Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp hộ tịch, qua thực tiễn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 121 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*************

NGUYỄN VĂN TUẤN

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC
TƢ PHÁP – HỘ TỊCH, QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*************

NGUYỄN VĂN TUẤN

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC
TƢ PHÁP – HỘ TỊCH, QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này kính đề nghị Khoa Luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Văn Tuấn


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Giáo dục pháp luật

:

GDPL

Phổ biến, giáo dục pháp luật

:

PBGDPL


Tƣ pháp – hộ tịch

:

TP-HT

Ủy ban nhân dân

:

UBND


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Số lƣợng công chức tƣ pháp – hộ tịch tại các
2.1

xã, phƣờng, thị trấn thuộc các quận, huyện, thị

43

xã trên địa bàn TP.Hà Nội
Độ tuổi, dân tộc, giới tính của công chức tƣ
2.2


pháp – hộ tịch trên địa bàn thành phố Hà Nội

44

Trình độ văn hóa, chuyên môn, chính trị, ngoại
2.3

2.4

ngữ và tin học của công chức TP-HT trên địa
bàn thành phố Hà Nội
Phân biệt GDPL cho công chức TP-HT giữa
khu vực nội thành và khu vực ngoại thành trên
địa bàn thành phố Hà Nội

45

47


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG
CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH ................................................................................6

1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH ............6
1.1.1. Khái niệm công chức tư pháp – hộ tịch ..........................................................6
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ công chức tư pháp – hộ
tịch ở nước ta ............................................................................................................12
1.2. NHẬN THỨC CHUNG VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT ...............................14
1.2.1. Khái niệm giáo dục pháp luật ........................................................................14
1.2.2. Các bộ phận cấu thành cơ bản của giáo dục pháp luật ...............................17
1.3. GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH .........22
1.3.1. Khái niệm giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch .................22
1.3.2. Mục đích giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ...................22
1.3.3. Nội dung giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ...................24
1.3.4. Hình thức giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch .................25
1.3.5. Đối tượng của giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ..........26
1.3.6. Chủ thể của giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ..............28
1.3.7. Đặc điểm giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ...................28
1.4. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH .................................................................32
1.4.1. Quy định của pháp luật về lĩnh vực tư pháp và lĩnh vực hộ tịch .................32
1.4.2. Yếu tố về chủ thể giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ..............35
1.4.3. Yếu tố về đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch.............................................35
1.4.4. Yếu tố về hình thức giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ........37
1.4.5. Yếu tố về điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương ......................38


Chƣơng 2 THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ
PHÁP - HỘ TỊCH, QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................41
2.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HÓA - XÃ HỘI
VÀ TÌNH HÌNH ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH CỦA THÀNH
PHỐ HÀ NỘI ………………………………………………………………………41
2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá - xã hội của thành phố Hà Nội ....41

2.1.2. Tình hình đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch trên địa bàn Hà Nội…….42
2.2. ĐẶC THÙ CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ
TỊCH VÀ SỰ TÁC ĐỘNG ĐẾN Ý THỨC PHÁP LUẬT, CÔNG TÁC GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI............. ................................................................................................ 46

2.2.1. Đặc thù của giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch trên địa
bàn thành phố Hà Nội…………………………………………………………….46
2.2.2. Sự tác động của vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội
đến công tác giáo dục pháp luật đối với công chức tư pháp – hộ tịch ở thành phố
Hà Nội ....................................................................................................................... 48
2.3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG
CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......53
2.3.1. Đánh giá chung về thực tiễn công tác giáo dục pháp luật cho công chức tư
pháp – hộ tịch ...........................................................................................................53
2.3.2. Thực trạng hình thức giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch
trên địa bàn thành phố Hà Nội ................................................................................54
2.3.3. Thực trạng về chủ thể, đối tượng, nội dung, cơ sở pháp lý, nguồn lực đầu
tư của giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch trên địa bàn thành
phố Hà Nội ............................................................................................................... 68
Chƣơng 3 QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ
NỘI HIỆN NAY ......................................................................................................77
3.1. QUAN ĐIỂM VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ
PHÁP – HỘ TỊCH ..................................................................................................77


3.1.1. Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp-hộ tịch phải đảm bảo tính
thường xuyên, liên tục bằng nhiều hình thức ........................................................77
3.1.2. Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch đáp ứng yêu cầu nâng

cao tính chuyên nghiệp, tôn trọng, tuân thủ pháp luật, tôn trọng bảo đảm các
quyền con người, quyền công dân...........................................................................78
3.2. GIẢI PHÁP VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP
– HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................81
3.2.1. Hoàn thiện chương trình, nội dung để đảm bảo chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ đối với công chức tư pháp – hộ tịch ...........................................82
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực tư pháp - hộ tịch .....................................84
3.2.3. Xây dựng các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tham gia công tác giáo dục pháp
luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ......................................................................87
3.2.4. Áp dụng đa dạng các hình thức giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp
– hộ tịch ....................................................................................................................90
3.2.5. Kết hợp giáo dục pháp luật và kỹ năng thực hành pháp luật cho công chức
tư pháp – hộ tịch .......................................................................................................94
3.2.6. Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục quyền con người, phòng chống
tham nhũng cho công chức tư pháp –hộ tịch .........................................................95
3.2.7. Tăng cường kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm và thực hiện công
tác thi đua khen thưởng trong hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật ................98
3.2.8. Bảo đảm kinh phí cho công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
cấp xã ........................................................................................................................99
3.2.9. Thực hiện xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ....................101
3.2.10. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, tuyên truyền
pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật ....................................................................104
KẾT LUẬN ............................................................................................................108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................110


