hàng. Vì vậy, quản
trị rủi ro tín dụng giúp cho ngân hàng cung cấp dịch vụ tốt hơn, đáp ứng nhu cầu kịp
thời hơn và tạo lòng tin đối với khách hàng.
1.2.3. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng
1.2.3.1. Nhận diện rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là điều khó tránh khỏi trên con đường tìm kiếm lợi nhuận. Lợi
nhuận và rủi ro là hai yếu tố song hành trong quá trình kinh doanh tiền tệ. Lĩnh vực
tiền tệ nào có khả năng mang lại lợi nhuận cao thì ở đó rủi ro có thể xảy ra cũng rất lớn.
Điều kiện tiên quyết để quản trị rủi ro là phải nhận diện được rủi ro. Nhận diện
rủi ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các hoạt động kinh doanh của ngân
hàng và khách hàng, bao gồm: Việc theo dõi, xem xét, nghiên cứu môi trường hoạt
động và toàn bộ hoạt động của ngân hàng, cũng như của doanh nghiệp vay vốn nhằm
thống kê tất cả các loại rủi ro, kể cả dự báo những loại rủi ro mới có thể xuất hiện
trong tương lai, để từ đó có những biện pháp kiểm soát, tài trợ cho từng loại rủi ro phù
hợp. Một số dấu hiệu rủi ro cụ thể từ phía khách hàng và ngân hàng như:

Từ phía khách hàng
- Trì hoãn hoặc gây khó khăn, trở ngại đối với ngân hàng trong quá trình kiểm
tra theo định kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính
của khách hàng mà không cố sự giải thích minh bạch và thuyết phục.
- Có biểu hiện không thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật trong quá
trình quan hệ tín dụng.
- Không có các báo cáo hay dự đoán về lưu chuyển tiền tệ.
- Đề nghị gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần không có lý do hoặc thiết căn
cứ thuyết phục mang tính kế hoạch về việc gia hạn hay điều chỉnh kỳ hạn nợ.
- Chậm thanh toán các khoản lãi, gốc khi đến hạn.
9

Thang Long University Library


- Sự sụt giảm bất thường trong số dư tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng.
- Xuất hiện các khoản nợ do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc do
việc tiêu thụ hàng, thu hồi công nợ chậm hơn dự kiến.
- Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản đảm bảo bị giảm sút so
với định giá khi cho vay.
- Chấp nhận các nguồn vay với giá cao với mọi điều kiện.
Từ phía ngân hàng
- Đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng.
- Cấp tín dụng theo cam kết không chắc chắn và thiếu tính bảo đảm của khách
hàng về việc duy trì một khoản tiền gửi lớn hoặc các lợi ích do khách hàng
đem lại từ khoản tín dụng được cấp.
- Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá khả năng và năng lực kiểm
soát cũng như nguồn vốn của ngân hàng.
- Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đầy đủ các
quy định hiện hành về phê duyệt tín dụng.

- Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá, hạ thấp lãi suất cho vay, hoặc thực hiện
chiến lược giữ chân khách hàng bằng các khoản tín dụng mới để họ không có
quan hệ với các tổ chức tín dụng khác mặc dù biết rõ khoản tín dụng tiềm ẩn
nguy cơ rủi ro cao.
1.2.3.2. Đo lường rủi ro tín dụng
Đo lường rủi ro là quá trình tính toán tần suất xuất hiện rủi ro, tiến độ và mức độ
nghiêm trọng của rủi ro để có thể đưa ra biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng cần thiết.
Muốn vậy, phải thu thập số liệu, lập ma trận đo lường và phân tích, đánh giá. Để đo
lường rủi ro đối với ngân hàng người ta sử dụng hai tiêu chí: Tần suất xuất hiện của rủi
ro và biên độ của rủi ro. Thông thường, các ngân hàng sử dụng một mô hình tiêu biểu
để xác định mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng trước những thông tin thu thập
được hay còn gọi là phân tích rủi ro tín dụng như:
(1) Mô hình 5C trong phân tích tín dụng
Mô hình 5C trong phân tích tín dụng bao gồm:
- Capacity - Cash flow (Năng lực - Luồng tiền dự tính trả nợ).
- Capital (Cấu trúc vốn).
- Collateral (Tài sản thế chấp).
- Character (Thái độ, sự thể hiện của khách hàng).
10


- Conditions (Các điều kiện khác).
Thực chất mô hình này sử dụng những tiêu chuẩn đánh giá tín dụng qua hai
mảng chính là phân tích tài chính và phân tích phi tài chính:
(1.1) Phân tích phi tài chính: Là phân tích các yếu tố ít hoặc nhiều liên quan trực
tiếp đến vấn đề tài chính của khách hàng. Phân tích phi tài chính bao gồm nhiều vấn đề
như:
 Tính pháp lý của khách hàng.
 Khoản tín dụng đề nghị cấp.
 Tính cách của khách hàng, uy tín của họ trong cuộc sống, trong kinh doanh.

