Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Đảng lãnh đạo đối với mặt trận trong việc xây dựng khối đoàn kết việt nam trong giai đoạn hiện nay tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.17 KB, 31 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÁC HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI:
ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐỐI VỚI MẶT TRẬN TRONG VIỆC
XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................2
A. MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
B. NỘI DUNG......................................................................................................3
I. Cơ sở lý luận về Đảng lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ quốc trong việc xây
dựng khối đoàn khết đại đoàn kết trong giai đoạn hiện nay. .........................3
1.1. Khái niệm: ....................................................................................................3
1.2. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận
trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.................................................3
1.3. Tư tưởng của Đảng ta đối với Mặt trận Tổ quốc trong việc xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc....................................................................................5
1.4. Đảng lãnh đạo đối với Mặt trận trong việc xây dựng khối đoàn khết đại
đoàn kết trong giai đoạn hiện nay. ....................................................................6
1.4.1 Sự cần thiết xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc....................................6
1.4.2 Mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận có một đặc điểm đáng chú ý:
Đảng vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận................................7
1.4.3 Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận trong việc xây dựng
khối đại đoàn kết trong giai đoạn hiện nay.......................................................8
2. 2. Những kiến nghị........................................................................................12
III.Quam điểm và giải pháp nhằm nâng cao Đảng lãnh đạo đối với Mặt
trận tổ quốc trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai
đoạn hiện nay.....................................................................................................16
3.1. Quan điểm và phương hướng....................................................................16


3.1.1. Quan điểm, phương hướng của Đảng và Nhà nước về đại đoàn kết
toàn dân tộc........................................................................................................16
3.1.1.1. Quan điểm: ...........................................................................................16
3.1.1.2. Phương hướng: ....................................................................................17
3.2. Các giải pháp..............................................................................................17
3.2.1. Nhóm giải pháp ở Trung ương...............................................................17


3.2.1.1. Xây dựng những định hướng chính sách nhằm tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. ......................................................................................17
3.2.1.2. Phát huy mạnh mẽ vai trò của chính quyền Nhà nước trong việc
thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. ............................................21
3.2.1.3. Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao
vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân
trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. .............................................22
3.2.1.4. Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công
dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu
nước. ..................................................................................................................23
3.2.1.5. Xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh và đổi mới phương
thức lãnh đạo của Ðảng để Ðảng thật sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. ................................................................................................24
3.3. Các kiến nghị, đề xuất................................................................................25
C. KẾT LUẬN...................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................28


A. MỞ ĐẦU
Hơn 80 năm qua kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam bước lên vũ đài lãnh
đạo chính trị, lần lượt đã ra đời nhiều tổ chức Mặt trận khác nhau, mang tên
khác nhau, đối tượng tập hợp, mục đích rộng hẹp khác nhau tùy từng giai đoạn

cách mạng: Mặt trận phản đế, Mặt trận dân chủ, Mặt trận Việt Minh, Hội Liên
Việt rồi Mặt trận Liên Việt thời chống Pháp, Mặt trận Tổ quốc ở miền Bắc và
Mặt trận dân tộc giải phóng ở miền Nam thời chống Mỹ và sau đại thắng năm
1975, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của cả nước thống nhất, hoàn toàn độc lập và
tự do, bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh.Mặt trận Tổ quốc
tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc, nối tiếp truyền thống vinh quang của
thời đã qua, phải góp phần giải đáp yêu cầu to lớn của giai đoạn cách mạng
mới: xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ đất nước.
Với mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
Hệ thống chính trị bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chỉ có thể sống động trong vai trò của mình từ những sự cọ sát có thể có hoặc đã
xảy ra để tìm ra giao điểm cuối cùng của sự đồng thuận xã hội.
Trong quá trình đổi mới của đất nước, Mặt trận tổ quốc ngày càng được
mở rộng về tổ chức, hoàn thiện về nội dung và phương thức hoạt động. Không
chỉ dừng lại ở chức năng đoàn kết, động viên tinh thần yêu nước, nhiệt tình lao
động của toàn dân, mà còn phải đảm nhiệm vai trò của một tổ chức giám sát,
phản biện xã hội đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước, Mặt
trận còn phải trở thành mặt trận tham chính, nhằm đảm bảo cho sự lãnh đạo và
điều hành đất nước tránh được những sai lầm, khuyết điểm do tệ độc quyền,
quan liêu, chủ quan, duy ý chí gây nên. Nhận thức sâu sắc vấn đề có tính quy
luật đó Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng quy chế giám sát và phản biện
xã hội của Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với
việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và
việc tổ chức thực hiện, kể cả với công tác tổ chức và cán bộ”
Chính vì có vai trò to lớn, nên Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam lần thứ VII được tiến hành với chủ đề “Nâng cao vai trò Mặt
1


trận Tổ quốc Việt Nam, phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, xây

dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”. Do vậy, việc nâng cao vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội là một yêu cầu khách
quan, có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, bảo đảm cho sự phát triển vững chắc của đất nước ta.
Trước thực tế đó, em chọn đề tài “ Đảng lãnh đạo đối với Mặt trận
trong việc xây dựng khối đoàn kết Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” để
có thể đóng góp phần nhỏ ý kiến của mình vào đề tài tập trung vào vai trò
lãnh đạo của Đảng với Mặt trận Tổ quốc về Xây dựng đại đoàn kết ở Việt
Nam.
Kết cấu của tiểu luận gồm 3 phần chính:
A. Mở đầu
B. Nội dung
I. Cơ sở lý luận về Đảng lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ quốc trong việc xây dựng
khối đoàn khết đại đoàn kết trong giai đoạn hiện nay.
II. Thực trạng công tác lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc trong việc
xây dựng khối đại đoàn kết.
III.Quam điểm và giải pháp nhằm nâng cao Đảng lãnh đạo đối với Mặt trận tổ
quốc trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn hiện
nay.
C. Kết luận

