Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Quyền tự do thành lập doanh nghiệp lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

QUYỀN TỰ DO THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP
– LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

UÔNG HỒNG THẮNG

Hà Nội - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
QUYỀN TỰ DO THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP
– LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

UÔNG HỒNG THẮNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
Mã số: 60380107

NGƯỜI HƯỠNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN THỊ NHUNG

Hà Nội - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Viện Đại học mở Hà Nội.Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề
nghị Viện Đại học mở Hà Nội xem xét để tôi được bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân
thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Uông Hồng Thắng


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh, chị trong Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước,
các cơ quan, các cấp lãnh đạo và các cá nhân. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc tới.
Cô giáo hướng dẫn Luận văn TS. Nguyễn Thị Nhung – Chủ nhiệm Khoa Luật
- Viện Đại học mở Hà Nội và các thầy giáo, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu hoàn thành Luận văn.
Cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, khoa Đào tạo sau đại
học, Viện Đại học mở Hà Nội, đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã luôn
bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong suốt quá trình học tập, thực hiện và
hoàn thành Luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Uông Hồng Thắng



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO THÀNH LẬP
DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO THÀNH LẬP
DOANH NGHIỆP ................................................................................................. 8
1.1. Khái quát về thành lập doanh nghiệp và quyền tự do thành lập doanh
nghiệp ................................................................................................................. 8
1.1.1. Khái quát về thành lập doanh nghiệp ..................................................... 8
1.1.2. Khái niệm về quyền tự do kinh doanh và quyền tự do thành lập doanh
nghiệp ........................................................................................................... 13
1.2. Nội dung và giới hạn của quyền tự do thành lập doanh nghiệp ............. 16
1.2.1. Nội dung của quyền tự do thành lập doanh nghiệp............................... 16
1.2.2. Giới hạn của quyền tự do thành lập doanh nghiệp................................ 23
1.3. Vai trò của pháp luật trong đảm bảo quyền tự do thành lập doanh
nghiệp............................................................................................................... 29
1.3.1. Pháp luật có vai trò thể chế hóa các yêu cầu của quyền tự do thành lập
doanh nghiệp ................................................................................................. 30
1.3.2. Pháp luật tạo ra các đảm bảo cho việc thực hiện quyền tự do thành lập
doanh nghiệp ................................................................................................. 31
KẾT LUẬN CHƯƠNG I ..................................................................................... 34
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TỰ DO
THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP ....................................................................... 35


2.1. Chủ thể có quyền thành lập doanh nghiệp .............................................. 35

2.2. Quyền lựa chọn mô hình doanh nghiệp ................................................... 42
2.3. Quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh ................................................. 44
2.4. Quyền lựa chọn tên doanh nghiệp và địa điểm kinh doanh ................... 49
2.5. Về thủ tục thành lập doanh nghiệp và đăng ký doanh nghiệp ............... 50
2.4.1. Về hồ sơ đăng ký doanh nghiệp ........................................................... 51
2.4.2. Trình tự và thủ tục đăng ký doanh nghiệp ............................................ 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 59
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUYỀN
TỰ DO THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM……………….…..60
3.1. Thực tiễn thực hiện quyền tự do thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam 60
3.1.1. Thành tự đạt được trong thực tiễn thực hiện quyền tự do thành lập
doanh nghiệp ................................................................................................ 60
3.1.2. Hạn chế trong đảm bảo quyền tự do thành lập doanh nghiệp ............... 69
3.2. Một số giải pháp đảm bảo quyền tự do thành lập doanh nghiệp tại Việt
Nam .................................................................................................................. 80
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật ........................................ 80
3.2.2. Các giải pháp khác .............................................................................. 84
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 87
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 90


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Ý nghĩa

CTCP


Công ty cổ phần

DN

Doanh nghiệp

ĐKDN

Đăng ký doanh nghiệp

ĐKKD

Đăng ký kinh doanh

NĐT

Nhà đầu tư

NĐTNN

Nhà đầu tư nước ngoài

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Trong bất kỳ nền kinh tế hàng hóa nào cũng tồn tại nhu cầu tự do kinh doanh.
Tuy nhiên, trong các xã hội khác nhau và ở trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể thì mức
độ đảm bảo việc thực hiện nhu cầu tự do kinh doanh cũng khác nhau. Xã hội càng
phát triển thì quyền tự do kinh doanh càng được coi trọng bởi nó là động lực tạo
điều kiện cho nền kinh tế phát triển theo xu hướng kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh
lành mạnh. Tại Việt Nam, quyền tự do kinh doanh là một trong các quyền cơ bản
nhất của công dân và được Hiến pháp quy định. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay, yêu cầu phải phát triển đa dạng các loại hình kinh doanh, nhằm khơi dậy nguồn
hứng khởi cho các nhà kinh doanh, thu hút được các nguồn đầu tư cho sự phát triển
kinh tế, đòi hỏi các nhà lập pháp Việt Nam phải không ngừng hoàn thiện khuôn khổ
pháp luật. Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp sửa đổi được ban hành năm 2014, có
thể nói là những cải cách quan trọng nhất trong việc thể chế hóa các quy định về
quyền tự do kinh doanh được quy định tại Hiến pháp năm 2013.
Trong các quyền gắn liền với chủ thể kinh doanh (quyền tự do kinh doanh) thì
một trong các nội dung cơ bản và quan trọng là quyền tự do thành lập doanh nghiệp.
Nó là tiền đề để thực hiện các quyền khác thuộc nội dung quyền tự do kinh doanh
bởi để tiến hành hoạt động kinh doanh, nhà đầu tư trước hết phải xác định tư cách
pháp lý của mình. Với quyền tự do thành lập doanh nghiệp, các nhà đầu tư có khả
năng quyết định lựa chọn mô hình kinh doanh và lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh
thích hợp để tiến hành hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao. Nhà nước luôn đảm
bảo quyền được thành lập doanh nghiệp cho nhiều đối tượng có khả năng đầu tư cho
xã hội; đồng thời không ngừng hoàn thiện pháp luật về đầu tư, kinh doanh. Từ các
văn bản pháp lý đầu tiên là Luật Công ty năm 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân
1990, Việt Nam đã cho phép thành lập các tổ chức kinh tế thuộc tư hữu, bao gồm