 Tình hình quản trị doanh nghiệp, khả năng và uy tín của Hội đồng Quản trị,
Ban điều hành, Giám đốc,… và những người có ảnh hưởng lớn đến khả
năng tài chính của khách hàng.
 Triển vọng và vị thế của khách hàng trên thị trường.
 Sản phẩm và chiến lược phát triển trong tương lai của khách hàng.
 Các chính sách có liên quan đến khách hàng.
Phân tích phi tài chính này rất có ý nghĩa với ngân hàng và là bộ phận quan trọng
trong phân tích tín dụng. Kết quả phân tích phi tài chính sẽ tăng thêm cơ sở chắc chắn
cho các quyết định tài trợ của ngân hàng.
(1.2) Phân tích tài chính: Là phân tích hiện trạng tài chính và dự báo về tài chính
trong tương lai của khách hàng nhằm tìm kiếm và ước lượng những trường hợp xấu có
thể xảy ra làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng, làm cơ sở cho các quyết định cấp
tín dụng của ngân hàng.
Trong phân tích tài chính, ngân hàng sẽ quan tâm đến các vấn đề:
- Tài sản của khách hàng: Các thông tin về tài sản cho thấy quy mô, chất
lượng tài sản - rất quan trọng đối với quyết định chi vay. Hơn nữa, một phần
tài sản của khách hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho khoản vay, tạo khả
năng thu hồi nợ khi khách hàng mất khả năng sinh lời.
- Các khoản nợ của khách hàng: Liên quan đến việc đánh giá các khoản nợ
của khách hàng, ngân hàng sẽ phân tích các chỉ số hoạt động đối với khách
hàng:
 Chỉ số vòng quay các khoản phải thu.
 Chỉ số vòng quay hàng tồn kho.
 Chỉ số vòng quay các khoản phải trả.
11

Thang Long University Library


 Chỉ số vòng quay TSCĐ.

 Tỷ lệ CF đầu tư TSCĐ/Khấu hao.
- Khả năng sinh lời của khách hàng: Là yếu tố quyết định khả năng hoàn trả
vốn và lãi cho ngân hàng. Khi phân tích khả năng sinh lời, ngân hàng sẽ chú ý
tới nhóm chỉ tiêu như:
 Tỷ lệ hoàn vốn (ROI).
 Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA).
 Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE).
- Khả năng thanh toán của khách hàng: Khả năng thanh toán ngắn hạn được
đo lường bằng khả năng chuyển hóa thành tiền của tài sản ngắn hạn để thanh
toán cho các khoản nợ ngắn hạn.
 Hệ số khả năng thanh toán hiện hành.
 Hệ số khả năng thanh toán nhanh.
 Hệ số khả năng thanh toán bằng tiền.
 Đánh giá khả năng vay và thanh toán nợ (so sánh EBIT và lãi vay phải trả,
so sánh dòng tiền từ hoạt động SXKD và nợ dài hạn đến hạn, so sánh dòng
tiền từ hoạt động SXKD với lãi vay).
 Phân tích lưu chuyển tiền tệ (luồng tiền từ hoạt động SXKD, hoạt động đầu
tư, hoạt động tài chính).
- Phân tích, đánh giá phƣơng án, dự án đầu tƣ: Là quá trình kiểm tra, đánh
giá lại dự án (khách hàng đã soạn thảo) một cách kỹ lưỡng. Thẩm định dự án
nhằm xác định khả năng chắc chắn của việc thu hồi nợ, hưởng lãi từ dòng tiền
mang lại từ dự án mà chủ đầu tư với tư cách là người đi vay đã chứng minh và
cam kết. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động tín dụng cũng
như hiệu quả của công tác quản trị rủi ro tín dụng trong ngân hàng.
- Phân tích và đánh giá TSĐB: Thẩm định TSĐB nhằm dự toán giá trị của
TSĐB đó, để quyết định xem đã đủ để đảm bảo cho khoản vay trong tường
hợp xảy ra vỡ nợ hay chưa.
Thông qua phân tích tài chính, ngân hàng xác định được như cầu vay vốn hợp lý
của khách hàng cùng với thời hạn vay và kỳ hạn trả nợ hợp lý. Ngoài ra, phân tích tài
chính cũng tiên lượng được những rủi ro có thể xảy ra với khoản tín dụng sẽ cấp.

12


(2) Mô hình điểm số Z
Phương pháp xếp hạng tín dụng qua phương pháp định lượng là sử dụng mô hình
E.i.Altman (Mô hình điểm số Z để khắc phục những hạn chế của mô hình chấm điểm
và nâng cao tính khách quan qua việc lượng hóa. Đây là một mô hình định lượng dựa
trên việc mô hình hoá các mối quan hệ giữa các biến qua đó phản ánh chất lượng tín
dụng và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng từ phía khách hàng. Đại lượng
Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay.
Từ đó, hàm số phân biệt của Altman có dạng như sau:
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5
Trong đó: X1 = Tỷ số “Vốn lưu động ròng/Tổng tài sản”
X2 = Tỷ số “Lợi nhuận giữ lại/Tổng tài sản”
X3 = Tỷ số “Lợi nhuận trước thuế và lãi vay/Tổng tài sản”
X4 = Tỷ số “Thị giá cổ phiếu/Giá trị ghi sổ của nợ dài hạn”
X5 = Tỷ số “Doanh thu/Tổng tài sản”
Chỉ số Z đo lường toàn bộ mức độ rủi ro của người vay. Nếu khách hàng có điểm
số thấp hơn 1,81 sẽ bị xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao. Cụ thể như sau:
Z > 2,99 : Lành mạnh
1,81 < Z < 2,99: Không rõ ràng
Z < 1,81 : Vỡ nợ
Mô hình được xây dựng trên nền kinh tế của nước Mỹ, dành riêng cho những
doanh nghiệp sản xuất đã cổ phần hóa có quy mô lớn (từ 1 triệu USD trở lên). Qua đó
lượng hóa được khả năng phá sản của doanh nghiệp, cũng như phần rủi ro tín dụng mà
ngân hàng cho vay phải gánh chịu một cách đơn giản và nhánh chóng. Ngoài ra, các
thông tin và số liệu vận dụng vào mô hình hoàn toàn có thể thu thập nhanh chóng trên
các báo cáo tài chính của doanh nghiệp và loại bỏ được yếu tố chủ quan của người
phân tích.
(3) Mô hình xếp hạng của Moody’s