2


B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận về Đảng lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ quốc trong việc xây
dựng khối đoàn khết đại đoàn kết trong giai đoạn hiện nay.
1.1. Khái niệm:
a. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị : Là liên minh toàn bộ các thiết chế

chính trị xã hội được thành lập , hoạt động trong mối liên hệ biện chứng , trong
đó vai trò lãnh đạo thuộc về Đảng, nhằm thực hiện triệt để quyền lực nhân dân,
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản ở Việt
Nam góp phần vào hoà bình và phong trào cộng sản trên thế giới
b. Mặt trận Tổ quốc: Là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện
của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội và các nhân
tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tôc và các tôn giáo và
người Việt Nam định cư ở nước ngoài
1.2. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận
trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận Dân tộc Thống nhất bắt nguồn từ
quan điểm nhất quán của Người về vai trò quyết định của quần chúng trong lịch
sử, coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng chỉ có thể hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình nếu biết tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong
Mặt trận Dân tộc Thống nhất rộng rãi chống kẻ thù chung và xây dựng đất
nước. Trong quá trình phát triển của cách mạng, tuy phải trải qua những bước
thăng trầm, song quan điểm đó luôn luôn nhất quán. Từ Hội Phản đế Đồng minh,
Mặt trận Dân chủ Đông Dương, Mặt trận Phản đế Đông Dương, Mặt trận thống
nhất chống phát xít đến Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên việt, Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ, hoà
bình Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... tất cả những thử nghiệm về lý luận
và thực tiễn các phong trào Mặt trận đã đi đến khẳng định những quan điểm
đúng đắn của Hồ Chí Minh về Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam.
Muốn giành được thắng lợi của cách mạng nói chung và xây dựng chủ
nghĩa xã hội thành công thì phải đại đoàn kết dân tộc, nhưng muốn đại đoàn kết
3


dân tộc thì phải tổ chức quần chúng lại thành Mặt trận Dân tộc Thống nhất rộng
rãi. Sự hình thành khối đại đoàn kết dân tộc là một tất yếu và sự ra đời tổ chức

Mặt trận cũng là một tất yếu khách quan. Quan điểm này khẳng định Mặt trận ra
đời, phát triển không tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhiều lần khẳng định vai trò quan trọng của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, trong
cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người
cho rằng, do đặc điểm mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp ở nước ta mà Mặt
trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam có sứ mạng cao cả đoàn kết hết thảy mọi
người Việt Nam yêu nước và tiến bộ đấu tranh cho quyền lợi tối cao của dân tộc.
Tại Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt (3-1951), Hồ Chí Minh đã
tổng kết kinh nghiệm về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc Thống nhất
thành khẩu hiệu nổi tiếng: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành
công, đại thành công.
Đây chính là chiến lược cách mạng, là tư tưởng cơ bản mà Người đã tổng
kết và rút ra từ truyền thống đấu tranh anh dũng đầy hy sinh gian khổ và rực rỡ
chiến công của dân tộc ta, nó đã trở thành chân lý bền vững của dân tộc ta về
đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc Thống nhất.
Mặt trận Dân tộc Thống nhất là một hình thức tập hợp quần chúng rộng
rãi, đại diện cho đại đa số quần chúng, đại diện cho quyền lợi dân tộc, không có
sự phân biệt đối xử. Người cho rằng: “Từ Nam đến Bắc, ai là người tán thành
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì chúng ta sẵn sàng đoàn kết với họ,
thật thà hợp tác với họ, thật sự đoàn kết với họ, dù từ trước đến nay họ đã theo
phe phái nào”1. Chúng ta đọc thấy tư tưởng này của Người từ trong Chính
cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt được thông qua (1930) tại hội nghị hợp nhất
ba tổ chức cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặt trận là nơi tập
hợp mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ, thực hiện thêm bạn, bớt thù, nhằm tập
trung mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù nguy hiểm nhất. Xu hướng hẹp hòi, biệt
phái, phân biệt đối xử là trái với tư tưởng Hồ Chí Minh, chẳng những không tập

1

, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1996, t.8, tr.49, 66


4


hợp được lực lượng cách mạng rộng rãi mà còn làm tăng thêm kẻ thù, giảm bớt
bầu bạn, làm tổn hại cho sự nghiệp cách mạng chung của cả dân tộc.
“Muốn đoàn kết thực sự và hợp tác thật thà, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh Mặt trận phải có Cương lĩnh thật vững chắc, rất rộng rãi và thiết thực” 1.
Thiết thực vì cương lĩnh đó phải phù hợp với nguyện vọng thiết tha của toàn
thể đồng bào, đó là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; rộng rãi vì Mặt trận bao gồm những người hiện nay tỏ ra thành tâm,
thành ý phụng sự Tổ quốc dù trước đây họ đã theo phe phái nào; vững chắc vì
Mặt trận dựa trên nền tảng đại đa số nhân dân trong nước là đồng bào công
nhân và đồng bào nông dân, đồng thời chú trọng đến tất cả các tầng lớp xã hội
trong nước ta, “không bỏ sót ai”. Theo đường lối của Đảng, Cương lĩnh của
Mặt trận đề ra những yêu cầu thiết thực, phù hợp với tâm tư nguyện vọng và
đòi hỏi thiết tha của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.
1.3. Tư tưởng của Đảng ta đối với Mặt trận Tổ quốc trong việc xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc.
Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam bước lên vũ đài lãnh đạo chính trị,
lần lượt đã ra đời nhiều tổ chức Mặt trận khác nhau, mang tên khác nhau, đối
tượng tập hợp, mục đích rộng hẹp khác nhau tùy từng giai đoạn cách mạng: Mặt
trận phản đế, Mặt trận dân chủ, Mặt trận Việt Minh, Hội Liên Việt rồi Mặt trận
Liên Việt thời chống Pháp, Mặt trận Tổ quốc ở miền Bắc và Mặt trận dân tộc
giải phóng ở miền Nam thời chống Mỹ và sau đại thắng năm 1975, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam của cả nước thống nhất, hoàn toàn độc lập và tự do, bắt tay vào
công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng đã nêu rõ: “… Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của
Đảng là đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức

mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi
bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”2. Hiến pháp nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 cũng ghi: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1

2

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1996, t.8, tr.49, 66

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb CTQG, H, 2006, tr.40-41.

