Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Mô hình giáo dục đào tạo ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.02 KB, 27 trang )

Câu 1: Mô hình giáo dục đào tạo ở Việt Nam hiện nay


Hệ thống giáo dục – đào tạo ở Việt Nam được chia thành các cấp bậc như
sau:
1. Giáo dục cấp nhà trẻ - mẫu giáo
Là nơi giữ trẻ không bắt buộc dành cho trẻ dưới độ tuổi đi học chính thức
(dưới 6 tuổi). Nhà trẻ và mẫu giáo dành cho trẻ dưới 6 tuổi (thậm chí trẻ mới sinh
vài tháng đã vào nhà trẻ) mục đích hình thành tư duy cho trẻ. Tạo những thói quen,
tập tính ngay trong giai đoạn này hay là nơi giúp trẻ vui chơi để cha mẹ đi làm.
2. Giáo dục cơ bản
Giáo dục cơ bản kéo dài 12 năm và được chia thành 3 cấp: cấp I (tiểu học),
cấp II (trung học cơ sở), và cấp III (trung học phổ thông).
Cấp tiểu học
Cấp tiểu học hay còn được gọi là cấp I, bắt đầu năm 6 tuổi đến hết năm 11
tuổi. Cấp I gồm có 5 trình độ, từ lớp 1 đến lớp 5. Đây là cấp học bắt buộc đối với
mọi công dân. Học sinh phải học các môn sau: Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã
hội (lớp 1, 2, và 3), Khoa học (lớp 4 và 5), Lịch sử (lớp 4 và 5), Địa lý (lớp 4 và
5), Âm nhạc, Mỹ thuật, Đạo đức, Thể dục, Tin học (tự chọn), Tiếng Anh (lớp 3, 4,
và 5 một số trường cho học sinh học tiếng Anh bắt đầu từ năm lớp 1, lớp 2). Để kết
thúc bậc tiểu học, học sinh phải trải qua kỳ thi tốt nghiệp tiểu học. Hiện nay đã
chính thức bãi bỏ.
Cấp trung học cơ sở
Cấp II gồm có 4 trình độ, từ lớp 6 đến lớp 9, bắt đầu từ 11 đến 15 tuổi. Đây
là một cấp học bắt buộc để công dân có thể có một nghề nghiệp nhất định (tốt
nghiệp cấp || có thể học nghề hay trung cấp chuyên nghiệp mà không cần học tiếp
bậc Trung học phổ thông).


Học sinh đến trường phải học các môn sau: Toán, Vật lý, Hoá học (lớp 8 và
9), Sinh học, Công nghệ, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Giáo dục Công dân, Ngoại


ngữ (Anh, Pháp, Nga, Trung, Nhật), Thể dục, Âm nhạc, Mỹ thuật, Tin học (máy vi
tính hoặc điện toán).
Ngoài ra học sinh có thêm một số tiết bắt buộc như: giáo dục ngoài giờ lên
lớp, giáo dục hướng nghiệp (lớp 9), sử ca học đường...
Hết cấp trung học cơ sở, học sinh được xét tốt nghiệp dựa trên thành tích học
tập tích lũy trong bốn năm. Trước đây hết cấp Trung học cơ sở học sinh phải trải
qua kỳ thi tốt nghiệp, nhưng từ năm 2006 đến nay đã chính thức được bãi bỏ. Muốn
theo học tiếp trình độ cao hơn (cấp III) học sinh phải tham dự các kỳ thi tuyển sinh.
Giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở là các cấp học phổ cập.
Cấp trung học phổ thông
Cấp III gồm 3 trình độ, từ lớp 10 đến lớp 12, bắt đầu từ 15 đến 18 tuổi. Để
tốt nghiệp cấp III, học sinh phải tham gia kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông tại
Việt Nam của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam.
Học sinh muốn được theo học tại các trường trung học phổ thông công lập
phải dự một kỳ thi tuyển sinh sau khi học hết cấp trung học cơ sở hoặc xét tuyển
theo học bạ của 4 năm học cấp II. Các kỳ thi này được tổ chức hàng năm, do Sở
Giáo dục và Đào tạo các địa phương chủ trì. Ở cấp học này, học sinh cũng phải học
các môn tương tự như ở cấp học trung học cơ sở, nhưng bỏ bớt hai môn năng khiếu
là Âm nhạc và Mỹ thuật. Tuy nhiên, học sinh trung học phổ thông còn được tham
gia một số hoạt động khác như hướng nghiệp, dạy nghề...
3. Giáo dục chuyên biệt
Trung tâm GDTX


Nơi phổ cập giáo dục cho tất cả các lứa tuổi
Trung học phổ thông chuyên, năng khiếu
Từ năm 1966, hệ thống trung học phổ thông chuyên được lập ra, bắt đầu với
những lớp chuyên Toán tại các trường đại học lớn về khoa học cơ bản, sau đó các
trường chuyên được thiết lập rộng rãi tại tất cả các tỉnh thành. Mục đích ban đầu
của hệ thống trường chuyên, như các nhà khoa học khởi xướng như Lê Văn