Mô hình xếp hạng của Moody’s là mô hình xếp hạng tín nhiệm nhằm mục đích
đánh giá các rủi ro tín dụng liên quan đến nghĩa vụ tài chính của một tổ chức trong
13

Thang Long University Library


tương lai. Mô hình xếp hạng tình trạng hoạt động của các doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ
rủi ro hàng năm, chất lượng này có thể thay đổi qua từng năm. Các doanh nghiệp đầu
tư tỷ lệ rủi ro dưới 0,1%, còn các doanh nghiệp đầu cơ thì tỷ lệ thường dao động từ
0,2% đến 0,8%.
Bảng 1.1 Mô hình xếp hạng của Moody’s
Tỷ lệ rủi ro hằng năm
STT Xếp hạng

Tình trạng
(%)

1

Aaa

Chất lượng cao nhất

0,02

2

Aa


Chất lượng cao

0,04

3

A

Chất lượng khá

0,08

4

Baa

Chất lượng vừa

0,2

5

Ba

Nhiễu yếu tố đầu cơ

1,8

6


B

Đầu cơ

8,3
(Nguồn: Báo cáo của Moody’s)

Mô hình này giúp cho ngân hàng có thể đo lường được khả năng ngân hàng đó
cần sự giúp đỡ từ bên ngoài để tránh đổ vỡ.
(4) Mô hình xếp hạng tín dụng (chấm điểm tín dụng)
Mô hình điểm tín dụng là quy trình đánh giá xác xuất một khách hàng không
thực hiện được các nghĩa vụ tìa chính của mình đối với ngân hàng. Mô hình sử dụng
những số liệu phản ánh đặc điểm của người vay (các thông tin phi tài chính, BCTC,
thông tin được lưu trữ tại ngân hàng, … để tính toán xác xuất của rủi ro tín dụng hoặc
để phân loại khách hàng trên cơ sở mức độ rủi ro đã được xác định.
Nguyên tắc chấm điểm tín dụng là cán bộ tín dụng sẽ thu được điểm ban đầu và
điểm tổng hợp để xếp hạng khách hàng:
- Điểm ban đầu: Là điểm của từng tiêu chí chấm điểm tín dụng.
- Điểm tổng hợp: Bằng điểm ban đầu nhân với trọng số.
- Trọng số: là mức độ quan trọng của từng tiêu chí chấm điểm tín dụng (chỉ số
tài chính hoặc yếu tố phi tài chính x t trên góc độ tác động rủi ro tín dụng.
14


Đối tượng áp dụng mô hình chấm điểm là khách hàng doanh nghiệp và khách
hàng cá nhân:
(4.1) Xếp hạng tín dụng khách hàng doanh nghiệp
Ngân hàng căn cứ vào ba tiêu chí để xếp hạng tín dụng cho doanh nghiệp:
- Loại hình doanh nghiệp: Ngân hàng phân loại doanh nghiệp để xếp hạng
theo ngành kinh tế và theo quy mô.

 Theo ngành kinh tế gồm nông, lâm, ngư nghiệp, dịch vụ.
 Theo quy mô gồm doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh
nghiệp siêu nhỏ. Quy mô doanh nghiệp được đánh giá dựa trên các tiêu chí
như vốn, doanh thu, nghĩa vụ nộp thuế, số lượng lao động.
- Các chỉ tiêu tài chính: Như chỉ tiêu thanh khoản, chỉ tiêu hoạt động, chỉ tiêu
về đòn bẩy tài chính, chỉ tiêu về khả năng sinh lời.
- Các chỉ tiêu phi tài chính: Như chỉ tiêu về uy tín trong giao dịch, chỉ tiêu về
chất lượng quản lý, chỉ tiêu liên quan đến dòng tiền.
Sau khi đã phân loại và cho điểm dựa vào các chỉ tiêu trên, ngân hàng sẽ căn cứ
xem mức độ tin cậy của các thông tin và tính ra điểm xếp hạng tín dụng cụ thể. Sau đó,
ngân hàng tính toán ra tổng điểm cuối cùng và xếp hạng doanh nghiệp vào 10 hạng
theo chuẩn mực: AAA, AA, A, BBB, BB, B, CCC, CC, C, D.
Tùy vào đánh giá và cho điểm tại mỗi ngân hàng khác nhau, ngân hàng sẽ giải
thích ý nghĩa và đánh giá tình hình tài chính và rủi ro tài chính của khách hàng, tạo cơ
sở cho việc ra quyết định cho vay và giám sát sau khi cho vay.
(4.2) Xếp hạng tín dụng khách hàng cá nhân
Khách hàng cá nhân khi có nhu cầu vay vốn thường xuyên và có mối quan hệ tín
dụng lâu dài với ngân hàng, ngân hàng thực hiện việc đánh giá cho điểm và xếp hạng
tín dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc xem xét cho khách hàng vay vốn tại
đơn vị.
Mô hình đánh giá và cho điểm khách hàng cá nhân thường dựa trên các thông tin
lịch sử thu thập từ các giao dịch với ngân hàng và việc xác định trọng số phù hợp với
từng chỉ tiêu dựa vào công tác thống kê của ngân hàng.
Các thông tin cần thu thập, đánh giá và cho điểm khách hàng cá nhân như:
- Cá nhân người vay vốn.
- Người vay liên quan.
- Tình trạng hôn nhân.
15