5


và các thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân… Nhà nước tạo
điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả”1
1.4. Đảng lãnh đạo đối với Mặt trận trong việc xây dựng khối đoàn khết đại
đoàn kết trong giai đoạn hiện nay.
1.4.1 Sự cần thiết xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
Đoàn kết dân tộc là một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Đặc biệt
dưới sự lãnh đạo cảu Đảng thì sức mạh đại đoàn kết dân tộc tăng lên gấp bội.và
con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thánh lợi này đến thắng lợi khác. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu, là nhân tố có ý nghĩa
quyết định, đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Trong giai đoạn cách mạng nước ta chưa giành được chính quyền về tay
nhân dân, Mặt trận là nơi tập hợp, huy động sức mạnh của toàn quân, toàn dân,
dưới sự lãnh đạo của Đảng để tiến hành đấu tranh giành chính quyền về tay nhân
dân. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 gắn liền với sự nghiệp của
Mặt trận Việt Minh. Thành tích của Mặt trận Việt Minh chính là sự kế tục sự
nghiệp cách mạng đã được chuẩn bị từ trước của Hội phản đế đồng minh (19301936) và của Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939). Tiếp theo Mặt trận

Việt Minh là Mặt trận Liên Việt (hợp nhất từ Mặt trận Việt Minh và Hội Liên
hiệp quốc dân Việt Nam) đã góp phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp đến thắng lợi.
Kế tục sự nghiệp của Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra
đời (năm 1955) đã đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, làm hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh thống
nhất nước nhà.
Trong giai đoạn cách mạng mới, với nền dân chủ ngày càng phát triển thì
vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ngày càng quan trọng, nhiệm vụ
càng nặng nề hơn. Mặt trận có nhiệm vụ tiếp tục tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, tập hợp ngày càng rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, phát huy tinh
thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường và quyền làm chủ của nhân dân, giữ vững
1

Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980 và 1992, Nxb CTQG, H, 1995, tr.139 .

6


kỷ cương và ổn định xã hội, huy động tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy mạnh
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.4.2 Mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận có một đặc điểm đáng chú ý:
Đảng vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận
Là thành viên, Đảng tham gia Mặt trận bình đẳng và có nghĩa vụ như mọi
hành viên khác. Đại diện cấp uỷ Đảng tham gia uỷ ban Mặt trận có trách nhiệm
sinh hoạt đầy đủ thực hiện hiệp thương dân chủ và phối hợp thống nhất hành
động. Cấp uỷ Đảng phải giáo dục đảng viên gương mẫu thực hiện chương trình
hành động chung đã được các tổ chức thành viên thoả thuậnvà tích cực tham gia
công tác Mặt trận tại khu dân cư

Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải ở trong Mặt trận, Đảng thực hiện vai trò
lãnh đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, đáp ứng
yêu cầu nguyện vọng và lợi íh chính đáng của các tầng lớp nhân dân: Đảng tiến
hành công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tổ chức kiểm tra và bằng sự
gương mẫu của Đảng viên. Thực tiễn lịch sử từ ngày thành lập Mặt trận đến nay
đã chứng tỏ các thành viên tham gia Mặt trận đều tự giác thừa nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng.
Đảng lãnh đạo Mặt trận thông qua Đảng đoàn Mặt trận thông qua Đảng
đoàn các tổ chức thành viên của Mặt trận và thông qua đại diện của cấp uỷ Đảng
tham gia Uỷ ban Mặt trận cùng cấp. Đảng chăm lo bồi dưỡng cán bộ và giới
thiệu những Đảng viên có phẩm chất, có tín nhiệm trong các tầng lớp nhân dân,
có năng lực làm công tác Mặt trận, để Mặt trận chọn cử theo đúng điều lệ. Đảng
lãnh đạo sự phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên, sự phối hợp
giữa Mặt trận với chính quyền. Đảng tôn trọng tính độc lập về tổ chức và hoạt
động sáng tạo của Mặt trận; Đảng lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận đối
với sự lãnh đạo của Đảng và đối với cán bộ Đảng viên.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận là vấn đề có tính nguyên tắc, đảm
bảo cho Mặt trận không ngừng được củng cố và mở rộng. Mặt trận có nhiệm vụ
truyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức mới, động viên các tầng
7


lớp nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Mặt trận có trách nhiệm tổ chức, vận động nhân dân thực hiện chính sách
của Đảng và Nhà nước, trong việc xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng,
Nhà nước và nhân dân. Vì mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà
nước là yếu tố cực kỳ quan trọng bảo đảm sự vững mạnh của chế độ
1.4.3 Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận trong việc xây dựng khối
đại đoàn kết trong giai đoạn hiện nay
Xuất phát từ tình hình thực tế, để thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết

Đại hội X của Đảng, hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, tạo thuận
lợi cho bước phát triển nhanh và bền vững trong những năm tiếp theo, Hội nghị
lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã đề ra những mục tiêu, nhiệm
vụ và giải pháp chủ yếu nhằm: Duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, bền vững, bảo
đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Tăng cường hợp tác và chủ động hội nhập quốc tế đạt hiệu quả ngày càng
cao. Giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn
xã hội. Tạo chuyển biến rõ nét hơn trong công tác xây dựng Đảng.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh cải cách hành chính; phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí. Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đây chính là những mục tiêu phấn đấu, nhiệm
vụ cụ thể phải làm trong những năm trước mắt của Đảng, Nhà nước, của toàn
dân ta. Mặt trận cần tập trung làm tốt một số việc sau:
1- Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy
hơn nữa vai trò, vị trí của mình trong việc tiếp tục củng cố, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ, tăng cường sự đồng thuận xã hội, thực
hiện đại đoàn kết từ cơ sở, trong từng cộng đồng dân cư đến toàn dân, toàn quân
trên phạm vi toàn quốc.
8


2- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam làm tốt công tác động viên các tầng lớp
nhân dân hăng hái tham gia các phong trào thi đua, các cuộc vận động thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát huy
mọi nguồn lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển.
3- Mặt trận tổ chức và hướng dẫn nhân dân phát huy quyền làm chủ, chủ

động và tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh,
nhất là ở cơ sở; củng cố và tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân, góp phần cùng các tổ chức đảng tạo ra sự chuyển biến
căn bản trong việc ngăn chặn, từng bước đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng, đạo đức,
lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tham gia cùng các cơ quan xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong thực hành tiết kiệm, phòng
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Nâng cao chất lượng, hiệu quả của công
tác thanh tra nhân dân; thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội
theo đúng quy định của pháp luật.
4- Mặt trận mở rộng và nâng cao hiệu quả đối ngoại nhân dân, tăng cường
đoàn kết, hữu nghị, hợp tác và tích cực hội nhập quốc tế, góp phần cùng đối
ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước nhằm củng cố môi trường hòa bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Để đưa chương trình hành động vào cuộc sống, đòi hỏi quan trọng là Mặt
trận cần tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và hiệu
quả hoạt động theo hướng tập trung về cơ sở, đa dạng hóa các hình thức tập hợp và
phát huy tối đa mọi nguồn lực trong các tầng lớp nhân dân kể cả người Việt Nam ở
nước ngoài. Phấn đấu để từng bước thực hiện khẩu hiệu: Công tác Mặt trận là công
tác của toàn xã hội, trong đó cán bộ chuyên trách là hạt nhân, là nòng cốt.
Qua đại hội Mặt trận Tổ quốc các cấp, một vấn đề rất quan trọng được các
đại biểu đề cập là Đảng phải thực sự đổi mới sự lãnh đạo của mình đối với công
tác Mặt trận. Sự quan tâm đó là rất chính đáng. Bởi trong cơ chế Đảng lãnh đạo,
9


nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, hiện nay muốn tiếp tục đổi mới nội dung
và phương thức hoạt động của Mặt trận.
Trước hết, Đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo của mình đối với công
tác Mặt trận theo yêu cầu của thời kỳ mới. Phải coi sự tiếp tục đổi mới phương

thức lãnh đạo của Đảng là một trong những điểm mấu chốt để Mặt trận tiếp tục
đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của mình. Nhân dịp này, tôi yêu cầu
các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở cần làm tốt chức năng lãnh đạo và
gương mẫu thực hiện trách nhiệm của một tổ chức thành viên, yêu cầu chính
quyền các cấp phối hợp và tạo mọi điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam hoàn thành những nhiệm vụ vẻ vang của mình trong giai đoạn mới.
II. Thực trạng công tác lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc
trong việc xây dựng khối đại đoàn kết.
2.1.Thực trạng công tác lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc
trong việc xây dựng khối đại đoàn kết.
Hơn 75 năm qua kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam bước lên vũ đài lãnh
đạo chính trị, lần lượt đã ra đời nhiều tổ chức Mặt trận khác nhau, mang tên
khác nhau, đối tượng tập hợp, mục đích rộng hẹp khác nhau tùy từng giai đoạn
cách mạng: Mặt trận phản đế, Mặt trận dân chủ, Mặt trận Việt Minh, Hội Liên
Việt rồi Mặt trận Liên Việt thời chống Pháp, Mặt trận Tổ quốc ở miền Bắc và
Mặt trận dân tộc giải phóng ở miền Nam thời chống Mỹ và sau đại thắng năm
1975, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của cả nước thống nhất, hoàn toàn độc lập và
tự do, bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh.
Trong cuộc đấu tranh sinh tử kéo dài mấy thập niên vì độc lập tự do
thống nhất Tổ quốc, trước sự mất còn của đất nước và dân tộc, mối tương tác
về nghĩa vụ và quyền lợi riêng rẽ của cá nhân, kể luôn cả sinh mệnh đã nhường
chỗ một cách tự nguyện cho nghĩa vụ và quyền lợi tối thượng: hy sinh tất cả để
cứu nước. Khối đại đoàn kết toàn dân với nội dung đó trong thời đại Hồ Chí
Minh đã mang sức mạnh của dân tộc lên tuyệt đỉnh đảm bảo thắng lợi.
Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc, nối
tiếp truyền thống vinh quang của thời đã qua, phải góp phần giải đáp yêu cầu to
10


lớn của giai đoạn cách mạng mới: xây dựng đất nước theo định hướng xã hội

chủ nghĩa và bảo vệ đất nước. Trong điều kiện mới, thiết lập liên minh toàn xã
hội khá phức tạp so với thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc. Khẩu hiệu “dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thể hiện ra cuộc sống,
tất nhiên không phải một lúc mà làm được, việc tìm đáp số về yêu cầu lợi ích
của mọi thành viên trong xã hội là không đơn giản. Ngày nay, mối tương tác
giữa nghĩa vụ và quyền lợi biểu hiện dưới bộ mặt mới; trong đó, nghĩa vụ phải
cân đối với quyền lợi, quyền lợi mọi tầng lớp phải được chăm sóc thỏa đáng và
đi đôi với nó, nghĩa vụ cũng phải được đảm bảo thực hiện thỏa đáng tương ứng.
Nói đến lợi ích, điều không thể tránh khỏi là sự cọ sát, nhiều khi gay gắt
trong nội bộ nhân dân, giữa cá nhân với cá nhân, trong cộng đồng, giữa một bộ
phận nhân dân với cơ quan quản lý Nhà nước v.v… điều hiếm có hoặc không
có trong giai đoạn trước làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết toàn dân.
Hệ thống chính trị bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chỉ có thể sống động trong vai trò của mình từ những sự cọ sát có thể có hoặc
đã xảy ra để tìm ra giao điểm cuối cùng của sự đồng thuận xã hội.
Mặt trận dân tộc thống nhất ở nước ta mà đại biểu là tổ chức Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đứng trước những thử trách nghiêm trọng về vai trò và uy tín
của mình mà cốt lõi là tính hiệu quả thiết thực trong hoạt động của nó. Từ rất
nhiều năm trước đây, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trở thành một thiết chế mang
tính chất trang trí, một lính kiểng của hệ thống chính trị ăn lương Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc gần như rơi vào điểm chết trong vai trò chính trị của nó.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam trải qua thử thách trong cuộc đấu tranh lâu
dài giải phóng đất nước được toàn thể nhân dân công nhận vai trò lãnh đạo
chính trị tuyệt đối cách mạng Việt Nam và cả dân tộc xem Đảng là Đảng của
mình. Hoàn cảnh đặc biệt, phương thức và phong cách lãnh đạo đặc biệt là cần
thiết để đảm bảo thắng lợi là điều đương nhiên.
Sau đại thắng 1975, sự nghiệp đấu tranh cho độc lập tự do và thống nhất
Tổ quốc đã hoàn thành. Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới: xây
dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong trạng thái
11



