Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Phân tích thực trạng thực hiện chính sách xuất khẩu lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.6 KB, 27 trang )

Đề tài: Phân tích thực trạng thực
hiện chính sách xuất khẩu Lao động
tại huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc
giai đoạn 2002 – 2007.
Giáo viên hướng dẫn:
Nhóm thực hiện đề tài:


I.
II.
III.

Mục lục


IV.

Mở đầu:

IV.1
V.

Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài:
1.1.1: Vấn đề chung:
VI. Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội

nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, việc mở cửa các loại thị trường, trong đó có thị
trường dịch vụ, thị trường lao động theo các cam kết gia nhập các tổ chức quốc tế là một
tất yếu khách quan. Bên cạnh những hoạt động trao đổi, mua bán các loại hàng hoá, dịch
vụ, vốn, công nghệ là lực lượng lao động người Việt Nam ra nước ngoài làm việc và
ngược lại. Trong những năm qua, thế giới đã chứng kiến sự phục hồi của các nước bị


khủng hoảng tài chính giai đoạn 2007 – 2012. Nền kinh tế thế giới đang trên đà phục hồi
và phát triển. Tuy nhiên, tình trạng thất nghiệp trên toàn cầu vẫn còn tràn lan tạo ra sức ép
mạnh mẽ về lao động và việc làm, do đó di cư lao động quốc tế tiếp tục trở thành thành tố
quan trọng trong thời gian tới. Thời gian qua Việt Nam đã đưa ra những chính sách, giải
pháp cụ thể để mở rộng thêm một số thị trường lao động mới. Đặc biệt XKLĐ và chuyên
gia được Đảng và nhà nước ta xác định là một lĩnh vực kinh tế đối ngoại quan trọng, một
bộ phận của chính sách giải quyết việc làm được Quốc Hội đưa vào chỉ tiêu kế hoạch
hàng năm. Việc mở rộng thị trường XKLĐ là hướng phát triển kinh tế phù hợp với lộ
trình hội nhập mở cửa, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động trong nước.
XKLĐ đã góp phần xóa đói giảm nghèo và thu thêm ngoại tệ (xấp xỉ gần 2 tỷ USD/năm)
cho gần nửa triệu lao động, bao gồm cả lao động kỹ thuật và lao động giản đơn hiện đang
ở 40 nước và vùng lãnh thổ. Trong những năm qua XKLĐ đã gia tăng mạnh và đã góp
phần tích cực vào chiến lược giải quyết việc làm, tăng thu nhập, tạo sự ổn định và phát
triển đất nước.
 Để giải quyết tốt vấn đề trên không hề dễ dàng, đòi hỏi sự nhập cuộc của nhà nước,
các doanh nghiệp cũng như những người lao động đang quan tâm tới XKLĐ… Trên ý
nghĩa đó, nhóm đã chọn đề tài: “phân tích thực trạng thực hiện chính sách XKLĐ tại
huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.”
VII.
VIII.
IX.

X.

X.1

1.1.2: Khó khăn của vấn đề nghiên cứu ở Lập Thạch:
Đa số người dân của huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc đi lao động nước ngoài là
nông dân.
Tiếp thu ngoại ngữ chậm, lại được đào tạo trong thời gian quá ngắn, vì vậy vốn kiến

thức họ được trang bị cũng như học hỏi được là rất ít và không đồng bộ. Ưu điểm của
số lao động này là sức khỏe nhưng lại thiếu nghề nghiệp chuyên môn và chưa quen
với tác phong công nghiệp trong nền sản xuất của nước bạn.
Mặt khác, công tác xuất khẩu lao động (viết tắt: XKLĐ) còn bị hạn chế trong quá
trình tiến hành, mặc dù Nhà nước có nhiều chủ trương khuyến khích, nhưng người
lao động vẫn là người phải bỏ vốn như là chi phí ban đầu cho công việc mới của họ.
Phí ban đầu này là quá lớn đối với người lao động, đặc biệt là đối với lao động nông
thôn không có việc làm phải đi XKLĐ.

Mục tiêu nghiên cứu:
Page 3


1.2.1 Mục tiêu chung:

X.1.1

Căn cứ vào thành tích đã đạt được những năm trước, ban chỉ đạo thực hiện công
tác XKLĐ của tỉnh đề ra mục tiêu chung trong giai đoạn 2004-2006 phải xuất khẩu được
6000- 8000 lao động tập trung vào lao động ở khu vực nông thôn và những người có khó
khăn về kinh tế, thiếu việc làm để góp phần giải quyết việc làm cho lao động nước nhà.
XI.

XI.1.1

1.2.2 Mục tiêu cụ thể:

Ban chỉ đạo tỉnh đề ra mục tiêu cụ thể cho năm 2004 là XKLĐ được 3000- 3500
người lao động. Các năm tiếp theo, mỗi năm xuất khẩu 3500- 4000 người.
XII.


Về việc thành lập ban chỉ đạo ở các huyện, phấn đấu đến năm 2005 cả tỉnh sẽ có
100% các huyện đều có ban chỉ đạo XKLĐ của riêng tỉnh mình.
XIII.

XIII.1

XVI.

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

XIV.

- Đối tượng: Toàn bộ người lao động của huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.

XV.

- Phạm vi: Huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.

Tổng quan nghiên cứu:

XVI.1

2. Cơ sơ lý luận của vấn đề nghiên cứu:

XVI.1.1 2.1

Một số khái niệm :

XVII. Trong khoảng 20 năm trở lại đây việc đưa lao động của một quốc gia ra khỏi


phạm vi của nước đó để làm việc đã trở nên quen thuộc với số lượng ngày càng tăng.Đó
là do sự phát triển kinh tế trên phạm vi toàn cầu đang có những chuyển biến về chất và
không đoòng đều giữa các nước dựa trên cơ sở phát triển mạnh của khoa học kỹ
thuật.Thực tế cho thấy, sức lao động của các quốc gia có dư thừa lao động đến giai đoạn
hiện nay đã được xem như là một loại hàng hoá có thể mang lại nguồn thu ngoại tệ rất lớn
cho ngân sách quốc gia.
XVIII. Do vậy để nghiên cứu về xuất khẩu lao động trước hết cần phải tìm hiểu và làm rõ

các khái niệm có liên quan:
- Nguồn lao động: Là bộ phận dân cư gồm những người trong độ tuổi lao động
(không kể những nguời mất khả năng lao động) và những ngưòi ngoài tuổi lao động
nhưng thực tế có tham gia lao động. Nguồn lao động bao gồm những người từ độ tuổi lao
động trở lên (ở nước ta là tròn 15 tuổi).
XIX.

- Lao động: là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi các
vật thể tự nhiên phù hợp với nhu cầu của con người. Thực chất là sự vận động của sức lao
động trong qua trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội, lao động cũng chính là quá trình
XX.

Page 4


kết hợp của sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm phục vụ nhu cầu con
người.Có thể nói lao động là yếu tố quyết định cho mọi hoạt động kinh tế.
- Sức lao động: Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong
quá trình tạo ra của cải xã hội, nó phản ánh khả năng lao động của con người, là điều kiện
đầu tiên cần thiết trong quá trình lao động xã hội. Trong nền kinh tế hàng hoá sức lao
động là một hàng hóa đặc biệt vì nó có giá trị và giá trị sử dụng các hàng hoá khác, ngoài

ra hàng hoá sức lao động còn là một sản phẩm có tư duy, có đời sống tinh thần. Thông
qua thị trường lao động, sức lao động được xác định giá cả. Hàng hoá sức lao động cũng
tuân theo quy luật cung – cầu của thị trường. Mức cung cao sẽ dẫn tới dư thừa lao động,
giá cả sức lao động (tiền công) thấp, ngược lại khi mức cung thấp sẽ dẫn tới tình trạng
thiếu lao động, giá cả sức lao động sữ trở nên cao hơn.
XXI.

