Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Pháp luật việt nam về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi vi phạm hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 84 trang )

NGUYỄN VĂN THỌ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG

NGUYỄN VĂN THỌ
2013 - 2015

HÀ NỘI - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG

NGUYỄN VĂN THỌ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn “Pháp luật Việt Nam về miễn trách nhiệm bồi
thường thiệt hại khi vi phạm hợp đồng” xin cam đoan:
- Đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả.
- Luận văn được thực hiện độc lập dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Đình
Nghị.
- Những thông tin, số liệu, bản án được trích dẫn trong luận văn đầy đủ,
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.
- Các kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công bố trong
các luận văn khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Thọ


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã giảng
dạy trong chương trình Cao học Luật Kinh tế - Viện Đại học Mở Hà Nội,
những người đã truyền đạt cho tôi những kiến thức hữu ích làm cơ sở cho tôi
thực hiện tốt luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Lê Đình Nghị đã tận tình hướng dẫn
cho tôi trong thời gian thực hiện luận văn. Thầy đã hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi

rất nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy, cô Khoa đào tạo Sau đại học
- Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học
tập.
Sau cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè những
người đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong suốt quá trình thực
hiện luận văn.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều
nên luận văn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến góp ý của
Thầy/cô và các bạn học viên.


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ MIỄN TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM NGHĨA VỤ HỢP ĐỒNG

5

1.1.

Khái quát trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.

1.2.


Khái niệm miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
hợp đồng.

11

1.3.

Điều kiện để miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
hợp đồng.

16

1.4.

Tiến hành phát triển pháp luật quy định về miễn trách
nhiệm theo hợp đồng.

33

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI.

37

2.1.

Miễn trách nhiệm khi có sự kiện bất khả kháng.

2.1.1. Khái niệm sự kiện bất khả kháng.


6

37
37

2.1.2.

Các trường hợp được miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả
kháng.

45

2.2.

Miễn trách nhiệm do phải thực hiện quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.

48

2.2.1. Khái niệm quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2.2.2.
2.3.

48

Các trường hợp được miễn trách nhiệm do phải thực hiện
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

49


Miễn trách nhiệm do bên có quyền có lỗi.

52

2.3.1 Khái niệm lỗi của bên có quyền.

52

2.3.2. Các trường hợp miễn trách nhiệm do bên có quyền có lỗi.

53

2.3.3. Giảm mức bồi thường do bên có quyền không hạn chế tổn

55


thất
2.4.

Thỏa thuận về miễn, giảm trách nhiệm bồi thường thiệt
hại.

58

2.4.1. Thỏa thuận miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại

58


2.4.2. Thoản thuận giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại

60

2.5.

Những tồn tại về miễn trách nhiệm hợp đồng theo quy
định của pháp luật Việt Nam.

2.5.1. Tồn tại về bất khả kháng.

61
62

2.5.2.

Tồn tại trong trường hợp miễn trách nhiệm do lỗi của bên có
quyền.

66

2.5.3.

Tồn tại trong trường hợp miễn trách nhiệm do phải thực hiện
quyết định từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

67

2.5.4.


Tồn tại trong trường hợp miễn trách nhiệm do xuất phát từ
thỏa thuận của hai bên.

68

2.6.

Kiến nghị khắc phục các bất cập để hoàn thiện chế định
trách nhiệm dân sự trong hợp đồng.

69

2.6.1.

Thống nhất các văn bản pháp luật Việt Nam về hợp đồng nói
chung và miễn trách nhiệm hợp đồng nói riêng.

69

2.6.2.

Hoàn thiện các quy định cụ thể của pháp luật về miễn trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.

70

KẾT LUẬN

75


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

76


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Miễn trách nhiệm hợp đồng đang chiếm một vị trí quan trọng trong hệ
thống pháp luật về dân sự, thương mại của mỗi quốc gia. Pháp luật về hợp
đồng đã thể chế hoá nguyên tắc quyền tự do kinh doanh, đồng thời đó cũng là
công cụ bảo đảm cho nguyên tắc này được vận hành đúng đắn trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta, do nhiều yếu tố chi phối, cho đến những năm gần đây chế
định hợp đồng nói chung và những quy định về miễn trách nhiệm hợp đồng
nói riêng còn tản mạn và thiếu tính hệ thống. Do bị ảnh hưởng đáng kể bởi
truyền thống lập pháp và văn hoá pháp lý về hợp đồng từ cơ chế kế hoạch hoá
tập trung nên chế định pháp luật về hợp đồng hiện nay bên cạnh những yếu tố
tích cực, vẫn còn nhiều bất cập. Nội dung miễn trách nhiệm hợp đồng được
quy định trong Bộ luật Dân sự còn thiếu tính linh hoạt, chưa điều chỉnh được
hết các tranh chấp phát sinh trong mối quan hệ hợp đồng. Trong khi đó, các
quy định về miễn trách nhiệm hợp đồng trong các luật chuyên ngành (ví dụ:
Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Giao thông
đường thuỷ nội địa, kể cả những văn bản được ban hành đồng thời hoặc ban
hành sau Bộ luật Dân sự năm 2005 như: Luật Thương mại, Bộ luật Hàng hải
Việt Nam, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ...) vẫn
thiếu tính thống nhất với luật chung (Bộ luật Dân sự) và còn thể hiện khá đậm
nét dấu ấn của quản lý hành chính.
Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 được Quốc hội thông
qua ngày 14/06/2005 có hiệu lực ngày 01/01/2006 ra đời đã thể hiện một
bước tiến cao hơn trong tư duy lập pháp, hành pháp và tư pháp của những nhà

