Tải bản đầy đủ (.pdf) (186 trang)

Kinh tế trang trại của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 186 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Trong bối cảnh hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế của
nước ta đã bước vào giai đoạn mới với sự chuyển đổi về chất, thay đổi mô
hình tăng trưởng, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, nâng
cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh nhằm đảm bảo phát triển bền vững. Thực
hiện chủ trương này, trên nền tảng kinh tế tự chủ của hộ nông dân đã hình
thành các trang trại được đầu tư vốn, lao động với trình độ công nghệ và quản
lý cao hơn nhằm mở rộng quy mô sản xuất hàng hóa và nâng cao năng suất,
hiệu quả và sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Hiện nay, hình thức kinh
tế trang trại tăng nhanh về số lượng với nhiều thành phần kinh tế tham gia,
nhưng chủ yếu là trang trại hộ gia đình nông dân. Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê (2014), năm 2013 cả nước có 23.766 trang trại. Trong giai đoạn
2000 đến nay, bình quân mỗi năm số trang trại tăng 10%, diện tích đất sử
dụng trên 900.000 ha và đa số trang trại có quy mô nhỏ.
Đắk Lắk là tỉnh nằm ở Trung tâm cao nguyên Trung bộ với diện tích tự
nhiên là 13.125 km2 và dân số khoảng 1,8 triệu người (2013). Đây là địa bàn
cư trú của 44 dân tộc anh em sinh sống chiếm 32% trong tổng dân số của toàn
tỉnh trong đó, dân tộc thiểu số tại chỗ (Êđê, M’nông, J’rai) chiếm trên 70%
trong tổng dân số dân tộc thiểu số. Trong những năm đổi mới vừa qua, tình
hình kinh tế xã hội của tỉnh nói chung và đời sống của đồng bào dân tộc thiểu
số tại chỗ trên địa bàn nói riêng đã được cải thiện nhiều nhờ có chính sách
phát triển kinh tế trang trại.
Đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, trong
những năm qua kinh tế trang trại đã được hình thành, phát triển cả về số
lượng và chất lượng. Tuy nhiên do gặp phải trở ngại lớn cả về nhận thức,
phong tục tập quán, nguồn lực đầu tư, thị trường đầu vào đầu ra, cơ chế chính
1


sách, ... làm cho việc phát triển kinh tế trang trang hiệu quả sản xuất thấp và


thiếu tính bền vững, tính cạnh tranh chưa cao đặc biệt là trong bối cảnh hội
nhập như hiện nay. Hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra cơ hội cho kinh tế trang
trại phát triển; đồng thời đã tạo ra không ít những thách thức mà trang trại
phải đối mặt. Bên cạnh đó, do phong tục tập quán, tâm lý bảo thủ khó thay
đổi, trình độ dân trí thấp, thiếu sự chủ động và sáng tạo trong phát triển kinh
tế đặc biệt là thiếu sự liên kết, hợp tác để phát triển kinh tế trang trại. Mặt
khác, những rủi ro về biến động giá cả, dịch bệnh, thiên tai đòi hỏi cần phải
tìm ra phương thức, mô hình sản xuất nông nghiệp hiện đại và quy mô hơn
nhưng vẫn phải phù hợp với đặc thù phong tục tập quán của đồng bào dân tộc
và điều kiện tự nhiên của vùng Tây Nguyên. Do vậy, việc phát triển kinh tế
trang trại ở tỉnh Đắk Lắk đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ
là một hướng đi cần được khuyến khích.
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên đề tài: “Kinh tế trang trại
của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ tỉnh Đắk Lắk” là một yêu cầu cấp
thiết có ý nghĩa cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế trang trại
của đồng bào DTTSTC, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại của
đồng bào DTTSTC tỉnh Đắk Lắk, chỉ ra những yếu tố cản trở phát triển kinh
tế trang trại của đồng bào DTTSTC tỉnh Đắk Lắk; từ đó đề xuất quan điểm,
định hướng và hệ giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại
của đồng bào DTTSTC tỉnh Đắk Lắk.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa và làm rõ hơn cơ sở lý luận về phát triển kinh tế trang
trại của đồng bào DTTS; kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại của đồng

2



bào DTTS ở một số nước trên thế giới và một số vùng, địa phương trong nước
và khả năng vận dụng ở Tây Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng;
- Phân tích thực trạng phát triển kinh tế trang trại của đồng bào
DTTSTC trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, làm rõ những thành công, tồn tại và
nguyên nhân; Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại
của đồng bào DTTSTC tỉnh Đắk Lắk giai đoạn vừa qua;
- Đưa ra quan điểm, đề xuất định hướng và hệ giải pháp cơ bản nhằm
phát triển kinh tế trang trại của đồng bào DTTSTC tỉnh Đắk Lắk.
* Câu hỏi nghiên cứu
1. Thực tiễn phát triển kinh tế trang trại của DTTS ở các quốc gia trên
thế giới và ở Việt Nam ra sao?
2. Đặc trưng cơ bản của KTTT nói chung và KTTT của đồng bào
DTTSTC vùng Tây Nguyên và tỉnh Đắk Lắk nói riêng là gì?
3. Tình hình phát triển KTTT của đồng bào DTTSTC tỉnh Đắk Lắk như
thế nào?
4. Các yếu tố nào ảnh hưởng đến sự phát triển KTTT của đồng bào
DTTSTC tỉnh Đắk Lắk?
5. Những giải pháp cơ bản nào để thúc đẩy sự phát triển KTTT của
đồng bào DTTSTC tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn tới?
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Phát triển kinh tế trang trại của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung
Nghiên cứu tập trung vào hệ thống hoá và làm rõ hơn các vấn đề lý
luận và thực tiễn liên quan đến kinh tế trang trại của đồng bào dân tộc thiểu số
3



tại chỗ; Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại của đồng bào dân tộc
thiểu số tại chỗ tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi về thời gian
Số liệu thứ cấp được thu thập từ năm 2004-2014 (Kể từ năm 2003, Đắk
Lắk tách thành 2 tỉnh là Đắk Lắk và Đắk Nông)
Số liệu sơ cấp được thu thập năm 2013 (điều tra năm 2014)
Thời gian của các giải pháp được đề xuất đến năm 2020
- Phạm vi về không gian
Nghiên cứu kinh tế trang trại của đồng bào DTTSTC trên phạm vi toàn
tỉnh Đắk Lắk và nghiên cứu điểm tại một số xã, huyện đại diện.
Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về phát triển kinh tế trang trại của
đồng bào dân tộc thiểu số tập trung vào 3 quốc gia là Trung Quốc, Đài Loan,
Thái Lan.
Nghiên cứu kinh nghiệm trong nước về phát triển kinh tế trang trại của
đồng bào dân tộc thiểu số tập trung vào miền núi Phía Bắc.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Tiếp cận nghiên cứu
Để phân tích một cách đầy đủ và toàn diện thực trạng và các yếu tố ảnh
hưởng làm căn cứ đề xuất giải pháp phát triển kinh tế trang trại của đồng bào
DTTSTC trong thời gian tới, nghiên cứu đã kết hợp nhiều hướng tiếp cận
khác nhau:
(1) Tiếp cận kinh tế học vi mô
Cách tiếp cận kinh tế học vi mô cho phép nghiên cứu KTTT với tư cách
là đơn vị chủ yếu trong phân tích kinh tế. Từ việc phân tích cấu trúc, năng lực
nội sinh, mối quan hệ bên trong và mối quan hệ với bên ngoài có thể thấy
được tác động của chính sách vĩ mô đối với các mặt kinh tế, xã hội.