1


các loại hình: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần (thành lập theo Luật
Công ty) và doanh nghiệp tư nhân (thành lập theo Luật Doanh nghiệp tư nhân). Đến

Hiến pháp năm 1992, lần đầu tiên quyền tự do kinh doanh được công nhận, cụ thể
Điều 57 Hiến pháp quy định: "Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định
pháp luật". Quy định này của Hiến pháp đã được cụ thể hóa tại Luật Công ty năm
1999 và tiếp đó là Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2005. Đặc biệt, năm
2013 Quốc Hội thông qua Hiến pháp và năm 2014 hai dự án Luật lớn là Luật Đầu tư
và Luật Doanh nghiệp ra đời, với nhiều điểm mới đáng kể liên quan đến quyền
thành lập doanh nghiệp như đơn giản hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp, mở rộng
quyền tự do lựa chọn ngành nghề, mô hình kinh doanh...; đồng thời nhiều quy định
đã thể hiện bước thay đổi lớn trong cả tư duy quản lý lẫn phương thức quản lý
doanh nghiệp. Trong bối cảnh nhu cầu thành lập doanh nghiệp luôn rất lớn, cụ thể:
Năm 2013, cả nước có 76.955 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, con số này vào
năm 2014 là 74.842 doanh nghiệp thì việc nắm bắt được những vấn đề lí luận và sự
phát triển của chế định pháp lý liên quan đến quyền thành lập doanh nghiệp, cũng
như việc đưa ra các đánh giá, nhìn nhận cụ thể đối với các quy định mới tại Luật
Doanh nghiệp, Luật Đầu tư sửa đổi năm 2014 đặt trong mối tương quan với kinh
nghiệm pháp luật quốc tế có tầm quan trọng đặc biệt không chỉ đối với cơ quan
quản lý mà còn với cả các tổ chức, cá nhân có ý định bỏ vốn đầu tư tại Việt Nam.
Chính vì lý do trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Quyền tự do thành lập
doanh nghiệp – Lý luận và thực tiễn”, trong đó tập trung làm rõ các quy định mới
về quyền thành lập doanh nghiệp tại Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2014,
có so sánh sự khác biệt với các quy định trước đây; đồng thời nghiên cứu pháp luật
về thành lập doanh nghiệp của một số nước để có đánh giá về sự tương thích so với
pháp luật Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tự do kinh doanh là đề tài không mới ở Việt Nam. Có thể tìm thấy nhiều công
trình nghiên cứu tiêu biểu như:

2



- Sách chuyên khảo “Tự do kinh doanh và vấn đề đảm bảo quyền con người
tại Việt Nam” của tác giả Mai Hồng Quỳ, Nxb. Lao động, Tp. Hồ Chí Minh, 2012.
Tài liệu làm rõ các vấn đề liên quan đến tự do kinh doanh tại Việt Nam dưới góc độ
xem xét quyền tự do kinh doanh là quyền con người.
- Sách chuyên khảo “Quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Liên minh châu
Âu và Việt Nam” của TS. Phan Huy Hồng và TS. Nguyễn Thanh Tú, Nxb. Chính trị
quốc gia, 2013. Cuốn sách đề cập đến quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam và châu
Âu thông qua từng vụ việc cụ thể. Đặc biệt, qua phân tích các phán quyết của Toàn
án Tư pháp Liên minh Châu Âu về quyền tự do kinh doanh để trình bày những thực
tiễn pháp lý sinh động về các biện pháp hạn chế quyền tự do kinh doanh của các cơ
quan công quyền, từ đó tác giả đã so sánh với việc vận dụng biện pháp hạn chế
quyền tự do kinh doanh có tính chất tương tự ở Việt Nam và có những kiến nghị để
hoàn thiện những yếu tố còn bất cập trong lý luận và phương pháp thực tiễn về hạn
chế quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam.
- Luận văn Thạc sỹ Luật Kinh tế, “Các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tự
do kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam”, Nguyễn Thị Điều, 2013,
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội do TS. Nguyễn Thị Lan Hương hướng dẫn.
Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng những nội dung cơ bản về quyền tự do kinh
doanh của doanh nghiệp theo quy định pháp luật kinh tế hiện hành và đề ra những
định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
- Luận văn Thạc sỹ Luật Kinh tế, “Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập
doanh nghiệp”, Nguyễn Thị Phương Thảo, 2010, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà
Nội, do TS. Nguyễn Như Phát hướng dẫn. Đề tài tập trung so sánh pháp luật thành
lập doanh nghiệp của Việt Nam với một số nước để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về thành lập doanh nghiệp của Việt Nam.
- Luận văn Thạc sỹ Luật Kinh tế, “Bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong
đăng ký kinh doanh của Luật Doanh nghiệp 2005”, Nguyễn Phương Thảo, 2013,
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội do PGS-TS. Ngô Huy Cương hướng dẫn. Đề

