Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (724.58 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------------

TRẦN ĐĂNG THÀNH

TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG VIỄN THÔNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------------

TRẦN ĐĂNG THÀNH

TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG VIỄN THÔNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN NHƢ PHÁT

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi được bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngƣời cam đoan

Trần Đăng Thành


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG VIỄN THÔNG VIỆT
NAM HIỆN NAY ................................................................................................. 6
1.1. Khái quát về hợp đồng viễn thông và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng viễn thông ..................................................................................... 6
1.2. Ý nghĩa quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm nghĩa vụ trong hợp đồng ............................................................................29
1.3. Khái lược pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ trong hợp

đồng trong hoạt động Viễn Thông .......................................................................33
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG VIỄN THÔNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.....................................................................................40
2.1. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng viễn thông ....................................................................................................40
2.2. Các quy định về giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng viễn thông ....................................................................................................46
2.3. Các trường hợp miễn (loại trừ) trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng viễn thông .............................................................................................48
2.4. Các quy định về áp dụng phối hợp chế tài bồì thường thiệt hại với các hình
thức chế tài khác ...................................................................................................55
2.5. Giải quyết tranh chấp ....................................................................................61
CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI
PHẠM NGHĨA VỤ HỢP ĐỒNG VIỄN THÔNG ..........................................68
3.1. Thực tiễn áp dụng để giải quyết tranh chấp do vi phạm nghĩa vụ trong hợp


đồng viễn thông ....................................................................................................68
3.2. Hoàn thiện quy định về bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ trong hợp
đồng viễn thông ....................................................................................................69
KẾT LUẬN .........................................................................................................79


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật Dân sự


BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng Dân sự

BVQLNTD

: Bảo vệ quyền lợi người tiêu dung

CHXHCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa



: Hợp đồng

LTM

: Luật thương mại

MFN

: Most Favoured Nation ( Nguyên tắc tối huệ quốc)

NTD

: Người tiêu dùng

NVDS


: Nghĩa vụ dân sự

TNBTTH

: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại

TNDS

: Trách nhiệm dân sự

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng các quan hệ thương mại,
đặc biệt là các quan hệ thương mại quốc tế ngày càng đa dạng và phức tạp, trình
độ nhận thức am hiểu về luật của con người ngày càng cao thì các quy định hiện
hành về chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động viễn
thông vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. sự phát
triển nhanh chóng của ngành dịch vụ viễn thông nói chung và dịch vụ thông tin
di động nói nói riêng, trong những năm trở lại đây mạng thong tin di động đã
giúp cho người sử dụng ngày càng được thụ hưởng nhiều dịch vụ có chất lượng
cao hơn với chi phí cạnh tranh. Tuy nhiên, chính sự phát triển nhanh chóng này
cũng là nguyên nhân phát sinh nhiều vấn đề liên quan đến chất lượng dịch vụ
cũng như đặt ra nhiều vấn đề cần điều chỉnh và thay đổi chính sách để đáp ứng
được thực tế phát triển. Dẫn đến vấn đề khiếu nại ngày càng cáo và phức tạp,
Trong số đó, nhiều khiếu nại có liên quan đến giải quyết bồi thường từ khách

hàng đối với dịch vụ thông tin di động, Nhìn chung, cách thức giải quyết khiếu
nại, dẫn đến sự không sự hài lòng từ phía khách hàng. Một trong những Pháp
lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 và Nghị định 157/2004/NĐ-CP hướng dẫn
chi tiết thi hành Pháp lệnh BCVT quy định Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người sử dụng dịch vụ dựa trên cơ sở thiệt
hại thực tế nhưng không vượt quá mức giới hạn trách nhiệm bồi thường của từng
loại dịch vụ theo quy định. Công ty dịch vụ di động doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ di động được tự quy định mức giới hạn trách nhiệm bồi thường nhưng không
thấp hơn mức giới hạn trách nhiệm bồi thường do Bộ thông tin và truyền thông
quy định. Trên cơ sở thực tiễn và pháp lý trên, việc nghiên cứu quy định về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại và giải quyết khiếu nại trong dịch vụ thông tin di
động là thực sự cần thiết cho hoạt động quản lý cũng như hoạt động thực tiễn
1


của doanh nghiệp trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
hơn nữa, trên thực tế, Luật Viễn thông và các văn bản hướng dẫn thi hành
vào điều chỉnh các quan hệ hợp đồng đôi khi còn lúng túng, một số quy định tỏ
ra không còn phù hợp với hoàn cảnh đã thay đổi, một số quy định còn thiếu cần
đươc bổ sung. Do đó, việc nghiên cứu, làm sáng tỏ các quy định của pháp luật
đối với hành vi vi phạm hợp đồng để tìm ra những hạn chế, bất cập và hoàn thiện
chúng là một điều cần thiết. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn
đề “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng Viễn Thông ở Việt
Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua nội dung về đề tài Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
vi phạm hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam hiện nay đã thu hút được nhiều sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu luật cũng như của những người làm công tác
thực tiễn ở nhiều góc độ và phạm vi khác nhau.
Liên quan đến vấn đề và trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực thông