4



(2) Tiếp cận phát triển bền vững
Từ góc độ tiếp cận bền vững, mục tiêu phát triển KTTT sẽ được nhìn
nhận trong sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, xóa đói
giảm nghèo, khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh
thái. Đây là những vấn đề nóng bỏng hiện nay, cần được quan tâm giải quyết.
(3). Tiếp cận lịch sử
Cách tiếp cận này được sử dụng trong nghiên cứu để tìm hiểu và phân
tích sự hình thành kinh tế trang trại của đồng bào DTTSTC tỉnh Đắk Lắk
thông qua xem xét sự ra đời, sự tác động của các điều kiện bên trong và bên
ngoài. Từ đó thấy được những tác động tích cực và tiêu cực của các yếu tố đó
đến sự hình thành và ra đời của kinh tế trang trại của đồng bào DTTSTC tỉnh
Đắk Lắk.
(4). Tiếp cận dân tộc học
Cách tiếp cận này sẽ giúp xem xét đặc điểm của các xã hội DTTS như
nguồn gốc, cơ cấu dân cư, trình độ khoa học công nghệ, tôn giáo, ngôn ngữ,
cấu trúc xã hội, hành vi của các trang trại trong sản xuất, phân bổ, quản lý và
sử dụng đất đai cho sản xuất nông lâm nghiệp dưới ảnh hưởng của các tập tục
truyền thống của đồng bào DTTSTC trên địa bàn.
(5). Tiếp cận có sự tham gia (PRA)
Đây là cách tiếp cận khuyến khích sự tham gia của chủ trang trại thông
qua các công cụ của PRA. Mục đích là để khảo sát sâu hơn những thuận lợi
và khó khăn trong hoạt động KTTT của đồng bào DTTSTC cũng như mong
muốn và đề xuất của chủ trang trại trong vấn đề thúc đẩy KTTT của đồng bào
DTTSTC tỉnh Đắk Lắk phát triển.

5


4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu

Chọn điểm nghiên cứu theo tiêu chí đại diện cho khu vực nghiên cứu.
Tiêu chuẩn chọn điểm nghiên cứu có sự tập trung đông dân tộc thiểu số tại
chỗ sinh sống, đa dạng về loại hình KTTT và thành phần dân tộc (dân tộc
thiểu số tại chỗ, dân tộc thiểu số Phía Bắc và dân tộc Kinh). Các điểm được
lựa chọn bao gồm các huyện Cư M’gar, huyện Ea H’leo, huyện Krông Năng
và Thị xã Buôn Hồ.
4.2.2. Phương pháp thu thập thông tin và số liệu
* Thông tin và số liệu thứ cấp
+ Thông tin, số liệu về lý luận và thực tiễn về tình hình phát triển
KTTT trên Thế giới và ở Việt Nam; các chính sách phát triển kinh tế trang
trại; quan điểm và định hướng phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam, ... Các
thông tin này được lấy từ các nguồn như sách, báo; Các trang web của Tổng
cục Thống kê (GSO), Hội làm vườn Việt Nam (VAC), ...
+ Thông tin, số liệu về điều kiện tự nhiên, KTXH của tỉnh Đắk Lắk;
tình hình phát triển kinh tế trang trại của tỉnh; các chính sách phát triển kinh tế
trang trại, các quan điểm và định hướng phát triển kinh tế trang trại đối với
đồng bào DTTSTC tỉnh Đắk Lắk. Các thông tin này được thu thập từ các báo
cáo tổng kết, báo cáo thống kê hàng năm của UBND tỉnh Đắk Lắk, Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đắk Lắk, Chi cục Phát triển Nông thôn
tỉnh Đắk Lắk và Niên giám Thống kê tỉnh Đắk Lắk.
* Số liệu sơ cấp
Số liệu sơ cấp bao gồm các thông tin chung về trang trại, nguồn lực sản
xuất của trang trại, chi phí và kết quả sản xuất của trang trại, tình hình cung
ứng các yếu tố đầu vào và tình hình tiêu thụ nông sản của trang trại; khả năng

6


tiếp cận thị trường và khả năng liên kết của trang trại, tình hình thực hiện các
chính sách phát triển KTTT đối với trang trại đồng bào DTTSTC trên địa bàn.

Các thông tin sơ cấp được thu thập thông qua các phương pháp: quan
sát, phỏng vấn bán cấu trúc, phỏng vấn sâu và phỏng vấn các trang trại tại các
điểm nghiên cứu bằng bảng hỏi. Ngoài ra còn sử dụng bộ công cụ PRA (chủ
yếu là phương pháp thảo luận nhóm) để thu thập số liệu về thuận lợi và khó
khăn của các loại hình KTTT của đồng bào DTTSTC trên địa bàn nghiên cứu.
Cụ thể, có 5 nhóm được thành lập để thảo luận bao gồm: nhóm trang trại cây
lâu năm, nhóm trang trại cây hàng năm, nhóm trang trại lâm nghiệp, nhóm
trang trại chăn nuôi và nhóm trang trại kinh doanh tổng hợp.
Do điều kiện thời gian hạn chế và địa bàn đi lại khó khăn cũng như có
sự khác biệt về ngôn ngữ nên số trang trại được chọn để điều tra là 60 trang
trại, chiếm 50% tổng số trang trại tại 4 huyện điểm nghiên cứu.
Bảng 1: Thống kê trang trại đồng bào DTTSTC tại các huyện được chọn
làm điểm nghiên cứu
Huyện