XXII. - Thị trường lao động: Trong mỗi xã hội, nơi nào xuất hiện nhu cầu sử dụng lao

động và có nguồn lao động cung cấp, ở đó sẽ hình thành nên thị trường lao đông. Trong
nền kinh tế thị trường, người lao đông muốn tìm việc phải thông qua thị trường lao động.
Về mặt thuật ngữ, "Thị trưòng lao đông" thực chất phải được hiểu là "Thị trường sức lao
động" để phù hợp với khái niệm của tổ chức lao động quốc tế: Thị trường lao động là một
lĩnh vực của nền kinh tế, nó bao gồm toàn bộ các quan hệ lao động được xác lập trong
lĩnh vực mua bán, trao đổi và thuê mướn sức lao động. Trên thị trường lao động, mối
quan hệ được thiết lập giữa một bên là người lao động và một bên là người sử dụng lao
động. Qua đó, cung-cầu về lao đọng ảnh hưởng tới tiền công lao động và mức tiền công
lao động cũng ảnh hưởng tới cung- cầu lao động.
XXIII. + Cầu lao động: là lượng lao động mà người thuê có thể thuê ở mỗi mức giá có

thể chấp nhận được. Nó mô tả toàn bộ hành vi người mua có thể mua được hàng hoá sức
lao động ở mỗi mức giá hoặc ở tất cả các mức giá có thể đặt ra.Cầu về sức lao động có
liên quan chặt chẽ tới giá cả sức lao động, khi giá cả tăng hoặc giảm sẽ làm cho cầu về
lao động giảm hoặc tăng.
XXIV. + Cung lao động: là lượng lao động mà người làm thuê có thể chấp nhận được ở

mỗi mức giá nhất định. Giống như cầu và lượng cầu, đường cung lao động mô tả toàn bộ
hành vi của người đi làm thuê khi thoả thuận ở các mức giá đặt ra. Cung lao động có
quan hệ tỷ lệ thuận với giá cả. Khi giá cả tăng thì lượng cung lao động tăng và ngược lại.
XXV. Xuất khẩu lao động trên thị trường lao động quốc tế được thực hiện chủ yếu dựa


vào quan hệ cung - cầu lao động. Nó chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật kinh tế
thị trường. Bên cầu phải tính toán kỹ hiệu quả của việc nhập khẩu lao động từ đod cần
phải xác định chặt chẽ số lượng, cơ cấu, chất lượng lao động hợp lý. Mặt khác, bên cung
có mong muốn xuất khẩu càng nhiều lao động càng tốt. Do vậy, muốn cho loại hàng hoá
đặc biệt này chiếm đựơc ưu thế trên thị trường lao động, bển cung phải có sự chuẩn bị và

Page 5


đầu tư để được thị trường chấp nhận, phải đáp ứng kịp thời các yêu cầu về số lượng, cơ
cấu và chất lượng lao động cao.
XXVI. Hiện tại chưa có một khái niệm cụ thể, thống nhất nào về xuất khẩu lao động, tuỳ

theo hướng tiếp cận, nghiên cứu mà người ta đưa ra những khái niệm khác nhau. Theo
thuật ngữ Lao động thương binh xã hội tập I – H1999 của Bộ Lao động- TB&XH thì:
“xuất khẩu lao động là việc đưa người lao động đi làm việc thuê có thời hạn ở nước ngoài
theo quy định của pháp luật”, còn theo Luật người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 thì “xuất khẩu lao động là hoạt động đưa
người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo HĐLĐ”. Như vậy cả
hai khái niệm trên đều chỉ ra rằng xuất khẩu lao động chính là việc đưa người lao động
Việt Nam có đủ tiêu chuẩn theo quy định đi làm việc ở nước ngoài.
XXVI.1.1

2.2 Vai trò:

XKLĐ thời gian qua cũng mang lại hiệu quả kinh tế đáng khích lệ, góp
phần quan trọng trong việc cải thiện đời sống cho người lao động và tăng nguồn thu
ngoại tệ cho đất nước.
XXVII.


Bảng 2.1 : Kết quả hoạt động XKLĐ giai đoạn 1991-1999.

XXVIII.

XXIX.
XXX.
XXXI.
XXXII.
XXXIII.
XXXIV.
XXXV.
XXXVI. Năm

XXXIX.
XLII.
XLV.
XLVIII.
LI.
LIV.
LVII.
LX.

1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997

1998

XXXVII. Số

XL.
XLIII.
XLVI.
XLIX.
LII.
LV.
LVIII.
LXI.

lao

xuất
(người)
1.020
810
3.960
9.230
10.050
12.660
18.470
12.240

Page 6

động
khẩu


XXXVIII. Số ngoại tệ thu

về (1000 USD )
XLI.
XLIV.
XLVII.
L.
LIII.
LVI.
LIX.
LXII.

2.500
6.800
15.800
43.100
77.900
100.800
129.200
148.300


LXIII.
LXVI.
LXIX.

1999
2001
Tổng


LXIV.
LXVII.
LXX.

20.700
46.122
136.622

LXV.
150.800
LXVIII. 1.200.000
LXXI. 1.875.200

( Chỉ tính số thu ngoại tệ qua các tổ chức lao động

LXXII.

đưa đi)
LXXIII.
LXXIV. Riêng hai năm 1996-1997, Việt Nam có khoảng 50.000 lao động đang làm việc ở

nước ngoài đã gửi về nước 350 triệu USD. Nếu tính cả số lao động của nước ta đi theo
các hình thức khác nhau đang làm việc ở nước ngoài thì con số lao động vào khoảng
250.000, thu nhập hàng năm lên tới khoảng 1 tỷ USD - đây là con số mà chỉ ít ngành sản
xuất đạt được. Doanh thu từ XKLĐ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của
những đơn vị hoạt động ở lĩnh vực này. Theo báo cáo của một số doanh nghiệp thì tỷ suất
lợi nhuận bình quân trên doanh thu của hoạt động XKLĐ đạt khoảng 15 – 20%. Đối với
Nhà nước, mức đầu tư chi phí quản lý nhà nước bình quân cho một lao động mỗi năm
khoảng 30 USD và thu về cho ngân sách khoảng 36,7 USD - đây là một khoản lợi lớn mà

chưa có suất đầu tư nào có được. Tính chung người lao động đi làm ở nước ngoài bình
quân thu nhập bằng 10 – 15 lần so với thu nhập của lao động trong nước. Do vậy, XKLĐ
không những làm tăng thu nhập quốc dân mà còn là cơ hội tốt để người lao động tích lũy
vốn, cải thiện đời sống và điều kiện làm việc của bản thân và gia đình họ.
LXXV. Bên cạnh đó, XKLĐ thời gian qua cũng đã tạo việc làm cho một bộ phận người

lao động, góp phần tích cực vào việc giải quyết việc làm cho xã hội. Bình quân trong 10
năm 1980 – 1990 theo hiệp định Chính phủ, hàng năm Việt Nam đưa đi được khoảng
26.000 lao động, chiếm khoảng gần 3% lực lượng lao động tăng hàng năm. Từ năm 2001
đến nay đã đưa đi được trên 157.000 người, nghĩa là đã giải quyết việc làm tạm thời cho
họ cùng với hàng ngàn người khác qua các tổ chức kinh tế làm dịch vụ XKLĐ.
LXXVI. Mặt khác, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài giúp Nhà nước giảm được

khoản chi phí đầu tư đào tạo nghề và tạo chỗ làm việc mới cho người lao động. Ngoài ra,
thông qua lao động ở nước ngoài, người lao động đã nâng cao trình độ chuyên môn kỹ
thuật,ngoại ngữ, tiếp thu được những công nghệ và tác phong sản xuất công nghiệp tiên
tiến, do đó từng bước đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước khi họ trở về.
Như vậy, hoạt động XKLĐ nước ta đã đem lại lợi ích kinh tế, xã hội
không nhỏ, góp phần trực tiếp và gián tiếp vào việc tăng tích lũy vốn cho công nghiệp
hóa.
LXXVII.

LXXVII.1.1
LXXVIII.

2.3 Đặc điểm:
Các hình thức xuất khẩu lao động:
Page 7



LXXIX. Xuất khẩu lao động thực tế đem lại lợi ích thiết thực cho cả người lao động và

phía Nhà nước. Nhận thức rõ điều đó Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng đưa ra những
chủ trương, chính sách tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội đi làm việc ở nước
ngoài. Ngày 17 tháng 7 năm 2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 81/2003/NĐ-CP
quy định chi tiết về việc đưa người Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Tại
điều 3 khoản 2 Nghị định này quy định rõ các hình thức đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc có thời hạn ở nước ngoài, trong đó bao gồm các hình thức cơ bản sau:
LXXIX.1.1.1 2.3.1 Thông qua doanh nghiệp Việt Nam được phép cung ứng lao

động theo hợp đồng ký kết với bên nước ngoài:
LXXX. - Đối tác nước ngoài có nhu cầu sử dụng lao động, đưa ra những yêu cầu cụ thể về
số lượng, tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính...Các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế của Việt
Nam sau khi nhận được đơn đặt hàng của bên nước ngoài sẽ tiến hành sơ tuyển dựa trên
những tiêu chí có sẵn. Để đảm bảo đúng yêu cầu của mình, bên nước ngoài thực hiện
kiểm tra lại một lần nữa trước khi lao động sang làm việc.
2.3.2 Thông qua doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu, nhận khoán công
trình hoặc đầu tư ở nước ngoài:
LXXXI. - Bên nước ngoài đặt hành cho các công trình xây dựng, do vậy phải đưa đi đồng
bộ các đối tượng lao động gồm có kỹ thuật, quản lý, chỉ đạo thi công và lao động trực
tiếp sang nước ngoài làm việc. Sau khi công trình kết thúc thì cũng chấm dứt hợp đồng
đối với người lao động, vì thế xuất khẩu lao động theo hình thức khoán khối lượng công
việc thường không ổn định, tâm lý của người lao động dễ bị chán nản, không tận tâm với
công việc.
LXXX.1.1.1

LXXXI.1.1.1 2.3.4 Theo hợp đồng lao động do cá nhân người lao động trực tiếp ký

kết với người sử dụng lao động ở nước ngoài (sau đây gọi là hợp đồng cá nhân):

LXXXII.
- Đây là hình thức phổ biến nhất hiện nay, hình thức này đòi hỏi đối tượng
lao động đa dạng tuỳ theo yêu cầu và mức độ phức tạp của công việc. Có những yêu cầu
của người nước ngoài đòi hỏi người có trình độ kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, kinh
nghiệm tổ chức quản lý, cũng có những yêu cầu chỉ cần người lao động có trình độ giản
đơn.
Ngoài những hình thức đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài,
hình thức xuất khẩu lao động tại chỗ cũng đã trở nên phổ biến hơn ở Việt Nam. Thông
qua các tổ chức kinh tế của ta, người lao động được cung ứng cho các tổ chức kinh tế
nước ngoài dưới những hình thức:
LXXXIII.