3



tài tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về tự do kinh doanh trong đăng ký kinh
doanh và phân tích thực trạng vấn đề này của Luật Doanh nghiệp năm 2005.
- Luận văn Thạc sỹ Luật Kinh tế, "Vấn đề hoàn thiện quy chế thành lập doanh
nghiệp và quản lý nhà nước về đăng ký kinh doanh trong giai đoạn hiện nay”, Cao
Thanh Huyền, 2014, Đại học Luật Hà Nội do PGS-TS. Nguyễn Viết Tý hướng dẫn.
Đề tài làm rõ những vấn đề pháp lý liên quan đến thành lập doanh nghiệp và quản lý
nhà nước về đăng ký kinh doanh, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Ngoài ra, còn có một số các bài viết liên quan đến vấn đề quyền tự do kinh
doanh, quyền thành lập doanh nghiệp trên các Tạp chí như: “Cải cách thủ tục thành
lập doanh nghiệp ở Việt Nam - nhìn từ khía cạnh pháp lý qua báo cáo của ngân
hàng thế giới năm 2011”, Trần Huỳnh Thanh Nghị, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật,Viện Nhà nước và Pháp luật, số 7/2011, tr. 40 – 47; hay “Điều kiện thành lập
doanh nghiệp nhìn từ góc độ quyền tự do kinh doanh trong Dự thảo Luật doanh
nghiệp sửa đổi”, Trương Vĩnh Xuân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng
Quốc hội, số 18/2014, tr. 35 – 43…
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đóng góp những kết luận khoa học quan
trọng trong quá trình nghiên cứu về quyền tự do kinh doanh cũng như pháp luật về
thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề lý luận về quyền thành lập
doanh nghiệp chưa được nhiều tác giả đi sâu làm rõ. Mặt khác, các đề tài đều được
làm trước khi Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư sửa đổi được Quốc Hội ban hành
ngày 26/11/2014, do đó tính đến thời điểm hiện tại, chưa có đề tài luận văn nào khai
thác những điểm mới liên quan đến quyền thành lập doanh nghiệp tại Luật Doanh
nghiệp, Luật Đầu tư năm 2014. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu thực trạng thành lập
doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay và kinh nghiệm pháp luật về quyền thành lập
doanh nghiệp tại một số quốc gia như Châu Âu, Nhật Bản, Singapore…, từ đó đưa
ra một số phương hướng, giải pháp đảm bảo hơn nữa quyền tự do kinh doanh,
quyền tự do thành lập doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là vấn đề cần được xem xét
toàn diện và có tầm quan trọng không chỉ đối với các cá nhân, tổ chức đầu tư mà


4


còn đối với cả các cơ quan quản lý, hoạch định chính sách. Có thể nói, đây là một
vấn đề mới, có tính ứng dụng cao và đòi hỏi có những nghiên cứu toàn diện.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu tổng quát
Đề tài: “Quyền tự do thành lập doanh nghiệp – Lý luận và thực tiễn” hướng
đến mục tiêu làm rõ các vấn đề lý luận về quyền tự do thành lập doanh nghiệp; nội
dung pháp luật về quyền tự do thành lập doanh nghiệp và thực tiễn thực hiện quyền
thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam; qua đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị
hoàn thiện pháp luật.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu khái niệm, nguyên tắc, nội dung của quyền tự do thành lập
doanh nghiệp.
- Nghiên cứu và đánh giá thực trạng pháp luật về quyền tự do thành lập
doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay, đánh giá những điểm mới tại Luật Doanh
nghiệp, Luật Đầu tư năm 2014 và các khó khăn gặp phải về mặt cơ chế và quy
định pháp lý khi các chủ thể thực hiện quyền tự do thành lập doanh nghiệp.
- Đề xuất hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tự do thành lập
doanh nghiệp, cũng như các giải pháp đồng bộ khác để đảm bảo quyền cho các tổ
chức, cá nhân trong hoạt động thành lập doanh nghiệp.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
-

Nêu được những vấn đề cơ bản về quyền tự do thành lập doanh nghiệp

(khái niệm, nội dung và giới hạn của quyền tự do thành lập doanh nghiệp);
-


Làm rõ pháp luật về quyền tự do thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam mà

chủ yếu là phân tích các điểm mới tại Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2014
có hiệu lực từ ngày 1/7/2015; đồng thời so sánh với pháp luật một số nước như Nhật

5


Bản, Singapore... về thành lập, đăng ký doanh nghiệp để đánh giá mức độ tương
thích với pháp luật Việt Nam.
- Đánh giá được thực trạng hoạt động thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam
và những vướng mắc bất cập (những vướng mắc về mặt pháp luật và cơ chế, thủ tục
hiện nay).
-

Đưa ra một số giải pháp hoàn thiện khung pháp lý và các giải pháp khác

nhằm đảm bảo quyền tự do thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các khía cạnh về quyền tự do thành lập doanh nghiệp tại
Việt Nam theo quy định của pháp luật doanh nghiệp, bao gồm các loại hình doanh
nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
Các chủ thể kinh doanh khác như hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể... không quy
định tại Luật Doanh nghiệp không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
• Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu làm rõ quy định pháp luật về thành lập doanh nghiệp theo Luật
Doanh nghiệp, Luật Đầu tư năm 2005 và quy định tại Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu
tư năm 2014; đồng thời phân tích, so sánh những điểm mới và tác động sau khi ban

hành Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư sửa đổi. Việc nghiên cứu thực tiễn về đăng
ký doanh nghiệp chủ yếu được thực hiện trước năm 2015 khi Luật Doanh nghiệp,
Luật Đầu tư năm 2005 vẫn đang có hiệu lực thi hành. Vì thời điểm có hiệu lực của
Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư sửa đổi là ngày 1/7/2015 nên chưa có nhiều đánh
giá tác động của hai Luật này về mặt thực tiễn.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra và thu thập tài liệu để tổng hợp và phân tích theo phương pháp
luận logic;