Trang trại ĐB DTTSTC theo loại hình
Tổng CLN CHN LN CN TH

Trang trại ĐB DTTSTC được chọn
Tổng CLN CHN LN CN TH

1. Cư M'gar

65

61

-

4


-

-

33

31

-

2

-

-

2. Ea H'leo

26

24

-

1

-

1


13

11

-

1

-

1

3. Krông Năng

14

14

-

-

-

-

7

7


-

-

-

-

4. TX Buôn Hồ

14

14

-

-

-

-

7

7

-

-


-

-

119

113

-

5

-

1

60

56

-

3

-

1

TỔNG


Nguồn: Tổng hợp và tính toán của tác giả

Mẫu có đặc điểm là trang trại đồng bào DTTSTC (đồng bào dân tộc
Êđê) có tình hình sản xuất của trang trại đi vào ổn định (Trên địa bàn nghiên
cứu chỉ có trang trại của đồng bào dân tộc Êđê).
Phương pháp chọn mẫu là chọn điển hình theo tỷ lệ từng loại hình trang
trại tại các huyện điểm nghiên cứu. Ngoài các trang trại đồng bào DTTSTC
được lựa chọn như ở bảng 1, tôi đã điều tra một số trang trại người Kinh và
7


trang trại đồng bào DTTS khác trên cùng địa bàn để so sánh kết quả và hiệu
quả sản xuất của trang trại; Từ đó có thêm căn cứ để đề xuất giải pháp phát
triển kinh tế trang trại, nâng cao hiệu quả sản xuất của trang trại đồng bào
DTTSTC trên địa bàn nghiên cứu.
Các trang trại được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên phân tầng theo
từng loại hình trang trại, bao gồm 5 loại hình trang trại phổ biến trên địa bàn
nghiên cứu là trang trại cây lâu năm, trang trại cây hằng năm, trang trại lâm
nghiệp, trang trại chăn nuôi và trang trại kinh doanh tổng hợp.
4.2.3. Phương pháp tổng hợp, xử lý số liệu và phân tổ thống kê
- Đối với tài liệu thứ cấp sau khi thu thập được xử lý để loại bỏ những
tài liệu kém tin cậy, tính toán lại các số liệu cần thiết để phục vụ quá trình
nghiên cứu.
- Đối với tài liệu sơ cấp sau khi đã làm sạch, được tổng hợp và xử lý
bằng phần mềm xử lý số liệu Excel và SPSS thông qua phân tổ thống kê. Các
tiêu chí phân tổ căn cứ vào địa bàn, quy mô sản xuất và thành phần dân tộc.
- Thông tin và số liệu điều tra trong nghiên cứu được phân tổ theo từng
loại hình trang trại và thành phần dân tộc nhằm để đánh giá kết quả và hiệu
quả các loại hình trang trại này.

4.3.4. Phương pháp phân tích
- Phương pháp thống kê mô tả: sử dụng số tuyệt đối, số tương đối, số
bình quân để thấy được sự biến động số lượng các loại hình trang trại qua các
năm và theo từng địa bàn huyện. Phương pháp này cũng được sử dụng để mô
tả tình hình phát triển KTTT của đồng bào DTTSTC tỉnh Đắk Lắk.
- Phương pháp thống kê so sánh: dùng để so sánh tình hình phát triển
kinh tế trang trại của đồng bào DTTSTC tỉnh Đắk Lắk qua các năm và giữa
các địa bàn trong tỉnh; so sánh kết quả và hiệu quả giữa các nhóm trang trại
bao gồm nhóm trang trại của đồng bào DTTSTC đạt tiêu chí xác định trang

8


trại mới, nhóm trang trại của đồng bào DTTSTC không đạt tiêu chí và nhóm
trang trại người Kinh.
- Phương pháp phân tích SWOT: dùng để phân tích điểm mạnh, điểm
yếu, cơ hội và thách thức của các loại hình KTTT. Kết quả phân tích SWOT
được sử dụng làm căn cứ để xây dựng và đề xuất giải pháp phát triển KTTT
cho từng loại hình KTTT của đồng bào DTTSTC trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Góp phần hệ thống hóa và làm rõ hơn cơ sở lý luận về kinh tế trang
trại và phát triển kinh tế trang trại của đồng bào DTTSTC trong điều kiện
kinh tế thị trường gắn liền với những nét đặc thù về truyền thống và phong tục
tập quán của cộng đồng DTTSTC; góp phần làm rõ hơn một số lý thuyết về
phát triển nông nghiệp nông thôn đối với phát triển kinh tế trang trại;
- Phân tích, đánh giá khách quan và toàn diện thực trạng phát triển kinh
tế trang trại của đồng bào DTTSTC tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2004-2014; trong
đó xác định được vai trò, đánh giá được kết quả và hiệu quả các loại hình
trang trại của cộng đồng DTTSTC gắn với những nét đặc thù trên địa bàn;
- Đề xuất được hệ quan điểm, định hướng và giải pháp có tính đồng bộ,

cụ thể, khả thi để phát triển kinh tế trang trại của đồng bào DTTSTC tỉnh Đắk
Lắk giai đoạn đến năm 2020.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp những cơ sở khoa
học để các nhà quản lý làm cơ sở cho việc lập quy hoạch phát triển nông
nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng theo hướng sử dụng hợp lý
các nguồn tài nguyên, phù hợp với đặc thù của địa phương trong đó có chú ý
đến nét đặc trưng văn hóa đặc thù của cộng đồng DTTSTC trong phát triển
kinh tế trang trại trên địa bàn;

9


- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở để xây dựng chương trình
khuyến nông, khuyến lâm và khuyến công nhằm hướng dẫn nông dân áp dụng
những tiến bộ khoa học, công nghệ, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời
sống của cộng đồng DTTSTC trên địa bàn nghiên cứu.
7. Bố cục của Luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận án gồm có 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về
kinh tế trang trại của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về kinh tế trang trại của đồng bào
dân tộc thiểu số tại chỗ
Chương 3: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại của đồng bào dân tộc
thiểu số tại chỗ tỉnh Đắk Lắk
Chương 4: Quan điểm, định hướng và giải pháp phát triển kinh tế trang
trại của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ tỉnh Đắk Lắk

10



CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI
NƯỚC VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
THIỂU SỐ TẠI CHỖ
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu đã công bố ở nước ngoài

1.1.1. Các nghiên cứu sự khác biệt giữa kinh tế hộ với kinh tế trang trại
Nhìn chung, sự phân biệt một cách chính xác dựa trên những tiêu chí cụ
thể, giữa hộ và trang trại thường không thống nhất, phụ thuộc nhiều vào đặc
thù về tự nhiên và nhân khẩu của từng nước, từng vùng. Ngoài ra, giữa hộ và
trang trại luôn có sự chuyển hóa cho nhau dù xét theo bất kỳ tiêu chí nào. Tuy
nhiên, phân biệt về mặt định tính, giữa hộ và trang trại cũng có một số khác
biệt cần quan tâm: (1) Kinh tế hộ có sự trải rộng từ tự cấp tự túc đến định
hướng thị trường; trong khi KTTT mang tính sản xuất hàng hóa rõ nét hơn;
(2) Kinh tế hộ dựa chủ yếu vào nguồn lao động gia đình sẵn có; KTTT dựa
nhiều vào lao động thuê mướn, đặc biệt trong mùa vụ; (3) Kinh tế hộ dựa chủ
yếu vào các tài sản sở hữu chung giữa các thành viên trong hộ; còn KTTT có
thể là sở hữu của nhiều hộ hoặc đa sở hữu với nhiều nguồn góp vốn; (4) Phân
công lao động trong hộ dựa trên năng lực cá nhân của từng thành viên hoặc
đặc thù về văn hóa (ví dụ như vai trò giữa nam và nữ, giữa cha mẹ và con
cái,…); trong khi ở KTTT điều này dựa chủ yếu vào năng lực cá nhân thông
qua các quan hệ thị trường; (5) Việc ứng dụng công nghệ vào sản xuất ở kinh
tế hộ rất hạn chế so với trang trại; (6) Tiếp cận về vốn và các dịch vụ khác,
bao gồm cả bảo hiểm, đối với hộ khó khăn hơn; (7) Ngành nghề sản xuất kinh
doanh của kinh tế hộ trải rộng hơn, từ nông nghiệp đến thủ công nghiệp và
dịch vụ; còn nói đến KTTT thì thường hàm ý chỉ là sản xuất nông nghiệp; và
(8) Thị trường sản phẩm của hộ thường chỉ mang tính địa phương; trong khi