làm luật. Các nhà lập pháp Việt Nam đã có sự tiếp thu, học hỏi những quy

1


định pháp luật từ thực tiễn cũng như luật pháp của các nước trên thế giới để
đưa ra những văn bản có tính chuẩn mực pháp lý cao trong hệ thống pháp
luật. Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 đã có những sửa đổi, bổ
sung cơ bản và toàn diện hơn chế định hợp đồng trong đó có miễn trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Mặc dù có nhiều điểm mới,
tiến bộ nhưng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Thương
mại năm 2005 và các văn bản khác vẫn còn nhiều bất cập như: chưa bảo đảm
tốt quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng của các chủ thể, chưa đảm bảo về
quyền và trách nhiệm của các chủ thể tham gia hợp đồng một cách hợp lý. Bộ
luật Dân sự năm 2005 thay thế cho Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989
song “tính thương mại” của Bộ luật Dân sự còn rất hạn chế, chưa phản ánh
được những đặc trưng và các yêu cầu của hoạt động giao kết hợp đồng nói
chung, cũng như các quy định về “miễn trách nhiệm hợp đồng” nói riêng.
Chế định hợp đồng là một trong những chế định pháp lý cổ xưa nhất,
xuất hiện sớm nhất trong nội dung luật dân sự. Hợp đồng là sự khái quát một
cách toàn diện các hình thức giao lưu, trao đổi buôn bán phong phú của con
người, là một trong những phương thức hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào
quan hệ pháp luật thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên,
không phải mọi giao kết hợp đồng đều có thể thực hiện một cách thuận lợi,
việc một hoặc nhiều bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các
điều khoản đã thỏa thuận là điều thường xuyên diễn ra trong thực tế. Nhưng
không vì lẽ đó mà giá trị của hợp đồng bị coi nhẹ vì hợp đồng chính là luật
của các bên, nếu hợp đồng không được thực hiện hoặc thực hiện sai lệch theo
thỏa thuận thì người bị thiệt hại phải được đền bù thỏa đáng. Nhưng cũng có
một số trường hợp vi phạm hợp đồng nhưng bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng

không phải chịu trách nhiệm. Việc miễn trách nhiệm theo hợp đồng được xác
định dựa trên cơ sở các căn cứ miễn nghĩa vụ dân sự hình thành theo thoả

2


thuận giữa các bên trong hợp đồng hoặc theo pháp luật dân sự quy định, lúc
này bên có nghĩa vụ dân sự đã cam kết trong hợp đồng mà không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đó cũng không phải bồi thường cho bên
kia.
Thực tiễn hơn 10 năm áp dụng Bộ luật Dân sự và nhất là trong hoàn
cảnh Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO đã đặt ra nhiều
bất cập và tồn tại đối với chế định hợp đồng nói chung và về miễn trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng nói riêng. Chừng nào các
quy định của pháp luật nói chung và các quy định pháp luật về miễn trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nói riêng chưa trở thành công cụ cơ bản để điều
chỉnh các quan hệ xã hội thì chừng đó Việt Nam vẫn nằm ngoài sự phát triển
chung của thế giới. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật Việt
Nam về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi hợp đồng” làm đề tài
nghiên cứu luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tính đến thời điểm hiện nay, về vấn đề về miễn trách nhiệm bồi thường
thiệt theo hợp đồng chưa được nghiên cứu có hệ thống. Có một số luận văn,
luận án nghiên cứu những vấn đề tổng thể về trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng, còn vấn đề miễn trách nhiệm dân sự trong hợp đồng được đề cập
đến như những nội dung cần phải có. Những công trình phải kể đến như:
“Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự”, sách tham khảo của tác giả
Nguyễn Ngọc Khánh, năm 2007; “Các biện pháp xử lý việc không thực hiện
đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam”, sách tham khảo của PGS.TS.
Nguyễn Ngọc Đại; bài viết: “Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm dân sự

trong hợp đồng” của tác giả Trần Việt Anh, 2011; bài viết của PGS.TS. Ngô
Huy Cương: “Trách nhiệm dân sự - So sánh và phê phán”, bài đăng Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp (số 5- 142- 2009)... Ngoài ra, còn một số tác giả đề cập

3


đến vấn đề này song những công trình nghiên cứu về vấn đề pháp lý căn bản
nhất của vấn đề này cũng như những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng
những quy định của pháp luật Việt Nam về việc xác định những trường hợp
được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng vẫn chỉ dừng lại ở
dưới dạng thức bài tiểu luận, bài báo khoa học.
Trong khi đó, đề tài này sẽ đi sâu khai thác những vấn đề pháp lý cơ bản
trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về miễn trách nhiệm bồi thường
thiệt hại theo hợp đồng cũng như chỉ ra những mặt được, mặt hạn chế và đưa ra
hướng hoàn thiện chế định này trong pháp luật Việt Nam. Do đó, đề tài “Pháp
luật Việt Nam về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi vi phạm hợp đồng”
có tính mới, không bị trùng lập so với những công trình nghiên cứu khác.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn hướng đến hai đối tượng nghiên cứu chính. Đối tượng thứ
nhất là các quy định của pháp luật hiện hành về các hình thức miễn trách
nhiệm bồi thường thiệt hại khi vi phạm hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2005
và Luật Thương mại 2005. Đối tượng thứ hai mà tác giả hướng đến đó là
những tồn tại, bất cập trong các quy định của pháp luật Việt Nam về miễn
trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi vi phạm hợp đồng.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu một cách chuyên sâu về vấn đề
miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi vi phạm hợp đồng theo pháp luật
Việt Nam, đánh giá những quy định trong Bộ luật Dân sự 2005, Luật
Thương mại 2005 về căn cứ miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp

đồng của Việt Nam trong thời gian qua để chỉ ra những hạn chế, bất cập
trong cơ chế xây dựng pháp luật, từ đó đề ra phương hướng hoàn thiện nhằm
tạo cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho các tổ chức cá nhân tham gia quan hệ
hợp đồng, góp phần tạo dựng môi trường xã hội, môi trường đầu tư, kinh

4


doanh văn minh, lành mạnh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học
Luận văn được trình bày dựa trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật. Đồng thời, vận dụng những
quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường trong thời
kỳ đổi mới.
Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau như
phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp mô tả, phương pháp phân tích
và tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh để đưa ra những quan điểm đánh
giá khách quan và giải quyết các vấn đề khoa học.
6. Những điểm mới của đề tài mang lại
Đề tài tập trung nghiên cứu sâu, đánh giá mặt tích cực và hạn chế về
vấn đề miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng theo quy định
của pháp luật Việt Nam như:
+ Miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng.
+ Miễn trách nhiệm do phải thực hiện các quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
+ Các quy định về miễn trách nhiệm do bên có quyền có lỗi.
+ Miễn trách nhiệm theo thỏa thuận của các bên.
Từ đó, đưa ra giải pháp hoàn thiện những quy định về miễn trách
nhiệm do vi phạm hợp đồng trong các trường hợp trên đây.
7. Bố cục của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và miễn
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật hiện hành và một số kiến nghị hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam miễn trách nhiệm dân sự theo hợp đồng.
5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI VÀ MIỄN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO VI PHẠM NGHĨA VỤ THEO HỢP ĐỒNG
1.1. Khái niệm trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một hình thức chế
tài do Nhà nước quy định để áp dụng đối với các hành vi vi phạm các quyền và
nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong một hợp đồng dân sự. Trách nhiệm
dân sự trong hợp đồng là trách nhiệm hình thành từ việc không thực hiện nghĩa
vụ phát sinh từ hợp đồng và trách nhiệm dân sự này được chi phối bởi các
nguyên tắc pháp lý về hợp đồng. Căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng phát sinh từ hành vi phạm nguyên tắc xử sự do pháp luật quy
định. Hợp đồng dân sự được coi là căn cứ để xem xét trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự. Hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ dân sự theo một cơ
chế chung là các bên giao kết thống nhất về ý chí và bị ràng buộc trong mối
quan hệ nhất định nhằm đáp ứng yêu cầu của bên kia. Theo nguyên tắc chung
của pháp luật dân sự thì mọi hợp đồng dân sự đều được thực hiện dưới hình
thức thoả thuận dù là hợp đồng miệng hoặc bằng văn bản. Thông qua hợp đồng
dân sự, các bên thoả thuận các quyền và nghĩa vụ phải thực hiện. Trách nhiệm
dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là việc một hoặc hai bên không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng những điều đã cam kết hợp pháp.

Như vậy, khái niệm trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng được
hiểu như sau:
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng là trách nhiệm của chủ thể hợp đồng
không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ quyền và nghĩa vụ phát
sinh từ hợp đồng mà gây thiệt hại cho bên kia thì phải tiếp tục thực hiện hợp
đồng, phải bồi thường thiệt hại, chịu khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng
6


theo thoả thuận và phải chịu những hậu quả bất lợi khác và theo đó bên bị
xâm phạm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ bỏ
hợp đồng và được bồi thường thiệt hại.
Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng có các đặc điểm của chế tài
dân sự. Tính cưỡng chế trong quan hệ hợp đồng, mà bên có nghĩa vụ không
thực hiện, thực hiện không đúng những cam kết thì phải gánh chịu những bất
lợi về tài sản. Khác với chế tài hình sự, chế tài dân sự mang tính chất tài sản
và được áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm hợp đồng. Nhiều biện
pháp chế tài có thể được áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm hợp
đồng (buộc phải tiếp tục thực hiện hợp đồng; phải bồi thường thiệt hại, bị phạt
vi phạm hợp đồng...).
Cũng giống như các trách nhiệm dân sự nói chung thì trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng cũng xuất phát trên cơ sở có hành vi vi phạm cam kết, thỏa
thuận của các bên trong hợp đồng. Tuy vậy, trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng còn bao hàm những nội dung riêng, không giống với các trách
nhiệm dân sự khác ở các đặc điểm sau đây:
Một là, Chủ thể có hành vi vi phạm hợp đồng có trách nhiệm dân sự do có
hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng những điều khoản đã thoả thuận
trong hợp đồng. Theo quy định của pháp luật, thì bên có nghĩa vụ phải thực hiện
hợp đồng, nhưng đã không thực hiện, theo quy định của pháp luật, trước hết bên
vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng phải tiếp tục thực hiện hợp đồng.

