Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bình luận điều 44, 45 luật Doanh nghiệp năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.13 KB, 13 trang )

Bình luận Điều 44, 45 Luật doanh nghiệp năm 2005
LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói, vốn là yếu tố xuyên suốt trong hoạt động của mọi doanh nghiệp nói
chung cũng như của công ty TNHH nói riêng. Vốn ảnh hưởng đến quá trình thành
lập, sự vận hành và những hoạt động cơ bản của công ty, bởi bất kì hoạt động sản
xuất nào của công ty cũng cần đến vốn. Xuất phát từ thực tiễn đó, chế độ pháp lý về
vốn trong công ty TNHH là một phạm trù rộng lớn bao gồm nhiều vấn đề khác nhau
như: góp vốn, chuyển nhượng vốn, mua lại vốn hay xử lí vốn trong những trường
hợp khác… Trong từng vấn đề pháp luật lại có những qui định riêng biệt, cách nhìn
nhận mỗi vấn đề cũng khác nhau. Với phạm vi bài tập học kì môn Luật thương mại,
em xin được tìm hiểu về phấn đề chuyển nhượng phần vốn góp và xử lí phần vốn
góp trong trường hợp khác của công ty TNHH 2 thành viên trở lên thông qua việc
giải quyết các vấn đề trong đề bài số 3: “Bình luận Điều 44, 45 Luật doanh nghiệp
năm 2005”

NỘI DUNG
I. Khái quát chung về công ty TNHH 2 thành viên trở lên và khái niệm phần vốn
góp:
1. Khái quát chung về công ty TNHH 2 thành viên trở lên:
Điều 38 Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã quy định cụ thể về công ty TNHH hai
thành viên trở lên như sau:
1.Công ty TNHH là doanh nghiệp trong đó:
a)Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên không vượt quá ắm
mươi.


b)Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp;
c) Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo các qui định tại điều
43,44 và 45 của Luật này;
2. Công ty TNHH có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng


kí kinh doanh;
3. Công ty TNHH không được quyền phát hành cổ phần.
Trên cơ sở qui định này ta có thể nhận thấy những đặc điểm cơ bản của công ty
TNHH 2 thành viên trở lên:
-Về chủ đầu tư: số lượng giới hạn từ 02 đến 50. Thành viên của công ty TNHH 2
thành viên trở lên có thể là cá nhân hoặc tổ chức (trừ trường hợp thuộc khoản 2
Điều 13 LDN năm 2005), quốc tịch Việt Nam hoặc nước ngoài
-Về vốn điều lệ: Vốn điều lệ do các thành viên góp hoặc cam kết góp theo một hoặc
nhiều lần. Thành viên phải chuyển quyền sở hữu tài sản vốn góp thành tài sản thuộc
sở hữu công ty. Vốn điều lệ của CTTNHH không được chia thành các phần bằng
nhau, không được cấu trúc thành cổ phần, cổ phiếu.
-Về tư cách pháp lí: CTTNHH có 2 thành viên trở lên có tư cách pháp nhân kể từ
ngày được cấp giấy chứng nhận ĐKKD.
-Về trách nhiệm tài sản: Công ty chịu trách nhiệm bằng tài sản của công ty, thành
viên chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào


-Về huy động vốn: CTTNHH được phép phát hành trái phiếu để huy động vốn,
không được phát hành cổ phiếu.
-Về chuyển nhượng vốn: thành viên trong CTTNHH được phép chuyển nhượng vốn
nhưng phải theo các điều kiện pháp luật qui định.
2. Khái niệm phần vốn góp:
Như đã phân tích ở trên, trong công ty TNHH có sự tách bạch giữa tài sản của
người góp vốn và tài sản của công ty. Những người góp vốn thành lập công ty trở
thành đồng chủ sở hữu công ty, mỗi người trong số họ chiếm một phần trong tổng
số vốn góp của công ty và được gọi là phần vốn góp của người góp vốn. Vậy phần
vốn góp là gì?
Theo khoản 5 Điều 4 LDN (2005) thì “Phần vốn góp là tỉ lệ vốn mà chủ sở hữu
hoặc chủ sở hữu chung của công ty góp vào vốn điều lệ”
Như vậy hiểu theo nghĩa chung nhất thì phần vốn góp là danh từ dùng cho công ty