LXXXIV.

- Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

LXXXV.

- Các khu chế xuất, khu công nghiệp.

LXXXVI.

- Các tổ chức, cơ quan ngoại giao tại Việt Nam.
Page 8


LXXXVI.1.1

2.4 Nội dung phân tích:


LXXXVI.1.1.1 2.4.1 Quan điểm XKLĐ:
LXXXVII.
Đảng và Nhà nước ta luôn cho rằng, phát triển hợp tác quốc tế trong việc

tổ chức đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là một hoạt
động kinh tế - xã hội nhằm góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo
thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu cho đất nước
và tăng cường quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới. Song song với quan điểm này,
Chính phủ cũng đó ban hành nhiều văn bản quy định cụ thể về hoạt động XKLĐ như bộ
luật lao động, nghị định, thông tư hay các công văn hướng dẫn thi hành…
Quan điểm về XKLĐ cũng đã được thủ tướng Phan Văn Khải khẳng định
trong một hội nghị về XKLĐ quy tụ hơn 350 đại biểu của các bộ, các ngành trên cả nước
và 5 đại sứ tại các nước có người Việt Nam ,rằng “XKLĐ là một chiến lược quan trọng
trước mắt và lâu dài”.
LXXXVIII.

Qua những quan điểm như trên cho thấy rằng, mặc dù đây là một hoạt
động còn rất non trẻ, nhưng trong tương lai với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng
các cấp chính quyền ,hoạt động này sẽ mang lại nhiều thành tựu to lớn, góp phần đáng kể
trong công cuộc công nghiệp hóa của đất nước.
LXXXIX.

LXXXIX.1.1.1 2.4.2 Chính sách XKLĐ:
XC. Nhằm đưa những quan điểm trên vào thực tiễn, Chính phủ đã sử dụng rất nhiều

cụm cụ cũng như chính sách khuyến khích nhằm tạo cho hoạt động XKLĐ những con
đường phát triển thuận lợi nhất. Mới đây, thông qua nghị định 81/2003/NĐ-CP, Chính
phủ đã có quyết định về việc thành lập quỹ hỗ trợ XKLĐ, theo đó quỹ này sẽ hỗ trợ chi
phí cho việc phát triển thị trường lao động mới, cho việc đào tạo người lao động , việc hỗ
trợ người lao động và doanh nghiệp giải quyết rủi ro cũng như việc thưởng cho các cơ

quan, đơn vị có thành tích trong hoạt động XKLĐ. Như vậy, quỹ này ra đời sẽ góp phần
phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của lao động
Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế, đồng thời hỗ trợ rủi ro cho người lao động và
doanh nghiệp trong hoạt động này.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng có những chính sách hỗ trợ cho vay đối với người
lao động đi xuất khẩu, theo đó người lao động đi XKLĐ không thuộc diện chính sách
được vay tối đa là 20 triệu đồng mà không yêu cầu thế chấp tài sản, điều này đã tháo gỡ
rất nhiều khó khăn cho người lao động, nhất là đối với những lao động nghèo ở nông thôn
– lực lượng chính của XKLĐ, mà trước đây không có tiền để đóng góp chi phí XKLĐ
hoặc không có tài sản để thế chấp. Đồng thời với chính sách này, hồ sơ thủ tục xin đi
XKLĐ cũng đó được giảm bớt và trở nên đơn giản thuận lợi hơn.
XCI.

Page 9


XCII. Mặc dù chủ trương chính sách đã được ban hành tương đối đồng bộ và từng bước

hoàn thiện, nhưng vẫn còn chậm để triển khai vào cuộc sống, vẫn còn tình trạng một số
ngành, địa phương đứng ngoài hoạt động XKLĐ hoặc có tham gia nhưng thiếu triệt để. Ở
một số địa phương, cán bộ còn quan liêu, sách nhiễu… trong việc giải quyết thủ tục đi
XKLĐ. Bên cạnh đó, còn nhiều khoản mục khác cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước
nhưng vẫn còn vắng bóng. Ví dụ như chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với vấn đề tạo
lập , giữ vững và phát triển thị trường XKLĐ, vấn đề tư pháp quốc tế, vấn đề bảo hộ họat
động XKLĐ khi tham gia vào thị trường mới …
XCII.1.1.1
2.4.3 Quản lý hoạt động XKLĐ:
XCIII. Bộ lao động – thương binh và xã hội là cơ quan trực tiếp giúp Chính phủ quản lý

hoạt động XKLĐ. Tùy từng trường hợp mà một số cơ quan khác như Bộ tài chính, Bộ

công an, Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ thương mại, Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan đại diện
Việt Nam ở nước ngoài cũng như các đoàn thể liên quan đều chịu trách nhiệm liên đới
trong việc quản lý hoạt động này.
XCIV. Nhằm thực hiện một cách có hiệu quả nhất, công tác quản lý đó được tăng cường

nhằm hạn chế những vi phạm của các doanh nghiệp XKLĐ cũng như góp phần tích cực
ngăn ngừa các hành vi lừa đảo của các tổ chức cá nhân ngoài xã hội. Trên thực tế, các cơ
quan chức năng đã tiến hành 140 cuộc kiểm tra và 37 cuộc thanh tra đối với các doanh
nghiệp XKLĐ trong đó thu hồi giấy phép của 8 doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả,
đình chỉ có thời hạn 10 doanh nghiệp do cú vi phạm đặc biệt là vi phạm trong buông lỏng
quản lý hoặc có tỷ lệ lao động bỏ trốn cao , buộc ngưng hoạt động vô thời hạn đối với 7
đơn vị đóng trên địa bàn thành phố Hồ Chớ Minh. Việc xử lý các hành vi vi phạm của
doanh nghiệp và cả những người lao động từng bước góp phần lập lại kỷ cương trong
hoạt động XKLĐ, ổn định và giữ vững uy tín cho doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường
lao động quốc tế.
XCV. Mặc dù vậy, công tác quản lý lao động xuất khẩu vẫn còn nhiều yếu kém, đội ngũ

cán bộ mỏng, năng lực chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh phát triển thị trường
XKLĐ, không thể bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt
động trên thị trường XKLĐ cũng như xử phạt nghiêm minh những hành vi vi phạm của
doanh nghiệp và người lao động. Hiện nay mới chỉ có 6 ban quản lý lao động ở nước
ngoài trong khi thị trường XKLĐ Việt Nam đã trải rộng trên hơn 40 nước, dẫn đến tình
trạng quá tải trong công tác điều hành, nhất là điều hành từng thị trường. Mặt khác, đối
với từng doanh nghiệp , việc quản lý lao động xuất khẩu chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp ở
các vấn đề như: quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp và người lao động khi ký kết hợp
đồng XKLĐ, giữa người lao động Việt Nam với chủ sử dụng lao động ở nước ngoài hoặc
người môi giới, còn những quan hệ khác thì không thể quản lý nổi.
XCV.1.1
XCVI.


2.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu lao động:
2.5.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến bên cung ứng lao động:
Page 10




Yếu tố thuộc về cơ chế chính sách:

Cơ chế, chính sách được hiểu là toàn bộ những quy định của nhà nước đối
với một lĩnh vực cụ thể nhằm điều chỉnh mọi hoạt động của lĩnh vực đó theo pháp luật và
nó mang tính chất định hướng có tính bắt buộc, cưỡng chế.
XCVII.

Xuất khẩu lao động được xem là một lĩnh vực hoạt động do đó nó phải
chịu sự điều chỉnh của pháp luật thông qua các cơ chế, chính sách cụ thể hay nói cách
khác hoạt động xuất khẩu lao động chịu ảnh hưởng của yếu tố thuộc về cơ chế, chính
sách. Các cơ chế, chính sách của nhà nước nó sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động xuất
khẩu lao động và nó mang tính quy định được hay không được thực hiện. Mặt khác nó
còn giúp cho hoạt động xuất khẩu lao động theo đúng pháp luật và các điều ước quốc tế,
ngoài ra nó còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đi xuất khẩu lao động.
XCVIII.

Sự tác động của cơ chế, chính sách đến hoạt động xuất khẩu lao động
được xem xét ở hai khía cạnh sau:
XCIX.

Có tác động tích cực: nhờ sự quy định cụ thể, rõ ràng đã giúp cho hoạt động xuất
khẩu lao động được thực hiện thống nhất, có tư cách pháp nhân và được pháp luật bảo vệ,
người lao động có điều kiện đi xuất khẩu lao động nhờ các chính sách hỗ trợ kịp thời, nói

chung là tạo điều kiện thuận lợi nhất để hoạt động xuất khẩu lao động được diễn ra bình
thường, có hiệu quả nhất.
C.