tin di động, thực tế có thể đã có một số nghiên cứu của doanh nghiệp viễn thông
Việt Nam về nội dung này. Bản thân chính các doanh nghiệp viễn thông hiện
nay, cụ thể là Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông cũng đã có nghiên cứu trước
khi công bố mức bồi thường cho khách hàng. Tuy nhiên, những nghiên cứu của
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nhìn chung vẫn chưa được nghiên cứu dưới góc
nhìn từ khách hàng, người sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu,
cùng với thực tiễn công tác tại cơ quan quản lý chuyên ngành về dịch vụ thông
tin di động, tôi cho rằng cần thiết phải có một nghiên cứu chuyên sâu về mức
giới hạn trách nhiệm bồi thường.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu chủ yếu đề cập một cách khái quát
về tất cả các hình thức trách nhiệm hợp đồng nói chung dưới góc độ lý luận hoặc
nghiên cứu chuyên sâu về hình thức trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, khi Bộ luật dân sự năm
2


2005 và Luật viễn thông năm 2009 ra đời và có hiệu lực thì việc nghiên cứu
chuyên sâu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng Viễn
Thông ở Việt Nam hiện nay vẫn phải được tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đặt mục đích tập trung làm rõ những vấn đề lí luận chung nhất
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam
hiện nay, đánh giá thực trạng của các quy định pháp luật hiện hành, nêu ra những
tồn tại, bất cập của những quy định này, trên cơ sở đó kiến nghị, sửa đổi một số
quy định của Luật Viễn Thông về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam hiện nay. Từ mục đích trên, luận văn đặt ra
các nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu sau:
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu một số vấn đề lí luận trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi

phạm hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam hiện nay nhằm làm rõ bản chất pháp lý,
chức năng của chế tài trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
Viễn Thông ở Việt Nam hiện nay trong hoạt động viễn thông, cấu trúc pháp luật
về chế tài bồi thường thiệt hại và quá trình hình thành và phát triển của các quy
định về chế tài trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng Viễn
Thông ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là các văn bản quy phạm pháp luật bao
gồm pháp luật dân sự và luật viễn thông. Ngoài ra, Luận văn cũng quan tâm cả
nhưng đối tượng là các quan hệ xã hội trong quá trình thi hành pháp luật về hợp
đồng; về trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng và vì thế, ngoài những hiện
tượng thực tiễn, Luận văn cũng có đối tượng là các quy định pháp luật và thực
tiễn thi hành các quy định về pháp luật tố tụng.
3


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam hiện
nay, đánh giá thực trạng pháp luật để thấy được vị trí, vai trò và mối quan hệ của
hình thức chế tài này với các hình thức chế tài khác. Luận văn chỉ nghiên cứu,
tìm hiểu các quy định về chế tài trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng Viễn Thông ở Việt Nam hiện nay của Luật Viễn Thông.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cùng với việc sử dụng phương pháp luận chung nhất của phép biện chứng
duy vật, đề tài được thực hiện bằng việc sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu chuyên ngành luật như phương pháp mô tả, phân tích, so sánh, tổng
hợp, chứng minh, thống kê…

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận chung, phân tích, so sánh
được sử dụng chủ yếu để đánh giá, nhận xét về các quy định pháp luật hiện hành
về chế tài trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng viễn thông ở
việt nam hiện nay trong tương quan so sánh với các quy định trước đây. Ngoài
ra, tác giả cũng sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử để đánh giá
sự phát triển và những hạn chế cần khắc phục của pháp luật hiện hành.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Phân tích các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dịch vụ viễn thông. Trong quá trình phân tích,
luận văn so sánh các quy định của pháp luật hiện hành với các quy định trong
văn bản pháp luật trước đây để thấy rõ được những điểm tiến bộ cũng như những
hạn chế, bất cập của pháp luật viễn thông hiện hành gây khó khăn cho việc áp
dụng trên thực tế.
4


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ việc nghiên cứu trên đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng viễn thông ở việt nam
hiện nay để đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng Viễn Thông ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và hoàn thiện pháp luật về trách

nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng Viễn Thông.

5


CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG VIỄN
THÔNG VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái quát về hợp đồng viễn thông và trách nhiệm bồi thƣờng thiệt
hại do vi phạm hợp đồng viễn thông
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng viễn thông
Hợp đồng viễn thông là sự thỏa thuận, theo đó một bên (bên cung ứng dịch
vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận sử dụng thanh toán;
bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên
cung ứng dịch vụ theo thỏa thuận (quy định tại, Điều 16. Quyền, nghĩa vụ của
người sử dụng dịch vụ viễn thông ). Từ khái niệm này, hợp đồng cung ứng dịch
vụ có những đặc điểm sau đây
- Chủ thể của hợp đồng là bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ
(khách hàng); hai bên này có thể là cá nhân, tổ chức. Ví dụ, bên cung ứng dịch
vụ viễn thông có thể là một công ty viễn thông cho khách hàng là cá nhân. Cũng
như có trường hợp bên cung ứng dịch vụ là các nhân (chuyên gia pháp lý) cung
ứng dịch vụ tư vấn pháp lý cho một tổ chức (công ty, doanh nghiệp)
- Đối tượng của hợp đồng là một loại hình dịch vụ nào đó: tính chất của
hợp đồng sẽ tùy thuộc vào loại hình dịch vụ. Đó có thể là những dịch vụ đơn
giản (dịch vụ giá trị ga tang, như nhạc chờ funring, hày MCA báo cuộc gọi
nhỡ…) hay những dịch vụ phức tạp hơn (dịch vụ chuyển vùng Quốc tế , roaming
khi đi nước ngooài.
- Nội dung của hợp đồng là quyền và nghĩa vụ của hai bên, trong đó bên cung