bình thường. Đảng trở thành Đảng cầm quyền nhưng vẫn giữ hầu như nguyên
vẹn phương thức và phong cách lãnh đạo cũ của giai đoạn đã qua, thực tế Đảng
làm cả chính quyền khiến cho Đảng thực tế trở thành một cơ cấu chính trị - xã
hội siêu quyền lực và để đảm bảo vận hành, chức danh Đảng viên trở thành
chuẩn, trước hết và trên hết, chưa hẳn tất cả đều đáp ứng về đức tài và chắc
chắn không chỉ có họ mới là người tài đức vượt trội trong toàn xã hội để chọn
và giữ các chức vụ chủ chốt từ cơ sở đến trung ương. Siêu quyền lực cộng với
tính biệt phái về cán bộ khiến cho tính chất Đảng trị ngày càng biểu hiện.
2. Nhà nước ta là của dân, do dân vì dân là một trong những công cụ làm
chủ của nhân dân, thậm chí là công cụ làm chủ chủ yếu và mạnh nhất được
nhân dân trao quyền lực quản lý xã hội, thể hiện về mặt thiết chế 3 nhánh: Lập
pháp, Hành pháp và Tư pháp chế ước lẫn nhau. Trong thực tiễn, nhánh hành
pháp trở thành một cơ quan siêu quyền lực trong hệ thống Nhà nước, được tăng
cường độ dưới bóng siêu quyền lực trên thực tế của Đảng. Sự tha hóa quyền lực
của nhánh hành pháp diễn ra không ít nơi nếu không nói thẳng là mang tính phổ
biến ở mọi ngõ ngách, ở mọi cấp bậc. Nhân dân - người chủ chân chính của đất
nước sau khi bỏ lá phiếu ủy quyền quản lý xã hội cho Nhà nước thì đơn thuần
còn lại số phận của người bị quản lý, người bị cai trị trên thực tế. Các cơ quan
quyền lực dân cử, Mặt trận và các đoàn thể… thực sự lu mờ.
Vì vậy, điều tiên quyết thứ hai là phải xây dựng và hoàn chỉnh Nhà nước
pháp quyền, pháp quy hóa mọi quan hệ tương tác của các chủ thể của hệ thống
chính trị.
3. Vị trí, vai trò của Mặt trận bao gồm các tổ chức thành viên đã được ghi
nhận ở Điều 9 Hiến pháp. Sự lu mờ của Mặt trận tôi đã nêu ở phần trên và
không có ý định đi sâu phân tích thêm nữa vì đã dùng lời lẽ đến tận cùng. Tìm
lại vị trí và vai trò của Mặt trận, trên cơ sở đó đổi mới hoạt động lệ thuộc vào
sự đổi mới toàn diện các mối quan hệ tương tác của toàn bộ hệ thống chính trị.
2. 2. Những kiến nghị

Chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân
tộc thống nhất càng phải được tiếp tục coi trọng hơn nữa trong thời kỳ cách
12


mạng mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế - xã hội
nhanh và bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị
ngày 17-11-1993 về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống
nhất đã nêu rõ: Nhiệm vụ chung của Mặt trận trong giai đoạn hiện nay là: Phát
huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết
mọi người Việt Nam tán thành công cuộc đổi mới nhằm mục tiêu giữ vững độc
lập dân tộc thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ, văn minh,
Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của tổ chức Mặt trận gắn liền
với nhiệm vụ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và đoàn
thể nhân dân. Vừa giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa tạo điều kiện để Mặt
trận và các đoàn thể nhân dân phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo trong xây
dựng, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của từng đoàn thể; bảo đảm
đúng tôn chỉ, mục đích, nội dung nhiệm vụ đã xác định của từng tổ chức. Mặt
trận và các tổ chức thành viên có đối tượng vận động khác nhau, tính chất tổ
chức khác nhau, nhưng thống nhất với nhau trong sự phối hợp hành động theo
chương trình hành động chung; gắn với thực tiễn, theo kịp, bám sát và phục vụ
có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và nhiệm vụ các tổ chức
trong từng thời kỳ, đáp ứng được nguyện vọng thiết thực của đoàn viên, hội
viên. Việc thực hiện thường xuyên, đồng bộ, bên cạnh sự chủ động, cố gắng nội
lực của từng tổ chức, còn có sự tham gia phối hợp của nhiều cấp, nhiều ngành.
Mặt trận tích cực và chủ động trong việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động của mình.
Cần chú ý tích cực đa dạng hóa các hình thức tập hợp, vận động nhân dân,

chủ động đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước và các cuộc vận động do
Mặt trận khởi xướng và chủ trì như Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; Ngày vì người nghèo; Ngày hội Đoàn kết
dân tộc ở khu dân cư" (18-11 hằng năm)... Phát huy tốt nhất vai trò của các cá
nhân tiêu biểu, điển hình trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân trong khối đại
13