CI. Hạn chế: nếu cơ chế, chính sách quy định chung chung thiếu sự thống nhất,

không đầy đủ, không rõ ràng có sự chồng chéo và bộc lộ sự quan liêu, không phù hợp với
tình hình thực tế hiện tại, không cập nhật thì nó có tác động làm kìm hãm, hạn chế đến
kết quả hoạt động xuất khẩu lao động, từ đó nó tạo kẽ hở cho hoạt động xuất khẩu lao
động bất hợp pháp phát triển làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân
người lao động, cũng như ý nghĩa chính trị quốc gia. Để khắc phục hạn chế trên hiện tại
từ ngày 01 tháng 01 năm 2007 người đi xuất khẩu lao động sẽ chịu sự điều chỉnh của
“Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”,đây là cơ sở
pháp lý duy nhất điều chỉnh mọi hoạt động xuất khẩu lao động hiện tại ở Việt Nam.


Yếu tố thuộc về tổ chức xuất khẩu lao động:

CII. Theo Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01/08/2007 của Chính phủ quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng thì tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao động bao gồm các
tổ chức:
CIII. Các cơ quan quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động gồm các Bộ, ngành, UBND

các cấp và ban chỉ đạo ( viết tắt: BCĐ) xuất khẩu lao động các cấp.
CIV. Các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu lao động.
Page 11



CV. Các tổ chức sự nghiệp của nhà nước đưa người lao động đi làm việc ở nước

ngoài.
CVI. Hoạt động xuất khẩu lao động phải chịu sự quản lý trực tiếp của các cơ quan quản

lý nhà nước về xuất khẩu lao động theo sự phân cấp và do các doanh nghiệp được phép
hoạt động xuất khẩu lao động thực hiện, các tổ chức sự nghiệp của nhà nước tiến hành.
Do đó hoạt động xuất khẩu lao động phải chịu ảnh hưởng trực tiếp của các tổ chức này.
Các yếu tố thuộc về tổ chức xuất khẩu lao động cũng được xem xét ở cả hai khía cạnh
sau:
CVII. Có tác động tích cực: sự chỉ đạo xát xao từ TW đến địa phương, đặc biệt là việc

thành lập BCĐ xuất khẩu lao động các cấp với đầy đủ các thành phần đã tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu lao động. Mặt khác sự nhanh nhạy, dễ thích ứng của
các doanh nghiệp được phép tham gia xuất khẩu lao động trong việc tìm kiếm khai thác
thị trường đã tạo cho hoạt động xuất khẩu lao động diễn ra thuận lợi và mang lại hiệu quả
cao.
Hạn chế: đó là sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về xuất
khẩu lao động trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và các
hoạt động khác trong quá trình xuất khẩu lao động, đặc biệt là thời gian người lao động ở
nước ngoài và sau khi hết hạn hợp đồng về nước chưa được coi trọng tạo tâm lý không tốt
cho người lao động điều này làm giảm lòng tin của người lao động đẫn đến số người
tham gia xuất khẩu lao động giảm; các doanh nghiệp xuất khẩu lao động do chạy theo lợi
nhuận đưa người lao động đi theo kiểu “mang con bỏ chợ” hoặc cố tình gây khó dễ trong
việc xuất khẩu lao động để đòi thêm lệ phí của người lao động gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hoạt động xuất khẩu lao động hoặc các doanh nghiệp tuy có giấy phép hoạt
động xuất khẩu lao động nhưng do năng lực tài chính, quản lý yếu, đội ngũ cán bộ không
có năng lực, không am hiểu quy định của luật pháp quốc tế dẫn đến làm ăn không có hiệu
quả hoặc bị phá sản, ngoài ra còn có rất nhiều doanh nghiệp lừa đảo người đi xuất khẩu
lao động để trục lợi gây mất lòng tin cho người lao động dẫn đến hoạt động xuất khẩu lao

động kém hiệu quả gây thiệt hại về kinh tế và tổn hại về mặt xã hội. Hiện tại việc cử cán
bộ quản lý tại các nước, khu vực mà doanh nghiệp xuất khẩu lao động đưa người lao
động sang làm việc trong việc giám sát theo dõi thực hiện HĐLĐ, giải quyết kịp thời các
phát sinh vượt quá khả năng tự giải quyết của người lao động hoặc khi người lao động
yêu cầu trợ giúp còn rất yếu hoặc các tổ chức này không thông tin, hoặc thông tin không
đầy đủ các chính sách, các quy định đối với người lao động gây thiệt thòi cho người lao
động, điều này ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu lao động.
CVIII.



Yếu tố thuộc về bản thân người lao động:

CIX. Bản thân người lao động đóng vai trò quyết định đến kết quả của hoạt động xuất

khẩu lao động, ngoài việc có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam thì
Page 12


người lao động còn phải có các yếu tố khác thuộc bản thân người lao động mà các yếu tố
này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu lao động. Bao gồm:
CX. Yếu tố thuộc về thể lực: thể lực chính là trạng thái sức khoẻ của người lao động

biểu hiện thông qua chiều cao, cân nặng và các giác quan nội tại… làm việc trong môi
trường công nghiệp tư bản đòi hỏi người lao động Việt Nam phải có một sức khoẻ tốt,
khả năng thích ứng cao nếu không sẽ không đáp ứng được yêu cầu công việc dẫn đến
hàng loạt vấn đề phát sinh gây bất lợi cho lao động Việt Nam, đặc biệt trong việc thích
nghi với môi trường sống.
CXI. Các yếu tố thuộc về trí lực:
CXII. Trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn: đây là trạng thái hiểu biết của người lao


động đối với những kiến thức phổ thông và khả năng thực hành về một chuyên môn nghề
nghiệp biểu hiện qua các cấp học, qua đào tạo hoặc không qua đào tạo. Trình độ văn hoá,
trình độ chuyên môn của người lao động có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu
lao động, nếu người lao động không có trình độ chuyên môn sẽ không đáp ứng được yêu
cầu của nhà tuyển dụng từ đó dẫn đến hệ quả là người lao động thì thừa nhiều nhưng
không đủ tiêu chuẩn để tham gia xuất khẩu lao động.
Trình độ ngoại ngữ: do xuất khẩu lao động là ngành đặc thù nên việc yêu
cầu về mặt ngoại ngữ đối với người lao động là cần thiết tuy chỉ ở mức giao tiếp thông
thường. Nếu người lao động Việt Nam tham gia xuất khẩu lao động bị hạn chế về mặt
ngoại ngữ sẽ dẫn đến quan hệ chủ - thợ có nhiều bất đồng, không nắm hết các quy định
dễ phát sinh các tranh chấp không đáng có gây bất lợi cho người lao độngViệt Nam.
CXIII.

Sự am hiểu luật pháp: đặc biệt là pháp luật về lao động của Việt Nam và
nước sở tại, bất kỳ ở đâu có quan hệ lao động thì không thể tránh khỏi các tranh chấp xảy
ra và đều bị giàng buộc về mặt pháp lý. Nếu bản thân người lao động không am hiểu
pháp luật trong quá trình hoạt động lao động nhất là ở nước sở tại thì phần thiệt thòi bao
giờ cũng thuộc về người lao động Việt Nam.
CXIV.

CXV. Ngoài các yếu tố thuộc về thể lực và trí lực người ta còn quan tâm đến các yếu tố

nội tâm (tâm lực) như tính trung thực, tinh thần trách nhiệm, sự thông minh cần cù sáng
tạo, khả năng thích ứng, truyền thống gia đình, phong tục tập quán, sự trung thành, tình
trạng hôn nhân… đây không phải là những yếu tố mang tính quyết định nhưng nó sẽ có
ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực thì còn phụ thuộc vào bản thân của mỗi người lao động.
Nếu các yếu tố trên mang tính bất lợi sẽ dẫn đến việc phá vỡ HĐLĐ, vi phạm pháp luật
của nước sở tại, cư trú bất hợp pháp… sẽ làm mất uy tín đối với lao động Việt Nam, gây
ảnh hưởng đến việc giữ vững và phát triển thị trường lao động. Điều này không chỉ gây

thiệt hại lớn cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động, cho người lao động mà còn ảnh hưởng
đến uy tín quốc gia, làm cho người lao động và gia đình không tin tưởng không dám tham
gia xuất khẩu lao động.
Page 13


CXV.1.1.1
2.5.2 Các yếu tố ảnh hưởng của bên tiếp nhận lao động:
• Yếu tố thuộc về kinh tế, chính trị và xã hội:

Về kinh tế: các khu vực, các nước càng có nền kinh tế phát triển thì nhu
cầu về lao động càng thiếu kể cả lao động có trình độ cao và lao động phổ thông do đó họ
phải nhập khẩu lao động và ngược lại các nước có nền kinh tế kém phát triển thì họ lại rất
thừa lao động chủ yếu là lao động phổ thông vì vậy cần phải xuất khẩu lao động. Mặt
khác xuất khẩu lao động sang những thị trường này cũng đem lại thu nhập rất cao cho
nên sẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu lao động. Bởi vì sức lao động được coi là hàng hoá
cho nên nó cũng tuân theo quy luật vận động từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao
hơn, do đó các nước có nền kinh tế phát triển sẽ thu hút được nhiều lao động có trình độ
cao hơn.
CXVI.