Thang Long University Library



- Tài sản và nghĩa vụ nợ.
- Lịch sử giao dịch với ngân hàng.
Khoản vay được chấp thuận sẽ có tổng điểm lớn hơn hoặc bằng mức điểm đã quy
định tại ngân hàng và từ đó ngân hàng sẽ đưa ra phán quyết tín dụng với khách hàng.
1.2.3.3. Kiểm soát rủi ro tín dụng
Kiểm soát rủi ro tín dụng là một trong các nội dung quan trọng của quản trị rủi ro
tín dụng. Đó là việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, công cụ, chiến lược, các chương
trình hoạt động để ngăn ngừa, phòng tránh hoặc giảm thiểu những tổn thất, những ảnh
hưởng không mong đợi có thể xảy ra với ngân hàng.
Các điều kiện cơ sở của mỗi khoản vay thường xuyên biến đổi, tác động vào vị
thế tài chính, năng lực hoàn trả của người vay nên phải thực hiện kiểm soát và xem xét
định kỳ các khoản vay. NHTM cần phải kiểm soát, đánh giá được những đặc tính quan
trọng nhất đối với mỗi khoản vay như đánh giá quá trình thanh toán của khách hàng,
đáng giá chất lượng và tình trạng của tài sản thế chấp, đánh giá sự thay đổi trong tình
hình tài chính và nhu cầu tín dụng của người vay, theo dõi thường xuyên đối với các
khoản vay.
Kiểm soát khoản cho vay là đòi hỏi bắt buộc đối với ngân hàng, qua đó ngân
hàng có thể phát hiện ra nhanh hơn các khoản vay có vấn đề, giúp các nhà quản trị
đánh giá toàn bộ rủi ro tiềm tàng của ngân hàng và nhu cầu vốn của nó trong tương lai.
Trên cơ sở đánh giá được mức độ rủi ro tín dụng đối với một khoản tài trợ mà
ngân hàng đưa ra những biện pháp kiểm soát rủi ro tín dụng ở mức dự kiến bằng cách
sử dụng một số biện pháp kiểm soát rủi ro như sau:
(1) Kiểm tra, rà soát trƣớc, trong và sau khi cho vay: Ngân hàng yêu cầu cán
bộ tín dụng quản lý những khoản vay của mình một cách chặt chẽ ngày từ khi nhận
được hồ sơ tín dụng nhằm đảm bảo được tính an toàn cho khoản vay, và kịp thời kiểm
soát cũng như xử lý một cách nhanh chóng khi rủi ro tín dụng xảy ra.
(2) Thực hiện giao dịch đảm bảo: Khi thấy dấu hiệu các khoản vay có vấn đề,
ngân hàng yêu cầu khách hàng thực hiện giao dịch đảm bảo như việc cầm cố, thế chấp

tài sản, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp… góp phần đảm bảo cho khả năng thu hồi nợ của
ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ.
(3) Hợp đồng hoán đổi tín dụng
Hợp đồng hoán đổi tín dụng là một công cụ tín dụng phái sinh, trong đó hai tổ
chức cho vay thỏa thuận trao đổi cho nhau một phần các khoản vay thanh toán theo
hợp đồng tín dụng mỗi bên.
16


Thông thường sẽ có một bên thứ ba (được cả hai tổ chức cho vay tín nhiệm) tham
gia vào hợp đồng này với vai trò là tổ chức trung gian điều chuyển các khoản thanh
toán mỗi bên.
Hợp đồng này giúp cho các ngân hàng đa hạng hóa danh mục tài sản, giúp các
bên nhận được các khoản thanh toán từ một hệ thống thị trường khác, giảm sự phụ
thuộc vào một thị trường truyền thống.
(4) Hợp đồng quyền chọn tín dụng
Hợp đồng quyền chọn tín dụng là cam kết quy định quyền và nghĩa vụ giữa tổ
chức tín dụng (người mua quyền) và tổ chức kinh doanh quyền chọn (người bán
quyền . Trong đó người mua quyền có quyền mua hoặc quyền bán một khoản tín dụng
nhất định (với những điều kiện về thu nhập và rủi ro được xác định trước và có nghĩa
vụ trả phí mua quyền cho người bán quyền).
Đây là công cụ bảo vệ ngân hàng trước những tổn thất trong giá trị tài sản tín
dụng và giúp bù đắp mức phí vay cao hơn khi chất lượng tín dụng của ngân hàng giảm
sút. Nhưng mặt khác cũng làm phát sinh một khoản chi phí đối với ngân hàng nên
trong trường hợp ngân hàng không thực hiện quyền sẽ làm giảm thu nhập ròng từ
khoản tín dụng. Cũng như các công cụ khác, hợp đồng quyền chọn tín dụng lại chứa
đựng một rủi ro tín dụng từ phía tổ chức bán quyền nếu tổ chức này không thực hiện
giao dịch như cam kết.
(5) Trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
NHTM phân ra làm 2 loại dự phòng là dự phòng chung và dự phòng cụ thể:

- Dự phòng chung là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất
chưa xác định trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể... Dự
phòng chung được tính bằng 0,75% tổng số dư nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 sau
khi đã kháu trừ tài sản đảm bảo.
- Dự phòng cụ thể là khoản dự phòng được trích lập trên cơ sở phân loại các
khoản nợ theo quy định để xử lý những khoản rủi ro cụ thể có thể xảy ra.
Theo Văn bản hợp nhất 22/2014/VBHN-NHNN ban hành quy định về phân
loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân
hàng, tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với năm nhóm nợ quy định như sau:
Nhóm 1 là 0%, nhóm 2 là 5%, nhóm 3 là 20%, nhóm 4 là 50%, nhóm 5 là
100% (riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý, tổ chức tín
dụng trích lập dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng).