6


- Phương pháp so sánh;
- Khảo sát thực tế nhằm đưa ra các đánh giá, khuyến nghị thích hợp.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền tự do thành lập doanh nghiệp và
pháp luật về quyền tự do thành lập doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền tự do thành lập doanh nghiệp
Chương 3: Thực tiễn thực hiện và giải pháp đảm bảo quyền tự do thành lập
doanh nghiệp tại Việt Nam.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO
THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN TỰ DO THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP


1.1. Khái quát về thành lập doanh nghiệp và quyền tự do thành lập doanh nghiệp
1.1.1. Khái quát về thành lập doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp
Nhu cầu sống của con người buộc họ tham gia các hoạt động kinh tế, từ đó
dần dần có sự phân hóa thành một tầng lớp sống bằng nghề buôn bán, thương mại
mà thường được gọi là thương gia. Nhưng những hoạt động kinh tế như vậy chứa
đựng nhiều rủi ro, dẫn đến cần thiết liên kết, hợp tác với nhau. Từ những liên kết
như vậy đã hình thành các công ty đối nhân (khi được thiết lập giữa các thương gia)
hoặc hình thành các công ty đối vốn (khi được thiết lập giữa các nhà đầu tư mong
muốn hạn chế rủi ro cho mình bằng chế độ trách nhiệm hữu hạn). Có thể thấy sự
hình thành doanh nghiệp là hệ quả tất yếu của sự phát triển hoạt động kinh doanh.
Khó có ai có thể tưởng tượng được rằng trong hoạt động kinh tế nói riêng, trong đời
sống xã hội nói chung lại có thể thiếu bóng dáng của doanh nghiệp. Trong nền kinh
tế thị trường hiện nay, doanh nghiệp được coi là chủ thể giữ vai trò quan trọng và có
ý nghĩa quyết định đối với sức tăng trưởng của nền kinh tế và sự tồn tại của xã hội.
Dưới góc độ kinh tế - xã hội, doanh nghiệp được coi là những thực thể xã hội,
có chức năng chủ yếu là thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp
được cấu thành bởi nhiều yếu tố như cơ sở vật chất (vốn, tài sản), bộ máy quản lý
điều hành, người lao động… Với chức năng kinh doanh, doanh nghiệp sử dụng các
yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ đáp

8


ứng nhu cầu của nền kinh tế cũng như của toàn xã hội. Các yếu tố của môi trường
kinh tế - xã hội (cơ chế kinh tế, trình độ phát triển kinh tế, hệ thống pháp luật, trình
độ dân trí, văn hóa kinh doanh…) đều có tác động đến sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp ở những phương diện và mức độ khác nhau.
Dưới góc độ pháp lý, doanh nghiệp được hiểu là chủ thể có tư cách pháp lý
độc lập, có tài sản và thực hiện hoạt động kinh doanh. Theo đó, doanh nghiệp có

các đặc điểm pháp lý sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp là một chủ thể pháp luật. Với tư cách là một chủ thể
pháp luật, doanh nghiệp có năng lực tham gia vào các quan hệ pháp luật, trong đó
trước hết và chủ yếu là các quan hệ kinh doanh. Tính chất độc lập về mặt tư cách
pháp lý giúp cho doanh nghiệp có quyền tự chủ trong các quan hệ kinh doanh, đồng
thời phải tự chịu trách nhiệm trong việc tổ chức và hoạt động của mình.
Thứ hai, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp thông qua
thủ tục đăng ký doanh nghiệp. Điều này xuất phát từ yêu cầu của quản lý Nhà nước
đối với hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, nhằm thiết lập môi
trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, dân chủ. Thông qua việc đăng ký doanh
nghiệp, cơ quan quản lý có thông tin về doanh nghiệp, qua đó nắm bắt được thông
tin các doanh nghiệp đủ điều kiện để thành lập hoạt động và loại bỏ những chủ thể
không đủ tư cách pháp lý tham gia kinh doanh.
Thứ ba, doanh nghiệp có tên riêng tài sản và trụ sở giao dịch ổn định. Để
tham gia vào hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải có tài sản riêng của mình
(tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ trị giá bằng tiền và các quyền tài sản), nghĩa là
doanh nghiệp phải có quyền chiếm hữu (hoặc quản lý), sử dụng, định đoạt tài sản
đó cũng như có quyền điều phối khối tài sản này theo nhu cầu sản xuất kinh
doanh và phải chịu trách nhiệm bằng chính tài sản đó trước pháp luật. Có thể
nói, tài sản là cơ sở vật chất không thể thiếu để doanh nghiệp thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình.

9


Thứ tư, doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh một cách thường
xuyên, độc lập nhằm mục đích chủ yếu là lợi nhuận. Bởi lẽ, với tư cách là một
thực thể tham gia thị trường, nếu chủ thể kinh doanh không lấy kinh doanh làm
hoạt động cơ bản để tìm kiếm lợi nhuận thì tất yếu không có sự tồn tại và không
có khả năng tồn tại.