11



của trang trại có thể rộng hơn nhiều. Vì vậy các liên kết trước và sau của
KTTT rộng hơn, sâu hơn, do trình độ CMH sản xuất cao hơn, đặc biệt đối với
nhà cung cấp các dịch vụ đầu vào và CNCB (Cervantes - Godoy and Brooks,
2008; Ironmonger, 2001).
Một số nghiên cứu khác không phân biệt giữa hộ và trang trại mà dựa
trên tính thương mại hóa hay định hướng thị trường của sản xuất để phân
khúc các hộ và trang trại. Davis (2006) chia chúng thành 4 loại cơ bản: (1)
Các hợp tác xã, công ty sản xuất nông nghiệp; (2) Trang trại gia đình/hộ nông
nghiệp chủ yếu mang tính thương mại; (3) Trang trại gia đình/hộ nông nghiệp
chủ yếu phi thương mại (tự túc tự cấp); và (4) Trang trại mang tính giải trí.
KTTT có những điểm mạnh mà kinh tế hộ không có. Nhiều nghiên cứu
chỉ ra rằng năng suất tỷ lệ thuận với diện tích đất canh tác (Heltberg, 1998;
Kimhi, 2006) xuất phát từ lợi thế nhờ quy mô thông qua phân công lao động
hợp lý, huy động được nhiều nguồn vốn tại chỗ, sử dụng phân bón, thuốc trừ
sâu và áp dụng tiến bộ kỹ thuật. Trang trại lớn cũng có lợi thế nhờ dễ tiếp cận
tín dụng, bảo hiểm; đồng thời ứng phó được những nhu cầu đa dạng của thị
trường và kết nối với các ngành CNCB và chuỗi giá trị quốc gia, toàn cầu khi
tự do hóa thương mại được mở rộng (Anríquez and Bonomi, 2007; Otsuka,
2007).

1.1.2. Các nghiên cứu về lực cản đối với phát triển kinh tế trang trại
Việc phát triển KTTT ở các nước đang phát triển gặp phải nhiều lực cản
và đây cũng là một phần nguyên nhân nghèo đói nếu không khắc phục được.
Một số nghiên cứu chỉ ra rằng các hộ nông nghiệp thiếu nguồn lực, đặc
biệt là đất đai khi chỉ sở hữu một diện tích đất nhỏ (95% dưới 2 ha) (Anríquez
and Bonomi, 2007; World Bank, 2003b, 2007). Họ cũng thiếu vốn cần thiết
để mở rộng sản xuất, chuyển đổi cơ cấu sản xuất cũng như thay đổi nghề
nghiệp (Reardon et al., 1998). Ngoài ra, ở các vùng nông thôn, chất lượng lao


12


động cũng kém do thiếu thốn về y tế và giáo dục (Hall and Patrinos, 2006;
World Bank, 2003a). Các điều kiện về nhân khẩu như mật độ dân số và tỷ
suất sinh cao, trong nhiều trường hợp làm trầm trọng thêm những khó khăn
này (World Bank, 2003b). Những điều trên dẫn đến năng suất lao động thấp
và thu nhập thấp (World Bank, 2007).
Các hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng phải đối diện với nhiều rủi ro
về cả về thiên tai và thị trường (do biến động giá và độ co dãn của cầu theo
thu nhập thấp đối với nông sản) làm cho hộ nông nghiệp và trang trại mất
nhiều thời gian để phục hồi khi gặp các cú sốc (Carter and Barrett, 2006;
Christiaensen and Subbarao, 2005; Dercon 2004; World Bank, 2003b).
Bất bình đẳng trong sở hữu nguồn lực đối với hộ gia đình, đặc biệt
người DTTS và người bản địa ở các nước đang phát triển là điều phổ biến. Họ
thường không tiếp cận được đất đai hoặc đất đai quá nhỏ để canh tác
(Vollrath, 2007; Zezza et al., 2007, World Bank, 2003b). Bất bình đẳng trong
tiếp cận dịch vụ công như chăm sóc sức khỏe và đào tạo (Jayne et al., 2006;
World Bank, 2003a) hay các dịch vụ bảo hiểm và tín dụng (Fafchamps and
Pender, 1997, Reardon et al., 1998) cũng là các yếu tố quan trọng gây ra đói
nghèo và lạc hậu. Thêm vào đó, các thiết chế xã hội địa phương như các
chuẩn mực ứng xử, niềm tin, bình đẳng giới, đẳng cấp xã hội hay việc thiếu
các mạng lưới xã hội cũng thường kiềm chế sức sản xuất của các hộ
(Fafchamps and Minten, 2002; World Bank, 2003b, 2006b, 2007).
Khuyết tật thị trường ở các nước đang phát triển, đặc biệt vùng nông
thôn, cũng thường rất trầm trọng. Điều này tạo ra chi phí giao dịch cao, thông
tin bất đối xứng, cạnh tranh không hoàn hảo, và nhiều ngoại ứng tiêu cực
khác (Jalan and Ravallion, 2002). Tuy nhiên, việc khắc phục các khuyết tật
này - vai trò của nhà nước - lại thường được tiến hành không tốt. Đây có thể


13


xem như thất bại của nhà nước trong điều tiết thị trường và cung ứng dịch vụ
công (World Bank, 2007)