17

Thang Long University Library


Một khoản cho vay được cho là có vấn đề khi ngân hàng nhận thấy sự suy giảm
trong khả năng trả nợ của khách hàng hoặc giá trị tài sản đảm bảo bị giảm sút. Khi đó,
ngân hàng sẽ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng cho các khoản vay này để hạn chế một
cách nhanh nhất tổn thất từ những khoản vay đó.
1.2.3.4. Tài trợ rủi ro tín dụng
Tài trợ rủi ro tín dụng là việc ngân hàng dùng các nguồn tài chính trong và ngoài
ngân hàng bù đắp tổn thất các khoản cho vay khi rủi ro xảy ra. Nợ rủi ro sau khi được
xử lý sẽ được thu hồi hoặc được chuyển qua theo dõi ngoại bảng.
Mặc dù đã thực hiện các biện pháp phòng ngừa, nhưng rủi ro vẫn có thể xảy ra.
Khi đó cần theo dõi, xác định chính xác những tổn thất về tài sản, nguồn nhân lực hoặc
về giá trị pháp lý. Sau đó cần thiết lập những biện pháp tài trợ rủi ro phù hợp và tìm
kiếm các nguồn tài trợ rủi ro tín dụng như:

(1) Cơ cấu lại thời hạn trả nợ: Khi các khoản vay đến hạn mà khách hàng có
dấu hiệu không trả được nợ, ngân hàng sẽ xem xét lại thông tin và khả năng trả nợ của
khách hàng để cơ cấu lại thời hạn trả nợ, để giảm thiểu được nợ xấu phát sinh và
khuyến khích khách hàng trả nợ cho ngân hàng.
Các biện pháp cơ cấu lại nợ bao gồm hai hình thức:
(1.1) Gia hạn nợ: Gia hạn nợ vay là việc tổ chức tín dụng chấp thuận kéo dài
thêm một khoảng thời gian trả nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay, vượt quá thời hạn cho vay
đã thoả thuận trước đó trong hợp đồng tín dụng.
(1.2) Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ: Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ là việc tổ chức tín dụng
chấp thuận thay đổi kỳ hạn trả nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay trong phạm vi thời hạn cho
vay đã thoả thuận trước đó trong hợp đồng tín dụng, mà kỳ hạn trả nợ cuối cùng không
thay đổi.
(2) Xử lý tài sản đảm bảo
Qua nhận diện và giám sát rủi ro, ngân hàng yêu cầu khách hàng đảm bảo khoản
vay bằng tài sản để khi rủi ro xảy ra, khách hàng không trả được nợ, ngân hàng sẽ
dùng chính tài sản đảm bảo đó để bù đắp tổn thất gây ra cho ngân hàng.
(3) Chứng khoán hóa các khoản cho vay
Chứng khoán hóa là một quá trình tài chính cơ cấu, tại đó các tài sản thế
chấp khác nhau của những người đi vay được tập hợp và đóng gói rồi được dùng làm
đảm bảo để phát hành các trái phiếu (gọi chung là trái phiếu đảm bảo bằng tài sản).
Tiền từ người mua các chứng khoán này sẽ được chuyển đến các tổ chức tài chính cho
vay thế chấp để các tổ chức này cho người đem thế chấp tài sản vay tiền. Chứng khoán
18


hóa chính là quá trình đưa các tài sản thế chấp sang thị trường thứ cấp nơi mà chúng
có thể trao đi đổi lại. Nó đã biến các tài sản kém thanh khoản thành những chứng
khoán thanh khoản cao.
Các bên tham gia vào hoạt động chứng khoán hóa các khoản cho vay:
- Người vay nợ.

- Ngân hàng phát hành chứng khoán trên cơ sở các khoản cho vay.
- Tổ chức được ủy thác và nhà đầu tư mua chứng khoán đó.
Khi các tài sản được thanh toán, ngân hàng sẽ chuyển khoản thanh toán này cho
người sở hữu những chứng khoán được mua bán tự do. Tổ chức được ủy thác sẽ có
trách nhiệm giám sát và bảo đảm người đi vay thực hiện đầy đủ những yêu cầu chuyển
giao các khoản nợ và cung cấp đầy đủ các dịch vụ cam kết. Đồng thời tổ chức ủy thác
tập trung và phân phối cho nhà đầu tư những khoản thu nhập từ các khoản cho vay.
Quy trình chứng khoán hóa được tóm tắt như sau:
- Ngân hàng cho vay đối với khách hàng.
- Khách hàng chuyển giao các chứng từ nợ.
- Ngân hàng phát hành chứng khoán trên các khoản cho vay.
- Tổ chức ủy thác bán chứng khoán cho các nhà đầu tư và thu tiền về.
- Ngân hàng thu hồi vốn từ bán chứng khoán.
- Tổ chức ủy thác giám sát người vay.
- Các khoản tiền trả nợ của người đi vay được chuyển giao đến nhà đầu tư thông
qua ngân hàng và tổ chức ủy thác.
Công cụ này giúp cho ngân hàng tạo ra các tài sản có tính thanh khoản cao trên
cơ sở các tài sản có tính thanh khoản k m hơn và tạo thêm thu nhập, nguồn vốn mới
cho ngân hàng.
(4) Chuyển giao rủi ro tín dụng
Chuyển giao rủi ro là việc sắp xếp để một vài đối tượng gánh chịu hoàn toàn hay
một phần tổn thất xảy ra. Có thể chuyển giao cho công ty bảo hiểm, người kinh doanh
rủi ro hoặc cho ngân sách nhà nước. Các cách thức chuyển giao rủi ro: Chuyển giao rủi
ro cho người kinh doanh rủi ro (các công ty bảo hiểm); chuyển giao rủi ro cho bên
mua nợ; chuyển giao rủi ro cho ngân sách Nhà nước (đối với những khoản vay theo
chỉ định của Chính phủ).
19