Chủ thể có nghĩa vụ phải thực hiện hợp đồng, nhưng lại không thực
hiện, thì hành vi không thực hiện những cam kết hợp pháp, là hành vi trái
pháp luật. Bên có hành vi trái pháp luật phải gánh chịu những hậu quả xấu về
tài sản như phải tiếp tục thực hiện hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Ví dụ
như trong hợp đồng mua bán hàng hóa giữa anh A và anh B, trong đó anh A
có nghĩa vụ giao hàng cho anh B vào ngày 5 hàng tháng, còn anh B có nghĩa

7


vụ nhận hàng và giao tiền.Đến thời điểm giao hàng anh A đã không giao đủ
hàng cho anh B. Trong trường hợp này, anh B có quyền yêu cầu anh A phải
giao đủ số lượng, đúng chất lượng của hàng hoá như đã thoả thuận trong hợp
đồng. Đồng thời, anh B có quyền khởi kiện đến toà án, yêu cầu toà xác định
trách nhiệm của anh A phải bồi thường thiệt hại do có hành vi vi phạm hợp
đồng. Ngoài trách nhiệm anh A phải tiếp tục thực hiện hợp đồng, là trách
nhiệm của anh A phải bồi thường thiệt hại cho anh B do có hành vi vi phạm
hợp đồng mà gây thiệt hại. Ngược lại trong một số trường hợp thì bên có hành
vi vi phạm có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng là bên có quyền. Trong
trường hợp trên bên A là bên có quyền, nếu đến mùng 5 hàng tháng, bên A đã
giao đủ hàng nhưng bên B không đến nhận và cũng không thực hiện nghĩa vụ
tương ứng với quyền là nghĩa vụ trả tiền cho bên A thì khi xảy ra tranh chấp,
bên B phải có trách nhiệm là tiếp tục thực hiện phần hợp đồng còn lại là nhận
hàng và nghĩa vụ trả tiền cho bên A.
Hai là, chủ thể vi phạm hợp đồng có trách nhiệm phải bồi thường thiệt
hại hoặc chịu các hậu quả xấu về tài sản. Một đặc điểm rất quan trọng của
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng là bên vi phạm phải chịu trách
nhiệm về tài sản kể cả trong trường hợp hành vi vi phạm hợp đồng nhưng
chưa gây ra thiệt hại. Trong trường hợp các bên thoả thuận về khoản tiền phạt
vi phạm hợp đồng hay trong hợp đồng đặt cọc, mặc dù bên vi phạm các thoả

thuận chưa gây ra một thiệt hại nào về tài sản, nhưng đã bị áp dụng các chế tài
về tài sản (phạt tiền đặt cọc). Đặc điểm này khác biệt so với trách nhiệm do có
hành vi gây thiệt hại ngoài hợp đồng. Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp
đồng là trách nhiệm cả chủ thể giao kết hợp đồng, nhưng lại không thực hiện
đúng các cam kết hợp pháp. Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng là trách
nhiệm của chủ thể có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác về
tài sản, sức khoẻ, tính mạng, các quyền nhân thân khác. Vì vậy, trách nhiệm

8


dân sự ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra phải xác định điều
kiện lỗi. Còn trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng yếu tố lỗi là suy đoán.
Tuy nhiên, cần phải khẳng định, hành vi vi phạm hợp đồng là hành vi trái
pháp luật, vi phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể giao kết hợp đồng,
thì chủ thể vi phạm hợp đồng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Từ hai đặc điểm của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng trên đây
cho thấy trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng là một chế tài dân sự có liên
quan mật thiết đến hợp đồng dân sự. Các nghĩa vụ dân sự này được phát sinh từ
hợp đồng và được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế của nhà nước. Các
nghĩa vụ dân sự này mang tính chất tài sản và được xác định bằng tiền.
Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng là trách nhiệm hình thành từ việc
không thực hiện một nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Chủ thể có nghĩa vụ đã
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết, điều này
gây thiệt hại cho chủ thể có quyền trong hợp đồng thì chủ thể vi phạm phải có
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Trong Bộ luật Dân
sự hiện hành trách nhiệm dân sự trong hợp đồng được chi phối bởi các
nguyên tắc chế độ pháp lý về hợp đồng. Tuy nhiên, để ghi nhận đặc điểm của
trách nhiệm dân sự theo hợp đồng là trách nhiệm phát sinh từ sự vi phạm một
nguyên tắc xử sự, đó là sự vi phạm nghĩa vụ dân sự. Đồng thời pháp luật Việt

Nam cũng quy định trách nhiệm dân sự trong hợp đồng chịu sự chi phối và
dựa trên các nguyên tắc của các quy định chung về điều kiện và trình tự thực
hiện nghĩa vụ được các bên xác lập trên cơ sở thỏa thuận.
Hợp đồng dân sự được coi là căn cứ để xem xét trách nhiệm dân sự do
vi phạm hợp đồng vì hợp đồng là công cụ chủ yếu để xác lập quan hệ giữa các
chủ thể liên quan đến tài sản trong một xã hội nhất định. Đồng thời, hợp đồng
cũng làm phát sinh nghĩa vụ dân sự theo một cơ chế chung là: Bên giao kết sẽ
thống nhất ý chí và sẽ bị ràng buộc trong một mối quan hệ nhất định nhằm