ứng dịch vụ có nghĩa vụ chủ yếu là thực hiện dịch vụ cho bên kia, còn bên sử dụng
dịch vụ có nghĩa vụ chủ yếu là thanh toán phí sử dụng dịch vụ (phí dịch vụ).
- Hình thức của hợp đồng bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ
6


thể. Đối với các loại hợp đồng mà pháp luật quy định phải được thiết lập bằng
văn bản thì phải tuân theo các quy định đó (Điều 74 Luật Thương mại 2005).
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, một số loại hợp đồng cung ứng dịch vụ
sau đây phải được lập dưới hình thức văn bản hay một hình thức pháp lý tương
đương: hợp đồng dịch vụ khuyến mại, hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại,
hợp đồng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, hợp đồng đại diện cho thương
nhân, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng đại lý thương mại, hợp
đồng gia công, hợp đồng xây dựng, hợp đồng vận chuyển theo chuyến bằng
đường biển, hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo hiểm… Có thể thấy, với đa số hợp
đồng cung ứng dịch vụ, pháp luật Việt Nam đều yêu cầu hợp đồng được lập dưới
hình thức văn bản (trong khi các hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung thì
không có yêu cầu này). Điều này cho thấy tính chất phức tạp của hợp đồng cung
ứng dịch vụ với hợp đồng mua bán hàng hóa.
Khi hợp đồng bị vi phạm dưới hình thức không thực hiện nghĩa vụ hoặc
thực hiện nghĩa vụ không đúng cam kết, bên vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm
hợp đồng (hay còn gọi là trách nhiệm dân sự theo hợp đồng) với bên có quyền.
Theo quy định của phần lớn các hệ thống pháp luật trên thế giới, các hình thức
trách nhiệm theo hợp đồng bao gồm: Bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm hợp
đồng. Tuy nhiên hiện nay chiếu theo pháp luật Việt Nam có sự khác biệt giữa
quy định về trách nhiệm hợp đồng trong Bộ luật dân sự (BLDS) và Luật thương
mại. Theo đó, Bộ luật dân sự quy định hai hình thức trách nhiệm theo hợp đồng
là: Bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm; còn Luật thương mại thì quy định sáu
hình thức chế tài thương mại (về bản chất cũng là trách nhiệm hợp đồng) gồm:
Buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, buộc bồi thường thiệt hại, tạm

ngừng thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng.
Trong các chế tài đối với vi phạm hợp đồng thì bồi thường thiệt hại là một
trong những chế tài phức tạp nhất về các điều kiện áp dụng. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại là một dạng của trách nhiệm pháp lý. Và việc xem xét trách
nhiệm pháp lý phải dựa trên các cơ sở và căn cứ nhất định. Trước hết khi nghiên
7


cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại chúng ta cần phải tìm hiểu về khái niệm
chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Chế tài là một đặc trưng cơ
bản của pháp luật. Nó là một phương tiện để thi hành quyền hoặc ngăn cản việc
vi phạm quyền hay khắc phục hậu quả của sự vi phạm quyền. Trong quan hệ hợp
đồng, chế tài được hiểu là các quyền trao cho một bên bởi pháp luật hoặc bởi
hợp đồng mà bên được trao quyền có thể thi hành đối với sự vi phạm bởi bên đối
ước kia. Sự vi phạm nghĩa vụ gây thiệt hại của một bên trong quan hệ hợp đồng
sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích vật chất của bên kia. Do đó, bên vi phạm
gây thiệt hại phải có trách nhiệm bù đắp những lợi ích vật chất đủ để cho phép
khôi phục lại tình trạng trước khi vi phạm gây thiệt hại và thỏa mãn những
quyền lợi chính đáng mà bên kia đáng lẽ phải được hưởng. Trong Bộ luật dân sự
Việt Nam năm 2005 quy định, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là hình thức
trách nhiệm chung và được áp dụng rộng rãi, phổ biến trong mọi trường hợp
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng mà gây thiệt hại.
Thậm chí cả trong trường hợp bên có quyền bị vi phạm đã áp dụng các hình thức
trách nhiệm khác thì họ vẫn không đương nhiên mất quyền đòi bồi thường thiệt
hại. Vì thế có thể coi bồi thường thiệt hại là một giải pháp vạn năng cho mọi
trường hợp vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Tất nhiên hình thức trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng không phải là hình thức riêng có
ở Việt Nam mà còn có ở hệ thống pháp luật khác. Trong Bộ luật dân sự Pháp, tại
Điều 1147 quy định người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do không thực hiện
hoặc thực hiện chậm nghĩa vụ. Trong Bộ luật dân sự Nhật Bản, tại Điều 415 quy