Về chính trị: người lao động Việt Nam chỉ có thể làm việc tại những nước
mà nhà nước Việt Nam đặt quan hệ ngoại giao và có ký kết về việc nhập khẩu lao động ở
cấp Chính phủ thì người lao động mới có thể tham gia xuất khẩu lao động. Đây là yếu tố
quyết định có được xuất khẩu lao động hay không được xuất khẩu lao động sang thị
trường đó, mặt khác thể chế chính trị có tương đồng với Việt Nam thì khi xảy ra tranh
chấp mới có được sự ủng hộ và giải quyết thoả đáng, đặc biệt là những nước có xung đột
sắc tộc, có chiến tranh hoặc có nguy cơ xảy ra chiến tranh mất ổn định chính trị thì pháp
luật Việt Nam nghiêm cấm xuất khẩu lao động sang nước đó. Vì vậy tình hình chính trị
của nước tiếp nhận lao động cũng có ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu lao động của

Việt Nam.
CXVII.

Về xã hội: xã hội ổn định, người dân hiếu khách, tôn trọng người lao động,
phong tục tập quán không quá khắt khe, thức ăn không quá khác biệt thì người lao động
Việt Nam mới có thể sinh sống và làm việc tại đó được, nếu không sẽ ảnh hưởng rất lớn
đến công việc.
CXVIII.



Yếu tố thuộc về địa lý:

Tức là muốn nói đến khoảng cách giữa Việt Nam và nước tiếp nhận lao
động là gần hay xa, do đó để đạt được hiệu quả xuất khẩu lao động thì người lao động
Việt Nam phải tính đến yếu tố về vị trí địa lý bởi 3 lý do sau:
CXIX.

CXX. Thứ nhất chi phí về giao thông, thông tin liên lạc, dịch vụ chuyển ngoại tệ…nếu

xuất khẩu lao động đến một nước quá xa so với Việt Nam thì các chi phí này sẽ rất cao
ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động dẫn đến ít lao động tham gia, do đó cần phải
tìm thị trường phù hợp.
Thứ hai về khí hậu, thời tiết: người lao động Việt Nam đang ở trong vùng
nhiệt đới, nếu đến một nước có nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp sẽ ảnh hưởng đến sức
khoẻ dẫn đến hiệu quả lao động kém.
CXXI.

Page 14



Và cuối cùng là sự chênh lệch về múi giờ sẽ ảnh hưởng đến nhịp sinh học
của cơ thể. Tuy nhiên những ảnh hưởng này sẽ dần được khắc phục sau một khoảng thời
gian nhất định.
CXXII.



Yếu tố liên quan đến công việc:

Yêu cầu công việc: nếu công việc phù hợp với người lao động Việt Nam
và người lao động Việt Nam có khả năng đáp ứng thì số lượng tham gia xuất khẩu lao
động sẽ nhiều và ngược lại nếu người lao động Việt Nam không đáp ứng được thì sẽ có ít
người tham gia xuất khẩu lao động.
CXXIII.

Điều kiện làm việc: làm việc trong điều kiện tốt thì sẽ thu hút được nhiều
lao động và phải không thuộc danh mục mà pháp luật Việt Nam cấm xuất khẩu lao động.
CXXIV.

Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi: quy định có phù hợp với sức khoẻ
của người lao động Việt Nam hay không, tức là thể trạng của người lao động Việt Nam có
đáp ứng được hay không.
CXXV.

Tiền lương, thu nhập và các chế độ phúc lợi khác: nếu thu nhập cao và
phù hợp với người lao động Việt Nam thì sẽ thu hút được nhiều người tham gia xuất khẩu
lao động và ngược lại, tiền lương thấp, các chế độ phúc lợi không đầy đủ sẽ không thu
hút được người lao động tham gia làm việc.
CXXVI.




Yếu tố thuộc về người sử dụng lao động:

Người sử dụng lao động bao gồm các tổ chức, các doanh nghiệp hoặc cá
nhân cần thuê lao động Việt Nam. Người sử dụng lao động có đủ tư cách pháp nhân hay
không, có khả năng chi trả tiền lương cho người lao động hay không và việc thực hiện
HĐLĐ đối với người lao động Việt Nam có thực hiện đúng,đầy đủ và kịp thời hay không.
CXXVII.



Các yếu tố khác:

Ngoài các yếu tố trên thì các yếu tố sau đây cũng ảnh hưởng đến hoạt
động xuất khẩu lao động của Việt Nam như: trình độ phát triển công nghệ thông tin; hệ
thống ngân hàng; hệ thống y tế trong việc chăm sóc sức khoẻ và khống chế các dịch bệnh
như cúm H5N1, HIV-AIDS, SARS; hệ thống trợ giúp pháp lý;điều kiện ăn ở sinh hoạt,
giá cả tiêu dùng, vui chơi giải trí…
CXXVIII.

CXXIX.

CXXIX.1

Giới thiệu chung về huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh
Phúc:
Đặc điểm tự nhiên:


Page 15


Lập Thạch là một huyện miền núi nằm ở phía tây bắc của tỉnh Vĩnh Phúc
bao gồm 36 đơn vị hành chính ( 35 xã, 01 thị trấn trong đó có tới 25 xã miền núi) với
diện tích tự nhiên là 32307,7 ha trong đó chủ yếu là đất nông-lâm nghiệp chiếm 80% diện
tích, địa hình chủ yếu là đồi núi xen kẽ với ruộng bậc thang tạo thành các thung lũng nhỏ,
khí hậu năm trong vùng nhiệt đới gió mùa mưa nhiều về mùa hè khô hanh về mùa đông.
CXXX.

Là một huyện miền núi, dân số đông tiềm năng đất đai và lao động rất dồi
dào, tuy nhiên do bất lợi về vị trí địa lý lại nằm giữa 2 dòng sông Lô và sông Phó đáy Lập
Thạch luôn phải chịu ảnh hưởng của thiên tai hàng năm như lũ lụt, hạn hán… gây nhiều
khó khăn cho việc giao lưu và phát triển kinh tế, đặc biệt là thông tin liên lạc và giao
thông do đó có ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu lao động của huyện.
CXXXI.

Chính sự bất lợi về vị trí địa lý nên đã không thu hút được nhiều các doanh
nghiệp xuất khẩu lao động hoạt động, mặt khác do ảnh hưởng của địa hình nên việc tuyên
truyền cho công tác xuất khẩu lao động đến người dân gặp rất nhiều khó khăn. Cho nên
tiềm năng về xuất khẩu lao động của huyện thì dồi dào nhưng không khai thác được là do
Lập Thạch ở một vị trí không thuận lợi, giao thông cách trở, cơ sở hạ tầng kém phát
triển…
CXXXII.

CXXXII.1

Đặc điểm về kinh tế:

Với đặc thù là huyện miền núi, dân số đông, kinh tế chậm phát triển, cơ

cấu kinh tế lạc hậu chủ yếu là sản xuất nông – lâm nghiệp chiếm trên 84%, công nghiệptiểu thủ công nghiệp không có gì đáng kể, hoạt động dịch vụ nhỏ lẻ. Dân số chủ yếu sống
ở nông thôn chiếm trên 95%, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm cao 13,92% nhưng giá
trị mang lại không lớn, thu nhập bình quân đầu người thấp năm 2007 mới đạt 4,71 triệu
đồng, đời sống dân cư còn gặp rất nhiều khó khăn. Lao động thiếu và không có việc làm
tính bình quân mỗi năm dư thừa 12000 lao động (chiếm tỷ lệ 9,6%) trong khi đó số lao
động gia tăng hàng năm từ 3000 – 5000 lao động chủ yếu là học sinh PTTH vì vậy giải
quyết việc làm là hết sức khó khăn hiện nay và phải đặt vào mục tiêu chiến lược lâu dài
bằng nhiều chương trình trong đó có xuất khẩu lao động.
CXXXIII.

Với đặc điểm kinh tế của huyện như vậy nó sẽ có ảnh hưởng đến hoạt
động xuất khẩu lao động ở cả 2 khía cạnh:
CXXXIV.

Thuận lợi: do kinh tế chậm phát triển cho nên việc thu hút, sử dụng lao
động của huyện không đáng kể, số lượng lao động dư thừa khá lớn đây là nguồn cung dồi
dào cho xuất khẩu lao động. Mặt khác thu nhập của người dân không cao, mức sống thấp,
do đó họ có xu hướng thay đổi cuộc sống, muốn có thu nhập cao hơn cho nên họ sẵn sàng
tham gia xuất khẩu lao động.
CXXXV.

Khó khăn: do sản xuất nông nghiệp là chủ yếu cho nên trình độ văn hoá,
trình độ chuyên môn của người lao động còn thấp đặc biệt là ngoại ngữ và sự am hiểu
CXXXVI.