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính quyền cấp xã là gần dân nhất để trực tiếp triển khai, thực hiện các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Công chức TP-HT

được coi như là một đại diện của ngành tư pháp ở cơ sở. Họ phải kiêm nhiệm cùng
lúc rất nhiều nhiệm vụ khác nhau trong lĩnh vực TP-HT. Trong khi đó, nội dung cải
cách nền hành chính theo hướng hiện đại hóa nền hành chính đòi hỏi giải quyết
công việc một cách nhanh chóng, chuyên nghiệp. Tuy nhiên ở nước ta, đội ngũ
công chức TP-HT còn mỏng, chuyên môn nghiệp vụ chưa đồng đều, một số ít công
chức chưa đạt chuẩn về trình độ, chủ yếu mới qua tập huấn đào tạo, chế độ chính
sách còn thấp. Để nâng cao chất lượng cho công chức TP-HT, GDPL có vai trò rất
quan trọng. Nhận thức rõ được nội dung này, nhiều năm qua, ngành Tư pháp Thành
phố Hà Nội đã tích cực tham mưu giúp Thành ủy, UBND Thành phố tập trung đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ cho đội ngũ công chức này. Từ đó,
GDPL cho công chức TP-HT trở thành một nội dung đặc biệt cần thiết để đội ngũ
công chức này có thể thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị có địa vị pháp lý đặc biệt quan
trọng với vai trò lãnh đạo nhà nước xã hội và “gắn bó mật thiết với nhân dân, phục
vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về
những quyết định của mình” [32]. Thành ủy Hà Nội đã ban hành 02 chương trình
thành ủy có nghĩa hết sức quan trọng đối với công tác GDPL cho đội ngũ công chức
nói riêng và toàn thể đội ngũ cán bộ, nhân dân toàn thành phố nói chung. Đó là
chương trình số 08 – CTr/TU của Thành ủy Hà Nội ngày 18/10/2011 về việc Đẩy
mạnh cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm và chất lượng phục vụ của đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2011-2015; Chương trình số 09 – CTr/TU
của Thành ủy Hà Nội ngày 18/10/2011 về việc đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2011-2015. Về phía
UBND thành phố Hà Nội cũng ban hành kế hoạch số 221/KH-UBND ngày
19/12/2014 về phổ biến GDPL trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2015 ; Quyết
định số 6709/QĐ-UBND ngày 16/12/2014 của UBND thành phố Hà Nội về việc
1


phê duyệt chỉ tiêu kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cơ quan của

Đảng, Ủy ban mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Chính trị - Xã hội ; cán bộ, công
chức, viên chức nhà nước ; cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn của thành phố Hà
Nội năm 2015. Như vậy, GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, đối với
công chức TP-HT nói riêng đã và đang nhận được sự quan tâm rất lớn từ phía
Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội và trở thành vấn đề quan trọng, cần thiết.
Trước những yêu cầu mới của đất nước, sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
và sự ra đời của những văn bản luật quan trọng, liên quan mật thiết đến đời sống
nhân dân như: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Đất đai,
Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Hộ tịch, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Bảo hiểm xã
hội, Luật Căn cước… và những văn bản Luật khác sẽ được sửa đổi, bổ sung trong
thời gian tới để phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Đặc biệt là các quy định về
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những vấn đề này đã đặt
ra cho công tác PBGDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và công chức
TP-HT nói riêng với nhiều nhiệm vụ mới, ở một tầm cao hơn, đòi hỏi tư duy về
công tác PBGDPL mới hơn, toàn diện hơn, thiết thực và khoa học hơn.
Chính vì những lý do ở trên, em đã lựa chọn đề tài “Giáo dục pháp luật cho
công chức tư pháp – hộ tịch, qua thực tiễn thành phố Hà Nội” để làm luận văn tốt
nghiệp của mình. Từ đó, việc nghiên cứu đề tài sẽ có thể góp phần nâng cao hiệu
quả PBGDPL nói chung và GDPL cho đội ngũ công chức TP-HT nói riêng trên địa
bàn thành phố Hà Nội hiện nay cũng như tại các địa phương khác ở nước ta. Đây là
cơ sở để các chủ thể GDPL cho công chức TP-HT có thể tham khảo để đưa ra được
những nội dung, hình thức, kế hoạch GDPL phù hợp cho đội ngũ công chức TP-HT.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề GDPL nói chung cũng đã và đang được nhắc tới khá nhiều trong các
công trình nghiên cứu khoa học. Một số công trình nghiên cứu khoa học đề cập sâu
đến vấn đề về này phải kể đến đó là:
Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Quốc Sửu, chuyên ngành Lý
luận và lịch sử nhà nước và pháp luật: “GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức hành
chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”,
Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2010. Luận án Tiến sĩ Xã hội học của tác giả