định người có quyền có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu người có nghĩa
vụ không thực hiện nghĩa vụ phù hợp với tinh thần và mục đích của nó. Trong
Công ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế
năm 2004 tương ứng tại Điều 74 và Điều 7.4.1. quy định quyền bồi thường thiệt
hại phát sinh ngay cả khi xảy ra vi phạm bất kỳ một nghĩa vụ nào của hợp đồng.
Và cuối cùng, trong hệ thống pháp luật hợp đồng Common law, mọi vi phạm
8


nghĩa vụ hợp đồng đều là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trong quan hệ giữa các thương nhân, pháp luật thương mại ra đời là cần thiết để
duy trì và bảo đảm sự bình đẳng cho các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Khi
một hợp đồng thương mại đã được giao kết hợp pháp và phát sinh hiệu lực pháp
luật thì các bên phải thực hiện các nghĩa vụ mà mình đã thỏa thuận trong hợp
đồng. Việc vi phạm các nghĩa vụ trong hợp đồng dẫn đến hậu quả bên vi phạm
phải chịu các hình thức trách nhiệm - chế tài. Đây là khái niệm chế tài hiểu theo
nghĩa hẹp, chế tài chỉ bao gồm các chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương
mại mà bên bị vi phạm có quyền được lựa chọn áp dụng hoặc yêu cầu áp dụng
chế tài. Đó là các biện pháp tác động bất lợi về tài sản của bên có quyền lợi bị vi
phạm đối với chủ thể có hành vi vi phạm cam kết hợp đồng trong thương mại.
Nếu một bên có hành vi vi phạm hợp đồng thì phải gánh chịu những hậu quả
pháp lí (bất lợi) nhất định do hành vi vi phạm đó gây ra. Luật thương mại 2005
quy định các loại chế tài tại Điều 292 theo đó có các chế tài sau: “(a) Buộc thực
hiện đúng hợp đồng; (b) Phạt vi phạm; (c) Bồi thường thiệt hại; (d) Tạm ngừng
thực hiện hợp đồng; (e) Đình chỉ hợp đồng; (f) Hủy bỏ hợp đồng; (g) Các biện
pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật” [28].
Về bản chất chế tài trong thương mại chính là các chế tài hợp đồng, được
quy định trong các quy phạm pháp luật thương mại bao gồm những hình thức xử
lí và hậu quả pháp lí áp dụng đối với bên có hành vi vi phạm trong quá trình kí
kết, thực hiện hợp đồng trong thương mại. Theo quy định của Bộ luật dân sự bồi

thường thiệt hại được khai thác theo hướng bồi thường do vi phạm nghĩa vụ, bởi
lẽ, hợp đồng là một căn cứ chủ yếu để phát sinh nghĩa vụ. Với tư các là văn bản
luật gốc điều chỉnh các quan hệ tư, do đó, quy định của Bộ luật dân sự là cơ sở
để các văn bản luật khác quy định về chế độ bồi thường thiệt hại. Theo Điều 229,
Khoản 1 Luật thương mại: “Bồi thường thiệt hại là việc bên có quyền lợi bị vi
phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây
ra”. Như vậy có thể hiểu, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là một chế
9


tài dân sự được áp dụng nhằm bù đắp những thiệt hại thực tế mà bên vi phạm đã
gây ra cho bên bị vi phạm. Bản chất của bồi thường thiệt hại là việc bên có
quyền yêu cầu bên vi phạm nghĩa vụ trả một khoản tiền do vi phạm hợp đồng
gây ra. Theo quy định của Bộ luật dân sự, Luật thương mại và các văn bản có
liên quan khác, chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng có những đặc
điểm sau:
- Chế tài bồi thường thiệt hại là các chế tài hợp đồng phát sinh khi có hành
vi vi phạm hợp đồng trong thương mại
Trong quan hệ hợp đồng, nếu một bên không thực hiện, thực hiện không
đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ của hợp đồng thì phải gánh chịu những hậu
quả bất lợi mang tính chất tài sản, căn cứ áp dụng là theo sự cam kết giữa các
bên hoặc theo quy định của pháp luật. Luật thương mại quy định 6 hình thức chế
tài áp dụng đối với bên vi phạm hợp đồng cụ thể là: “(a) Buộc thực hiện đúng
hợp đồng; (b) Phạt vi phạm; (c) Bồi thường thiệt hại; (d) Tạm ngừng thực hiện
hợp đồng; (e) Đình chỉ hợp đồng; (f) Hủy bỏ hợp đồng” [28].
- Chế tài bồi thường thiệt hại là chế tài mang tính chất tài sản Khi thương
nhân thực hiện hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại, có thể phải gánh
chịu những hậu quả bất lợi mang tính vật chất trong đó có hình thức chế tài bồi
thường thiệt hại. Bản chất của các giao dịch dân sự và thương mại là các quan hệ
về tài sản, có tính chất đền bù ngang giá, trong đó hợp đồng trong thương mại