đoàn kết toàn dân tộc. Việc lựa chọn, bố trí sắp xếp cán bộ chủ chốt của Mặt
trận cấp xã cũng cần được quan tâm thích đáng, cần chuẩn hóa các yêu cầu đối
với đội ngũ cán bộ này và xây dựng hệ thống cơ chế quản lý cũng như chế độ,
chính sách cho phù hợp, hiệu quả. Đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận
và các đoàn thể là một trong những nội dung trọng tâm trong thời gian tới, nhằm
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng, để Mặt trận và các đoàn thể
thực hiện tốt vai trò tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Phương thức hoạt động của Mặt trận rất phong phú, đa dạng và không ngừng
được đổi mới. Trong từng thời kỳ hoạt động, căn cứ vào tình hình và khả năng
thực tế ở mỗi địa phương để vận dụng và sáng tạo thêm những hình thức hoạt
động có hiệu quả. Đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận theo hướng
mạnh về cơ sở, tập trung cho cơ sở, đa dạng hóa hình thức tập hợp và phát huy
mọi nguồn lực của các lực lượng xã hội và tầng lớp nhân dân... Cần tập trung
vào những nội dung chủ yếu sau đây: Phối hợp và thống nhất hành động giữa
các thành viên. Đây không chỉ là phương thức hoạt động, mà còn là chức năng
và nguyên tắc làm việc cơ bản của Mặt trận. Phối hợp và thống nhất hành động
được tiến hành từ Trung ương đến cơ sở trên những lĩnh vực hoạt động của Mặt
trận như: tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, tham gia
xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật, thực hiện quyền giám sát hoạt động
của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cư, cán bộ công chức nhà nước theo quy
định của pháp luật, phát động các cuộc vận động toàn dân xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc, cải thiện đời sống nhân dân. Vấn đề có ý nghĩa then chốt trong việc
thực hiện thành công đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận là việc nâng
cao toàn diện chất lượng hoạt động của từng tổ chức theo hướng hiệu quả, thiết
thực, khắc phục bằng được tình trạng phô trương, hình thức, "hành chính hóa".
Đưa công tác Mặt trận về cơ sở, đến địa bàn dân cư và hộ gia đình. Đẩy
mạnh các hoạt động tự quản của nhân dân thông qua Ban công tác Mặt trận ở
cộng đồng dân cư, tới từng người dân, từng hộ gia đình. Thường xuyên tiếp xúc,
đối thoại, lắng nghe ý kiến của đoàn viên, hội viên, nhân dân để giải quyết kịp
14


thời hoặc kiến nghị với các cấp ủy đảng, chính quyền giải quyết là một nội dung
quan trọng trong đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội. Xây dựng cuộc sống mới ở cộng đồng dân cư, thông qua hoạt
động tự quản của nhân dân, thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"
trong việc tham gia quản lý xã hội, quản lý kinh tế, xây dựng chính quyền cơ sở
vững mạnh. Tăng cường phối hợp với chính quyền trong quản lý nhà nước, quản
lý kinh tế và quản lý xã hội. Sự phối hợp giữa Mặt trận với chính quyền còn có ý
nghĩa quan trọng trong việc kết hợp các biện pháp quản lý của Nhà nước với
phong trào hành động của nhân dân, thu hút sự tham gia tự giác và trực tiếp của
nhân dân, làm cho kỷ cương phép nước và ý nguyện lòng dân gặp nhau, làm cho
mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân được mở rộng, đi đến thống
nhất ý Đảng, lòng dân, phép nước. Để thực hiện tốt sự phối hợp với chính quyền
xây dựng và thực hiện tốt quy chế về mối quan hệ công tác giữa Ủy ban MTTQ
Việt Nam và cơ quan Nhà nước hữu quan ở từng cấp. Tăng cường tập hợp, vận
động và phát huy vai trò gương mẫu, hướng dẫn của các cá nhân tiêu biểu, có uy
tín trong cộng đồng dân cư, trong những người cao tuổi, trong đội ngũ các nhân
sĩ trí thức, doanh nhân, trong các dân tộc, các chức sắc tôn giáo và cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài... Đây là một đặc điểm mang tính truyền thống
văn hóa dân tộc trong việc tập hợp quần chúng, là một hình thức quan trọng

không thể thiếu để tập hợp và đoàn kết không bỏ sót ai trong Mặt trận dân tộc
thống nhất, vì mục tiêu chung và điểm tương đồng là độc lập dân tộc, toàn vẹn
lãnh thổ, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
MTTQ đã thường xuyên đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, vị
thế, vai trò của MTTQ Việt Nam đã được khẳng định và tạo lập mối quan hệ
chặt chẽ, gắn bó giữa Mặt trận và toàn thể dân tộc, hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ của một tổ chức liên minh chính trị. Với tinh thần "Đoàn kết, Dân chủ, Đổi
mới và Phát triển" sẽ phát huy mạnh mẽ dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội,
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh và Chương trình hành động của Đại hội VII Mặt trận Tổ quốc
15


Việt Nam trở thành hiện thực sinh động trong đời sống xã hội của các tầng lớp
nhân dân.
III.Quam điểm và giải pháp nhằm nâng cao Đảng lãnh đạo đối với Mặt
trận tổ quốc trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong
giai đoạn hiện nay.
3.1. Quan điểm và phương hướng
3.1.1. Quan điểm, phương hướng của Đảng và Nhà nước về đại đoàn kết toàn
dân tộc
3.1.1.1. Quan điểm:
+ Ðại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Ðảng là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là
nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Ðại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của
Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm

điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ,
thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng
tới tương lai.
+ Bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính
đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích
cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội; thực hiện dân chủ gắn liền với giữ
gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; không ngừng bồi dưỡng,
nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tinh
thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước; xem đó là những yếu tố quan trọng để
củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Ðại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà
hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp,
hình thức, trong đó các chủ trương của Ðảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
16