2


Đoàn Thị Thanh Huyền: “GDPL cho con cái trong gia đình hiện nay – Nghiên cứu
trường hợp tỉnh Quảng Ninh”, Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2014. Luận án Phó Tiến sỹ khoa học luật học của nghiên cứu
sinh Dương Thị Thanh Mai chuyên ngành Lý luận Nhà nước và Pháp quyền:
“GDPL qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam”, Cơ sở đào tạo: Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 1996. Luận án Phó Tiến sỹ khoa học luật của nghiên cứu
sinh Đinh Xuân Thảo ,chuyên ngành Lý luận Nhà nước và Pháp quyền: “GDPL
trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật)
ở nước ta hiện nay”, cơ sở đào tạo: Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1996.
Luận án Phó Tiến sỹ khoa học luật học của nghiên cứu sinh Lê Đình Khiên, chuyên
ngành Luật Nhà nước: “Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành
chính nhà nước ở nước ta hiện nay”, cơ sở đào tạo: Viện Nghiên cứu Nhà nước và
pháp luật 1996.
Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Mai: “GDPL cho
cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam hiện
nay”, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2005. Luận Văn Thạc sĩ Luật học của
tác giả Đặng Quang Tuân: “PBGDPL trong lĩnh vực giao thông – qua thực tiễn qua
thực tiễn thành phố Hà Nội”, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2012. Luận văn
Thạc sĩ Luật học của tác giả Phan Thị Hồng Hà: “PBGDPL cho công chức cấp xã – Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2010.
Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy “GDPL ở đô thị
qua thực tiễn thành phố Hải Dương”, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2010.
Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Phạm Kim Dung: “GDPL cho cán bộ, công
chức cơ quan hành chính ở thành phố Hà Nội hiện nay”, Khoa luật – Đại học quốc
gia Hà Nội, 2011. Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Đỗ Hồng Kỳ: “PBGDPL
của xã, phường trên địa bàn thành phố Thanh Hóa”, Khoa luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2012.

Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Dương Thị Thu Hiền “phổ biến GDPL
trên địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình – thực trạng và giải pháp”, Khoa
luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2013. Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả
Nguyễn Thị Kim Ngân: “GDPL ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Khoa luật – Đại
3


học quốc gia Hà Nội, 2013. Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Xuân Hạnh:
“PBGDPL trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2014.
Như vậy, vấn đề GDPL đã được nghiên cứu khá nhiều trong các công trình
nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên cho đến nay, đề tài “Giáo dục pháp luật cho công
chức tƣ pháp – hộ tịch, qua thực tiễn thành phố Hà Nội” vẫn chưa được nhắc tới
trong các công trình nghiên cứu khoa học nào. Đây là một nội dung nghiên cứu khá
mới mẻ nhưng tuơng đối khó bởi nhiệm vụ, quyền hạn của công chức TP-HT khá là
rộng. Vì vậy, em đã lựa chọn đề tài này và lấy thực tiễn thành phố Hà Nội để làm
luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu và nhiệm vụ của Luận văn
Luận văn có mục đích nghiên cứu là làm rõ những đặc trưng, yêu cầu cơ bản
về GDPL cho công chức TP-HT, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
GDPL cho công chức TP-HT.
Luận văn tập trung nghiên cứu về GDPL đối với đối tượng là đội ngũ công chức
TP-HT. Do vậy, để thực hiện được mục đích nghiên cứu, luận văn phải thực hiện được
các nhiệm vụ:
Xác định được cơ sở lý luận về GDPL cho công chức TP-HT gồm: Nhận thức
chung về công chức TP-HT; Những vấn đề lý luận cơ bản về GDPL; GDPL cho
công chức TP-HT và những yếu tố tác động đến GDPL cho công chức TP-HT.
Đề cập và phân tích được thực trạng GDPL cho công chức TP-HT trên địa bàn
thành phố Hà Nội. Luận văn phải tập trung làm rõ thực trạng đội ngũ công chức TPHT và thực tiễn GDPL cho công chức TP-HT trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Đưa ra những quan điểm, giải pháp về GDPL cho công chức TP-HT trên địa
bàn thành phố Hà Nội hiện nay.

4. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận của GDPL cho công chức TP-HT; làm rõ thực
trạng GDPL cho công chức TP-HT tại thành phố Hà Nội; đưa ra quan điểm, đề xuất
giải pháp về GDPL cho công chức TP-HT trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận được sử dụng trong luận văn đó là phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin. Luận văn được thực hiện trên cơ sở sự vận dụng tư tưởng Hồ
4


Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về nhà nước và pháp luật; về cán bộ, công chức;
về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học đó là phương pháp tư
duy trừu tượng, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy
nạp và diễn dịch, phương pháp hệ thống và phương pháp so sánh. Các phương pháp
nghiên cứu khoa học này được sử dụng để nghiên cứu đề tài nghiên cứu theo mã số
chuyên ngành Lý luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật.
7. Điểm mới của Luận văn
Luận văn đưa ra được những đặc điểm của GDPL cho công chức TP-HT và
những yếu tố tác động đến GDPL cho công chức TP-HT.
Ngoài ra, Luận văn cũng cập nhật kịp thời những số liệu tổng hợp về đội ngũ
công chức TP-HT trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đưa ra được những vấn đề thực
tiễn, khó khăn và tồn tại của GDPL cho công chức TP-HT tại thành phố Hà Nội.
Trên cơ sở đó, đưa ra các quan điểm, giải pháp về GDPL cho công chức TP-HT trên
địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
8. Kết cấu Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia
thành 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch.
- Chương 2: Thực trạng giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch,

qua thực tiễn thành phố Hà Nội.
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp về giáo dục pháp luật cho công chức tư
pháp – hộ tịch trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.