được các bên kí kết chủ yếu là những hợp đồng mang tính chất đền bù ngang giá,
phản ánh mối quan hệ mang tính chất hàng hóa tiền tệ, nên việc áp dụng các chế
tài mang tính tài sản là tất yếu, trừ khi chính bản thân người bị vi phạm trong
cùng quan hệ hợp đồng không muốn áp dụng chế tài hợp đồng đối với bên vi
phạm. Hậu quả bất lợi mang tính chất tài sản thể hiện ở việc bên có hành vi vi
phạm phải nộp một khoản tiền phạt hợp đồng, nộp tiền bồi thường hợp đồng hay
những chi phí cần thiết để thực hiện đúng hợp đồng… Chính vì vậy, theo quy
định của Điều 229, khoản 1 Luật thương mại: “Bồi thường thiệt hại là việc bên
10


có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng gây ra” [28]. Như vậy, Điều 229 đã xác định rõ tính chất của
việc bồi thường thiệt hại đó là việc bên vi phạm phải trả tiền bồi thường thiệt hại,
đây chính là việc bù đắp một lợi ích vật chất do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng.
- Chủ thể lựa chọn và quyết định hình thức chế tài buộc bồi thường thiệt
hại chính là bên bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng
Những điều khoản các bên đã cam kết trong hợp đồng là điều khoản bắt
buộc phải được tuân thủ thực hiện, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng theo các cam kết được thỏa thuận trong hợp đồng thì chủ thể đó bị coi là có
hành vi vi phạm hợp đồng. Lúc này bên bị vi phạm có thể áp dụng một hoặc một
số chế tài theo cam kết trong hợp đồng hay theo quy định của pháp luật. Khi bên
bị vi phạm áp dụng các chế tài trong thương mại trong đó có chế tài buộc bồi
thường thiệt hại, nhưng bên vi phạm không thừa nhận hành vi vi phạm hay
không tuân thủ các biện pháp chế tài đưa ra thì bên bị vi phạm có thể làm đơn
khởi kiện yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Trong khuôn khổ quy định pháp luật, bên bị vi phạm được toàn quyền
quyết định việc yêu cầu bên vi phạm thực hiện một phần hay toàn bộ trách
nhiệm tài sản đối với mình. Ví dụ, trong hợp đồng thỏa thuận sẽ áp dụng đồng
thời hai chế tài là phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, nhưng bên bị vi phạm có

thể chỉ áp dụng biện pháp bồi thường thiệt hại mà không áp dụng phạt vi phạm.
Tòa án và Trọng tài được bên bị vi phạm yêu cầu giải quyết tranh chấp, phải tôn
trong quyền tự định đoạt của bị đơn.
1.1.2. Khái niệm trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng Viễn Thông
1.1.2.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng
Trách nhiệm pháp lý là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa nhà nước
(thông qua các cơ quan có thẩm quyền) với chủ thể vi phạm pháp luật, trong đó
bên vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp
11


cưỡng chế nhà nước được quy định ở chế tài các quy định pháp luật.
Dưới góc độ ngôn ngữ, theo Đại từ điển tiếng Việt trang 1571 trách nhiệm
là “điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình”. Khái niệm này rất
gần nghĩa với “nghĩa vụ” là “bổn phận phải làm đối với xã hội hoặc với người
khác”. Dưới phương diện đạo đức xã hội, trách nhiệm là sự ràng buộc cá nhân,
tổ chức phải thực hiện những nghĩa vụ nghiêng về bổn phận mang tính luận lý,
đạo đức. Dưới góc độ pháp lý, trách nhiệm pháp lý của cá nhân, tổ chức phát
sinh dưới cơ sở pháp luật, được đảm bảo thực hiện bằng pháp luật.
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng (nói đúng ra phải là trách nhiệm do vi
phạm nghĩa vụ trong hợp đồng) là một trong những nội dung quan trọng của
pháp luật hợp đồng. Theo từ điển Tiếng Việt, trang 1576 trách nhiệm có thể
được hiểu theo hai nghĩa, một là “phần việc giao cho hoặc coi như được giao
cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu
quả” [57], hai là “sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng
đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả” [57]. Tuy vậy, dù được hiểu
theo cách nào thì trách nhiệm nếu được định nghĩa như vậy thì có nhiều điểm
tương đồng với nghĩa vụ, nhưng ở đây, khái niệm trách nhiệm đã hàm chứa một
yếu tố quan trọng đó là “hậu quả”.

Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội
định nghĩa: “Trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt) đối với chủ
thể vi phạm pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước với các
chủ thể vi phạm pháp luật, được các quy phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh,
trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi, những biện
pháp cưỡng chế được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật” [59]. Với
trách nhiệm pháp lý, tức trách nhiệm đã được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành, các “hậu quả” này sẽ là “hậu quả bất lợi” được áp
đặt lên những người phải chịu trách nhiệm pháp lý.
Do vậy, trách nhiệm pháp lý luôn là một chế định rất quan trọng đối với
12


mọi hệ thống pháp luật, vì nó chính là sự bảo đảm cho việc tuân thủ pháp luật
của các thành viên trong xã hội. Trách nhiệm pháp lý xuất hiện khi có sự vi
phạm pháp luật, là hậu quả của hành vi vi phạm và sự thể hiện thái độ trừng phạt
của quyền lực nhà nước đối với những hành vi vi phạm.
Đặc điểm của trách nhiệm pháp lý cơ sở thực tế của trách nhiệm pháp lý và vi
phạm pháp luật. Chỉ khi có vi phạm pháp luật mới áp dụng trách nhiệm pháp lý.
- Cơ sở pháp lý của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý là quyết định do cơ
quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban hành trên cơ sở xem xét, giải
quyết vụ việc vi phạm đã có hiệu lực pháp luật.
- Các biện pháp trách nhiệm pháp lý là một loại biện pháp cưỡng chế nhà
nước đặc thù: mang tính chất trừng phạt hoặc khôi phục lại những quyền và lợi
ích bị xâm hại và đồng thời được áp dụng chỉ trên cơ sở những quyết định của cơ
quan hoặc người có thẩm quyền.
BLDS Việt Nam 2005 không có một điều khoản nào định nghĩa về TNDS
mà chỉ quy định cụ thể các loại TNDS được áp dụng trong những trường hợp cụ
thể. Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội
thì: “TNDS là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người

vi phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người
bị thiệt hại” [58].
Trong số chuyên đề về BLDS Việt Nam 2005, tạp chí Dân chủ và pháp luật
của Bộ Tư pháp, lại đưa ra một cách định nghĩa khác về TNDS trong phần thuật
ngữ pháp luật dân sự: “TNDS (theo nghĩa rộng) là các biện pháp có tính cưỡng
chế được áp dụng nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu của một quyền dân sự
bị vi phạm. TNDS (theo nghĩa hẹp) là các biện pháp có tính cưỡng chế áp dụng
đối với người có hành vi vi phạm pháp luật gây ra thiệt hại cho người khác,
người gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm khắc phục những hậu quả xấu xảy ra
bằng tài sản của mình (trong đó có bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
hoặc ngoài hợp đồng” [13], dù hiểu theo nghĩa nào thì có thể thấy TNDS mang
13


một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, TNDS mang đầy đủ các đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói
chung. Nó là hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật, là biện pháp cưỡng chế của
Nhà nước áp dụng đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật và được quy
định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể là trong BLDS 2005 và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Việc áp dụng TNDS được đảm bảo thực hiện
bằng sức mạnh cưỡng chế Nhà nước. Đó là chế tài được áp dụng đối với chủ thể
có hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ hai, căn cứ để áp dụng TNDS là phải có hành vi vi phạm pháp luật. Đó
có thể là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật được quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật hay vi phạm các thỏa thuận trong hợp đồng đã được
ký kết và có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, khi TNDS được áp dụng bao giờ nó cũng mang lại những hậu quả
bất lợi đối với bên vi phạm, đó là những hậu quả bất lợi về mặt tài sản đối với
bên vi phạm. Bởi, khi có hành vi vi phạm pháp luật, thiệt hại gây ra thường là
những thiệt hại về tài sản. Ngay cả khi thiệt hại gây ra là thiệt hại về tinh thần

thì để bù đắp cho những tổn thất tinh thần đó, cũng chỉ có thể được thực hiện
bằng việc bù đắp về mặt tài sản. Việc áp dụng TNDS nhằm bù đắp những tổn
thất về vật chất mà người bị vi phạm phải gánh chịu do hành vi vi phạm pháp
luật của người có hành vi vi phạm gây ra.
Một điểm đáng lưu ý đó là, cần phân biệt khái niệm TNDS với khái niệm
NVDS. “NVDS là việc mà theo đó một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là
bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ
có giá, thực hiện hoặc không thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một
hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền) ” [7, Điều 280].
Như vậy NVDS là quan hệ pháp luật, có một bên chủ thể phải thực hiện hoặc
không được thực hiện một công việc nhất định vì lợi ích của bên kia. Trong khi
đó, TNDS được hiểu là sự quy định của pháp luật dân sự về hậu quả pháp lý
14