TNHH, nói về giá trị tài sản, dưới hình thức tiền mặt hay tài sản vô hình hoặc hữu
hình mà người góp vốn góp vào công ty TNHH để có những quyền và nghĩa vụ khi
công ty thành lập, hoạt động, giải thể.
3.Bản chất pháp lý của phần vốn góp:
Công ty thường được xem xét trên 2 phương diện: kinh tế và pháp lý. Trên phương
diện kinh tế, công ty được xem như là một doanh nghiệp hay một thực thể kinh
doanh; trên phương diện pháp lý, công ty được xem là hành vi pháp lý hay hành vi
thương mại. Do đó phần vốn góp cũng được xem xét dưới 2 góc độ là kinh tế và
pháp lý. Xét trên phương diện kinh tế, phần vốn góp là sản nghiệp của người góp
vốn góp vào công ty; xét trên phương diện pháp lý thì phần vốn góp là tỷ lệ vốn mà


người góp vốn góp vào công ty hay tỉ lệ phần trăm giữa số vốn thành viên góp vào
công ty trên tổng số vốn điều lệ .
Ở đây cần phân biệt rõ “Phần vốn góp” và “Tài sản góp vốn” vào công ty là 2 khái
niệm độc lập và thuộc sở hữu của hai chủ thể khác nhau:
“Phần vốn góp” là tài sản thuộc sản nghiệp của người góp vốn, còn “tài sản góp
vốn” là tài sản thuộc sản nghiệp của công ty. Tài sản của một chủ thể sau khi góp
vào công ty (đã chuyển quyền sở hữu hợp pháp) thì trở thành “tài sản góp vốn”, lúc
này thuộc sở hữu công ty, còn chủ thể góp vốn thì trở thành thành viên của công ty
và sở hữu”phần vốn góp” (tỷ lệ vốn góp). Lúc đó thành viên là đồng chủ sở hữu
công ty, còn công ty thì sở hữu tài sản góp vốn. Chính vì “tài sản góp vốn” thuộc sở
hữu của công ty nên chỉ có công ty mới có quyền định đoạt, còn thành viên công ty
chỉ có quyền định đoạt đối với phần vốn góp mà mình sở hữu, chứ không có quyền
định đoạt tài sản đã góp vào công ty nữa.
II. Bình luận Điều 44, Điều 45 Luật doanh nghiệp năm 2005:
1.Bình luận Điều 44 LDN năm 2005: qui định về chuyển nhượng vốn:
Theo qui định của LDN năm 2005, việc chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty
TNHH không tự do và dễ dàng như với công ty cổ phần, bởi công ty TNHH tuy
thuộc loại hình công ty đối vốn (vốn là yếu tố chính được các thành viên quan tâm)

nhưng trong chừng mực nhất định, các thành viên vẫn quan tâm đến nhân thân của
nhau (công ty TNHH ít nhiều mang dáng dấp công ty đối nhân). Do đó, những
những qui định của pháp luật với việc hạn chế chuyển nhượng vốn trong công ty
TNHH nhằm ngăn chặn sự “xâm nhập” của người lạ vào công ty, đảm bảo cho sự
liên kết mang tính ổn định của công ty.
Điều 44 LDN năm 2005 qui định như sau:


“Trừ trường hợp qui định tại khoản 6 Điều 45 của Luật này, thành viên công ty
TNHH 2 thành viên trở lên có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn
góp của mình cho người khác theo qui định sau đây:
1. Phải chào bán phần vốn đó cho các thành viên còn lại theo tỉ lệ tương ứng với
phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện.
2. Chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là thành viên nếu các thành viên
còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết trong thời hạn ba mươi ngày, kể
từ ngày chào bán”
Như vậy, khi thành viên công ty THNN 2 thành viên trở lên muốn chuyển nhượng
một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người khác thì trước hết thành
viên đó phải chào bán phần vốn góp đó cho các thành viên còn lại trong công ty
theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện.
Theo Luật công ty năm 1990, việc chuyển nhượng phần vốn góp của các thành viên
được thực hiện tự do trong nội bộ công ty, nếu muốn chuyển nhượng phần vốn đó
cho người không phải thành viên công ty thì phải được sự nhất trí của nhóm thành
viên đại diện cho ít nhất ¾ số vốn điều lệ của công ty. Qui định này một mặt nhằm
chống sự xâm nhập của người lạ vào nội bộ công ty, nhưng mặt khác lại có thể bị
các thành viên chiếm đa số vốn điều lệ lợi dụng để chèn ép, gây khó dễ đối với
quyền chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên chiếm thiểu số vốn điều lệ công
ty. Đến LDN năm 1999 đã khắc phục hạn chế này bằng cách qui định “thành viên
muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp phải chào bán phần vốn
đó cho tất cả các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ

trong công ty với cùng điều kiện. Chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là
thành viên công ty nếu các thành viên khác không mua hoặc không mua hết” (Điều
32). Tuy nhiên, hạn chế trong qui định này của LDN năm 1999 là đã không qui định
thời hạn chuyển nhượng phần vốn góp giữa các thành viên trong nội bộ công ty. Do
vậy, các thành viên công ty có thể lợi dụng điều này để dây dưa, kéo dài thời gian


và gây khó khăn cho việc chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên muốn
chuyển nhượng .
Như vậy, khắc phục tất cả những điểm hạn chế của Luật công ty (1990) và Luật
doanh nghiệp (1999), Điều 44 Luật doanh nghiệp (2005) đã qui định thời hạn 30
ngày kể từ ngày chào bán nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc
không mua hết thì thành viên có quyền chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho
người khác không phải là thành viên công ty. Pháp luật qui định thời hạn 30 ngày để
các thành viên khác trong công ty xem xét và quyết định có mua phần vốn góp đó
hay không. Do đó, qui định tại Điều 44 LDN (2005) vừa bảo vệ được quyền lợi của
thành viên muốn chuyển nhượng phần vốn góp, vừa đảm bảo lợi ích ưu tiên của nội
bộ thành viên công ty.
Mặt khác, qui định về chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty THNN 2 thành
viên trở lên sẽ không đúng trong trường hợp tại khoản 6 Điều 45 LDN năm 2005.
Theo đó, khoản 6 LDN năm 2005 có qui định: “Trường hợp thành viên sử dụng
phần vốn góp để trả nợ thì người nhận thanh toán có quyền sử dụng phần vốn góp
đó theo một trong hai cách sau: a) Trở thành thành viên công ty nếu được HĐTV
chấp thuận. b) Chào bán và chuyển nhượng phần vốn góp đó theo qui định tại Điều
44 Luật này”
Trong trường hợp này, việc thành viên sử dụng phần vốn góp để trả nợ coi như một
hình thức chuyển nhượng vốn của mình cho người nhận thanh toán. Nhưng việc sử
dụng phần vốn góp để trả nợ này sẽ có điểm khác so với các hình thức chuyển
nhượng thông thường. Nếu chuyển nhượng phần vốn góp bằng cách chào bán của
các thành viên thì phải thông qua các thành viên khác trong công ty, chỉ khi nào

thành viên khác trong công ty không mua hoặc không mua hết thì mới được chào
bán cho người bán; thì đối với việc sử dụng phần vốn góp để trả nợ, người nhận
thanh toán có quyền sở hữu phần vốn góp ngay sau khi được thành viên sử dụng
phần vốn góp để trả nợ, người nhận thanh toán có thể là thành viên của công ty hoặc
không phải là thành viên của công ty. Khi đó, người nhận thanh toán có thể trở