5


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH
1.1.1. Khái niệm công chức tư pháp – hộ tịch
Thứ nhất, về khái niệm công chức.
Ở nước ta, khái niệm “cán bộ”, “công chức” có từ lâu. Văn bản đầu tiên là Sắc
lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Điều
1 Sắc lệnh ghi: “Những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ
một chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính phủ, ở trong nước hay ở nước ngoài đều
là công chức theo quy chế này, trừ trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định”.
Cuối những năm 80 của thế kỷ trước, khái niệm “cán bộ, công chức” được gọi
chung là “cán bộ, công nhân viên chức nhà nước”. Đến thời kỳ đổi mới (sau năm
1986), yêu cầu khách quan đòi hỏi phải chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức nhà
nước, khái niệm công chức được sử dụng trở lại trong Nghị định 169/HĐBT ngày
25/5/1991 của Chính phủ. Nghị định nêu rõ: “Công dân Việt Nam được tuyển dụng,
bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của nhà nước ở Trung
ương hay địa phương, ở trong nước, ngoài nước, đã được xếp vào một ngạch,
hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp gọi là công chức nhà nước”.
Năm 1998, Pháp lệnh Cán bộ, công chức ra đời, là văn bản pháp lý cao nhất
của nước ta về cán bộ, công chức. Dưới Pháp lệnh là Nghị định số 95/1998/NĐ-CP
ngày 17/11/1998 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Nghị định đã cụ thể
hóa khái niệm công chức“là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ

ngân sách nhà nước, bao gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao
giữ một công việc thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành
chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp; những người làm việc
trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân và công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và công nhân quốc phòng”.
6


Sau hai lần sửa đổi, năm 2003, Pháp lệnh Cán bộ, công chức cho khái niệm
gộp cả cán bộ, công chức như sau: “Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này
là công dân Việt Nam trong biên chế bao gồm: a) Những người do bầu cử để đảm
nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị -xã hội ở Trung ương...h) Những người được tuyển dụng, giao giữ chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã”.
Ngày 13/11/2008, Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ
4 thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010. Khoản 2 Điều 4 quy định: “Công chức
là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước...”. Khoản 3 Điều 4 quy định: “... công chức cấp xã là
công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc
UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.”
Thứ hai, về khái niệm công chức tư pháp – hộ tịch
Trước khi Luật cán bộ, công chức năm 2008 ra đời, ở Việt Nam tồn tại song
song 02 thuật ngữ “Cán bộ TP-HT” và “Công chức TP-HT”. Thuật ngữ “Cán bộ
TP-HT” chỉ được nhắc tới trong Nghị định 158/2005/NĐ-CP và thông tư

01/2008/TT-BTP. Ngoài ra, tất cả các văn bản pháp luật khác từ năm 2003 đến nay
khi quy định về chức danh này đều thống nhất quy định rõ là “công chức TP-HT”.
Do vậy, việc viết “cán bộ TP-HT là công chức cấp xã…” tại khoản 1, Điều 81 Nghị
định 158/2005/NĐ-CP là chưa chính xác. Bởi lẽ, trước đó, Nghị định số 114/2003/NĐ-CP
đã quy định rõ 07 chức danh làm việc tại UBND cấp xã là công chức cấp xã trong đó có
công chức TP-HT. Tuy vậy, nghị định 158/2005/NĐ-CP vẫn sử dụng thuật ngữ “cán bộ
TP-HT” mà không dùng thuật ngữ “công chức TP-HT” là không phù hợp.
7


Khi Luật cán bộ, công chức 2008 ra đời, các văn bản pháp luật đã có sự thống
nhất duy nhất thuật ngữ “công chức tư pháp hộ tịch”. Việc quy định “Cán bộ TPHT” hay “công chức TP-HT” đều không làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ và quyền hạn
của chức danh này. Nội dung cần quan tâm hơn cả đó là cụm từ “TP-HT”, nhằm
mục đích phân biệt với công chức làm công tác tư pháp tại Phòng Tư pháp thuộc
UBND cấp huyện; công chức làm công tác tư pháp tại các phòng chuyên môn,
nghiệp vụ của Sở Tư pháp. Ngoài ra, theo quy định của Luật hộ tịch 2014 (có hiệu
lực từ ngày 01/01/2016), cụm từ TP-HT cũng là cơ sở để phân biệt đội ngũ công
chức TP-HT với công chức làm công tác hộ tịch tại Phòng Tư pháp, viên chức
ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ tịch tại Cơ quan đại diện.
Theo quy định của pháp luật, công chức TP-HT có những nhiệm vụ, quyền
hạn nhất định trong cả hai công tác tư pháp, công tác hộ tịch.
Về công tác tư pháp, công chức TP-HT tham mưu giúp UBND cấp xã thực
hiện các nhiệm vụ:
- Xây dựng chương trình, kế hoạch, quyết định, chỉ thị về công tác tư pháp cấp
xã trình UBND cấp xã phê duyệt và tổ chức thực hiện; thực hiện nhiệm vụ kiểm soát
thủ tục hành chính; tự kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp
luật do Hội đồng nhân dân và UBND cấp xã ban hành; hướng dẫn việc xây dựng quy
ước, hương ước thôn, tổ dân phố phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
- Quản lý và thực hiện công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật; theo dõi tình hình thi hành pháp luật tại địa

phương; đề xuất với UBND cấp xã xử lý hoặc báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý
kết quả theo dõi thi hành pháp luật theo quy định của pháp luật; xây dựng, trình
UBND cấp xã ban hành và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch PBGDPL; xây
dựng, tập huấn, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật; tổ chức
thực hiện Ngày Pháp luật; quản lý, khai thác, sử dụng Tủ sách pháp luật ở cấp xã.
- Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hòa giải ở cơ sở; thành
lập, kiện toàn tổ hòa giải và công nhận tổ trưởng tổ hòa giải, hòa giải viên tại địa
phương; tổ chức kiểm tra, sơ kết, tổng kết và khen thưởng về hòa giải ở cơ sở; thực
8