1.1.3. Các nghiên cứu về các chính sách phát triển kinh tế trang trại
- Nhóm chính sách đầu tiên có thể kể đến là chính sách trợ cấp, trợ giá,
theo từng sản phẩm, hoặc theo các diễn biến của điều kiện tự nhiên và thị
trường (Brooks, 2010; Jones and Kwiecinski, 2010; OECD, 2003). Việc giảm
thuế, phí cũng được áp dụng với các điều kiện tương tự (OECD, 2009; World
Bank, 2007). Ngoài ra, đối với nhiều loại nông phẩm, có thể kiểm soát giá, áp
dụng giá sàn đầu ra hay giá trần đối với các dịch vụ đầu vào để đảm bảo quyền
lợi của người sản xuất. (OECD, 2009).
- Chính sách cung cấp tín dụng với nhiều hình thức và mức lãi suất đa
dạng cho phát triển KTTT cũng là biện pháp đáng lưu tâm. Cung cấp tín dụng
được áp dụng hợp lý, song song với việc phát triển thị trường vốn có thể tạo
ra nhiều hiệu ứng tích cực (Gloede and Rungruxsirivorn, 2012).
- Chính sách đầu tư vào vốn con người thông qua tạo giáo dục, đào tạo,
trợ giúp kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất và tạo điều kiện tìm kiếm việc làm
phi nông nghiệp là nhóm chính sách mang tính dài hạn, đem lại hiệu quả ở nhiều
nơi (Sherraden, 2004; World Bank 2003b, 2007; Haggblade, Hazell and
Reardon, 2005, 2010). Nhóm chính sách dài hạn khác là đầu tư vào cơ sở hạ
tầng để tạo điều kiện tiếp cận thị trường, tạo liên kết giữa các vùng miền, cung
cấp thông tin và tạo việc làm nông thôn cũng hết sức quan trọng (Brooks, 2010;
Cervantes-Godoy and Brooks, 2008; Haggblade, Hazell and Reardon, 2010).
Các chính sách nêu trên phải hướng tới mục tiêu cao hơn là nâng cao sức cạnh
tranh của sản phẩm, thỏa mãn ngày một tốt hơn nhu cầu đa dạng của người tiêu
dùng, đáp ứng được những tiêu chuẩn xuất khẩu và tham gia vào chuỗi giá trị

toàn cầu (World Bank, 2007).

14


- Chính sách cải cách các thể chế xã hội nông thôn, hạn chế bớt những
mặt tiêu cực của các quan hệ đẳng cấp, các quy tắc ứng xử phi chính thức và
cách tư duy khép kín cũng là hướng đi quan trọng (Brooks, Cervantes-Godoy
and Jonasson, 2009; IFAD, 2003; World Bank, 2007). Ngoài ra, cũng cần
khuyến khích sự hình thành các hiệp hội nhằm giảm chi phí giao dịch, tạo sự
hỗ trợ lẫn nhau và tận dụng lợi thế nhờ quy mô (Cervantes-Godoy and Brooks,
2008; World Bank, 2003b)
- Chính sách cải cách thể chế kinh tế như điều chỉnh chính sách đất đai
và quyền sở hữu tài sản nhằm tạo thuận lợi cho mua bán đất đai, mở rộng sản
xuất và gây dựng thương hiệu (IFAD, 2003); cải cách thị trường lao động nhằm
tạo thêm các cơ hội việc làm và tăng thu nhập (Brooks, 2010); hình thành các
mạng lưới bảo hiểm và bảo trợ xã hội (Cervantes-Godoy and Brooks, 2008;
IFAD, 2003).
Các chính sách nêu trên có thể hướng đến việc cải thiện các điều kiện
đầu vào hoặc đầu ra của sản xuất, cũng có thể nhằm vào việc nâng cấp toàn bộ
các điều kiện sản xuất của trang trại. Tuy nhiên, việc vận dụng và kết hợp
chúng ra sao tùy thuộc vào các điều kiện của từng quốc gia và vùng, cũng như
khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, để xây dựng được các chính sách phát triển
KTTT gắn cho một vùng cụ thể, ở đây là tỉnh Đắk Lắk, cần phải bổ sung thêm
nhiều luận cứ khoa học mới, phản ánh được các đặc thù về chủ thể sản xuất,
không gian và thời gian.
1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu đã công bố ở trong nước

1.2.1. Các nghiên cứu lý luận về phát triển kinh tế trang trại
1.2.1.1. Nghiên cứu về khái niệm, tiêu chí và đặc trưng của KTTT

Thuật ngữ KTTT xuất hiện và được sử dụng ở nước ta kể từ khi thực
hiện đường lối đổi mới. Ở thời điểm đó, nó được xem là khái niệm mới mẻ và
đã trở thành vấn đề mà hầu hết các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Một
15


số tác giả tiên phong gồm có: Nguyễn Điền và Trần Đức (1993), Lê Trọng
(1993), Nhân Đạo (1994), Phí Văn Kỷ (1994), Trần Đức (1995a, 1995b,
1996a, 1996b, 1997, 1998) và sau đó là Trần Trác (1997, 1998), Nguyễn
Xuân Kiên (1998) và Nguyễn Đình Hương (2000) và Cao Đức Phát (2000) và
Nguyễn Đức Thịnh (2001). Đáng chú ý là nghiên cứu của Nguyễn Đình
Hương (2000) về “Thực trạng và giải pháp phát triển nền kinh tế trang trại
trong thời kỳ CNH - HĐH ở Việt Nam”. Công trình nghiên cứu đã đưa ra khái
niệm KTTT: “Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong
nông, lâm, ngư nghiệp; có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá; tư liệu sản
xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập; sản
xuất được tiến hành trên cơ sở quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được
tập trung đủ lớn với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ kỹ thuật
cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường”. Tác giả cũng chỉ ra đuợc 6
đặc trưng cơ bản của KTTT so với kinh tế hộ trong đó có 2 đặc trưng rất quan
trọng để phân biệt với kinh tế hộ là: (1) sản xuất nông nghiệp hàng hoá; và (2)
Chủ trang trại là người có ý chí, năng lực và kinh nghiệm kinh doanh. Tiêu
chí nhận dạng trang trại cũng được tác giả phân tích khá công phu để đưa ra
được kết luận có 3 tiêu chí cơ bản: (1) GTSL hàng hoá tạo ra trong một năm;
(2) Quy mô diện tích đất đai hoặc số lượng gia súc, gia cầm tuỳ theo phương
hướng SXKD của trang trại; và (3) Quy mô vốn đầu tư cho SXKD.
Trên cơ sở kế thừa các quan niệm về KTTT của nhiều tác giả, phân tích
các tiêu chí xác định KTTT, nghiên cứu “Kinh tế trang trại ở khu vực Nam
Bộ, thực trạng và giải pháp” của Trương Thị Minh Sâm (2002) đã đưa ra
khái niệm về KTTT: “Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức SXKD trong

nông nghiệp; được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế hộ gia đình
nông dân; có mức độ tích tụ và tập trung cao hơn về đất đai, vốn, lao động,
kỹ thuật, … nhằm tạo ra khối lượng hàng hoá nông sản lớn hơn, với lợi nhuận