thành thành viên của công ty nếu được Hội đồng thành viên chấp thuận, hoặc có
quyền chào bán và chuyển nhượng phần vốn góp đó theo qui định tại Điều 44 LDN
(2005). Như vậy có thể nói rằng tư cách của người nhận thanh toán cũng mang
nhiều quyền lợi giống như tư cách thành viên của công ty.
Tuy nhiên, qui định tại Điều 44 LDN (2005) vẫn còn tồn tại những bất cập sau:
Thứ nhất, qui định thành viên công ty muốn chuyển nhượng phần vốn góp thì phải
chào bán phần vốn góp đó cho các thành viên còn lại theo tỉ lệ tương ứng với phần
vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện tạo kẽ hở dẫn đến việc thành viên
công ty “lách luật” trên thực tế. Bởi theo qui định tại Điều 44 thì chỉ phải chào bán
cho các thành viên khác với cùng điều kiện nhưng không qui định điều kiện đó phải
như thế nào. Do đó, thành viên muốn chuyển nhượng phần vốn góp có thể chào bán
phần vốn góp của mình với giá cao hơn rất nhiều so với giá thị trường khiến cho các
thành viên còn lại không thể mua hoặc không thể mua hết trong vòng 30 ngày, từ đó
dẫn đến việc chào bán cho người ngoài công ty là hoàn toàn hợp pháp.
Thứ hai, LDN năm 2005 chưa dự liệu đến trường hợp thành viên công ty muốn bán
phần vốn góp của mình tại công ty nhưng vì lí do nào đó, các thành viên còn lại,
mỗi người chỉ muốn mua một phần vốn góp mà thành viên chào bán thì việc chuyển
nhượng sẽ diễn ra như thế nào? Khoản 2 Điều 44 dẫn đến 2 cách hiểu:
Một là: nếu mỗi thành viên công ty không mua hết phần vốn mà mình được chào
bán thì thành viên muốn chuyển nhượng có quyền không bán và chào bán toàn bộ
phần vốn muốn chuyển nhượng cho người ngoài.
Hai là: thành viên công ty mua không hết thì thành viên muốn chuyển nhượng vẫn
phải ưu tiên bán cho thành viên công ty và chỉ được bán cho người ngoài phần vốn

còn lại mà thành viên khác trong công ty không mua hết.


Ví dụ: Công ty TNHH ABC có 3 thành viên A, B, C, mỗi người sở hữu phần vốn
góp tương ứng là 30%; 45% và 25%. A chào bán cho B, C mỗi người 10% nhưng B
chỉ muốn mua 5% còn C chỉ muốn mua 8% . Theo phân tích ở trên thì sẽ có 2 cách
hiểu như sau: Một: A có quyền không bán cho B và C mà chào bán toàn bộ phần
vốn góp 30% của mình cho người ngoài công ty, khi đó B và C buộc phải chấp nhận
sự xâm nhập của người ngoài vào công ty. Hai: A chỉ có thể chào bán cho người
ngoài 17%, trong khi đó B và C đã sở hữu tỉ lệ phần vốn góp chiếm tới 83% vốn
điều lệ. Việc mua bán phần vốn góp 17% của Asẽ rất khó khăn. Như vậy, thành
viên muốn chuyển nhượng vốn sẽ gặp khó khăn nếu như những thành viên còn lại
trong công ty không có thiện chí.
Thứ ba, mâu thuẫn trong qui định tại Điều 44 và khoản 6 Điều 45 LDN (2005).
Điều 44 qui định loại trừ khoản 6 Điều 45: “Trừ trường hợp qui định khoản 6 Điều
45 của Luật này…” , nhưng khoản 6 Điều 45 lại dẫn chiếu đến qui định tại Điều 44:
“…người nhận thanh toán có quyền sử dụng phần vốn góp đó chào bán và chuyển
nhượng theo qui định của Điều 44 Luật này”. Với qui định như vậy, thực tiễn áp
dụng có nhiều lúng túng khi người nhận thanh toán muốn chào bán và chuyển
nhượng phần vốn góp theo qui định tại Điều 44 nhưng chính điều 44 lại không cho
phép.
2. Bình luận Điều 45 LDN năm 2005: xử lí phần vốn góp trong trường hợp khác:
Pháp luật qui định việc xử lí phần vốn góp của các thành viên công ty trong một số
trường hợp như sau: (i) Người hưởng thừa kế phần vốn góp là thành viên công ty
khi thành viên là cá nhân chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết, (ii) Phần vốn góp
được thực hiện thông qua người giám hộ khi thành viên bị hạn chế hoặc bị mất năng
lực hành vi dân sự; (iii) phần vốn góp được công ty mua lại hoặc chuyển nhượng
khi người thừa kế không muốn trở thành thành viên, người được tặng cho không
được Hội đồng thành viên chấp thuận làm thành viên, thành viên là tổ chức bị giải
thể hoặc phá sản; (iv) Phần vốn góp được giải quyết theo qui định của pháp luật dân