hiện nhiệm vụ xây dựng xã, phường, thị trấn tiếp cận pháp luật theo quy định; quản
lý, đăng ký hộ tịch; thực hiện một số việc về quốc tịch tại cấp xã theo quy định của
pháp luật; cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn
bản bằng tiếng Việt, chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt;
chứng thực các việc khác theo quy định của pháp luật; phối hợp với cơ quan thi
hành án dân sự trong thi hành án dân sự trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
Về công tác hộ tịch, công chức TP-HT có nhiệm vụ và trách nhiệm như: Thụ
lý hồ sơ, kiểm tra, xác minh và đề xuất với Chủ tịch UBND cấp xã xem xét, quyết
định việc đăng ký hộ tịch theo quy định; thường xuyên kiểm tra và vận động nhân
dân đi đăng ký kịp thời các sự kiện hộ tịch. Đối với những khu vực người dân còn
bị chi phối bởi phong tục, tập quán hoặc điều kiện đi lại khó khăn phải có lịch định
kỳ đến tận nhà dân để đăng ký những sự kiện hộ tịch đã phát sinh; công chức TPHT phải chịu trách nhiệm trước UBND cấp xã về những sự kiện hộ tịch phát sinh
trên địa bàn xã, phường, thị trấn mà không được đăng ký; sử dụng các loại sổ hộ
tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của Bộ Tư pháp; tổng hợp tình hình và thống
kê chính xác số liệu hộ tịch để UBND cấp xã báo cáo UBND cấp huyện theo định
kỳ 6 tháng và hàng năm; tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân chấp hành các
quy định của pháp luật về hộ tịch; giữ gìn, bảo quản, lưu trữ sổ hộ tịch và giấy tờ hộ
tịch; khi thôi giữ chức vụ phải bàn giao đầy đủ cho người kế nhiệm.
Đối với công chức làm công tác tư pháp tại Phòng Tư pháp cấp huyện

Việc biên chế đội ngũ công chức này do Chủ tịch UBND cấp huyện quyết
định trong tổng biên chế công chức của cấp huyện được cấp trên phê duyệt. Bố trí
công tác đối với công chức của Phòng Tư pháp được căn cứ vào vị trí việc làm,
chức danh, tiêu chuẩn, cơ cấu ngạch công chức theo quy định và đảm bảo đủ lực lực
lượng để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Do vậy, công chức tư pháp của
Phòng Tư pháp thường chỉ đảm nhận một nhiệm vụ đặc thù với chuyên môn cao và
ổn định. Việc đảm nhận công việc có tính chuyên môn cao này nhằm thực hiện
nhiệm vụ chung của Phòng Tư pháp để có thể tham mưu cho UBND cấp huyện
trong việc thực hiện các nhiệm vụ về công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo
9


dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát thủ
tục hành chính; PBGDPL; hòa giải ở cơ s ở; nuôi con nuôi; hộ tịch; chứng thực; bồi
thường nhà nước; trơ ̣ giúp pháp lý ; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính và công tác tư pháp khác theo quy đ ịnh của pháp luật.
Đối với công chức làm công tác tư pháp tại Sở tư pháp thuộc UBND cấp tỉnh.
Đây là đội ngũ công chức được tuyển dụng để đảm nhận các công tác tư pháp
căn cứ vào vị trí làm việc, chức danh, tiêu chuẩn, cơ cấu ngạch công chức, và chức
danh nghề nghiệp của họ. Theo đó, công chức làm công tác tư pháp tại Sở Tư pháp
làm việc tại phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp.
Các phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp bao gồm: Phòng Xây dựng
và kiểm tra văn bản quy pha ̣m pháp luâ ̣t

(quản lý công tác xây dựng , kiểm tra, rà

soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, công tác pháp chế , hỗ trơ ̣ pháp lý
cho doanh nghiê ̣p); phòng Kiểm soát thủ tục hành chính (quản lý công tác kiểm soát
thủ tục hành chính); phòng Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành
pháp luật (quản lý công tác xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp

luật); phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật (quản lý công tác PBGDPL, hòa giải ở cơ
sở, xây dựng hương ước, quy ước, xây dựng xã , phường, thị trấn tiếp cận pháp
luâ ̣t); phòng Hành chính tư pháp (bao gồm hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, nuôi con
nuôi, bồ i thường nhà nước , đăng ký giao dịch bảo đảm, lý lịch tư pháp – trừ các
thành phố trực thuộc Trung ương); phòng Bổ trợ tư pháp (bao gồm luật sư, tư vấn
pháp luật, công chứng, giám định tư pháp, bán đấu giá tài sản, trọng tài thương mại
(nếu có), trơ ̣ giúp pháp lý , thi hành án dân sự, thừa phát la ̣i (nế u có ) và các lĩnh vực
tư pháp khác); Phòng Lý lịch tư pháp được thành lập tại thành phố trực thuộc Trung
ương theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
Cũng như công chức tư pháp làm việc tại Phòng Tư pháp, công chức tư pháp
làm việc tại Sở Tư pháp cũng thực hiện các nhiệm vụ đòi hỏi có tính đặc thù về
chuyên môn cao trong các lĩnh vực cụ thể. Các công việc mang tính đặc thù này tại
các phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp được vận hành nhằm thực hiện
chức năng của Sở Tư pháp là tham mưu, giúp UBND cấ p tỉnh quản lý nhà nước về:
10


công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý
văn bản quy phạm pháp luật; kiể m soát thủ tu ̣c hành chin
́ h; pháp chế; PBGDPL; hòa
giải ở cơ s ở; hộ tịch; quốc tịch; chứng thực; nuôi con nuôi; lý lịch tư pháp ; bồ i
thường nhà nước ; trợ giúp pháp lý; luật sư; tư vấn pháp luật; công chứng ; giám
định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; quản lý công tác thi hành
pháp luật về xử lý vi pha ̣m hành chính và công tác tư pháp khác theo quy đ ịnh của
pháp luật.
Như vậy, công chức tư pháp tại Phòng Tư pháp cấp huyện và công chức tư
pháp làm việc tại các phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp chỉ đảm nhận
một công việc chuyên môn với một lĩnh vực nhất định của công tác tư pháp. Trong
khi đó, công chức TP-HT phải đảm nhận đến hơn mười đầu việc trong lĩnh vực tư
pháp thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã. Ngoài ra, hàng ngày, đội ngũ công chức