Tùy thuộc vào hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia, doanh nghiệp được phân
chia thành các loại hình khác nhau. Tại hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, doanh
nghiệp được chia thành hai nhóm là doanh nghiệp cá nhân và công ty. Còn tại hệ
thống Luật án lệ, doanh nghiệp được chia thành hai nhóm chủ yếu là hãng kinh
doanh và công ty. Hay ở Trung Quốc, doanh nghiệp bao gồm hộ cá thể, doanh
nghiệp cá thể (doanh nghiệp tư nhân), doanh nghiệp tập thể, doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và công ty… Tại Việt Nam, các loại
hình doanh nghiệp hiện nay gồm: Doanh nghiệp tư nhân, các loại hình công ty
(công ty hợp danh, công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn).
1.1.1.2. Khái quát về thành lập doanh nghiệp
Để khởi sự kinh doanh, các nhà đầu tư hiện nay thường có xu hướng thành lập
doanh nghiệp bởi các quy định pháp lý đối với các doanh nghiệp là tương đối rõ
ràng và thủ tục thành lập doanh nghiệp khá đơn giản. Nhà đầu tư sau khi tìm hiểu
thị hiếu khách hàng tiềm năng, chọn địa điểm kinh doanh, tìm nguồn vốn, nguồn
nhân lực, nguồn cung cấp để phục vụ cho dự án kinh doanh... sẽ tiến hành các thủ
tục thành lập doanh nghiệp. Dưới góc độ kinh tế, thành lập doanh nghiệp được hiểu
là việc chuẩn bị các điều kiện vật chất cần và đủ (như trụ sở, nhà xưởng, dây chuyền
sản xuất, thiết bị kĩ thật, đội ngũ nhân công, nhà quản lí…) để hình thành một tổ
chức kinh doanh. Đây là công đoạn đầu tiên và cũng là công đoạn quan trọng trong
toàn bộ quá trình đầu tư, để hình thành thực thể kinh doanh (công ty TNHH, công ty
hợp danh, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân…) của các nhà đầu tư trong suốt
quá trình đầu tư của mình.

10


Dưới góc độ pháp lý, thành lập doanh nghiệp là một thủ tục pháp lý được thực
hiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm hợp pháp hóa sự ra đời của doanh
nghiệp, và hiện nay nó được hiểu là thủ tục đăng ký doanh nghiệp. “Đăng ký doanh
nghiệp” là một thuật ngữ pháp lý, nhưng trong mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh

tế thì thuật ngữ này cũng được hiểu và thể hiện khác nhau. Theo Luật Công ty và
Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, thủ tục thành lập doanh nghiệp được hiểu
theo cơ chế “xin – cho” và cá nhân, tổ chức phải thực hiện đăng ký kinh doanh để
được cấp Giấy phép thành lập doanh nghiệp. Việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường, đảm bảo quyền tự do kinh doanh được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992,
cơ chế “xin – cho” trong hoạt động đăng ký kinh doanh được xóa bỏ, các chủ thể
phải làm thủ tục pháp lý để hợp pháp hóa sự ra đời của doanh nghiệp và theo quy
định của Luật Doanh nghiệp năm 1999 đến trước ngày 01/7/2010, thủ tục này được
sử dụng với thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” (Doanh nghiệp được thành lập mới
được cấp “Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”). Từ ngày Nghị định số
43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp có hiệu
lực (ngày 01/7/2010) cho đến nay, thủ tục thành lập doanh nghiệp được sử dụng với
thuật ngữ “đăng ký doanh nghiệp”, bao gồm cả thủ tục đăng ký kinh doanh và đăng
ký thuế, theo đó khi thành lập mới, doanh nghiệp được cấp “Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp”.
Như vậy, đăng ký doanh nghiệp là một thủ tục hành chính, hợp pháp hóa sự
ra đời của doanh nghiệp, thông qua đó Nhà nước thừa nhận và bảo vệ cho doanh
nghiệp các quyền và lợi ích hợp pháp trong quan hệ kinh doanh và ghi nhận về
mặt pháp lý sự tồn tại của một chủ thể kinh doanh. Việc thành lập doanh nghiệp
vì thế được pháp luật doanh nghiệp quy định cụ thể và có các ý nghĩa pháp lý cụ
thể như sau:
- Đối với nhà nước, việc quy định về thành lập doanh nghiệp thể hiện sự bảo
hộ của nhà nước bằng pháp luật đối với các chủ thể hoạt động kinh doanh nói chung
và các chủ doanh nghiệp nói riêng. Đồng thời, nhà nước thực hiện chức năng quản
lí cơ cấu các thành phần kinh tế xã hội, kiểm soát các hoạt động kinh doanh theo
11


đường lối đã vạch ra. Đăng ký kinh doanh giúp cho cơ quan quản lí nhà nước nắm
bắt được các yếu tố mới trong kinh doanh để từ đó có những chủ trương, chính

sách, biện pháp khuyến khích hoặc han chế phù hợp, giúp nhà nước có thể can thiệp
một cách kịp thời và có mức độ vào nền kinh tế, bảo đảm có được một nền kinh tế
hiện đại nhưng không xa rời chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã đề ra.
- Đối với doanh nghiệp được đăng ký kinh doanh: Với tính chất là thủ tục
pháp lý bắt buộc để thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh cho phép xác lập
tư cách pháp lý của chủ thể kinh doanh (tức là xác định tư cách pháp lý của doanh
nghiệp). Sau khi được cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp, doanh nghiệp được
thừa nhận về mặt pháp lý, có quyền tiến hành các hoạt động kinh doanh như đã
đăng ký dưới sự bảo hộ của pháp luật. Từ đó, doanh nghiệp yêu cầu các cơ quan
nhà nước bảo vệ các quyền, lợi ích và tài sản hợp pháp của mình cũng như các hoạt
động kinh doanh của doanh nghệp.
- Về mặt xã hội: Đăng ký doanh nghiệp giúp công khai hoá các hoạt động của
doanh nghiệp trước công chúng, qua đó xã hội có được các thông tin và các đảm
bảo về tư cách pháp lý của doanh nghiệp. Điều này tạo ra niền tin với các đối tác
khi thực hiện các giao dịch với doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp tồn tại và
phát triển. Mặt khác, với tư cách là một thành viên trong cơ cấu các thành phần kinh
tế, các hoạt động của doanh nghiệp còn góp phần tác động không nhỏ vào sự phát
triển kinh tế của toàn xã hội.
Như vậy, việc thành lập doanh nghệp không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối
với việc bảo đảm quyền lợi cho bản thân các doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa đối
với việc bảo đảm trật tự quản lí nhà nước và bảo vệ lợi ích cho các chủ thể khác
trong xã hội. Vì vậy, thành lập doanh nghệp vừa là một nhu cầu tất yếu, vừa là đòi
hỏi mang tính nghĩa vụ đối với mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phát
triển như hiện nay.