Page 16


pháp luật cũng như tác phong làm việc còn rất hạn chế, điều này gây khó khăn, trở ngại
cho hoạt động xuất khẩu lao động, bởi vì nguồn cung thì nhiều mà chất lượng lại không

đáp ứng được yêu cầu. Đây là một bài toán khó cho chính quyền và nhân dân toàn huyện,
bởi vì trong tương lai muốn tham gia xuất khẩu lao động thì bắt buộc người lao động phải
có một trình độ tay nghề nhất định thì mới đáp ứng được yêu cầu.
CXXXVI.1

Đặc điểm về xã hội:

Lập Thạch là địa phương có truyền thống lịch sử, văn hoá cách mạng.
Nhân dân Lập Thạch dũng cảm, kiên cường, bất khuất trong chiến đấu, cần cù, thông
minh, sáng tạo trong lao động sản xuất, hơn nữa đây là nơi sinh sống của hơn 10 dân tộc
anh em chủ yếu là Kinh, Cao lan, Sán dìu, Dao… do đó mà phong tục, tập quán và đời
sống văn hoá rất đa dạng, phong phú.
CXXXVII.

Người dân Lập Thạch luôn sống vì cộng đồng, đoàn kết, yêu lao động…
chính những đặc điểm này góp phần giúp cho lao động của huyện Lập Thạch đi xuất khẩu
lao động nhanh chóng hoà nhập với môi trường làm việc, dễ thích nghi… Tuy nhiên vẫn
còn rất nhiều tư tưởng, hủ tục lạc hậu cùng song song tồn tại gây khó khăn cho sự phát
triển xã hội nói chung và hoạt động xuất khẩu lao động nói riêng thậm chí là cản trở, đặc
biệt là vấn đề lao động nữ đi xuất khẩu lao động làm giúp việc gia đình, điều dưỡng,
chăm sóc sức khoẻ tại Đài Loan luôn bị cấm đoán, khinh rẻ từ phía gia đình, công đồng
vì cho rằng không trong sáng, mặc dù chi phí xuất khẩu lao động ít, thu nhập cao, công
việc nhàn hạ rất phù hợp cho lao động là nữ của huyện Lập Thạch nhưng vẫn không thu
hút được nhiều người tham gia như mong muốn.
CXXXVIII.

CXXXVIII.1 Hệ thống hóa chỉ tiêu nghiên cứu:
- Thông qua chỉ tiêu về số người tham gia xuất khẩu lao động.
- Thông qua chỉ tiêu tổng thu nhập/thu nhập theo thị trường.
- Thông qua chỉ tiêu về giới tính và độ tuổi.

- Thông qua chỉ tiêu về trình độ chuyên môn và trình độ văn hóa.
- Thông qua chỉ tiêu về số lượng người đi xuất khẩu lao động chia theo tình trạng hôn nhân

qua các năm.
- Thông qua chỉ tiêu về khu vực và tình trạng kinh tế.
CXXXIX.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận:

Đánh giá thực trạng XKLĐ ở huyện Lập Thạch giai đoạn
2002-2007:

CXXXIX.1

CXXXIX.1.1

Kết quả XKLĐ của huyện:

CXL. Thực hiện Chỉ thị số 41/CT-TƯ ngày 22/09/1998 của Bộ Chính trị về công tác

xuất khẩu lao động, Thông tri số 20/TT-TU ngày 11/10/2002 của Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc về
tăng cường lãnh đạo công tác xuất khẩu lao động đến năm 2007 và Kế hoạch số
Page 17


2042/KH-UB ngày 12/11/2002 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc về kế hoạch xuất khẩu lao
động đến năm 2007 huyện Lập Thạch đã tập trung chỉ đạo, đầu tư cho công tác xuất khẩu
lao động và bước đầu thu được kếtquả đáng khích lệ.
CXLI. Theo báo cáo của UBND huyện Lập Thạch tổng kết 5 năm công tác xuất khẩu lao


động giai đoạn 2002-2007 thì hiện nay công tác xuất khẩu lao động đã trở thành phong
trào ở địa phương, 100% số xã/thị trấn đã có người tham gia xuất khẩu lao động, đặc biệt
có xã số người tham gia xuất khẩu lao động lên tới vài trăm người như: xã Quang Yên là
300 lao động, Hải Lựu trên 100 lao động,Đình Chu 130 lao động, Sơn Đông 195 lao
động…
CXLII.

Bảng 4.1: Tổng số người đi xuất khẩu lao động của huyện qua các năm từ

2002-2007.
CXLIII.
CXLIV. STT

CXLV.

NĂM

CXLVI. Số người đi xuất khẩu lao

động
CXLIX. Tổng số
CLI.
CLV.
CLIX.
CLXIII.
CLXVII.
CLXXI.

1
2

3
4
5
6

CLII.
2002
CLVI. 2003
CLX.
2004
CLXIV. 2005
CLXVIII. 2006
CLXXII. 2007

CLXXV. TỔNG

CLIII. 199
CLVII. 308
CLXI. 386
CLXV. 172
CLXIX. 285
CLXXIII. 210
CLXXVI. 1560

Trong
đó % nữ
CLIV. 48,6
CLVIII. 41,0
CLXII. 46,6
CLXVI. 18,6

CLXX. 39,3
CLXXIV. 36,2
CLXXVII.

CL.

CLXXVIII.
( Nguồn: Báo cáo của UBND huyện Lập Thạch tổng kết 5 năm công tác
xuất khẩu lao động giai đoạn 2002-2007)
CLXXIX.

Từ năm 2002 đến năm 2007 huyện Lập Thạch đã đưa tổng số 1560 người
đi xuất khẩu lao động, hiện nay huyện đang có trên 700 lao động đang làm việc ở nước
ngoài, trong đó có 38% là lao động nữ, hàng năm gửi về huyện trên 10 tỷ đồng. Thị tường
lao động chủ yếu là: Malaisia chiếm 67,92%, Đài Loan 26,60% (đây là những thị trường
có yêu cầu không cao, chi phí xuất khẩu lao động thấp nên rất phù hợp với lao động của
huyện Lập Thạch), Hàn Quốc 3,03%, Nhật Bản 2,30% còn lại là thị trường Singapore,
Trung quốc, Quatar, Arap xê út…
CLXXX.

Biểu đồ 4.2: Biểu đồ về số lượng người đi xuất khẩu lao động qua các
năm từ 2002-2007 của huyện Lập Thạch.
CLXXXI.

CLXXXII.
Page 18


CLXXXIII.
( Nguồn: Báo cáo của UBND huyện Lập Thạch tổng kết 5 năm công tác

xuất khẩu lao động giai đoạn 2002-2007)
CLXXXIV.

Qua bảng 4.1 và biểu đồ 4.2 ở trên ta thấy: số lượng người đi xuất khẩu
lao động từ năm 2002 đến năm 2007 có sự tăng, giảm rõ rệt, từ năm 2002 đến 2004 tăng
lên rất nhanh, đặc biệt năm 2003 là 308 người vượt kế hoạch đề ra 8 người (chiếm
2,60%) và năm 2004 là 386 người vượt kế hoạch 86 người (chiếm 28,6%). Trong khi đó
từ năm 2005 đến năm 2007, đặc biệt là năm 2005 chỉ có 172 người đi xuất khẩu lao động
đạt 57,33% so với kế hoạch đề ra, năm 2006 có 285 người đi xuất khẩu lao động đạt
95,3% kế hoạch, năm 2007 có 210 người đi xuất khẩu lao động đạt 70% so với kế hoạch.
Sở dĩ có hiện tượng tăng, giảm số người đi xuất khẩu lao động qua các năm là do một số
nguyên nhân sau:
CLXXXV.

Thứ nhất trong 3 năm đầu thực hiện công tác xuất khẩu lao động (2002 –
2004) số người đi xuất khẩu lao động tăng cao là do cơ chế, chính sách quy định còn
chưa chặt chẽ dẫn đến nhiều doanh nghiệp được phép tham gia hoạt động xuất khẩu lao
động, hơn nữaphong trào xuất khẩu lao động trong những năm đầu thực hiện chủ trương
nên rất sôi nổi và thu hút được nhiều lao động tham gia.
CLXXXVI.

Thứ hai trong 3 năm sau ( 2005-2007) số lượng nười đi xuất khẩu lao
động giảm mạnh, đặc biệt là năm 2005 nguyên nhân chủ yếu là do đầu năm 2005 thị
trường Malaysia thông báo ngưng tiếp nhận lao động nước ngoài trong đó có Việt Nam,
thị trường Đài Loan ngưng tiếp nhận lao động giúp việc gia đình dẫn đến lao động không
đăng ký tham gia xuất khẩu lao động hoặc đã dăng ký nhưng không thể xuất cảnh được.
Ngoài ra còn có nguyên nhân nữa là một số gia đình vay vốn đi xuất khẩu lao động không
chịu trả nợ hoặc trả không đúng kỳ hạn nên ngân hàng không muốn cho vay, vì vậy chỉ
những gia đình có điều kiện kinh tế mới có thể tham gia xuất khẩu lao động. Mặt khác
tỉnh Vĩnh Phúc trong một vài năm gần đây đã có sự phát triển kinh tế vượt bậc thu hút

được nhiều nhà đầu tư, tạo ra nhiều chỗ làm mới trong đó có lao động của huyện Lập
Thạch tham gia, do đó mà số lao động của huyện Lập Thạch đi xuất khẩu lao động cũng
giảm.
CLXXXVII.