9


đáp ứng yêu cầu của bên có quyền trong hợp đồng. Theo nguyên tắc chung
của pháp luật dân sự thì mọi hợp đồng dân sự (kể cả hợp đồng miệng và hợp
đồng viết) đều được thực hiện dưới hình thức thỏa thuận của các bên. Thông
qua hợp đồng dân sự các bên sẽ thỏa thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên phải thực hiện trong hợp đồng. Khi các bên vi phạm các thỏa thuận
này sẽ phát sinh trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng theo đó được hiểu là việc
một hoặc cả hai bên trong hợp đồng phải chịu trách nhiệm dân sự bởi những
hành vi vi phạm những nội dung đã cam kết trong hợp đồng. Việc vi phạm
hợp đồng dân sự sẽ làm phát sinh trách nhiệm dân sự của một trong hai bên
tham gia vào hợp đồng đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các
nghĩa vụ mà các bên đã cam kết trong hợp đồng.
Căn cứ xác định trách nhiệm dân sự là việc vi phạm nghĩa vụ phát sinh
theo hợp đồng. Mà nghĩa vụ bị vi phạm trong trường hợp này có thể là nghĩa
vụ chính hoặc nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Trong đó, nghĩa vụ chính được
hiểu là nghĩa vụ tương ứng với từng chủ thể trong hợp đồng.
Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán hàng hóa diễn ra giữa bên bán và bên
mua thì nghĩa vụ chính được hiểu là nghĩa vụ giao hàng của bên bán và nghĩa

vụ thanh toán tiền của bên mua cho bên bán.
Còn nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng được hiểu là một nghĩa vụ được
phát sinh từ một sự kiện pháp lý cụ thể trong hợp đồng và nghĩa vụ phát sinh
là hệ quả của sự kiện đó.
Ví dụ: Trong hợp đồng vận chuyển hành khách được ký giữa công ty
vận tải đường sắt và công ty du lịch Hải Phong trong chuyến du lịch từ Hà
Nội vào Đà Nẵng. Trong trường hợp xảy ra sự cố là chậm tàu 2 tiếng (đây
được coi là một sự kiện pháp lý) thì nghĩa vụ phát sinh trong hợp đồng trên
là nghĩa vụ bảo đảm nhu cầu sinh hoạt tối thiểu cho các hành khách trên
tàu trong lúc chờ tàu chạy.
10


Như vậy, trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng được xem là một
trong những chế tài quan trọng của pháp luật dân sự dùng để điều chỉnh một
số đối tượng thông dụng và cần thiết trong giao lưu dân sự hàng ngày, mà cụ
thể là hợp đồng dân sự.
Cũng giống như các loại trách nhiệm dân sự khác thì trách nhiệm dân
sự do vi phạm hợp đồng dân sự có những đặc điểm như sau:
Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng là một chế tài dân sự, nó áp
dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật, được thực hiện và bảo đảm thực
hiện bởi các cơ quan quyền lực nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi pháp
luật cho phép. Trách nhiệm này sử dụng một số biện pháp, chế tài nhất định
do pháp luật đề ra để buộc người vi phạm phải chịu những hậu quả bất lợi
nhất định do hành vi vi phạm của mình gây ra, đồng thời trách nhiệm dân sự
do vi phạm hợp đồng dân sự cũng mang tính chất tài sản, quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể trong hợp đồng dân sự luôn tương ứng với nhau.
1.2. Khái niệm miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xem là một trong những biện
pháp chế tài nghiêm khắc của nhà nước dùng để áp dụng cho các chủ thể có

hành vi vi phạm quyền và lợi ích của các chủ thể khác trong hợp đồng dân sự,
trên nguyên tắc mọi hành vi gây thiệt hại trái luật đều bị xử lý nhằm khôi
phục lại tình trạng ban đầu của giao dịch. Bên nào gây ra thiệt hại thì bên đó
phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên còn lại. Nếu trách nhiệm
buộc tiếp tục thực hiện hợp đồng là theo thỏa thuận giữa các chủ thể tham gia
hợp đồng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại lại là một chế tài bắt buộc mà
Nhà nước đã áp dụng cho các chủ thể vi phạm. Theo quy định tại Điều 307
Bộ luật Dân sự năm 2005 thì: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn
thất về tinh thần. Mà trách nhiệm bồi thường trong điều luật này được hiểu là