TP-HT cũng thực hiện một cách thường xuyên, liên tục các nhiệm vụ trong công tác
chứng thực và đăng ký, quản lý hộ tịch trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
Theo quy định tại Luật hộ tịch năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 01/01/216).
Bên cạnh việc quy định chức danh công chức TP-HT, Luật hộ tịch năm 2014
quy định thêm công chức làm công tác hộ tịch ở Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp
huyện; viên chức ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ tịch tại Cơ quan đại diện. Về
nhiệm vụ, quyền hạn thì 03 chức danh này đều có nhiệm vụ quyền hạn theo quy
định tại khoản 1 Điều 73 Luật hộ tịch năm 2014. Về tiêu chuẩn, đối với công chức
TP-HT thì tiêu chuẩn phải có trình độ trung cấp luật trở lên, được bồi dưỡng nghiệp
vụ hộ tịch, có chữ viết rõ ràng, trình độ tin học phù hợp. Đối với công chức làm
công tác hộ tịch tại Phòng Tư pháp phải có trình độ cử nhân luật trở lên và đã được
bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch. Viên chức ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ tịch tại
Cơ quan đại diện đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch. Tuy nhiên, đối với công
chức TP-HT, phải kiêm nhiệm thêm cả công tác tư pháp mà không chuyên trách
lĩnh vực hộ tịch như công chức tại Phòng Tư pháp và Viên chức ngoại giao, lãnh sự.
Qua việc nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn của công chức TP-HT và phân biệt
đặc điểm nghề nghiệp của công chức TP-HT với một số chức danh công chức làm
11


công tác tư pháp và công tác hộ tịch khác, theo cá nhân học viên thì việc ra đời chức
danh công chức TP-HT là trên cơ sở lồng ghép công tác tư pháp với công tác hộ
tịch. Nhà nước có thể áp dụng chung một suất về chế độ, chính sách cho cả hai lĩnh
vực tư pháp và hộ tịch đối với một chức danh công chức. Công chức TP-HT phải
đảm nhận cả hai công việc cùng lúc đó là các công tác tư pháp và công tác hộ tịch.
Thực tế, tính chất chuyên môn của công tác hộ tịch và công tác tư pháp khác (văn
bản, tuyên truyền pháp luật, hòa giải…) rất khác nhau. Công tác tư pháp khác mang
tính chất “hành chính trật tự” của chính quyền, công tác hộ tịch đòi hỏi sự ổn định,
thường xuyên, liên tục và chuyên môn cao.
Như vậy, công chức TP-HT là một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc

UBND cấp xã, có sự lồng ghép công tác tư pháp với công tác hộ tịch để chung nhau
một định suất lương nhằm tham mưu, giúp UBND cùng cấp thực hiện các công tác
tư pháp mang tính hành chính – trật tự và thực hiện một cách thường xuyên, liên
tục các nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã trong việc đăng ký, quản lý hộ tịch.
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ công chức tư pháp – hộ
tịch ở nước ta
Giai đoạn từ năm 1945 đến 1960 ở nước ta chỉ tồn tại thuật ngữ ban tư pháp
xã, phường, thị trấn. Đây là tổ chức có từ thời kỳ trước Tổng khởi nghĩa tháng Tám
năm 1945 ở vùng giải phóng – gọi là Tiểu ban Tư pháp trong Ủy ban dân tộc giải
phóng làng, xã. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Ban Tư pháp xã được
chính thức thành lập theo Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945 về việc tổ chức hội
đồng nhân dân và ủy ban hành chính. Theo đó, Ban Tư pháp có ba Ủy viên là Chủ
tịch, Phó chủ tịch, Thư ký của Ủy ban hành chính.
Giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1980, công tác Tư pháp xã do tòa án nhân
dân đảm nhận theo quy định của Hiến pháp 1959. Thực hiện chức năng này, ngày
26/02/1964, TAND Tối cao ban hành Thông tư số 02-TC về xây dựng Tổ hào giải
và kiện toàn tổ chức Tư pháp xã, khu phố. Trong thông tư này, tổ chức Tư pháp xã,
khu phố có các ủy viên Tư pháp xã và khu phố.
Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1993, theo thông tư số 08/TT ngày
06/01/1982 thì trong hệ thộng tư pháp, ở cơ sở xã, phường, thị trấn có Ban Tư pháp.
12


Theo đó, Ban Tư pháp có Trưởng ban, một Phó trưởng ban và một số ủy viên.
Trưởng Ban tư pháp xã cần chọn người trong thường trực UBND xã kiêm chức,
Phó trưởng Ban Tư pháp xã là cán bộ chuyên trách thường trực làm tư pháp. Các ủy
viên nên chọn trong các ngành, đoàn thể địa phương.
Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003, theo Thông tư liên Bộ số 12/TTLB
ngày 26/7/1993 hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức cơ quan
tư pháp địa phương thì ở xã, phường, thị trấn vẫn tồn tại khái niệm Ban Tư pháp xã.