sự khi thành viên là cá nhân chết mà không có người thừa kế, người thừa kế từ chối


nhận thừa kế hoặc bị truất quyền thừa kế; (v) người nhận thanh toán là thành viên
công ty khi phần vốn góp được dùng để trả nợ và được Hội đồng thành viên chấp
thuận hoặc phần vốn góp được chào bán và chuyển nhượng theo qui định của pháp
luật. (vi) Người được tặng cho là người có cùng huyết thống đến thế hệ thứ ba thì
họ đương nhiên là thành viên của công ty, người được tặng cho là người khác thì họ
chỉ trở thành thành viên của công ty khi được Hội đồng thành viên chấp thuận.
Luật doanh nghiệp năm 1999 tại Điều 33 qui định, khi thành viên Hội đồng thành
viên của công ty chết thì người thừa kế của họ có thể trở thành thành viên của công
ty nếu được HĐTV chấp thuận. Cũng như trường hợp thành viên bị mất hoặc hạn
chế năng lực hành vi dân sự thì quyền, nghĩa vụ của họ sẽ được thực hiện bởi người
giám hộ nếu người giám hộ được HĐTV chấp thuận. Tuy nhiên, đến Luật Doanh
nghiệp năm 2005, Điều 45 qui định: người thừa kế đương nhiên trở thành thành
viên công ty, người giám hộ đương nhiên thực hiện quyền và nghĩa vụ của thành
viên đó mà không cần có sự chấp thuận của Hội đồng thành viên. Như vậy, qui định
tại Điều 45 LDN (2005) đã có sự khác biệt so với LDN (1999).
LDN (2005) đã cụ thể hóa quyền chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên Hội
đồng thành viên, thành viên công ty TNHH có quyền tặng cho một phần hoặc toàn
bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác. Trong trường hợp người
được tặng cho là người có cùng huyết thống đến thế hệ thứ 3 thì họ đương nhiên là
thành viên của công ty, trường hợp người được tặng cho là người khác thì họ chỉ trở
thành thành viên công ty khi được HĐTV chấp thuận. Thành viên cũng có quyền sử
dụng phần vốn góp của mình để trả nợ, trong trường hợp này người nhận thanh toán
có quyền sử dụng phần vốn góp đó với tư cách thành viên mới nếu được HĐTV của
công ty chấp thuận, hoặc người nhận thanh toán có quyền chào bán và chuyển
nhượng phần vốn góp đó theo qui định.
Tuy nhiên, qui định tại Điều 45 LDN (2005) có một số điểm chưa hợp lý:
-Thừa kế phần vốn góp (khoản 1 Điều 45):