12


1.1.2. Khái niệm về quyền tự do kinh doanh và quyền tự do thành lập doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm quyền tự do kinh doanh

Ngày nay, quyền tự do kinh doanh được thừa nhận là một quyền cơ bản của
con người, xuất phát từ mưu cầu hành phúc và mong muốn được làm giàu [3]. Giá
trị to lớn của quyền tự do kinh doanh thể hiện ở chỗ nó là tự do trong hoạt động
kinh tế - hoạt động luôn giữ vị trí trung tâm trong đời sống xã hội, quyết định các
hoạt động khác. Nó là một phạm trù rất rộng và có nhiều cách định nghĩa khác
nhau. Dưới góc độ quyền chủ thể, quyền tự do kinh doanh bao hàm khả năng mà
thể nhân hay pháp nhân có thể xử sự như: Tự do đầu tư vốn để thành lập doanh
nghiệp, tự do lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh, tự do lựa chọn đối tác để thiết
lập quan hệ kinh doanh, tự do cạnh tranh, tự do định đoạt việc giải quyết tranh
chấp trong kinh doanh… Những khả năng xử sự này là thuộc tính tự nhiên của các
chủ thể chứ không phải do nhà nước ban tặng. Nhiều học giả cho rằng quyền tự do
kinh doanh là quyền của cá nhân và doanh nghiệp tiến hành kinh doanh và cạnh
tranh với sự can thiệp tối thiểu của chính quyền hay pháp luật. Dưới góc độ là một
chế định pháp luật, quyền tự do kinh doanh là hệ thống các quy phạm pháp luật và
những bảo đảm pháp lý do nhà nước ban hành nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể
thực hiện quyền tự do kinh doanh của mình. Với cách tiếp cận này, quyền tự do
kinh doanh, một mặt bao gồm những quyền mà các chủ thể kinh doanh được
hưởng, mặt khác là trách nhiệm của nhà nước khi thực hiện chức năng quản lý của
mình phải tôn trọng, bảo vệ những quyền năng đó. Điều đó có nghĩa là những khả
năng xử sự của các cá nhân, pháp nhân trong thực hiện các quyền tự do kinh
doanh muốn trở thành hiện thực thì phải được nhà nước thể chế hoá bằng pháp
luật và khi đó nó mới trở thành “Thực quyền”. Hai mặt này tồn tại thống nhất
trong chế định pháp lý tự do kinh doanh bởi nếu chỉ thừa nhận những quyền của
chủ thể mà không đảm bảo cho nó những điều kiện để thực hiện quyền thì quyền
tự do kinh doanh chỉ mang tính hình thức.

13


Theo yêu cầu nội tại của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, tất cả các

công việc mà nhà kinh doanh phải thực hiện như: tạo nguồn vốn, tài sản; lựa chọn
ngành nghề kinh doanh; tiến hành thành lập doanh nghiệp và tiếp đó, trong quá
trình hoạt động, các nhà kinh doanh phải thực hiện nhiều hành vi như thiết lập quan
hệ kinh doanh (liên doanh, liên kết, mua bán, trao đổi, thực hiện các dịch vụ…).
Những công việc này, khi được pháp luật thừa nhận và đảm bảo sẽ trở thành quyền
của các nhà kinh doanh, tạo thành nội dung của quyền tự do kinh doanh. Như vậy,
quyền tự do kinh doanh là hệ thống các quyền gắn với chủ thể kinh doanh, bao gồm
các quyền sau:
-

Quyền được đảm bảo sở hữu đối với tài sản;

-

Quyền tự do thành lập doanh nghiệp;

-

Quyền tự do hợp đồng;

-

Quyền tự do cạnh tranh theo pháp luật;

-

Quyền lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh;

Tóm lại, quyền tự do kinh doanh là quyền tự do lựa chọn trong thành lập
doanh nghiệp và tiến hành kinh doanh mà nhà nước phải ghi nhận và chỉ kiểm soát

nhằm bảo vệ cộng đồng. Quyền này là nền tảng cho hoạt động kinh doanh. Chính vì
thế, pháp luật các nước đều ghi nhận quyền tự do kinh doanh như Luật số 73.1193
ngày 27/12/1973 của Pháp đã nêu bật “Tự do kinh doanh và ý chí kinh doanh là cơ
sở của hoạt động kinh doanh và nghề thủ công”. Hay theo khoản 6 Điều 11 Hiến
pháp Luxembourg năm 1868 phần những nguyên tắc cơ bản đã nêu rõ: mọi công
dân của Luxembourg được đảm bảo tự do thương mại và công nghiệp, cũng như tự
do để thành lập một doanh nghiệp với hoạt động thương mại…
1.1.2.2. Khái niệm quyền tự do thành lập doanh nghiệp
Trong số các quyền tự do kinh doanh, quyền tự do thành lập doanh nghiệp là
nội dung cơ bản và quan trọng vì muốn trở thành nhà kinh doanh hợp pháp (có tư
cách pháp lý hợp pháp), nhà đầu tư phải tiến hành đăng ký kinh doanh tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Khi đã tiến hành đăng ký kinh doanh và được công nhận