Tiếp đó, Nghị định số 183/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ quy định
về đăng ký hộ tịch thì thuật ngữ Cán bộ TP-HT xuất hiện tại Điều 11và là người
làm việc tại UBND cấp xã.
Giai đoạn từ năm 2003 đến nay, chức danh Công chức TP-HT lần đầu tiên
xuất hiện trong Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ quy
định về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Tại điểm e khoản 2 Điều 2 thì
những người được tuyển dụng, giao giữ chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc
UBND cấp xã, trong đó có chức danh TP-HT. Sau khi Nghị định 114/2003/NĐ-CP
ra đời thì các văn bản khác của nhà nước ta đều nhắc tới chức danh công chức này.
Cụ thể, đó là các văn bản như:
Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ,
chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn; Quyết định số
04/2004/QĐ0BNV ngày 16/01/2004 của Bộ trưởng Bộ nội vụ về việc ban hành quy
định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức, xã phường thị trấn; Nghị định số
158/2005/NĐ-CP về đăng ký, quản lý hộ tịch; Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp
bản sao từ số gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký; Thông tư số
01/2008/TT-BTP hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số
158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch;
Thông tư số 01/2009/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc UBND tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc UBND
cấp huyện và công tác Tư pháp của UBND cấp xã; Nghị định số 92/2009/NĐ-CP
về chức danh, số lượng, một số chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã

13


và những người hoạt động chuyên trách ở cấp xã; Nghị định số 06/2012/NĐ-CP của
Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều cảu các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân và
gia đình và chứng thực; Nghị định số 112/2011/NĐ-CP của Chính phủ về công
chức cấp xã; Thông tư số 06/2012/TT-BNV của Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức

trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng công chức cấp xã; Văn bản hợp
nhất số 8013/VBHN-BTP của Bộ Tư pháp ngày 10/12/2013 về Đăng ký quản lý hộ
tịch; Luật hộ tịch số 60/2014/QH13 ngày 20/11/2014 của Quốc hội; Thông tư liên tịch
số 23/2014/TTLT - BTP – BNV ngày 22/12/2014 của Bộ tư pháp và Bộ Nội vụ...
Chức danh công chức TP-HT xuất hiện trong các văn bản pháp luật đều thể
hiện rõ đặc điểm nghề nghiệp của công chức này. Đó là sự kết hợp cả hai nhiệm vụ
tư pháp và hộ tịch mà công chức TP-HT phải đảm nhận. Cũng như các chức danh
công chức khác tại cấp xã, đội ngũ công chức TP-HT thường xuyên, trực tiếp tiếp
xúc với người dân để giải quyết các công việc thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã.
1.2. NHẬN THỨC CHUNG VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1.2.1. Khái niệm giáo dục pháp luật
“Nhà nước pháp quyền được nhìn từ góc độ ý thức công dân, ý thức pháp luật
và nền văn hóa pháp lý ” [9, Tr.22]. Một nhiệm vụ và giải pháp cụ thể để xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đó là GDPL. Hiện nay ở
nước ta, GDPL trở thành một bộ phận của giáo dục chính trị, tư tưởng, “là một
nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng” [5].
GDPL có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc nâng cao nhận thức, ý thức chấp
hành pháp luật của cán bộ, công chức, đảng viên và người dân. Nó nhận được sự
quan tâm, nghiên cứu đặc biệt từ phía các nhà khoa học. Ở Việt Nam có hai luồng
quan điểm chưa thống nhất về việc giải thích từ ngữ, đó là việc phân biệt các khái
niệm: PBPL và GDPL. Xét trên mối quan hệ thực tiễn cũng như yêu cầu, mục đích
chung của GDPL, có thể thấy hai khái niệm PBPL và GDPL có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Xét về bản chất của từng hoạt động, thì mục đích của hoạt động phổ
biến là để GDPL.

14


Như vậy, có thể coi PBPL và GDPL là các mức độ, công đoạn tiếp nối nhau,
gắn liền với nhau trong quá trình truyền đạt nội dung pháp luật đến các đối tượng cụ

thể nhằm nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật cho họ. Khi phân tách hai khái niệm
này, việc xác định các chủ thể thực hiện, cách thức thực hiện GDPL sẽ khó tách
bạch mà có sự trùng lắp, vì hoạt động GDPL không giới hạn chỉ là việc GDPL trong
nhà trường với các chủ thể và đối tượng cụ thể là nhà giáo và người học.
Nếu thống nhất hai khái niệm, PBGDPL có mối liên hệ mật thiết với nhau,
trong phổ biến có giáo dục, trong giáo dục có phổ biến. Nếu tách riêng hai khái
niệm thì đây là một tập hợp từ ghép giữa hai từ “phổ biến” và “giáo dục” nên xét về
bản chất ngữ nghĩa là khác nhau, đồng thời hai hoạt động này có chủ thể thực hiện,
đối tượng điều chỉnh cũng như cách thức thực hiện khác nhau. Tuy nhiên, các ý
kiến theo quan điểm tách biết chưa đi sâu phân tích và chỉ ra được những khác biệt
cụ thể nói trên về nội hàm hoạt động liên quan đến hai khái niệm.
Về khái niệm PBGDPL, theo “Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ PBGDPL”[22]
PBGDPL là một từ ghép hai từ PBPL và GDPL. Cả cụm từ PBGDPL có hai nghĩa:
Thứ nhất, theo nghĩa hẹp, đó là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng
cao tri thức, tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tôn
trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng. Thứ hai, theo
nghĩa rộng, đó là một quá trình tác động có định hướng của chủ thể PBGDPL đến ý
thức của con người. Do vậy, PBGDPL bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho
công tác PBGDPL. Nó được xác định là một khâu của hoạt động tổ chức thực hiện
pháp luật, là hoạt động có định hướng có tổ chức, có chủ định nhằm mục đích hình
thành ở đối tượng được tác động tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi xử sự phù
hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành với các hình thức, phương
tiện, phương pháp đặc thù; là quá trình tác động thường xuyên, liên tục, lâu dài của
chủ thể lên đối tượng; là cầu nối để truyền tải pháp luật vào cuộc sống.
Đối với khái niệm phổ biến pháp luật:
Theo Từ điển Tiếng Việt, “phổ biến là làm cho đông đảo mọi người biết đến
một vấn đề, một tri thức bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thông qua hình thức nào
15