16


cao hơn theo yêu cầu kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo
định hướng XHCN”
Nghiên cứu của Đào Hữu Hoà (2008) về “Phát triển kinh tế trang trại
trên địa bàn Duyên hải Nam Trung Bộ trong quá trình CNH - HĐH”. Tác giả
đã dựa trên các khái niệm về và quan niệm về KTTT của Bộ Nông nghiệp
Hoa Kỳ và của một số tác giả khác đã đưa ra khái niệm trang trại: “Trang trại
là một hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, có thuê mướn
lao động, được hình thành và quản lý bởi gia đình chủ trang trại”
Như vậy, về quan niệm KTTT, hầu hết các tác giả đều cho rằng trang
trại là hình thức tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở hộ nông dân, có
khả năng sản xuất hàng hóa quy mô lớn và năng lực ứng dụng KHCN hiện
đại. Phát triển KTTT đang là hướng phát triển tốt đối với nông nghiệp và cần
phải có nhiều chủ trương, đường lối để đẩy mạnh phát triển. Điều này cũng
phù hợp với quan điểm và chính sách phát triển KTTT được trình bày trong
Nghị quyết 06/1998 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 03/2000/NQ-CP của
Chính phủ về KTTT. Các nội dung nghiên cứu này có giá trị về mặt lý luận để
các nghiên cứu sau này kế thừa, phát triển và bổ sung thêm.
1.2.1.2. Nghiên cứu về tính tất yếu khách quan của kinh tế trang trại
Công trình nghiên cứu của Ban Vật Giá Chính phủ (2000) về “Tư liệu
về kinh tế trang trại” đã khẳng định: “Kinh tế trang trại với sự tồn tại và phát
triển bền vững của nó là chứng minh tính tất yếu, tính hiệu quả và không có
một hình thức nào khác có thể thay thế hoặc phủ nhận nó”. Nghiên cứu này
đã đi đến kết luận phát triển KTTT ở nước ta không mang tính tự phát mà là

kết quả của công cuộc đổi mới đất nước, là kết quả của việc vận dụng sáng
tạo những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của các cấp lãnh đạo
địa phương và là sự hưởng ứng của các bộ phận kinh tế hộ nông dân kinh
doanh giỏi, có ý chí và có khát vọng vươn lên làm giàu vì “Đây là một quá
17


trình tất yếu, phù hợp với quy luật khách quan, do yêu cầu phát triển của nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta và do yêu cầu của công
cuộc CNH - HĐH đất nước nhất là CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn”.
Đồng thời nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh Sâm (2002) cũng đã chỉ ra:
“Kinh tế trang trại dần trở thành xu thế tất yếu trong hầu hết các nền kinh tế
trên thế giới”.
1.2.1.3. Nghiên cứu về xu hướng hình thành, phát triển của KTTT
Có nhiều nhận định trái ngược về vai trò và xu hướng phát triển của
kinh tế hộ. Mặc dù công nhận tính tích cực của kinh tế hộ, nghiên cứu của
Nguyễn Thế Trường (2002) về “Kinh tế hộ và kinh tế trang trại vùng Trung
du, miền núi phía Bắc - thực trạng và xu hướng phát triển” đã đưa ra những
số liệu và bằng chứng để khẳng định kinh tế hộ không còn đủ khả năng tiến
xa hơn do có sự ràng buộc bởi nhiều điều kiện như quy mô, tiềm lực kinh tế,
khả năng thâm nhập thị trường. Không những vậy, diện tích đất nông nghiệp
bị thu hẹp do phát triển đô thị và công nghiệp, nền sản xuất hàng hóa đã phát
triển đến một mức độ nhất định và hội nhập kinh tế sâu rộng hơn, kinh tế hộ
đã tận dụng hết tiềm năng của mình và không còn là động lực để đưa nông
nghiệp phát triển lên sản xuất lớn hay CNH và HĐH nông nghiệp, nông thôn
(Chu Tiến Quang, 2007). Thái độ có phần phủ nhận vai trò của kinh tế hộ đã
nổi lên mối liên hệ giữa kinh tế hộ và kinh tế trang trại mà nhiều tác giả đã
xem xét và phân tích (Nguyễn Xuân, 1998; Trần Trác, 1998; Nguyễn Ngọc
Tuân, 1999; Nguyễn Thế Trường, 2002) để đi đến kết luận có sự chuyển hóa
từ kinh tế hộ sang KTTT là quy luật chung của nền nông nghiệp thế giới và

KTTT là xu hướng phát triển tất yếu của nông thôn.
Nghiên cứu của tác giả Phạm Hùng (1999) đã phân tích những thành
công lớn về phát triển trang trại ở một số nước phát triển và đang phát triển để
đi đến kết luận: (1) Phát triển trang trại chủ yếu ở Việt Nam chỉ là mô hình
18


trang trại gia đình; và (2) Sự hình thành và phát triển trang trại nước ta phân
bố rất không đều, về hình thức các trang trại cũng rất khác nhau. Đồng hành
với sự phát triển của kinh tế trang trại, kinh tế hộ cũng đã phát triển làm thay
đổi diện mạo nông nghiệp, nông thôn. Từ các vai trò của kinh tế hộ cho thấy
cơ sở hình thành của sự phát triển kinh tế trang trại là từ kinh tế hộ nông dân.

1.2.2. Các nghiên cứu thực tiễn về kinh tế trang trại và kinh tế trang trại
của đồng bào dân tộc thiểu số
1.2.2.1. Các nghiên cứu về thực trạng và vai trò của kinh tế trang trại
Nghiên cứu thực trạng phát triển KTTT, hầu hết các nghiên cứu đặc biệt
là nghiên cứu của Chu Thị Hảo (2004) “Phát triển kinh tế trang trại - Thực trạng
và giải pháp” đều chỉ ra các vai trò chung của KTTT trang trại: (1) thúc đẩy phát
triển KTXH tại địa phương; (2) sử dụng các yếu tố nguồn lực hợp lý và có hiệu
quả; (3) khai thác được lợi thế so sánh của địa phương và (4) thu hút được lực
lượng lao động. Ngoài ra KTTT còn có vai trò đẩy nhanh tiến độ CNH - HĐH;
thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững và nâng cao tiềm lực quốc phòng.
- Vai trò đẩy nhanh tiến độ CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn của
kinh tế trang trại còn được thể hiện rõ nét trong nghiên cứu của Đào Hữu Hoá
(2008) “Phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn Duyên hải Nam Trung Bộ
trong quá trình CNH – HĐH”; nghiên cứu của Nguyễn Văn Sử (2006) “Phát
triển kinh tế trang trại trong thời kỳ CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn tỉnh
Sơn La” và nghiên cứu của Phạm Văn Vang (2006), “Phát triển bền vững kinh
tế trang trại ở Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH”.