14


tư cách pháp lý, lúc đó nhà đầu tư mới được phép tiến hành các hoạt động kinh
doanh như sản xuất, mua bán, thực hiện dịch vụ… Như vậy, có thể nói quyền tự do
thành lập doanh nghiệp là quyền của cá nhân hay pháp nhân trong việc tạo lập tư
cách pháp lý thông qua các thủ tục thành lập, đăng ký kinh doanh. Nó là tiền đề để
thực hiện các quyền khác thuộc nội dung của quyền tự do kinh doanh.
Quyền tự do thành lập doanh nghiệp bao gồm hai mặt: thứ nhất, nó là quyền
của cá nhân, tổ chức và không ai có quyền can thiệp, ngăn cản trái phép quyền tự do
thành lập doanh nghiệp của họ; thứ hai, nó là nghĩa vụ của Nhà nước trong việc tạo
những điều kiện, đảm bảo cho cá nhân, tổ chức thực hiện các quyền của mình. Vấn
đề là, cá nhân, tổ chức muốn có tư cách của nhà kinh doanh hợp pháp (doanh
nghiệp) phải tiến hành thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh. Gắn liền với quyền
tự do thành lập doanh nghiệp là quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh; hình
thức tổ chức trong kinh doanh và địa điểm kinh doanh. Thừa nhận quyền tự do này
chính là tôn trọng quyền định đoạt của chủ sở hữu và tạo ra khả năng thuận lợi ban

đầu cho sự nghiệp kinh doanh của họ.
Từ thế kỷ XVIII, quyền tự do kinh doanh và quyền được thành lập doanh
nghiệp đã được nhiều quốc gia ghi nhận. Ở Pháp, sau Cách mạng 1789, Luật
Allaerd ngày 2/3/1791 về tự do thương mại và công nghiệp ra đời đã công nhận
quyền tự do thành lập công ty. Tại Bộ Dân luật Napoleong của Pháp năm 1804,
quyền tự do kinh doanh được khẳng định là một trong 6 nguyên tắc cốt lõi và xuyên
suốt của Bộ Dân luật (hiện nay, quyền này được ghi nhận cụ thể tại Bộ luật Thương
mại năm 2000). Nhiều nước châu Âu sau đó cũng ban hành Luật thương mại ghi
nhận quyền tự do kinh doanh của công dân, mặc dù việc thành lập doanh nghiệp
vẫn cần giấy phép của Nhà nước. Đến năm 1870, hầu hết các nước đều bãi bỏ thủ
tục cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp mà chỉ yêu cầu công ty đăng ký thành lập,
khẳng định công dân hoàn toàn có quyền thành lập công ty và tự do hoạt động.
Ngày nay, quyền tự do thành lập doanh nghiệp còn được ghi nhận trong các khối
liên minh kinh tế, chính trị như Điều 49 Hiệp ước của khối liên minh Châu Âu,
công dân hay pháp nhân các nước thuộc khối liên minh Châu Âu được tự do thành
15


lập doanh nghiệp tại các nước thành viên khác… Có thể thấy, pháp luật của các
nước đều đảm bảo quyền thành lập doanh nghiệp của các cá nhân, tổ chức.
1.2. Nội dung và giới hạn của quyền tự do thành lập doanh nghiệp
1.2.1. Nội dung của quyền tự do thành lập doanh nghiệp
1.2.1.1. Về chủ thể có quyền thành lập doanh nghiệp
Với mục đích bảo đảm quyền tự do kinh doanh, đồng thời nhằm huy động tối
đa mọi nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, phát triển đất nước, pháp luật các
nước đều quy định phạm vi rất rộng các chủ thể có quyền thành lập doanh nghiệp,
theo đó tất cả các tổ chức, cá nhân, không phân biệt nơi cư trú và quốc tịch đều có
quyền thành lập, tham gia thành lập doanh nghiệp. Tuy nhiên, đa phần các quốc gia
đều đặt ra các yêu cầu chung đối với các chủ thể khi thành lập doanh nghiệp, đó là
phải có năng lực pháp luật đầy đủ, nhằm đảm bảo khả năng tham gia quản lý doanh

nghiệp của nhà đầu tư, cũng như tạo môi trường kinh doanh ổn định cho xã hội. Đối
với cá nhân phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự (nghĩa là không bị mắc các bệnh
tâm thần hoặc không thuộc trường hợp không nhận thức, làm chủ hành vi) thì có
quyền thành lập doanh nghiệp, như quy định tại Luật Doanh nghiệp Philippines,
Thái Lan... Một số quốc gia có quy định cụ thể hơn như tại Singapore, Malaysia…,
cá nhân từ 21 tuổi trở lên mới được quyền thành lập doanh nghiệp. Đối với tổ chức,
muốn tham gia thành lập doanh nghiệp phải là pháp nhân, bởi lẽ pháp nhân mới có
tài sản độc lập và chịu trách nhiệm bằng tài sản đó trong các giao dịch dân sự.
Những tổ chức không có tư cách pháp nhân không có các đặc điểm này, vì thế việc
tham gia thành lập doanh nghiệp không đảm bảo quyền và lợi ích của các cá nhân,
tổ chức có liên quan.
1.2.1.2. Về quyền lựa chọn mô hình doanh nghiệp
Để tiến hành kinh doanh, nhà đầu tư được quyền tự do lựa chọn mô hình
doanh nghiệp mà mình muốn thành lập dựa trên điểm mạnh và điểm yếu của từng
loại hình doanh nghiệp. Việc lựa chọn loại hình doanh nghiệp thường được đánh giá
trên các tiêu chí như (i) quyền kinh doanh, (ii) quyền góp vốn, thành lập doanh
16