Thang Long University Library



(5) Sử dụng thƣ bảo lãnh tín dụng
Thư bảo lãnh tín dụng là cam kết đảm bảo hoàn trả vốn và lãi của khoản vay
đúng thời hạn ngay cả khi người vay vốn phá sản hoặc không tuân thủ mọi điều khoản
trong hợp đồng tín dụng.
Công cụ này giúp người đi vay nhận được khoản tín dụng với chi phí thấp và các
điều khoản linh hoạt hơn. Bên cạnh đó góp phần đảm bảo chắc chắn hơn với khoản
vay nên giảm thiểu được đáng kể rủi ro tín dụng.
Tuy thư tín dụng là công cụ hữu hiệu phòng ngừa rủi ro tín dụng nhưng bản thân
nó cũng chứa đựng những rủi ro rất lớn. Khi rủi ro tín dụng xảy ra ngân hàng có quyền
yêu cầu được chi trả từ bên bảo lãnh nếu có đầy đủ tài liệu đảm bảo quyền yêu cầu
thanh toán theo quy định. Rủi ro tín dụng còn xảy ra khi ngân hàng phát hành thư tín
dụng không thể chi trả theo cam kết của hợp đồng.
(6) Sử dụng nghiệp vụ bán các khoản vay
Bán nợ là việc ngân hàng bán quyền yêu cầu thu nhập đối với các khoản cho vay
cho một bên thứ ba. Sau khi khoản vay xuất hiện dấu hiệu rủi ro, ngân hàng tập hợp
các tài sản có rủi ro (trái phiếu những khoản nợ có rủi ro tín dụng) và bán cho các nhà
đầu tư khác để chuyển đổi sở hữu khoản nợ nhằm quản lý và giảm thiểu rủi ro tín dụng.
Hoạt động này có sự tham gia của người đi vay tiền (khách hàng), ngân hàng cho
vay (người bán nợ và người mua nợ.
Đây là công cụ giúp ngân hàng hạn chế rủi ro, giảm chi phí vốn và tăng cường đa
dạng hóa; giảm bớt tốc độ tăng tài sản của ngân hàng nên hạ thấp mức vốn chủ sở hữu
yêu cầu; cho phép ngân hàng loại bỏ những tài sản có tỷ suất sinh lời thấp ra khỏi danh
mục, tạo chỗ cho những tài sản có tỷ suất sinh lời cao hơn khi lãi suất thị trường tăng;
đồng thời làm tăng tính thanh khoản của danh mục tài sản. Nhưng cũng có thể làm cho
ngân hàng mất đi những khoản tín dụng chất lượng tốt nếu không được xem xét kỹ
lưỡng.
Hoạt động bán nợ được thực hiện dưới ba hình thức:
- Bán nợ tham gia: Người mua nợ không phải là một bên trong hoạt động tín
dụng giữ ngân hàng và người đi vay. Chỉ khi có những thay đổi quan trọng

trong hoạt động tín dụng thì người mua nợ mới có thể tác động đến các điều
khoản của hoạt động tín dụng, nên người mua nợ phải đối mặt với rủi ro tín
dụng lớn từ phía ngân hàng bán nợ và người đi vay tiền.
- Chuyển nhượng nợ: Quyền sở hữu khoản cho vay được chuyển cho người mua
nợ và người mua nợ có quyền yêu cầu trực tiếp đối với người đi vay về các
20


điều khoản của hợp đồng tín dụng. Khi đó người mua nợ chỉ phải đối mặt với
rủi ro tín dụng từ người đi vay.
- Bán nợ từng phần: Là việc ngân hàng chia một khoản nợ dài hạn thành các
khoản nợ ngắn hạn và bán lại trên thị trường. Người mua nợ sẽ nhận được một
phần trong tổng số tiền lãi của khoản vay. Ngân hàng vẫn là người chịu rủi ro
vỡ nợ của khách hàng, nhưng kỳ hạn thực tế của danh mục tài sản đã được cơ
cấu lại.
(7) Sử dụng dự phòng rủi ro đã trích lập
Dự phòng rủi ro được sử dụng trong trường hợp khách hàng bị giải thể, phá sản
hoặc chết hoặc mất tích. Dự phòng cũng được dùng để xử lý rủi ro ngay khi các khoản
nợ được xếp vào nhóm 5. Việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro được thực hiện theo
nguyên tắc sử dụng dự phòng cụ thể đối với từng khoản nợ trước, phát mại tài sản bảo
đảm để thu hồi nợ, và cuối cùng nếu phát mại tài sản không đủ bù đắp thì mới được sử
dụng dự phòng chung.
1.2.4. Các tiêu trí đánh giá quản trị rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại
Tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của NHTM. Do đó, quản trị rủi ro tín
dụng là một nội dung quan trọng trong việc phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh
của NHTM. Tuỳ theo mục đích phân tích mà người ta đưa ra nhiều chỉ tiêu khác nhau,
tuy mỗi chỉ tiêu có nội dung khác nhau nhưng giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với
nhau. Trong phạm vi bảng báo cáo tổng hợp kết quả hoạt động kinh doanh, ta có thể
áp dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá công tác quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Nợ quá hạn

Tỷ lệ nợ quá hạn =

x 100%
Tổng dƣ nợ

Nợ quá hạn được hiểu là một khoản nợ mà người đi vay cá nhân/doanh nghiệp
khi đến hạn phải trả cho ngân hàng cả vốn và lãi theo cam kết, nhưng cá nhân/doanh
nghiệp không trả được cho ngân hàng, nợ quá hạn có tác động xấu đến hoạt động kinh
doanh của ngân hàng cũng nhự hoạt động sản xuất kinh doanh của cá nhân/doanh
nghiệp vay vốn.
Chỉ tiêu nợ quá hạn là một chỉ số quan trọng để đo lường, đánh giá chất lượng
cũng như rủi ro của nghiệp vụ tín dụng, cho thấy tình hình nợ quá hạn tại ngân hàng,
đồng thời phản ảnh khả năng quản trị tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn càng
cao thể hiện năng lực quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng càng k m, và ngược lại.