11


trách nhiệm bồi thường những tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền
do bên vi phạm gây ra, nó bao gồm những tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý
để ngăn chặn và khắc phục thiệt hại. Trong hợp đồng dân sự, khi có thiệt hại
xuất phát từ hành vi vi phạm thì các thiệt hại đó luôn luôn là các thiệt hại vật
chất có liên quan trực tiếp đến vật chuyển giao là đối tượng của hợp đồng, có
thể là những thiệt hại do hợp đồng không được thực hiện đúng thời hạn hay
những thiệt hại do việc không thực hiện một công việc hoặc cố tình thực hiện
một công việc mà đáng lý ra chủ thể đó không được phép thực hiện, do đó đã
gây thiệt hại cho bên có quyền.
Khác với những vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, trong quan hệ
pháp luật dân sự các hành vi trái pháp luật dẫn đến trách nhiệm bồi thường
thiệt hại thì các bên có thể xử lý bằng sự tự dàn xếp giữa các chủ thể liên quan
với nhau. Việc tự nguyện dàn xếp giữa các bên cũng phải tuân theo các điều
kiện do pháp luật quy định đối với việc xác lập hợp đồng như: Những điều
kiện về năng lực chủ thể, sự đồng tình ý chí giữa các bên, tính trung thực
trong quá trình giao kết, hiệu lực của hợp đồng giao kết... sở dĩ các bên phải

tuân thủ nội dung này là do pháp luật dân sự quy định một sự kiện dàn xếp tự
nguyện về việc bồi thường thiệt hại khi được giao kết nếu phù hợp với các
quy định của pháp luật chung về hợp đồng sẽ có hiệu lực ràng buộc đối với
các bên, đặc biệt là nó có tác dụng trong việc thủ tiêu quyền kiện đòi bồi
thường thiệt hại của bên bị thiệt hại. Trong một số trường hợp thiệt hại phát
sinh do có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng thì quyền yêu cầu bồi
thường cũng có thể được các bên loại bỏ ngay từ lúc giao kết hợp đồng bằng
con đường thỏa thuận về miễn trách nhiệm dân sự.
Như vậy, khi xuất hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi
phạm hợp đồng gây ra thì trong một số trường hợp nhất định sẽ dẫn đến việc
miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.

12


Miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là việc người
có quyền trong hợp đồng dân sự cho phép bên chủ thể vi phạm nghĩa vụ gây
thiệt hại không bị áp dụng biện pháp khôi phục một phần hoặc toàn bộ tình
trạng ban đầu về tài sản cho bên có quyền.
Bản chất của miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
là việc bên chủ thể vi phạm nghĩa vụ đáng lẽ phải gánh chịu toàn bộ và đầy đủ
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm, tuy nhiên, do thiệt hại
xảy ra trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định mà bên vi phạm nghĩa vụ
được miễn trừ toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó.
Đây là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng của pháp luật dân sự,
không chỉ bảo đảm quyền lợi của các bên giao kết hợp đồng, bảo đảm sự tự
nguyện thỏa thuận của các bên mà còn là yếu tố hạn chế việc một bên lợi
dụng quy định về miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại để trốn tránh trách
nhiệm dân sự.
Nhưng có một vấn đề đặt ra hiện nay là bên cạnh những quy định

đồng nhất thì việc quy định về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
hợp đồng giữa các luật là không thống nhất với nhau, điển hình như Bộ luật
dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về sự
giống và khác nhau trong việc quy định miễn trách nhiệm dân sự tại hai
văn bản luật này.
Khoản c Điều 294 Luật Thương mại năm 2005 quy định bên vi phạm
được miễn trách nhiệm khi “hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi
của bên kia” [23], về vấn đề này Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng quy định
tương tự tại khoản 3 Điều 302.
Ngoài ra thì cả Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại đều không quy
định việc không thực hiện đúng hợp đồng thuộc trường hợp miễn trách nhiệm
do sự kiện bất khả kháng thì bên có nghĩa vụ có phải tiếp tục thực hiện nghĩa

13


vụ hợp đồng nữa hay không? Mà cả hai luật này chỉ quy định về trường hợp
miễn trách nhiệm do bất khả kháng, cụ thể là quy định tại điểm b khoản 1
Điều 294 Luật Thương mại và khoản 2 Điều 302 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Xét về mặt thực tế nếu nghĩa vụ không thể thực hiện được khi có sự kiện
bất khả kháng thì chúng ta không thể buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện.
Ví dụ: khi gió lớn không cho phép sự hoạt động của các tàu chở hàng
thì chúng ta không thể buộc bên vận chuyển tiếp tục thực hiện công việc
chuyên chở của mình.
Tuy nhiên, nếu sự cản trở việc thực hiện nghĩa vụ chỉ là tạm thời thì
việc miễn trách nhiệm cũng chỉ tạm thời. Sau khi việc cản trở chấm dứt thì
bên có nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nội dung nghĩa vụ trong hợp đồng mà hai
bên đã thỏa thuận.
Nếu Điều 303 Luật Thương mại năm 2005 quy định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại không phát sinh trong các trường hợp miễn trách nhiệm dân

sự thì trong phần chung về hợp đồng của Bộ luật Dân sự 2005 lại không có
quy định rõ ràng về việc miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trong cả hai lĩnh vực thương mại và dân sự, phần chung quy định về
hợp đồng hay phần riêng quy định nghĩa vụ dân sự trong từng trường hợp cụ
thể đều không thể hiện rõ mức thiệt hại mà bên có nghĩa vụ được miễn là bao
nhiêu? Chỉ trong một số trường hợp nhất định mới quy định rõ mức thiệt hại
mà bên có nghĩa vụ được miễn.
Ví dụ: Điều 511 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định bên thuê khoán
phải trả lại tài sản thuê khoán ở tình trạng phù hợp với mức độ khấu hao mà
hai bên đã thỏa thuận nhưng Điều 509 quy định nếu tài sản và súc vật bị chết
do sự kiện bất khả kháng thì bên thuê khoán được hưởng một nửa số súc vật
sinh ra, đồng thời phải chịu một nửa số súc vật thuê khoán do sự kiện bất khả
kháng gây nên. Như vậy, trong trường hợp trên đây bên có nghĩa vụ chỉ được
miễn một nửa thiệt hại.
14