nghiệp, (iii) tổ chức quản lý, (iv) chế độ trách nhiệm của nhà đầu tư, (v) khả năng
rút vốn, chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp, (vi) nghĩa vụ thuế, (vii) huy động
vốn, (viii) chuyển đổi loại hình doanh nghiệp và (ix) thời gian hoạt động, giải thể,
phá sản doanh nghiệp. Các nhà lập pháp cũng luôn nỗ lực để “phát minh” ra các
loại hình doanh nghiệp mới để đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát sinh. Loại hình công
ty đầu tiên là doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, sau đó nhiều loại hình doanh
nghiệp xuất hiện là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn... Việc sáng tạo
đa dạng hơn về chủng loại doanh nghiệp giúp nhà đầu tư có thể lựa chọn phù hợp
với điều kiện và hoàn cảnh của họ. Mục tiêu cuối cùng là giảm rủi ro, chi phí, tăng
mức độ an tâm, an toàn cho đồng vốn kinh doanh. Qua nhiều năm tồn tại và phát
triển thì doanh nghiệp hiện nay tồn tại dưới nhiều loại hình khác nhau. Nhưng căn

cứ vào tính chất liên kết, chế độ trách nhiệm của thành viên công ty và ý chí của
nhà lập pháp, dưới góc độ pháp lý người ta chia doanh nghiệp thành hai loại:
(i) Công ty đối nhân: Là những công ty mà việc thành lập dựa trên sự liên
kết chặt chẽ bởi độ tin cậy về nhân thân của các thành viên tham gia, sự hùn vốn
là yếu tố thứ yếu. Công ty đối nhân có một đặc điểm quan trọng là không có sự
tách bạch về tài sản cá nhân các thành viên và tài sản công ty. Các thành viên liên
đới chịu trách nhiệm vô hạn đối với mọi khoản nợ của công ty hoặc ít nhất phải có
một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty. Công ty đối
nhân thường tồn tại dưới hai dạng cơ bản là: Công ty hợp danh và công ty hợp vốn
đơn giản
(ii) Công ty đối vốn: Đây là loại hình doanh nghiệp ra đời sau công ty đối
nhân và không quan tâm đến nhân thân người góp vốn mà chỉ quan tâm đến phần
vốn góp. Đặc điểm khác nhau cơ bản giữa công ty đối vốn và công ty đối nhân là
đối với công ty đối vốn có sự tách bạch tài sản của công ty và tài sản cá nhân. Công
ty đối vốn có tư cách pháp nhân, các thành viên công ty chỉ chịu trách nhiệm trong
phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Do việc thành lập chỉ quan tâm đến phần vốn
góp, do đó thành viên công ty thường rất đông, những người không hiểu biết về
kinh doanh cũng có thể tham gia vào công ty, thành viên công ty dễ dàng thay đổi.

17


Các công ty đối vốn thông thường gồm hai loại: Công ty cổ phần và công ty trách
nhiệm hữu hạn.
Ngoài ra, nếu căn cứ theo hình thức pháp lý của các doanh nghiệp được quy
định tại luật công ty của nhiều quốc gia, mặc dù có thể khác nhau cả về số lượng,
chủng loại và đặc điểm của từng loại doanh nghiệp nhưng về cơ bản, NĐT có quyền
lựa chọn một trong các hình thức doanh nghiệp như sau:
(i) Doanh nghiệp tư nhân: Đây là hình thức mà đa số các nước sử dụng cho
các cá nhân muốn tiến hành hoạt động kinh doanh riêng lẻ. Theo pháp luật Mỹ, hình

thức này gọi là cá thể kinh doanh (sole proprietorship hay individual
proprietorship), theo đó, các cá nhân có thể tiến hành hoạt động kinh doanh mà
không cần phải xin phép. Tại Thái Lan, Việt Nam, Philippines, đây là loại hình
doanh nghiệp chỉ do cá nhân thành lập và phải đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, một
số nước lại có quy định khác như Malaysia, Singapore, hình thức doanh nghiệp tư
nhân có thể do một thể nhân hoặc một pháp nhân thành lập. Mặc dù vậy, về bản
chất doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp mà chủ doanh nghiệp có toàn
quyền định đoạt công việc kinh doanh, được hưởng toàn bộ lợi nhuận và phải chịu
trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp.
(ii) Công ty hợp danh: Ở đa số các nước, hợp danh được pháp luật ghi nhận
là một hình thức công ty đối nhân, trong đó có ít nhất hai thành viên cùng tiến hành
hoạt động kinh doanh dưới một hãng chung và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô
hạn về mọi khoản nợ của công ty. Tại nhiều nước như Anh, Mỹ, Singapore..., Hợp
danh bao gồm: (i) Hợp danh thông thường (the full partnership) là sự liên kết giữa
các thành viên hợp danh, khi sự liên kết đó bị phá vỡ do có bất cứ thành viên nào
chết hay phá sản thì hợp danh cũng tự động giải thể; và (ii) Hợp danh TNHH (the
limited partnership) là hợp danh không bị giải thể hay phá sản khi một thành viên
chết hoặc mất năng lực hành vi, các công việc kinh doanh của công ty sẽ được đảm
nhiệm bởi các thành viên thông thường. Đối với các nước này, Hợp danh thông
thường không có tư cách pháp nhân và không cần thiết phải trải qua thủ tục thành
lập công ty. Tại Việt Nam, Philippines, hợp danh không được phân chia thành các
18


×