3.1.1.2. Phương hướng:
Củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
3.2. Các giải pháp
3.2.1. Nhóm giải pháp ở Trung ương
3.2.1.1. Xây dựng những định hướng chính sách nhằm tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
+ Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần, lấy phát triển kinh tế,
nâng cao đời sống nhân dân là nhiệm vụ trung tâm; gắn tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái trong từng bước phát

triển; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu chính đáng. Tổ
chức việc kết nghĩa, giúp đỡ nhau giữa các vùng, các địa phương có kinh tế phát
triển với vùng nghèo, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Phát triển văn hóa, y tế, giáo dục – đào tạo và khoa học - công nghệ, phấn
đấu nâng dần độ đồng đều về trình độ dân trí, văn hóa và mức độ hưởng thụ,
chăm sóc sức khỏe của nhân dân các vùng trong nước; gìn giữ và phát huy văn
hóa truyền thống tốt đẹp của từng dân tộc; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
+ Phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương; đẩy mạnh đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi; thực hiện phương châm" dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", coi trọng vai trò của nhân dân trong đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Ðịnh hướng chính sách
đối với các giai cấp, tầng lớp xã hội, cụ thể:
- Với giai cấp công nhân: nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ
học vấn và nghề nghiệp, bồi dưỡng tác phong công nghiệp, thực hiện "trí thức
hóa công nhân". Giải quyết việc làm, giảm tối đa tỉ lệ công nhân thiếu việc làm
và thất nghiệp. Thực hiện tốt pháp luật lao động, bảo hộ lao động và việc chăm
17


sóc, phục hồi sức khỏe cho công nhân. Sớm tổ chức thực hiện Quỹ trợ cấp thất
nghiệp. Xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế đối với công nhân, viên chức, lao động; chính sách ưu đãi
nhà ở đối với công nhân bậc cao. Tăng cường đào tạo cán bộ lãnh đạo, cán bộ
quản lý và phát triển đảng trong công nhân. Nghiên cứu việc giao cho tổ chức
công đoàn giới thiệu những công nhân ưu tú để kết nạp vào Ðảng.
- Với giai cấp nông dân: Nhà nước có chính sách điều tiết, hỗ trợ, tổ chức
tốt việc tiêu thụ nông sản cho nông dân; đưa công nghệ sản xuất tiên tiến vào
nông nghiệp, nông thôn; có chính sách điều chỉnh hợp lý việc sử dụng quỹ đất,
vừa bảo đảm an ninh lương thực, vừa thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật

nuôi, nâng cao hiệu quả sử dụng đất; có chính sách khuyến khích nông dân
chuyển sang các nghề phi nông nghiệp; thúc đẩy khôi phục làng nghề, phát triển
ngành nghề mới ở nông thôn; mở rộng thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối
với nông dân hết tuổi lao động... Mở rộng các loại hình đào tạo nghề, chuyển
giao khoa học-kỹ thuật và công nghệ thông qua các hoạt động khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư, các trung tâm học tập cộng đồng và các điển hình
nông dân sản xuất giỏi. Hội Nông dân là trung tâm và nồng cốt cho phong trào
nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới.
- Với đội ngũ trí thức: Có cơ chế cụ thể phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng và đãi ngộ xứng đáng các tài năng; mở rộng dân chủ, khuyến khích sáng
tạo, phát minh, sáng kiến và bảo vệ sở hữu trí tuệ; mở rộng vai trò tư vấn, phản
biện của các hội khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn và văn học
nghệ thuật chuyên ngành đối với các đề án phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội.
Có chính sách động viên các nhà khoa học, kể cả những người đã nghỉ hưu và
những người đang sinh sống ở nước ngoài tham gia các chương trình kinh tế-xã
hội của quốc gia và xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật. Ðẩy mạnh phát
triển đảng và nâng cao chất lượng công tác chính trị tư tưởng đối với trí thức và
sinh viên.
- Với Thanh niên: đẩy mạnh giáo dục nhận thức chính trị, giáo dục truyền
thống và đạo đức cách mạng, nâng cao giác ngộ lý tưởng và hoài bão cho thanh
18


niên, động viên thanh niên xung kích trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tích cực tạo việc làm cho thanh niên. Khuyến
khích thanh niên tự học, tự nâng cao tay nghề, tự tạo việc làm. Tạo điều kiện, cơ
hội cho thanh niên có tài năng đi học ở nước ngoài để trở về phục vụ đất nước.
Chú trọng bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ, dạy nghề cho thanh niên trong lực lượng
vũ trang khi hết thời gian làm nghĩa vụ quân sự. Tăng cường tuyên truyền về
Ðảng và công tác phát triển Ðảng trong thanh niên. Thu hút rộng rãi thanh, thiếu

niên và nhi đồng vào các tổ chức do Ðoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
làm nồng cốt.
- Với Phụ nữ: tiếp tục nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và
trong toàn xã hội về công tác phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới. Khẩn trương thể
chế hóa các quan điểm, chủ trương của Ðảng về công tác phụ nữ và công tác cán
bộ nữ trong tình hình mới; lồng ghép vấn đề giới trong quá trình xây dựng và
thực hiện các chương trình, kế hoạch chung. Coi trọng các chính sách xã hội,
các chính sách về giới để giảm nhẹ lao động nặng nhọc cho phụ nữ. Nâng cao
trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp cho phụ nữ. Chăm sóc sức khỏe bà mẹ
và trẻ em. Tạo điều kiện để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động
xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp.
- Với Cựu chiến binh: phát huy bản chất, truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ", tích
cực tham gia xây dựng và bảo vệ Ðảng, chính quyền, chế độ xã hội chủ nghĩa;
giúp nhau cải thiện đời sống; xóa đói, giảm nghèo; góp phần giáo dục truyền
thống và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ; là chỗ dựa tin cậy của
Ðảng và chính quyền ở cơ sở.
- Với Người cao tuổi: xây dựng chính sách chăm sóc sức khỏe, quan tâm
hơn đến người cao tuổi về y tế, hưởng thụ văn hóa, nhu cầu được thông tin, phát
huy khả năng tham gia đời sống chính trị của đất nước và các hoạt động xã hội,
nêu gương tốt, giáo dục lý tưởng và truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ.
Thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người có công với nước.
Xây dựng Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi. Phát huy vai trò
Hội Người cao tuổi Việt Nam.
19


- Với các nhà doanh nghiệp: coi trọng vai trò của các doanh nhân trong
phát triển kinh tế - xã hội. Hoàn thiện khung pháp lý chung để các nhà doanh
nghiệp yên tâm phát triển sản xuất-kinh doanh. Tăng cường sự lãnh đạo của
Ðảng đối với các tổ chức hiệp hội các nhà doanh nghiệp.