Theo báo cáo của Phòng Nội vụ- LĐTBXH huyện thì lao động của huyện
Lập Thạch đi xuất khẩu lao động chủ yếu làm việc trong các ngành nghề sau: dệt may,
điện tử, cơ khí, sản xuất đồ nhựa, đồ gỗ, trang trí nội ngoại thất, xây dựng, giúp việc gia
đình… đây là những ngành nghề đòi hỏi trình độ không cao, rất phù hợp với lao động là
người Lập Thạch hơn nữa cũng cho mức thu nhập khá.
CLXXXVIII.

CLXXXVIII.1.1

Tổ chức bộ máy XKLĐ:

Page 19


Căn cứ kế hoạch số 2042/KH-UB ngày 12/01/2002 của UBND tỉnh Vĩnh
Phúc về việc xuất khẩu lao động, chủ tịch UBND huyện Lập Thạch đã ra Quyết định số
790/QĐ-CT ngày 06/02/2002 về việc thành lập BCĐ xuất khẩu lao động huyện Lập
Thạch giai đoạn 2002-2007 trực thuộc UBND huyện Lập Thạch quản lý.
CLXXXIX.

CXC. Sơ đồ 3.1: Tổ chức bộ máy làm công tác xuất khẩu lao động ở huyện Lập Thạch

tỉnh Vĩnh Phúc.
CXCI.
CXCII.

CXCIII.
CXCIV.
CXCV.
CXCVI.
CXCVII.
CXCVIII.
CXCIX.
CC.

UBND
TỈNH

CCI.

CCIII.

CCII.
CCV.

CCVI.
CCVII.
CCVIII.

BCĐ XKLĐ
TỈNH

CCXI.
CCXII.

Page 20


CCIX.

CCX.

SỞ
LĐTB
XH


UB
ND HUYỆN
CCXIII.

CCXIV.

BCĐ
XKLĐ
HUYỆN

CCXV.

CCXVI.

DN
XKLĐ

CCXVII.

CCXVIII.

U
BND XÃ

CCXIX.

CCXX.

CCXXI.

BCĐ
XKLĐ


CCXXII.
(Nguồn: theo Quyết định số 4117/QĐ-CT ngày 11/01/2002 của chủ tịch
UBND tỉnh Vĩnh Phúc về việc thành lập bộ máy xuất khẩu lao động giai đoạn 2002-2007
và Quyết định 790/QĐ-CT ngày 06/02/2002 của Chủ tịch UBND huyện Lập Thạch về
việc thành lập BCĐ xuất khẩu lao động huyện).
CCXXIII.

Thành phần bao gồm 11 nhân viên trong đó có 1 nhân viên là Phó chủ tịch
UBND huyện làm trưởng ban, 1 nhân viên là Trưởng phòng TC-LĐTBXH làm phó ban
thường trực và 09 nhân viên là thủ trưởng của các cơ quan trong huyện làm uỷ viên đại
diện cho các cơ quan như Công an huyện, y tế, ngân hàng, hội nông dân,đoàn thanh niên,
hội liên hiệp phụ nữ huyện, …
CCXXIV.

Nhiệm vụ chính của BCĐ là xây dựng quy chế hoạt động của BCĐ xuất
khẩu lao động huyện, mục tiêu kế hoạch xuất khẩu lao động giai đoạn 2002- 2007, phân
công trách nhiệm cho từng thành viên phụ trách cụm xã, giám sát hoạtđộng của BCĐ

xuất khẩu lao động các xã, thị trấn.
CCXXV.

CCXXVI.
CCXXVI.1.1

Hình thức và quy trình tổ chức XKLĐ:

Hình thức xuất khẩu lao động chủ yếu của huyện Lập Thạch là cung ứng
lao động theo các hợp đồng ký với bên nước ngoài và đưa lao động đi làm việc theo hợp
đồng nhận thầu khoán công trình ở nước ngoài.
CCXXVII.

Công việc chủ yếu là công nhân cơ khí, điện tử, dệt may, chế biến hải sản,
xây dựng, lao động trên biển, giúp việc gia đình …
CCXXVIII.

CCXXIX.

Thị trường trọng điểm là Malaysia,Đài Loan, Hàn Quốc…

Page 21


Đối tượng chủ yếu là lao động phổ thông và thực hiện xuất khẩu lao động
theo một quy trình sau:
CCXXX.

Tuyển chọn người đi xuất khẩu lao động: do doanh nghiệp được phép
xuất khẩu lao động tiến hành khi đã được sự đồng ý của BCĐ xuất khẩu lao động tỉnh,

sau đó các đơn vị này sẽ làm việc trực tiếp với BCĐ xuất khẩu lao động huyện để thông
báo số lượng, yêu cầu tuyển dụng và một số vấn đề khác. Sau đó BCĐ xuất khẩu lao
động huyện sẽ thông báo xuống các xã, thị trấn trong huyện và BCĐ xuất khẩu lao động
xã sẽ thông báo đến người lao động về yêu cầu tuyển chọn và lập danh sách số lao động
đăng ký tham gia xuất khẩu lao động gửi lên BCĐ xuất khẩu lao động huyện để tổng hợp
và BCĐ xuất khẩu lao động huyện sẽ gửi danh sách cho đơn vị được phép xuất khẩu lao
động tiến hành tổ chức sơ tuyển.
CCXXXI.

Đào tạo, giáo dục định hướng nghề nghiệp: sau khi các đơn vị xuất khẩu
lao động tổ chức sơ tuyển số lao động đạt yêu cầu bắt buộc phải qua lớp đào tạo, giáo dục
định hướng do đơn vị xuất khẩu lao động tổ chức, chủ yếu là đào tạo ngoại ngữ, giáo dục
định hướng nghề nghiệp, kỷ luật lao động…; thời gian học từ 1,5 đến 2 tháng sau khi học
xong sẽ được Cục quản lý lao động ngoài nước- Bộ Lao động – TB&XH cấp chứng chỉ;
chi phí cho một khoá học không cố định từ 700 ngàn đồng đến 3,5 triệu đồng, mọi khoản
chi phí này do người lao động tự lo và được UBND tỉnh hỗ trợ một phần là 350.000
đồng/một người được xuất cảnh theo Quyết định 4118/QĐ-CT ngày 11/11/2002 của Chủ
tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc về chính sách khuyến khích xuất khẩu lao động.
CCXXXII.

Khám sức khoẻ: người lao động phải khám sức khoẻ tại bệnh viện đa
khoa huyện, chi phí cho một lần khám sức khoẻ do người lao động tự chi trả theo quy
định năm 2002 là 360.000 đ/người và hiện nay là 420.000 đ/người. Tuy nhiên thực tế việc
thu lệ phí khám sức khoẻ vượt mức quy định còn phổ biến, việc xét nghiệm còn chậm
kéo dài thời gian báo kết quả, gây phiền hà sách nhiễu cho người lao động; việc khám sức
khoẻ thực hiện sau bước đào tạo giáo dục định hướng là không hợp lý gây thiệt hại lớn
cho người lao động, bởi vì người lao động đã mất chi phí đào tạo nếu khám sức khoẻ
không đủ điều kiện sẽ không được xuất cảnh, không được hỗ trợ chi phí đào tạo làm thiệt
hại về kinh tế cho người lao động.
CCXXXIII.


Thủ tục vay vốn ngân hàng và nộp lệ phí xuất khẩu lao động: người đi
xuất khẩu lao động được chỉ định vay vốn tại ngân hàng NN&PTNT và ngân hàng chính
sách xã hội theo Quyết định số 440/2001/QĐ-NHNN ngày 17/4/2001 của Thống
đốcNHNH Việt Nam về việc cho vay đối với người lao động đi làm việc có thời hạn tại
nước ngoài. Số tiền được vay tối đa là 80% chi phí xuất cảnh, nếu vay dưới20 triệu đồng
thì không phải thế chấp, lãixuất tiền vay được tính theo quy định hiện hành và được
UBND tỉnh hỗ trợ lãi xuất tiền vay ngân hàng là 0,25%. Theo quy định thì thủ tục vay
vốn rất dễ dàng thuận tiện, đặc biệt là rất có lợi cho người nghèo muốn tham gia xuất
khẩu lao động nhưng thực tế còn tồn tại rất nhiều vướng mắc như chính sách cho vay,
CCXXXIV.

Page 22


chính sách hỗ trợ lãi xuất, quá trình làm thủ tục tại các ngân hàng cán bộ tín dụng còn gây
phiền hà cho người lao động, hơn nưa người nghèo rất khó vay vốn.
Sau khi vay vốn người lao động phải nộp lệ phí xuất khẩu lao động theo
quy định, mức nộp cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào thị trường và từng ngành nghề cụ thể.
Tuy mhiên số tiền phải nộp thường cao hơn quy định là rất phổ biến. Nguyên nhân chủ
yếu là do tâm lý người lao động muốn xuất cảnh nhanh, không am hiểu về thị trường và
có vấn đề về sức khoẻ nhưng vẫn muốn đi xuất khẩu lao động vì vậy phải “chạy chọt”.
CCXXXV.

Thủ tục làm hộ chiếu: do Phòng PA 39 Công an tỉnh cấp, lệ phí theo quy
định hiện hành của Bộ tài chính. Thực tế khi làm hộ chiếu người lao động phải trả cao
hơn mức quy định từ 200 – 300 nghìnđồng/người.
CCXXXVI.