- Nghiên cứu của Đinh Phi Hổ (2010) về “Kinh tế trang trại - lực lượng
đột phá thúc đẩy phát triển nông nghiệp Việt Nam theo hướng bền vững” đã
chỉ ra vai trò của KTTT đối với phát triển nông nghiệp bền vững thể hiện trên 3
khía cạnh: (1) Đóng góp vào tăng trưởng nông nghiệp và nâng cao sức cạnh
tranh; (2) Giải quyết việc làm và tạo thu nhập bền vững cho nông dân vùng
nông thôn; và (3) Tác động đến môi trường tự nhiên và cân bằng sinh thái.
19


- Nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập sâu đến vai trò của KTTT đối
với từng lĩnh vực và từng địa phương cụ thể. Trong đó nổi bật là nghiên cứu
của Phạm Bằng Luân (2007)“Phát triển kinh tế trang trại và vai trò của nó
đối với xây dựng tiềm lực quốc phòng ở các tỉnh Trung du và miền núi Phía
Bắc nước ta hiện nay”. Trong nghiên cứu này, tác giả đã phân tích sâu các vai
trò của KTTT đối với xây dựng tiềm lực quốc phòng ở nước ta. Tác giả cho
rằng thông qua xây dựng tiềm lực về kinh tế, phát triển KTTT góp phần quan
trọng trong vấn đề xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, KHCN và tiềm lực
quốc phòng.
1.2.2.2. Các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế
trang trại
Một số công trình nghiên cứu “Kết quả và hiệu quả kinh tế các loại hình
kinh tế trang trại ở huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Lắk” của tác giả Từ Thị Thanh
Hiệp (2006); nghiên cứu “Hiệu quả kinh tế của các loại hình kinh tế trang trại
trên địa bàn Thành phố Buôn Ma Thuột” của tác giả Trần Xuân Ninh (2007);
và nghiên cứu “Phát triển kinh tế trang trại của đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh
Sơn La” của tác giả Nguyễn Cao Thịnh (2009) đều cho rằng yếu tố chính sách
vĩ mô của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển KTTT; tuy nhiên
yếu tố nguồn lực của trang trại (lao động, đất đai, vốn, trang bị cho sản xuất và
khả năng tiếp cận thông tin) có có tính chất quyết định đến phát triển KTTT.
Nghiên cứu “Phát triển kinh tế trang trại tỉnh Gia Lai theo hướng bền vững”

của Lê Xuân Lãm (2011) bổ sung thêm tác động của yếu tố trình độ phát triển
thị trường, tác động của tiến trình CNH - HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế và sự
quản lý của Nhà nước.
Ngoài những yếu tố chung trên tác động đến phát triển KTTT, đối với
các hộ đồng bào DTTS do mang một số truyền thống, văn hoá và xã hội đặc
thù nên Nguyễn Cao Thịnh (2009) trong công trình nghiên cứu “Phát triển
kinh tế trang trại của đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Sơn La” đã bổ sung

20


thêm KTTT của đồng bào DTTS còn chịu tác động rất lớn của yếu tố tập quán
sản xuất, đặc điểm văn hóa xã hội của DTTS; và thiếu sự liên kết, hợp tác
trong sản xuất.
1.2.2.3. Các nghiên cứu về các giải pháp phát triển kinh tế trang trại
Nhiều khuyến nghị để nâng cao hiệu quả KTTT đã được đề xuất. Nỗi
bật là nghiên cứu “Kinh tế trang trại - một lựa chọn theo hướng phát triển
bền vững trong nông nghiệp, nông thôn” của Bảo Trung (2010). Tác giả đặc
biệt quan tâm đến chính sách ruộng đất. Nghiên cứu của tác giả đã chỉ ra rằng
muốn tiến lên sản xuất hàng hóa lớn theo hướng phát triển bền vững cần phải
thực hiện được: (1) Thâm canh cao bằng cách đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ
KHCN; (2) Công nghiệp và dịch vụ cần được phát triển mạnh hơn nữa; và (3)
Đẩy mạnh quá trình tích tụ ruộng đất. Đồng thời, với thực tế quá trình phát
triển KTTT nước ta đến nay tác giả đã rút ra một số vấn đề cơ bản cần quan
tâm: (1) Khẳng định trang trại gia đình là hình thức phù hợp và cần được tiếp
tục khuyến khích phát triển; (2) có hệ thống các tiêu chí để xác định trang trại
cần được định kỳ cập nhật và điều chỉnh; (3) tiêu chí xác định trang trại là chỗ
dựa quan trọng để thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển; (4) các địa
phương nên định kỳ điều tra đánh giá để xác định hộ trang trại; (5) Chính phủ
tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế, chính sách về tích tụ ruộng đất cho đồng bộ; và (6)

gắn việc phát triển KTTT với xây dựng quan hệ sản xuất trong nông thôn.
Từ việc nghiên cứu cụ thể về thực trạng, các nhân tố ảnh hưởng đến phát
triển KTTT tại từng địa phương của các công trình nghiên cứu trên, mỗi công
trình nghiên cứu đều đã đưa ra được các hệ giải pháp tương ứng. Tuy nhiên các
nhóm giải pháp này còn mang tính chất chung chung, chưa cụ thể. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu cụ thể đi sâu nghiên cứu về các giải pháp phát triển
KTTT như nghiên cứu “Các giải pháp phát triển kinh tế trang trại vùng trung
du và miền núi Phía Bắc” của tác giả Đinh Văn Hải (2004); Nghiên cứu
“Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang trại ở Thừa Thiên
21


Huế” của tác giả Nguyễn Khắc Hoàn (2006); Nghiên cứu “Phát triển kinh tế
trang trại trên địa bàn Duyên hải Nam Trung Bộ trong quá trình CNH - HĐH
của tác giả Đào Hữu Hoá (2008); và nghiên cứu “Phát triển nông lâm kết hợp
theo hướng kinh tế trang trại tại một số tỉnh Trung du miền núi Phía Bắc” của
tác giả Trần Thị Thu Thuỷ (2010). Các nghiên cứu này đã đưa ra được các
chính sách phát triển KTTT tập trung vào các nhóm giải pháp về đất đai, vốn,
công nghệ, đầu tư CSHT, thị trường tiêu thụ sản phẩm và đào tạo kỹ năng,
trình độ cho chủ trang trại. Trong đó giải pháp về vốn đầu tư cho phát triển
KTTT được coi là trọng nhất và được thể hiện rõ trong nhiều nghiên cứu bao
gồm nghiên cứu của Phạm Hoài Bắc (2003) về “Giải pháp tín dụng ngân hàng
nhằm phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn các tỉnh miền núi Phía Bắc Việt
Nam”; Nghiên cứu “Giải pháp tín dụng ngân hàng đối với phát triển kinh tế
trang trại ở Việt Nam” của Lê Thị Yên (2003); Nghiên cứu “Chính sách ưu đãi
đầu tư đối với Kinh tế trang trại ở tỉnh Trà Vinh” của Nguyễn Thái Bình
(2005); Nghiên cứu “Phát triển kinh tế trang trại - Các biện pháp huy động và
hỗ trợ vốn” của Võ Văn Đức (2005); Nghiên cứu “Giải pháp tín dụng ngân
hàng nhằm phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn Tây Nguyên” của Nguyễn
Thị Tằm (2006); và Nghiên cứu “Tín dụng ngân hàng đối với phát triển kinh tế

trang trại trên địa bàn tỉnh Bắc Giang” của Tô Thị Hậu (2007). Các nhóm giải
pháp này đều tập trung vào: (1) Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn đầu
tư cho nông nghiệp nông thôn nói chung và KTTT nói riêng; (2) Mở rộng đối
tượng cho vay thúc đẩy KTTT phát triển góp phần chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp nông thôn; (3) Tập trung đầu tư tín dụng ngân hàng để hình thành và
phát triển các mô hình KTTT bền vững; và (4) Nâng cao trình độ, kỹ năng, đạo
đức nghề nghiệp cho cán bộ tín dụng.
Đối với trang trại đồng bào DTTS, Nguyễn Cao Thịnh (2009) cho rằng
ngoài các chính sách chung, đối với phát triển KTTT của đồng bào DTTS cần
được bổ sung thêm nhóm giải pháp sửa đổi quy định về tiêu chí xác định