Trong trường hợp thành viên là cá nhân chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì
người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của thành viên đó là thành viên của
công ty. Theo qui định này, khi người thừa kế đương nhiên được coi là thành viên
công ty thì tư cách thành viên công ty đã được coi là di sản thừa kế. Điều này trái
với qui định tại Điều 634 BLDS năm 2005 về di sản thừa kế, theo đó di sản thừa kế
bao gồm “tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài
sản chung với người khác”. Như vậy, phần vốn góp và các quyền, nghĩa vụ có liên
quan của người góp vốn mới là di sản thừa kế chứ không phải tư cách thành viên
công ty.
-Tặng cho phần vốn góp:
Theo qui định tại khoản 5 Điều 45 LDN (2005) thì thành viên có quyền tặng cho
một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác. Trường
hợp người được tặng cho là người có cùng huyết thống đến thế hệ thứ ba thì họ
đương nhiên là thành viên công ty, còn nếu người được tặng cho là người khác thì
họ chỉ trở thành thành viên công ty nếu được HĐTV chấp thuận.
Nếu theo qui định này thì vợ, chồng và con nuôi của thành viên không phải là người
có cùng huyết thống đến thế hệ thứ ba, do đó việc tặng cho phần vốn góp để trở
thành thành viên công ty phải được Hội đồng thành viên chấp thuận. Điều này là
không hợp lý, pháp luật dân sự cũng như Hôn nhân-gia đình từ trước đến nay đều
thừa nhận nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt giữa con nuôi - con đẻ, cha mẹ đẻ
- cha mẹ nuôi (đương nhiên, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi tôi đề cập ở đây
là quan hệ nhận nuôi hợp pháp, đã được pháp luật thừa nhận). Vợ, con đẻ, con nuôi
đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo qui định tại khoản 1 Điều 676 BLDS năm
2005, nhưng vấn đề tặng cho phần vốn góp theo khoản 5 Điều 45 LDN (2005) lại
có sự phân biệt. Con đẻ là người được tặng cho thì con đẻ đương nhiên là thành
viên, còn vợ và con nuôi được tặng cho thì phải được sự chấp thuận của Hội đồng
thành viên mới trở thành thành viên công ty. Chưa kể đến việc cháu nội, cháu ngoại



(chỉ thuộc hàng thừa kế thứ 2) đương nhiên trở thành thành viên công ty nếu được
nhận tặng cho phần vốn góp, trong khi vợ và con nuôi thuộc hàng thừa kế thứ nhất
thì lại cần phải có sự đồng ý của Hội đồng thành viên. Qui định này cho thấy sự bất
hợp lý và rất dễ để lách luật. Vì có thể có trường hợp thành viên muốn tặng cho
phần vốn góp của mình cho vợ, nhưng vì không muốn phải thông qua Hội đồng
thành viên nên thực hiện tặng cho con ruột trước rồi sau đó con ruột lại tặng cho
mẹ
Mặt khác, pháp luật chưa qui định rõ ràng về quyền biểu quyết của người tặng cho
khi HĐTV biểu quyết chấp thuận vợ và con nuôi trở thành thành viên, tỷ lệ biểu
quyết thông qua tại HĐTV. Hiện tại chưa có qui định nào của LDN cấm hay hạn
chế quyền biểu quyết của thành viên tặng cho, do đó thành viên tặng cho vẫn có
quyền biểu quyết. Theo qui định tại khoản 4 Điều 22 LDN (2005) thông tin về
thành viên là một phần nội dung của Điều lệ công ty nên việc tặng cho dẫn đến làm
thay đổi Điều lệ Công ty và tất yếu phải được số thành viên sở hữu ít nhất 75%
phần vốn góp dự hop chấp thuận. Giả sử thành viên sở hữu hơn 75% phần vốn góp
tặng cho vợ và con nuôi thì tỷ lệ này đủ để thành viên tặng cho có thể thông qua
việc tặng cho của chính mình tại HĐTV mà không cần quan tâm đến ý kiến của các
thành viên khác. Lúc đó, việc biểu quyết chỉ còn là vấn đề thủ tục và mang tính hình
thức.
-Sử dụng phần vốn góp để trả nợ:
Khoản 6 Điều 45 qui định thành viên công ty có quyền sử dụng phần vốn góp để trả
nợ, người nhận thanh toán có thể trở thành thành viên công ty nếu được HĐTV
chấp thuận hoặc chào bán, chuyển nhượng phần vốn góp đó theo qui định tại Điều
44. Như vậy, có sự mâu thuẫn trong qui định tại Điều 44 và khoản 5 Điều 46. Điều
44 loại trừ những trường hợp qui định tại khoản 5 Điều 46, trong khi khoản 5 Điều
46 lại dẫn chiếu ngược lại Điều 44. Hơn nữa, việc yêu cầu công ty mua lại phần vốn
góp hoặc chuyển nhượng theo Điều 44 là điều rất khó khăn theo như phân tích ở
trên, vậy liệu có người nhận thanh toán nào dám nhận phần vốn góp để thay cho