Bộ luật Dân sự 2005 có những điều khoản quy định theo hướng miễn
toàn bộ nghĩa vụ dân sự.
Ví dụ: khoản 3 Điều 546 Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ quy định trong
trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất mát, hư hỏng
hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận chuyển không có
trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại.
Các quy định giữa Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 có
sự khác biệt như sau:
Một là, Luật Thương mại năm 2005 có quy định về việc miễn trách
nhiệm do phải thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn
Bộ luật dân sự năm 2005 thì chưa có quy định về nội dung này.
Trong phần chế tài do vi phạm hợp đồng trong Luật Thương mại có dự
liệu một yếu tố miễn trách nhiệm là “hành vi vi phạm của một bên do thực

hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên
không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng” [18]. Đây cũng là một
điểm mới trong Luật Thương mại năm 2005 vì trong Luật Thương mại năm
1997 chưa xuất hiện quy định này.
Hai là, trong quá trình đối các chiếu quy định của Bộ luật dân sự 2005
thì chúng ta thấy Bộ luật dân sự không có quy định về việc miễn trách nhiệm
chi tiết như các quy định trong Luật Thương mại và chỉ tồn tại một vài quy
định gần như tương tự trong các trường hợp cụ thể với khái niệm “cản trở
khách quan”. Tại khoản 1 Điều 287 Bộ luật Dân sự 2005 quy định khi không
thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự đúng thời hạn thì bên có nghĩa vụ phải
thông báo ngay cho bên có quyền biết và đề nghị hoãn việc thực hiện nghĩa vụ.
Trường hợp không thông báo được thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt
hại phát sinh trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác hoặc do nguyên nhân
khách quan mà bên có nghĩa vụ không thể thông báo được cho bên có quyền.

15


Áp dụng quy định của điều luật trên đây vào tình hình thực tiễn tác giả
nhận thấy quy định trên chưa có tính khái quát, không thể áp dụng cho các
hợp đồng dân sự nói chung.
Ba là, trong Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định khá mờ nhạt về việc
miễn trách nhiệm trong trường hợp hai bên trong hợp đồng có thỏa thuận với
nhau (khoản 6 Điều 402), nhưng ngược lại Luật Thương mại 2005 đã quy
định khá cụ thể vấn đề này tại điểm a khoản 1 Điều 294 như sau: bên vi phạm
hợp đồng sẽ được miễn trách nhiệm trong trường hợp các bên đã thỏa thuận.
1.3. Điều kiện để miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
Trên thực tế khi giao kết hợp đồng, các bên bao giờ cũng mong muốn
hợp đồng được thực hiện, có những trường hợp dù đã tiến hành mọi nỗ lực
cần thiết nhưng vẫn không thực hiện được hoặc thực hiện không đúng với

những gì mà các bên đã thỏa thuận. Vậy, lúc này họ có phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại hay không? Về nguyên tắc chung thì các bên vẫn sẽ phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trừ khi họ đưa ra được các căn cứ
chứng minh thuộc trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật.
Như chúng ta đã biết yếu tố tạo thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng bắt nguồn từ việc: Có hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trên
thực tế. Trong đó hành vi vi phạm pháp luật này phải đầy đủ các yếu tố cấu
cấu thành như: có thiệt hại xảy ra, có nguyên nhân tạo nên kết quả, có mối
quan hệ qua lại giữa nguyên nhân và kết quả, có yếu tố lỗi từ các chủ thể.
Hành vi vi phạm pháp luật của các chủ thể này theo quy định của pháp luật sẽ
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Nhưng nếu chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại chứng
minh được trách nhiệm bồi thường thiệt hại này lại thuộc vào 4 trường hợp
mà pháp luật quy định là điều kiện để được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt

16


hại trong hợp đồng thì được miễn trách nhiệm. Theo các quy định tại khoản 2,
3 Điều 302, khoản 6 Điều 402 Bộ luật Dân sự 2005 thì có 03 trường hợp được
miễn trừ trách nhiệm dân sự trong hợp đồng bao gồm: “Sự kiện bất khả
kháng, thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi của bên bị vi phạm và thỏa thuận
của các bên chủ thể trong hợp đồng” [22]. Trong khi đó, khoản 1 Điều 294
Luật Thương mại 2005 lại quy định 4 căn cứ miễn trừ trách nhiệm dân sự
trong hợp đồng, bao gồm:
Thỏa thuận của các chủ thể trong hợp đồng; sự kiện bất khả kháng;
hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia và hành vi vi phạm
của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm
quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng [23,