22


trang trại theo hướng thấp hơn vì đặc thù các yếu tố xuất phát điểm của DTTS
thấp nên khó đáp ứng được các tiêu chí như mặt bằng chung. Ngoài ra cũng
cần quan tâm đến chính sách đất đai phù hợp với đặc thù của người đồng bào
DTTS. Những giải pháp này được coi là những bài học kinh nghiệm quý báu
nên kế thừa để thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại đối với đồng bào
DTTSTC ở Tây Nguyên nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng.
Nghiên cứu về KTTT rất phong phú, được nhiều học giả quan tâm
nghiên cứu, đặc biệt là nhiều nghiên cứu sinh lựa chọn cho luận án tiến sĩ.
Tuy nhiên, nghiên cứu về KTTT ở Tây Nguyên không nhiều, đặc biệt là
nghiên cứu về KTTT của đồng bào DTTSTC. Cho đến nay chưa có nghiên
cứu về KTTT của đồng bào DTTSTC ở Tây Nguyên, mới chỉ có nghiên cứu
của Nguyễn Cao Thịnh (2009); các nghiên cứu của Đinh Văn Hải (2004),
Phan Ngọc Châu (2005) và Lê Anh Vũ (2007) về kinh tế trang trại ở Tây Bắc,
một trong những vùng có trình độ phát triển thấp nhất cả nước. Đây là khu
vực tập trung đông nhất cộng đồng các DTTS sinh sống với 50/54 DTTS,
điều kiện tự nhiên và KTXH thích hợp cho việc chuyên canh các loại cây

công nghiệp dài ngày. Do đó, các công trình nghiên cứu này rất có ý nghĩa để
tác giả kế thừa, vận dụng cho nghiên cứu về KTTT của đồng bào DTTSTC ở
Đắk Lắk trong thời gian tới. Tuy nhiên, việc nghiên cứu những nội dung
nghiên cứu của đề tài cũng cần phải quan tâm đến vai trò của yếu tố đặc điểm
đặc thù về văn hoá, xã hội truyền thống của đồng bào DTTSTC Tây Nguyên
trong phát triển KTTT để có cách thức áp dụng và kế thừa các giải pháp trên
phù hợp và có hiệu quả hơn.
1.3. Những vấn đề còn tồn tại Luận án sẽ tập trung nghiên cứu giải quyết
Về mặt lý thuyết, hầu hết các công trình nghiên cứu đều chỉ mới đề cập
đến khái niệm, vai trò, tính tất yếu của việc phát triển, chưa có công trình
nghiên cứu khái quát và làm rõ một số lý thuyết nông nghiệp nông thôn đối
với phát triển KTTT, những vấn đề lý luận liên quan đến phát triển KTTT gắn
23


với nét đặc thù về truyền thống và phong tục tập quán của đồng bào
DTTSTC, chưa có hệ tiêu chí đánh giá sự phát triển kinh tế trang trại của
đồng bào DTTSTC;
Về mặt thực tiễn, phần lớn các công trình nghiên cứu đều nghiên cứu
phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn các vùng miền, các tỉnh, huyện một
cách độc lập, tập trung phân tích, đánh giá thực trạng, xác định các yếu tố ảnh
hưởng và đề xuất hệ giải pháp phát triển kinh tế trang trại trên các địa bàn
nghiên cứu; tuy nhiên có rất ít công trình đề cập đến đối tượng trang trại của
đồng bào DTTS.
Từ những hạn chế về các lý luận và thực tiễn của các công trình nghiên
cứu trên, Luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu hướng đến:
Về mặt lý luận: tiếp tục hoàn thiện và làm rõ hơn những vấn đề lý luận
và thực tiễn liên quan đến phát triển KTTT của đồng bào DTTSTC với những
nét đặc thù về truyền thống và phong tục tập quán của người đồng bào
DTTSTC; hệ thống hóa và làm rõ hơn một số lý thuyết phát triển nông nghiệp

nông thôn đối với phát triển KTTT; làm rõ hơn các tiêu chí và chỉ tiêu đánh
giá sự phát triển kinh tế trang trại của đồng bào DTTSTC.
Về mặt thực tiễn: trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang
trại của đồng bào DTTSTC tỉnh Đắk Lắk; xác định được vai trò, đánh giá kết
quả và hiệu quả các loại hình KTTT của đồng bào DTTSTC tỉnh Đắk Lắk;
xác định các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển KTTT của đồng bào DTTSTC
tỉnh Đắk Lắk; đề xuất quan điểm, phương hướng và hệ giải pháp cơ bản nhằm
phát triển KTTT đối với đồng bào DTTSTC tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới
phù hợp với đặc thù của địa bàn, văn hóa và phong tục tập quán của đồng bào
DTTSTC.

24


CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI CỦA
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI CHỖ
2.1. Một số lý luận cơ bản về kinh tế trang trại của đồng bào dân tộc thiểu
số tại chỗ

2.1.1. Kinh tế trang trại của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ
2.1.1.1. Trang trại
Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về trang trại:
Theo Michael Lipton (2005): “Trang trại là những đơn vị kinh doanh
trong nông nghiệp mà phần lớn lao động và được điều hành bởi các thành
viên trong gia đình”.
FAO (1997) đã đưa ra khái niệm trang trại dựa trên khái niệm nông trại
(farm). Nông trại là một mảnh đất mà trên đó nông hộ thực hiện các hoạt
động sản xuất nông nghiệp phục vụ cho sinh kế của họ. Cũng theo FAO, nông
trại ở Châu Á được chia thành 6 loại hình cơ bản theo mục đích sản xuất, diện

tích đất đai và mức độ phụ thuộc khác nhau bao gồm: (1) Nông trại gia đình
quy mô nhỏ theo hướng tự cấp tự túc; (2) Nông trại gia đình quy mô nhỏ một
phần sản xuất hàng hóa; (3) Nông trại gia đình quy mô nhỏ sản xuất chuyên
môn hóa và độc lập; (4) Nông trại gia đình quy mô nhỏ sản xuất chuyên môn
hóa nhưng phụ thuộc; (5) Nông trại gia đình sản xuất hàng hóa quy mô lớn;
và (6) Trang trại sản xuất hàng hóa. Loại hình thứ 5 và thứ 6 được xem như là
trang trại do có quy mô lớn và tập trung vào sản xuất hàng hóa để bán ra thị
trường nhằm mục tiêu tạo ra lợi nhuận.
Ở Việt Nam, có nhiều quan niệm khác nhau về trang trại:
Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (1993) cho rằng "Trang trại là
hình thức tổ chức kinh tế trong nông-lâm-ngư nghiệp phổ biến được hình

25


×