nghĩa vụ trả nợ hay không? Qui định tại khoản 5 Điều 46 dẫn chiếu lại Điều 44 là
không hợp lý.
3.Phương hướng hoàn thiện qui định của Điều 44, 45 LDN năm 2005
-Về việc chuyển nhượng phần vốn góp:
Trong qui định về chuyển nhượng phần vốn góp, để tạo điều kiện thuận lợi cho
thành viên muốn chuyển nhượng phần vốn góp, đồng thời vẫn giữ được tính chất
“đóng” của công ty TNHH thể hiện qua việc hạn chế sự xâm nhập của người lạ vào
công ty, pháp luật doanh nghiệp cần suửa đổi một số điểm sau:
Thứ nhất, với quyền được tự định giá chào bán phần vốn góp của thành viên muốn
chuyển nhượng phần vốn góp đó, pháp luật không nên cho phép thành viên đó tự
định giá một giá trị bất kì không có căn cứ để gây khó khăn cho các thành viên khác
trong công ty, việc xác định giá trị của phần vốn góp cần chuyển nhượng phải dựa
trên giá trị thị trường tại thời điểm chào bán.
Thứ hai, để tránh tình trạng các thành viên còn lại trong công ty TNHH gây khó
khăn và tạo điều kiện thuận lợi cho thành viên muốn chuyển nhượng phần vốn góp
trong việc chào bán phần vốn góp của mình, LDN (2005) cần qui định cụ thể cách
giải quyết trong từng trường hợp khi thành viên công ty muốn bán phần vốn góp
của mình tại công ty nhưng các thành viên khác chỉ muốn mua một phần số vốn góp
được chào bán. Pháp luật nên cho phép thành viên muốn chuyển nhượng có quyền
không bán phần vốn của mình cho các thành viên còn lại trong công ty mà chào bán
toàn bộ phần vốn góp muốn chuyển nhượng cho người ngoài, tránh tình trạng
thành viên muốn chuyển nhượng gặp bất lợi khi các thành viên khác không có
thiện chí.
Thứ ba, nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa Điều 44 và khoản 6 Điều 45 LDN (2005)
thì luật nên bỏ qui định loại trừ tại Điều 44.


-Về xử lí phần vốn góp trong trường hợp khác:
Kiến nghị sửa đổi khoản 5 Điều 45 LDN (2005) theo hướng người được tặng cho là

những người ở hàng thừa kế thứ nhất và thứ hai như qui định tại Điều 676 BLDS
(2005) thì họ đương nhiên là thành viên của công ty. Đồng thời bổ sung qui định
trong trường hợp người được tặng cho là người khác thì người tặng cho không có
quyền biểu quyết tại HĐTV, tránh tình trạng lộng quyền trong quản trị doanh
nghiệp.
LỜI KẾT
Phần vốn góp là quyền tài sản, do vậy người góp vốn có thể sử dụng nó để tham gia
rất nhiều các quan hệ xã hội trong cuộc sống hằng ngày như tặng cho phần vốn góp,
sử dụng phần vốn góp để trả nợ hoặc để thừa kế...Tuy nhiên qua những phân tích ở
trên ta thấy pháp luật hiện nay về định đoạt phần vốn góp vẫn còn nhiều vướng
mắc, bất cập. Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về định đoạt phần
vốn góp trong công ty TNHH là nhu cầu cần thiết hiện nay.



×