đó" [38]. PBPL có đối tượng tác động rộng rãi, mang ý nghĩa xã hội và nhân văn
sâu sắc, bởi trong lịch sử đã có lúc pháp luật được ban hành nhưng không được phổ
biến công khai mà chỉ được coi là một công cụ để nhà nước dùng để trị dân. Bên
cạnh đó PBPL còn mang tính tác nghiệp, truyền đạt nội dung pháp luật cho các đối
tượng cụ thể. Ở những mức độ khác nhau, PBPL còn nhằm làm cho các đối tượng
cụ thể hiểu thấu suốt các quy định của pháp luật để thực hiện pháp luật trên thực tế.
PBPL thường được thực hiện thông qua các hội nghị, các cuộc tập huấn...
Như vậy, theo nghĩa hẹp, PBPL là giới thiệu tinh thần văn bản pháp luật cho
đối tượng của nó. Theo nghĩa rộng thì đó là truyền bá pháp luật cho mọi tầng lớp
nhân dân trên cả nước.
Đối với khái niệm GDPL:
Theo Từ điển Tiếng Việt, giáo dục được hiểu đó là “ tác động có hệ thống
đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con người, để họ dần dần có được những
phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [40, Tr.734]. Ngoài ra, giáo dục còn
được hiểu đó là hình thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một
nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy,
đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người
khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng
đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận, hành động đều được xem là có
tính giáo dục. Ví dụ: Giáo dục thường được chia thành các giai đoạn như giáo dục
tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học và giáo dục đại học.
Như vậy, so với phổ biến thì giáo dục cũng nhằm nâng cao nhận thức, tình
cảm song nội dung rộng hơn, phương thức tiến hành chặt chẽ hơn, đối tượng xác
định hơn, mục đích lớn hơn. Xét dưới góc độ nhất định thì phổ biến chính là các
phương thức giáo dục cụ thể.
Hiện nay, các nhà khoa học đã khá thống nhất về khái niệm GDPL: Thứ nhất,
theo nghĩa rộng: GDPL là một trong những tác động của thế giới khách quan và
cũng là một trong những tác động chủ quan của con người lên sự nhận thức và thực
hiện hành vi của chính con người. Thứ hai, theo nghĩa hẹp: “Hoạt động có định
16



hướng, có mục đích, trang bị kiến thức pháp luật, nhằm hình thành ở các đối tượng
được giáo dục những tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp
luật” [14, Tr. 452].
Trong luận văn, khái niệm GDPL được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là hoạt động có
định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo
dục một cách có hệ thống, thường xuyên và liên tục nhằm mục đích hình thành ở họ tri
thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật.
1.2.2. Các bộ phận cấu thành cơ bản của giáo dục pháp luật
Thứ nhất, mục đích của GDPL
Mục đích GDPL được hiểu là sự mong muốn, là dự kiến về kết quả đạt được
của giáo dục dục pháp luật. Những mong muốn này có tính chất lý tưởng, là cái mà
chủ thể GDPL đang hướng tới, đang phấn đấu để đạt được. Nó có tác dụng định
hướng, điều khiển hoạt động GDPL trong những điều kiện, hoản cảnh nhất định của
xã hội. Mục đích GDPL gồm ba nhóm mục đích cụ thể:
GDPL nâng cao hiểu biết pháp luật cho đối tượng
Pháp luật của nhà nước không phải khi nào cũng được mọi người trong xã hội
biết đến, tìm hiểu, đồng tình ủng hộ và thực hiện nghiêm chỉnh. Tuy rằng, bản chất
pháp luật của nhà nước ta là rất tốt đẹp, nó phản ánh ý chí, nguyện vọng, mong muốn
của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Quy định pháp luật dù tốt đẹp bao
nhiêu mà không được nhân dân biết đến thì chỉ là quy định trên giấy. “Do vậy, công tác
dục pháp luật hiện nay có vai trò to lớn trong việc xây dựng, nâng cao hiểu biết, tôn
trọng, và khả năng vận dụng pháp luật của nhân dân trong cuộc sống” [14, Tr.451].
Pháp luật của nhà nước có thể được một số người tìm hiểu quan tâm và nắm
bắt xuất phát từ nhu cầu học tập, nghiên cứu hay từ nhu cầu sản xuất- kinh doanh
của họ. Những người này luôn theo sát những quy định pháp luật mới được ban
hành để phục vụ trực tiếp cho công việc của mình, nhưng số lượng đối tượng này
không phải là nhiều. Với trình độ dân trí còn thấp, đời sống kinh tế của đa số nhân
dân còn gặp nhiều khó khăn cho nên các đối tượng nằm trong sự điều chỉnh của các

văn bản pháp luật, nghĩa là số đông nhân dân lao động trong xã hội chưa có điều
17


×