21

Thang Long University Library


Thông thường thì tỷ lệ nợ quá hạn tốt nhất là ở mức <= 5%. Tuy nhiên chỉ tiêu
này cũng chưa đánh giá hết được hoạt động tín dụng tại một ngân hàng. Bởi bên cạnh
những ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý do thực hiện tốt các khâu trong quay trình
tín dụng, còn có những ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn thấp do cho vay đảo nợ hoặc
không chuyển được nợ quá hạn đúng quy định, ….
Nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu =

x 100%
Tổng dƣ nợ


Nợ xấu hay nợ khó đòi là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi
ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ. Nợ xấu gồm các khoản
nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên thường quá ba tháng căn cứ vào khả năng trả nợ
của khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp. Nợ xấu là nợ
thuộc nhóm 3 đến nhóm 5 (nợ được phân thành 5 nhóm theo Văn bản hợp nhất
22/VBHN-NHNN năm 2014).
Bên cạnh chỉ tiêu về nợ quá hạn, người ta còn dùng chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu để phân
tích thực chất tình hình quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu cho biết
chất lượng và rủi ro của danh mục tín dụng của ngân hàng, bao nhiêu đồng đang bị
phân loại vào nợ xấu trên 100 đồng dư nợ tín dụng. Tổng nợ xấu của ngân hàng bao
gồm nợ quá hạn, nợ khoanh, nợ quá hạn chuyển về nợ trong hạn. Chính vì vậy chỉ tiêu
này cho thấy thực trạng tình hình tín dụng tại ngân hàng.
Theo quy định của NHNN, thì tỷ lệ nợ xấu an toàn là mức dưới 3%. Nếu tỷ lệ nợ
xấu tại ngân hàng >= 3% cho thấy rủi ro tín dụng trong hoạt động tại ngân hàng rất lớn.
Đối với các ngân hàng, nợ xấu tức là các khoản tiền cho khách hàng vay, thường là
các doanh nghiệp, mà không thể thu hồi lại được do doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hoặc
phá sản,... Vì thế tỷ lệ nợ xấu càng cao thì công tác quản trị rủi ro tín dụng tại ngân
hàng càng k m và ngược lại.
Nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu trên nợ quá hạn =

x 100%
Nợ quá hạn

Tỷ lệ này cho ta biết trong 100 đồng nợ quá hạn thì có bao nhiêu đồng nợ xấu.
Tỷ lệ này càng cao thì càng chứng tỏ nợ xấu đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nợ
quá hạn; tương đương với việc thu nợ của ngân hàng sẽ khó khăn hơn, thậm chí là
không thu hồi được. Điều này phản ánh chất lượng tín dụng kém, đồng thời thể hiện
công tác quản trị rủi ro tín dụng còn hạn chế tại ngân hàng.

22


Doanh số thu nợ
Hệ số thu nợ =
Doanh số cho vay
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả trong việc thu nợ của ngân hàng trong một thời
gian nhất định. Nó cho thấy cứ 1 đồng tài trợ cho khách hàng thì thu về được bao
nhiêu đồng vốn. hệ số này càng cao thì khả năng thu hồi nợ của ngân hàng càng tốt,
cũng như năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng đạt hiệu quả cao và ngược lại.
DPRR tín dụng đƣợc trích
Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro =

x 100%
Dƣ nợ bình quân

Chỉ số này cho biết bao nhiêu % dư nợ được trích lập dự phòng. Lợi nhuận đang
là nguyên nhân hàng đầu khiến các ngân hàng tính toán, cân nhắc có nên trích đúng,
đủ dự phòng rủi ro hằng năm. Các ngân hàng luôn chọn sức ép trong kinh doanh khiến
họ phải giấu đi những khoản nợ đáng lẽ phải trích dự phòng rủi ro một cách sòng
phẳng. Khi dự phòng tăng lên, đồng nghĩa việc bảo đảm an toàn cho ngân hàng đang
lớn hơn sức ép lợi nhuận từ cổ đông, quản lý của Nhà nước về dự phòng rủi ro cũng
đang chặt chẽ hơn. Vì thế, chỉ số càng cao cho thấy công tác quản trị rủi ro tín dụng
của ngân hàng đang tiêu cực và rủi ro tín dụng cao, chỉ số này thấp phản ánh chất
lượng cải thiện của các khoản nợ trong công tác quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng.
Dƣ nợ tín dụng đƣợc xóa
Tỷ lệ xóa nợ =

x 100%
Dƣ nợ bình quân


Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng thu nợ từ các khoản nợ đã chuyển ra ngoại
bảng có rủi ro mất vốn cao và đang được các ngân hàng sử dụng biện pháp mạnh để
đòi nợ. Tỷ lệ này càng thấp thì chất lượng tín dụng càng tốt, chứng tỏ công tác quản trị
rủi ro tín dụng tại ngân hàng tốt và ngược lại.
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =

x 100%
Dƣ nợ bình quân

Trong đó:
Dư nợ đầu kỳ + Dư nợ cuối kỳ
Dư nợ tín dụng bình quân trong kỳ =
2
23

Thang Long University Library


Vòng quay vốn tín dụng thể hiện tốc độ luân chuyển các khoản vay mà ngân
hàng cấp cho nền kinh tế, nói cách khác, chỉ tiêu này cho biết ngân hàng có thể thu nợ
được khách hàng bao nhiêu để lại cấp tín dụng mới.
Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng phản ánh một đồng vốn được ngân hàng sử
dụng cho vay mấy lần trong một năm và cũng đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín
dụng của ngân hàng, thời gian thu hồi nợ của ngân hàng là nhanh hay chậm. Vòng
quay càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào
nhiều chu kỳ sản xuất lưu thông hàng hóa, đồng nghĩa với khả năng thu hồi nợ để cấp
tín dụng mới đang tăng lên, cũng như công tác quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng
có hiệu quả tốt. Với một số vốn nhất định, vòng quay vốn tín dụng càng nhanh thì