được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng buộc người có hành vi vi phạm
phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp cho bên có quyền dân sự bị xâm phạm. Như vậy, về mặt nội dung, TNDS
cũng giống như một quan hệ NVDS. Tuy nhiên, nếu NVDS có thể phát sinh từ
sự thỏa thuận giữa các bên thì TNDS chỉ phát sinh khi xảy ra một sự kiện mà
luật dân sự đã dự liệu về việc phát sinh một TNDS do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng pháp luật để giải quyết. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một quy
định nào ghi nhận về khái niệm này. Theo từ điển Tiếng Việt, “trách nhiệm” có
thể được hiểu theo hai nghĩa, một là “phần việc giao cho hoặc coi như được giao
cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu
quả”, hai là “sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn,
nếu sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả”. Như vậy, theo những cách hiểu
này, trách nhiệm có nhiều điểm tương đồng với nghĩa vụ. Song, cần thấy rằng,
khái niệm trách nhiệm luôn hàm chứa một yếu tố quan trọng đó là “hậu quả”. Vì
thế, nó phải là cái phát sinh sau “nghĩa vụ”. Với trách nhiệm pháp lý, tức trách

nhiệm đã được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành,
các “hậu quả” này sẽ là “hậu quả bất lợi” được áp đặt lên những người phải chịu
trách nhiệm pháp lý, thể hiện thái độ trừng phạt của quyền lực nhà nước đối với
những hành vi vi phạm pháp luật. BLDS 2005 cũng đã quy định “trách nhiệm
dân sự do vi phạm nghĩa vụ” là việc người có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm trước người có quyền"
[7, Điều 302]. Như vậy, trong hợp đồng, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng có
thể được hiểu là việc một bên trong hợp đồng phải gánh chịu các hậu quả pháp
lý bất lợi do việc họ đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ
trong hợp đồng.
Về bản chất, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng là một dạng cụ thể của trách
nhiệm pháp lý, vì vậy đều mang đầy đủ các đặc điểm cơ bản của trách nhiệm
pháp lý. Tuy nhiên, do một số đặc thù của hợp đồng thương mại, trách nhiệm do
15


vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại có một số đặc trưng riêng cho
phép chúng ta phân biệt nó với các loại trách nhiệm pháp lý khác, đó là:
Trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng luôn gắn với sự tồn tại
của một HĐ được ký kết giữa các bên chủ thể tham gia hợp đồng và hợp đồng đó
phải có hiệu lực pháp luật, tức là hợp đồng được xác lập không rơi vào trường hợp
bị coi là vô hiệu theo luật định. Sự tồn tại của một hợp đồng chính là cơ sở để áp
dụng TNBTTH do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng. Nếu giữa bên gây thiệt hại
và bên bị thiệt hại có ký kết hợp đồng, nhưng hợp đồng đó vô hiệu thì coi như
không hề tồn tại hợp đồng giữa các bên, và TNBTTH được áp dụng trong trường
hợp đó không phải là TNBTTH do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng.
* Về thẩm quyền áp dụng: Các chế tài do vi phạm hợp đồng viễn thông có
thể chiếu theo luật viễn thông quy định và áp dụng đối với bên vi phạm hợp
đồng dựa trên yêu cầu của bên có quyền lợi bị vi phạm. Tuy nhiên, trách nhiệm
do vi phạm hợp đồng viễn thông còn có thể thương lượng giữa hai bên, hoặc do

cơ quan tài phán phi chính phủ (như trọng tài thương mại) áp dụng cho các hành
vi vi phạm.
* Về tính chất của trách nhiệm: Hợp đồng viễn thông luôn gắn với tài sản
và bị chi phối bởi qui luật giá trị, phản ánh mối quan hệ mang tính chất hàng hóa
tiền tệ, nên việc áp dụng các chế tài mang tính chất tài sản là tất yếu. Theo đó,
bên vi phạm hợp đồng sẽ phải gánh những hậu quả bất lợi về mặt tài sản như:
phải dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình đề bồi thường tổn thất vật chất
cho phía bên kia dưới hình thức tiền phạt vi phạm hoặc bồi thường thiệt hại;
hoặc bên vi phạm phải gánh chịu những tổn thất về vật chất để có thể đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng như chi phí để thực hiện đúng hợp đồng.
* Về thời điểm phát sinh: Hợp đồng được kí kết và có hiệu lực chính là cơ
sở để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng, và vì thế
cũng là căn cứ để xác định trách nhiệm khi có vi phạm. Trách nhiệm do vi phạm
nghĩa vụ trong hợp đồng viễn thông chỉ phát sinh trong lĩnh vực hoạt động viễn
16


thông, khi hợp đồng đã được kí kết và có hiệu lực pháp luật. Đặc điểm này cho
phép phân biệt trách nhiệm hợp đồng trong lĩnh vực viễn thông với các loại trách
nhiệm dân sự nói chung, trách nhiệm dân sự có thể phát sinh trong các giao dịch
dân sự không phải là hợp đồng như: hứa thưởng, thi có giải, chiếm hữu sử dụng
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, thực hiện công việc không có ủy
quyền...
* Về mục đích áp dụng: Các hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
viễn thông rất đa dạng và mỗi hình thức hướng đến những mục đích nhất định.
Song, bản chất của các hợp đồng dịch vụ là quan hệ mang tính chất đền bù
ngang giá, nên việc áp dụng các hình thức trách nhiệm này chủ yếu hướng đến
việc khôi phục lợi ích vật chất và hạn chế những tổn thất cho bên có quyền lợi bị
vi phạm. Theo quy định của Luật thương mại 2005, các hình thức trách nhiệm do
vi phạm hợp đồng bao gồm: buộc thực hiện đúng hợp đồng, hủy hợp đồng, phạt