- Với các dân tộc thiểu số: thực hiện tốt chính sách bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp nhau cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam;
chống kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc. Tập trung phát triển kinh tế, chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của
các dân tộc. Nêu cao ý thức tự lực tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số,
đồng thời tăng cường sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước và cộng đồng. Thực hiện
chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân sĩ, trí thức dân tộc
thiểu số. Ðộng viên, phát huy vai trò của mọi tầng lớp nhân dân trong việc bảo
đảm an ninh chính trị và trật tự xã hội.
- Với đồng bào các tôn giáo: bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
không theo tôn giáo, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Ðoàn
kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào
không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của đạo lý và
truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với
nước, đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan. Ðồng bào theo đạo và
các chức sắc tôn giáo có trách nhiệm sống "tốt đời, đẹp đạo", phát huy những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt
động theo luật pháp và được luật pháp bảo hộ. Tăng cường công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo. Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc,
tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, kích động gây chia rẽ khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, làm tổn hại đến an ninh quốc gia.
- Với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài: có chính sách động viên và
tạo điều kiện cho người Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương tham gia
xây dựng đất nước. Khuyến khích đồng bào đầu tư về trong nước, có chính sách
thu hút, phát huy sự đóng góp của trí thức Việt kiều. Vận động đồng bào chấp
20


hành tốt pháp luật ở các nước sở tại, đồng thời có biện pháp tích cực bảo vệ

quyền lợi hợp pháp của đồng bào. Làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền về
tình hình trong nước và các chủ trương, chính sách của nhà nước ta trong cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Có chính sách khen thưởng người Việt
Nam ở nước ngoài có nhiều thành tích đóng góp cho Tổ quốc.
3.2.1.2. Phát huy mạnh mẽ vai trò của chính quyền Nhà nước trong việc thực
hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Không ngừng hoàn thiện các cơ chế dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, cụ thể hóa
để thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" trong tất
cả các loại hình tổ chức và đơn vị cơ sở thuộc các cấp, các ngành, kể cả trong
các cơ quan Ðảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Khắc phục
mọi biểu hiện vi phạm dân chủ, coi nhẹ dân chủ hoặc dân chủ hình thức. Phát
huy dân chủ đồng thời đề cao pháp luật, kỷ luật, kỷ cương trong toàn xã hội.
+ Hoạt động của các cơ quan nhà nước phải đặt nhiệm vụ phục vụ nhân dân
lên trên hết, giải quyết đúng đắn và nhanh chóng các công việc có quan hệ trực
tiếp đến đời sống nhân dân; thực hiện đúng đắn chính sách đại đoàn kết toàn dân
tộc của Ðảng. Nhà nước có cơ chế phối hợp và bảo đảm các điều kiện cần thiết
để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng
của các tầng lớp nhân dân; tích cực tham gia xây dựng chủ trương, chính sách,
pháp luật; tập hợp, động viên nhân dân đồng tâm, hiệp lực thực hiện thắng lợi
những chủ trương, nhiệm vụ của Nhà nước; đồng thời, làm tốt vai trò giám sát
đối với các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, góp phần xây
dựng và bảo vệ chính quyền trong sạch, vững mạnh. Ðối với những vấn đề lớn
và đặc biệt quan trọng của đất nước, cần có những hình thức thích hợp để nhân
dân tham gia ý kiến. Trước khi ban hành những chủ trương, chính sách quan
trọng, cần tổ chức chu đáo, thiết thực việc lấy ý kiến các tầng lớp nhân dân có
liên quan, bảo đảm để nhân dân có thể thẳng thắn bày tỏ được ý kiến đóng góp.
Khuyến khích trao đổi, tranh luận với tinh thần xây dựng về những vấn đề có ý
kiến khác nhau, tránh chụp mũ, áp đặt.
21



+ Nhà nước chăm lo đào tạo, bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ, giáo dục đạo
đức cho cán bộ chính quyền các cấp. Xây dựng phong cách và phương thức
công tác của cán bộ, công chức phù hợp với đạo đức cách mạng và đáp ứng yêu
cầu tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Giáo dục cán bộ, công chức xây
dựng và thực hành phong cách "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có
trách nhiệm với dân", "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin". Cán bộ, công
chức phải có thái độ chân thành, tôn trọng dân, hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân;
không thành kiến, phân biệt đối xử khi làm việc với dân. Bổ sung, hoàn chỉnh
Pháp lệnh cán bộ, công chức, chú ý phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối
với hoạt động của cán bộ, công chức. Thực hiện phương thức dân chủ trong lãnh
đạo và quản lý điều hành, khắc phục lối làm việc mệnh lệnh, hành chính đơn
thuần.
3.2.1.3. Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị
trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân
trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ða dạng hóa các hình thức tập hợp
nhân dân. Ðẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể nhân
dân, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội và các tổ chức nhân dân.
Sớm ban hành luật về hội quần chúng. Xây dựng các văn bản dưới luật để cụ thể
hóa những nội dung nói trên và để Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy
hiệu lực tốt hơn trong đời sống xã hội. Xây dựng các cộng đồng dân cư tự quản
ở các thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố, hoạt động trên cơ sở hương ước, quy ước
không trái pháp luật. Chú trọng bồi dưỡng và hướng dẫn những người có uy tín
trong cộng đồng tham gia đóng góp cho phong trào chung. Phát huy những mặt
tốt của các hình thức cộng đồng truyền thống như làng, bản, dòng họ, gia đình;
đồng thời, kịp thời uốn nắn những biểu hiện cục bộ, lệch lạc.
+ Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phối hợp với các cơ quan nhà nước
hướng hoạt động nhiều hơn về cơ sở, đến từng hộ dân, nhất là vùng sâu, vùng

xa, vùng đặc biệt khó khăn, vận động và giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo,
vươn lên làm giàu chính đáng, hợp pháp, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở
22


×