ngân hàng càng tiết kiệm được chi phí, tiếp tục đầu tư vào các lĩnh vực khác, do đó,
càng tạo ra nhiều lợi nhuận cho ngân hàng và cũng đảm bảo được khả năng trả nợ của
các khách hàng vay vốn, giúp cho ngân hàng giảm thiểu rủi ro tín dụng xảy ra.
Vốn cấp I + Vốn cấp II
Hệ số car =

x 100%
Tài sản có đã điều chỉnh rủi ro

Trong đó:
Vốn cấp 1 bao gồm vốn điều lệ (vốn đã được cấp, vốn đã góp ; quỹ dự trữ bổ
sung vốn điều lệ; quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ; lợi nhuận không chia (lợi nhuận giữ
lại); thặng dư cổ phần trừ đi phần mua cổ phiếu quỹ (nếu có) và loại trừ các khoản như
lợi thế thương mại; khoản lỗ kinh doanh bao gồm các khoản lỗ lũy kế; các khoản góp
vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng khác, công ty con.
Vốn cấp 2 bao gồm 50% số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản cố định; 40% số
dư có tài khoản đánh giá lại tài sản tài chính; quỹ dự phòng tài chính (tối đa bằng
1,25% tổng tài sản “có” rủi ro của ngân hàng); trái phiếu chuyển đổi do tổ chức tín
dụng phát hành thỏa mãn một số quy định như thời hạn tối thiểu 5 năm, không được
đảm bảo bằng tài sản của chính TCTD, v.v…và các công cụ nợ khác thỏa mãn những
điều kiện theo luật định (không vượt quá 50% giá trị vốn cấp 1). Vốn cấp 2 có giá trị
tối đa bằng vốn cấp 1.
Tài sản “có” rủi ro bao gồm cả tài sản nội bảng và tài sản ngoại bảng. Các tài
sản ngoại bảng như các khoản cam kết, bảo lãnh thư tín dụng, thanh toán, hoặc các
hợp đồng giao dịch ngoại tệ, lãi suất, v.v… sẽ được quy hệ số chuyển đổi để quy về
giá trị tài sản nội bảng, sau đó, chúng cũng được gán trọng số rủi ro, và quy về giá trị
tài sản rủi ro có trọng số để tính tổng giá trị tài sản có rủi ro. Tổng giá trị tài sản có rủi
ro sẽ khác tổng giá trị tài sản của ngân hàng. Các tài sản có rủi ro của ngân hàng được
24



phân tỷ trọng rủi ro cho từng loại, tùy theo mức độ rủi ro khác nhau mà trọng số rủi ro
có thể dao động quanh các mức 0%, 20%, 50% và 100%. Ví dụ: Tiền mặt, vàng vốn
rất thanh khoản, và chúng được xem có trọng số rủi ro bằng 0%. Trong khi đó, các
khoản cho vay khách hàng được coi là một trong những tài sản có rủi ro cao nhất, và
trọng số rủi ro của chúng bằng 100%.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) là một thước đo độ an toàn vốn của ngân hàng,
được tính theo tỉ lệ phần trăm của tổng (vốn nòng cốt và vốn bổ sung) so với tổng tài
sản đã điều chỉnh của ngân hàng.
Chính vì thế, các nhà quản lý ngành ngân hàng các nước luôn xác định rõ và
giám sát các ngân hàng phải duy trì một tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu. Khi tính toán tỉ lệ
an toàn vốn tối thiểu, người ta x t đến hai loại vốn: vốn cấp I (vốn nòng cốt) và vốn
cấp II (vốn bổ sung , trong đó vốn cấp I được coi là có độ tin cậy và an toàn cao hơn.
Ngoài yêu cầu đảm bảo cho CAR từ 8% trở nên, các ngân hàng còn phải đảm bảo tổng
vốn cấp II không được vượt quá 100% vốn cấp I. Hệ số CAR >= 8% cho thấy khả
năng của ngân hàng thanh toán các khoản nợ có thời hạn cao và đối mặt với các loại
rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành tốt. Hay nói cách khác, khi hệ số
này >= 8% tức là nó đã tự tạo ra một tấm đệm chống lại những cú sốc về tài chính, vừa
tự bảo vệ ngân hàng, vừa bảo vệ những người gửi tiền.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị rủi ro tín dụng trong cho vay của ngân
hàng thương mại
1.2.5.1. Từ phía ngân hàng
Trình độ và đạo đức nghề nghiệp
Trình độ đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng các cấp là yếu tố quan trọng
nhất quyết định sự thành công của công tác quản trị rủi ro tín dụng, bởi mọi chính sách
và việc thực thi các chính sách đó đều phải thông qua cán bộ ngân hàng các cấp. Để
công tác quản trị rủi ro tín dụng tốt nhất đặt ra yêu cầu cao về trình độ cán bộ ngân
hàng:
- Đối với lãnh đạo cấp cao cần phải có khả năng quản lý, khả năng tổ chức và
phân cấp hoạt động, khả năng tổng hợp và phân tích để có thể nắm chắc các

thông tin về mọi hoạt động của hệ thống. Từ đó đặt ra chiến lược phát triển và
tổ chức thực hiện các chính sách đó.
- Đối với cán bộ ngân hàng trực tiếp quản lý hoạt động kinh doanh cần có khả
năng tổ chức hoạt động, khả năng điều hành, khả năng nhận biết, đánh giá các
rủi ro trong hoạt động.
25

Thang Long University Library


×