Điều 294, khoản 1].
Từ các quy định của pháp luật trên đây tác giả xin đi vào phân tích từng
căn cứ miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:
Một là, chủ thể có nghĩa vụ trong hợp đồng sẽ được miễn trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trên cơ sở sự kiện bất khả kháng
Theo quy định tại khoản 1 Điều 161 Bộ luật Dân sự 2005 thì “Sự kiện
bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước
được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần
thiết và khả năng cho phép” [22]. Tuy nhiên nội dung này lại được quy định
trong phần “Thời hiệu”, nó là căn cứ để xác định “…chủ thể có quyền khởi
kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu”
[22] chứ không thấy đề cập đến trong phần “Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng
dân sự” [22]. Điều này dẫn tới việc nhận thức không thống nhất trong việc áp
dụng pháp luật giải quyết các vụ án liên quan, gây thiệt hại đến các quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ dân sự.
Hay nói cách khác khi một sự kiện pháp lý xảy ra để coi sự kiện đó là

17


một sự kiện bất khả kháng thì nội dung của sự kiện đó phải đáp ứng đầy đủ
các điều kiện của một sự kiện bất khả kháng sau đây:
Thứ nhất, sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách
quan, không thể dự liệu trước được và nằm ngoài ý chí của các chủ thể tham
gia giao kết hợp đồng
Đó có thể là các hiện tượng do thiên nhiên gây ra (thiên tai) như lũ lụt,
hỏa hoạn, động đất, sóng thần,… cũng có thể là các hiện tượng xã hội như
chiến tranh, bạo loạn, đảo chính, đình công, cấm vận, thay đổi chính sách
chính phủ,… Ngoài ra, trong thực tiễn, các bên tham gia giao kết hợp đồng
còn có thể đưa ra những sự kiện khác là những sự kiện bất khả kháng làm căn

cứ để miễn trách nhiệm dân sự (hoặc kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng)
như: thiếu nguyên liệu, mất điện, lỗi mạng vi tính, bên cung cấp chậm trễ giao
hàng,… Những sự kiện này, về mặt lý luận thì không được coi là sự kiện bất
khả kháng nếu các bên không có thỏa thuận; trong trường hợp các bên có thỏa
thuận thì pháp luật ghi nhận và tôn trọng các thỏa thuận đó.
Thứ hai, sự kiện bất khả kháng phải xảy ra sau khi các bên giao kết
hợp đồng
Điều này thể hiện ở chỗ thời gian diễn ra sự kiện bất khả kháng phải
nằm trong khoảng thời gian kể từ khi hợp đồng có hiệu lực pháp luật đến khi
các bên thực hiện xong quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng.
Ví dụ: Khi bên A là bên chở hàng, tiến hành vận chuyển hàng cho bên
B trong khoảng thời gian mà hai bên đã thỏa thuận thì gặp lũ lụt, dù đã cố
gắng ngăn chặn để số hàng không bị mưa cuốn đi, song do mưa lũ quá to nên
số hàng của bên B đã bị mất hết. Như vậy, hiện tượng lũ lụt trong trường hợp
này được coi là sự kiện bất khả kháng xảy ra trong thời điểm các bên đang
thực hiện hợp đồng. Ngược lai, nếu cũng là sự kiện bất khả kháng do lũ lụt
nhưng thời điểm xảy ra sự kiện này lại nằm ngoài khoảng thời gian vận

18


chuyển hàng mà hai bên đã tiến hành ký kết trong hợp đồng thì không đương
nhiên coi đó là sự kiện bất khả kháng và bên A cũng không thể viện dẫn lý do
này là cơ sở của sự kiện bất khả kháng. Sự kiện bất khả kháng còn được hiểu
là những sự kiện xảy ra một cách khách quan, nằm ngoài ý thức của con
người, mặc dù đã tìm mọi biện pháp để ngăn chặn, hạn chế nhưng không
mang lại hiệu quả.
Thứ ba, sự kiện bất khả kháng và hành vi vi phạm hợp đồng phải có
mối quan hệ nhân quả
Trong đó, sự kiện bất khả kháng là nguyên nhân, còn hành vi vi phạm

là kết quả. Bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng phải chứng minh được sự
kiện bất khả kháng là nguyên nhân trực tiếp của việc vi phạm hợp đồng.
Ví dụ: Anh Trung có gửi đồ ở kho hàng công ty X, nhưng do hiện
tượng sấm sét dẫn đến sét đánh trúng nhà kho làm hệ thống điện tại kho bị
chập nên kho hàng của công ty X đã bị cháy, trong đó có toàn bộ số hàng của
anh Trung đang gửi tại kho. Trong ví dụ trên thì sự kiện bất khả kháng ở đây
là hiện sấm sét dẫn đến cháy nhà kho và hành vi vi phạm hợp đồng là không
bảo quản được số hàng trong kho của công ty X xuất phát từ nguyên nhân
trực tiếp do hiện tượng sét đánh vào nhà kho, khiến toàn bộ số hàng bị cháy.
Như vậy, hiện tượng sấm sét cháy nhà kho được coi là sự kiện bất khả kháng.
Nếu không chứng minh được thì bên vi phạm nghĩa vụ phải chịu trách
nhiệm dân sự. Đối chiếu điều này vào ví dụ trên cho thấy nếu trong trường
hợp mà công ty X không chứng minh được nguyên nhân cháy nhà kho làm
hỏng hàng của anh Trung là do hiện tượng sấm sét thì bên công ty X lúc này
sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh Trung bởi hành vi
không bảo quản được kho hàng của mình.
Điều này cũng thể hiện nghĩa vụ chứng minh của bên vi phạm hợp
đồng nhằm bảo đảm lợi ích cho bên có quyền, tránh trường hợp bên có nghĩa

19


×