vi phạm, bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện
hợp đồng và các hình thức chế tài khác do các bên thỏa thuận không trái với
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà nước CHXHCN
Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế.
- Khái niệm hợp đồng viễn thông là một hình thức hợp đồng cụ thể ghi
nhận nội dung những cam kết, thỏa thuận; ghi nhận quyền và nghĩa vụ cụ thể của
mỗi bên. Là một hợp đồng, nên hợp đồng trong lĩnh vực viễn thông cũng phải
tuân theo nguyên tắc về tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận được quy định tại
Điều 4 của Bộ luật Dân sự năm 2005: “Quyền tự do cam kết, thoả thuận trong
việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thoả
thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt,
cấm đoán, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào. Cam kết, thoả thuận hợp pháp có
hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân,
chủ thể khác tôn trọng”. Các điều khoản căn bản của hợp đồng được ghi nhận
17


bằng văn bản trong quá trình cam kết thỏa thuận tạo nên nội dung của hợp đồng.
Các điều khoản này sẽ trở thành căn cứ pháp lý để xác định quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm của mỗi bên trong hợp đồng. Đây cũng là bằng chứng quan trọng để
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (Tòa án hoặc các Trung tâm trọng tài thương
mại) xác định trách nhiệm pháp lý khi có tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, quyền tự
do cam kết phải chịu sự giới hạn của pháp luật quy định riêng đối với ngành viễn
thông theo quy định tại Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 182/2006/QĐTTg ngày 09/08/2006 về danh mục bí mật nhà nước trong ngành bưu chính viễn
thông và công nghệ thông tin.
- Đặc điểm đầu tiên là chủ thể trong hợp đồng hợp dịch vụ viễn thông bao
giờ cũng có một chủ thể (phía bên kia) là các khách hàng trong nước và nước
ngoài. Ngoài những yêu cầu chung về chủ thể, đặc biệt là mô tả thực trạng pháp
lý của các bên sử dụng dịch vụ, thì những yêu cầu riêng của Luật Thương mại và

quyền bảo vệ người tiêu dùng cũng được vận dụng.
1.1.2.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Khái niệm thiệt hại: Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo Đại từ điển tiếng Việt,
thiệt hại được hiểu là “mất mát; hư hỏng nặng nề về người và của” [49, Tr
1571]. Dưới góc độ khoa học pháp lý, theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học
của Trường Đại học Luật Hà Nội thì thiệt hại là “tổn thất về tính mạng, sức
khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ” [41,
Tr.118]. Dưới góc độ luật thực định, từ cách tiếp cận khái niệm “trách nhiệm bồi
thường thiệt hại” trong quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, theo Điều 310 BLDS 1995 thì “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm
trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
về tinh thần”. Tiếp theo đó Điều 305 BLDS 2005 khẳng định “Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách
nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần”. Như vậy, về mặt khoa học và
luật thực định thì quan điểm phổ biến hiện nay về thiệt hại là thiệt hại bao gồm:
18


Thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Trong đó, thiệt hại về vật chất là:
tài sản bị mất, hủy hoại, bị hư hỏng, chi phí phải bỏ ra để khắc phục, ngăn chặn
thiệt hại, lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản cùng với hoa lợi, lợi
tức; thiệt hại về tinh thần bao gồm: tổn thân về danh dự, uy tín, nhân phẩm. Như
vậy, thiệt hại có thể hiểu là những tổn thất, mất mát về vật chất và tinh thần,
nghiên cứu dưới góc độ pháp lý, thiệt hại này do nhưng hành vi cụ thể gây ra.
Khái niệm bồi thường: Dưới góc độ pháp lý, theo Đại từ điển tiếng Việt,
bồi thường được hiểu là “đền bù những tổn thất đã gây ra” [49, tr. 191]. Về mặt
pháp lý, bồi thường là một dạng nghĩa vụ dân sự phát sinh do hành vi gây thiệt
hại. Như vậy, bồi thường hay có thể hiểu là bồi thường thiệt hại là hình thức
trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hậu
quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên

bị thiệt hại. Vậy bồi thường có thể hiểu là việc đền bù những tổn thất, mất mát
về vật chất và tinh thần nhằm khắc phục những hậu quả do hành vi gây thiệt hại
gây ra.
Tóm lại, mọi người trong xã hội đều phải tôn trọng pháp luật, tôn trọng
những quy tắc chung của xã hội, không thể xâm hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý, gây tổn hại cho
người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự
gánh chịu hậu quả bất lợi chính là việc bồi thường thiệt hại. Như vậy, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm dân sự mà theo đó thì một người phải
đền bù những tổn thất, mất mát về vật chất và tinh thần nhằm khắc phục những
hậu quả do hành vi gây thiệt hại gây ra.
1.1.2.3. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
viễn thông
Theo Bộ Luật dân sự của Cộng Hòa Pháp “bất cứ hành vi nào của một
người gây thiệt hại cho người khác thì người đã gây thiệt hại do lỗi của mình
phải hồi thường thiệt hại” [7, Điều 1382]. “Mỗi người phải chịu trách nhiệm về
19


×