CCXXXVII.


Hoàn tất hồ sơ và chờ ngày xuất cảnh.

CCXXXVII.1.1
Các yếu tổ ảnh
• Các yếu tố khách quan:

hưởng đến XKLĐ ở địa phương:

Xuất khẩu lao động là một lĩnh vực kinh tế đối ngoại đặc thù, mới chỉ bắt
đầu được 5 năm nên huyện chưa có nhiều kinh nghiệm trong khi đó lại phải cạnh tranh
với nhiều lao động trong cũng như ngoài tỉnh vốn có nhiều kinh nghiệm hơn và đã có các
thị trường tiếp nhận lao động truyền thống.
CCXXXVIII.

Xu hướng và chính sách tiếp nhận lao động của các nước có sự thay đổi
nhanh chóng, trong khi đó chính sách của nhà nước và hoạt động nghiệp vụ của các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng như khả năng của huyện không theo kịp, còn bị
động phụ thuộc.
CCXXXIX.

Các điều kiện về tự nhiên không thuận lợi, kinh tế xã hội trong huyện còn
chậm phát triển hơn so với các địa phương khác gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu
lao động của huyện.
CCXL.



Các yếu tố chủ quan:


Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng với doanh nghiệp không thống
nhất đẫn tới việc chậm chễ trong giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong quan hệ lao
động và dân sự ở trong nước cũng như ở nước ngoài.
CCXLI.

Các doanh nghiệp được phép hoạt động xuất khẩu lao động ở huyện chưa
đủ lực kể cả con người và vốn để khai thác các thị trường mới, trong khi đó việc thực
hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động phát triển còn
chậm, chính sách hỗ trợ người lao động đi xuất khẩu lao động còn chưa phù hợp với địa
phương, chưa đầy đủ, thủ tục còn rườm rà, số tiền hỗ trợ còn ít, cho nên không thu hút
được nhiều người tham gia.
CCXLII.

Page 23


Bộ máy làm công tác xuất khẩu lao động thành phần tham gia không hợp
lý, trình độ thì hạn chế do phải làm việc ở chế độ kiêm nhiệm, ít năng động trong hoạt
động tìm kiếm đối tác có uy tín trong hoạt động xuất khẩu lao động, buông lỏng quản lý
nhà nước về xuất khẩu lao động để cho các hiện tượng lừa đảo xuất khẩu lao động diễn ra
thường xuyên gây ra tâm lý e ngại cho người laođộng, gây mất uy tín cho các đơn vị làm
ăn chân chính…
CCXLIII.

CCXLIII.1

Định hướng và giải pháp:

Trước hết cần củng cố và hoàn thiện hệ thống ban chỉ đạo từ tỉnh,
huyện,xã nhằm tăng cường công tác quản lý Nhà nước về XKLĐ, trong đó ngành lao

động là cơ quan thường trực của ban chỉ đạo giúp tỉnh chỉ đạo tốt công tác XKLĐ.
Trong nội bộ ban chỉ đạo, cần phân công cụ thể cho từng thành viên, giao cho họ tăng
cường kiểm tra đôn đốc hướng dẫn các huyện, thành, thị, các doanh nghiệp XKLĐ, kịp
thời nắm bắt những vướng mắc khó khăn, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh các
vi phạm về XKLĐ.
CCXLIV.

Về công tác thông tin tuyên truyền,cần phải phổ biến sâu rộng trên các
phương tiện thông tin đại chúng về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác XKLĐ để
người lao động tự nguyện đến đăng ký, tuyển chọn đúng chỗ,tránh thông qua môi
giới, đồng thời phổ biến cho người lao động hiểu ra về quyền lợi và nghĩa vụ khi tham
gia hoạt động XKLĐ.
CCXLV.

Bên cạnh đó, lấy địa bàn xã, phường, thị trấn làm cơ sở để tuyển chọn
người đi XKLĐ, do vậy ban chỉ đạo xã, phường phải làm tốt công tác tuyên truyền đến
từng khu dân cư, đồng thời giao cho trưởng khu hành chính (làng, bản,thôn, xóm) có
trách nhiệm lựa chọn những người đủ điều kiện, chấp hành tốt các chế độ chính sách và
pháp luật của Nhà nước để đưa đi XKLĐ, kiên quyết không giới thiệu những người vi
phạm pháp luật, mắc vào các tệ nạn xã hội đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
CCXLVI.

Đồng thời, cần thông báo công khai về thị trường lao động, số lượng, tiêu
chuẩn tuyển chọn, điều kiện làm việc, sinh hoạt, các khoản phí phải nộp, các khoản người
lao động phải đóng góp và các cơ quan có thẩm quyền giải quyết, các thủ tục để ngăn
chặn kịp thời các thông tin không chính xác, các hành vi lừa đảo gây thiệt hại cho người
lao động.
CCXLVII.

Về công tác tuyển chọn người lao động đi XKLĐ, cần triển khai sâu

rộng mô hình giữa các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp làm công tác XKLĐ,
chính quyền các cấp ở địa phương, nhất là khu vực nông thôn nhằm tuyển chọn
những lao động đủ tiêu chuẩn: lí lịch, sức khỏe tốt, đảm bảo yêu cầu về trình độ văn
hóa, chuyên môn và tự nguyện đi làm việc ở nước ngoài. Đối tượng tuyển chọn đi
XKLĐ không những là những hộ nghèo như trước mà nên hướng thêm vào lực lượng học
CCXLVIII.

Page 24


sinh tốt nghiệp phổ thông trung học- đây là lực lượng dồi dào bổ sung cho lao động xuất
khẩu, lại có học vấn so với những người lao động ở nông thôn chưa được đào tạo nên
việc đưa đi lao động sẽ thuận lợi và đạt hiệu quả cao hơn nhiều.
Bên cạnh đó, đối với số lao động được chọn từ nông thôn để đào tạo, sau
khóa đào tạo nên tổ chức các đợt thi sát hạch để xem xét lao động có đủ điều kiện để đi
lao động ở nước ngoài hay không, việc phải kiểm tra sát hạch vào cuối kỳ học sẽ làm cho
người lao động có động lực hơn trong khi họ được đào tạo bồi dưỡng, góp phần nâng cao
chất lượng người lao động, tăng sức cạnh tranh của lao động huyện Lập Thạch nói riêng,
lao động Việt Nam nói chung trên thị trường lao động quốc tế.
CCXLIX.

CCL. Hơn nữa, cũng cần đa dạng hóa hình thức lao động, đẩy mạnh XKLĐ theo

hình thức “xen ghộp” đưa lao động Việt Nam sang làm việc cùng với công nhân nước
sở tại trong cùng một dây chuyền sản xuất. Ngoài ra phải phát triển thêm nhiều hình
thức XKLĐ mới, phù hợp với cơ chế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như
xuất khẩu theo hợp đồng giữa các tổ chức kinh tế, theo hợp đồng giữa các cá nhân
huyện Lập Thạch với các tổ chức , cá nhân nước ngoài, XKLĐ theo hợp đồng nhận
thầu xây dựng công trình ở nước ngoài, hay thực hiện hợp đồng sản xuất ở nước
ngoài…

CCLI. Đối với các trung tâm dạy nghề, cần tăng cường năng lực, cơ sở vật chất, củng

cố đội ngũ cán bộ quản lý , các cơ sở đào tạo nghề , đào tạo giáo dục định hướng , tích
cực đẩy mạnh họat động đào tạo cho công nhân đặc biệt là trang bị về ngoại ngữ cho
người lao động để đáp ứng được nguồn nhân lực đủ điều kiện tiêu chuẩn. Hơn nữa,
phải đa dạng hóa cơ cấu ngành nghề phục vụ hoạt động XKLĐ trên cơ sở những nganh
nghề mà thị trường đòi hỏi với những ngành nghề mang tính tiềm năng của huyện.
Bên cạnh các trung tâm DVVL, các doanh nghiệp XKLĐ cần phải có
trách nhiệm trong việc báo cáo thường xuyên tình hình hoạt động của mình, hơn nữa phải
xây dựng kế hoạch sát với thực tế về số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề, đưa người
lao động đi làm việc ở nước ngoài theo đúng như hợp đồng.
CCLII.

Về chính sách hỗ trợ vốn cho người lao động , các ngân hàng chuyên
doanh cần triển khai thật sâu rộng chính sách cho vay vốn XKLĐ theo quyết định số
440/2001/QĐ- NHNN ngày 17/4/2001 của Ngân hàng Nhà nước và các hướng dẫn
kèm theo để tạo điều kiện thuận lợi và tháo gỡ khó khăn cho người lao động có nhu
cầu vay vốn đi XKLĐ.
CCLIII.

Tiếp tục triển khai mô hình liên kết XKLĐ thông qua việc cải tiến thủ
tục để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp XKLĐ thực hiện mô hình liên kết
này. Bên cạnh đó, tỉnh cần tổ chức thường xuyên các hội chợ việc làm và XKLĐ để
người lao động có cơ hội gặp gỡ và trao đổi trực tiếp với các doanh nghiệp XKLĐ, các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong tỉnh nhằm giúp cho người lao động tìm được
CCLIV.

Page 25



×