Thiêm, Hoàng Tụy, Tạ Quang Bửu, Ngụy Như Kon Tum... mong đợi, là nơi phát
triển các tài năng đặc biệt xuất sắc trong các lĩnh vực khoa học cơ bản
Trong thời kì đầu của hệ thống trường chuyên, khi chỉ mới hình thành một
vài lớp phổ thông chuyên tại các trường đại học, mục tiêu này đã được theo sát và
đạt được thành tựu khi mà phần lớn các học sinh chuyên Toán khi đó tiếp tục theo
đuổi các lĩnh vực Toán học, Vật lý, Tin học (máy tính)... Đây là giai đoạn mà hệ
thống trường chuyên làm đúng nhất trách nhiệm của nó. Những học sinh chuyên
trong thời kì này hiện đang nắm giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt tại chốt tại các
trường đại học lớn, các viện nghiên cứu của Việt Nam cũng như là những cá nhân
tiêu biểu nhất của nền khoa học nước nhà.
Tuy nhiên, cùng với sự mở rộng của hệ thống trường chuyên cũng như việc
Việt Nam tham dự các kì Olympic khoa học quốc tế "hào hứng" hơn, mục tiêu ban
đầu của hệ thống này ngày càng phai nhạt. Thành tích của các trường chuyên trong
kỳ thi học sinh giỏi các cấp, kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông và kì thi tuyển
sinh vào đại học và cao đẳng vẫn thường rất cao. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng
lý do chính cho những thành tích này không phải là chất lượng giáo dục mà là
phương pháp luyện thi. Tỉ lệ học sinh các trường chuyên tiếp tục theo đuổi khoa
học hay các lĩnh vực liên quan cũng ngày càng thấp, và khiến cho giới khoa học
Việt Nam không khỏi quan ngại.


Để được vào học tại các trường chuyên, học sinh tốt nghiệp cấp II phải thoả
mãn các điều kiện về học lực, hạnh kiểm ở cấp II và đặc biệt là phải vượt qua các
kỳ thi tuyển chọn đầu vào tương đối khốc liệt của các trường này.
Trường Phổ thông dân tộc nội trú
Đây là các trường nội trú dặc biệt, có thể là cấp II hoặc có thể là cấp III. Các
trường này dành cho con em các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn về kinh tế - xã hội nhằm bồi dưỡng nguồn nhân lực, tạo nguồn cán bộ cho
các địa phương này. Học sinh được ở tại trường và được cấp kinh phí ăn, ở.
Trường giáo dưỡng

Đây là loại hình trường đặc biệt dành cho các thanh thiếu niên hư hỏng,
phạm tội. Trong trường, các học sinh này được học văn hoá, được dạy nghề, giáo
dục đạo đức để có thể ra trường, về địa phương sau một vài năm. Các năm trước,
các trường loại này do Bộ Công an Việt Nam quản lý, nhưng bây giờ, Bộ Lao
động-Thương binh-Xã hội quản lý.
4. Giáo dục sau phổ thông
Dự bị đại học
Cần tốt nghiệp cấp trung học phổ thông hay tương đương để có thể trở thành
dự bị đại học.
Các học sinh dân tộc ít người nếu không trúng tuyển vào đại học có thể theo
học tại các trường dự bị đại học. Sau một năm học tập, các học sinh này có thể
chọn một trong các trường đại học trong cả nước để theo học (trừ Trường Đại học
Ngoại thương và các trường thuộc ngành quân sự).
Trung cấp, dạy nghề


Cần tốt nghiệp cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông hay tương đương để
có thể học nghề, trung cấp.
Đây là chương trình học dạy nghề dành cho người không đủ điều kiện vào
đại học hoặc cao đẳng.
Cao đẳng
Cần tốt nghiệp cấp trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, học nghề
hoặc tương đương để có thể học hay liên thông lên cấp cao đẳng.
Sinh viên phải tham gia kỳ thi tuyển sinh trực tiếp vào cao đẳng hoặc điểm
thi vào đại học thấp hơn điểm quy định nhưng lại đủ để vào cao đẳng thì đăng ký
vào học cao đẳng. Chương trình cao đẳng thông thường kéo dài 3 năm. Tuy nhiên,
một số trường cao đẳng có thể kéo dài đến 3,5 năm hoặc 4 năm để phù hợp với
chương trình học.
Đại học
Cần tốt nghiệp Trung học phổ thông, Trung cấp chuyên nghiệp, học nghề

hay tương đương để có thể học hay liên thông lên Đại học Theo kết quả giám sát
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện chính sách pháp luật về thành lập
trường, đầu tư và bảo đảm chất lượng đào tạo đối với giáo dục đại học, tính đến
nay, cả nước đã có 409 trường ĐH, CĐ, trong đó có 307 trường được thành lập mới
hoặc nâng cấp trong 10 năm qua. Với số trường mới này, 35 tỉnh, thành đã có thêm
trường ĐH, CĐ mới; số tỉnh, thành có trường ĐH là 40, có trường CĐ là 60, có ít
nhất một trường ĐH hoặc CĐ là 62. Trong số 307 trường ĐH, CĐ mới, có 245
trường được nâng cấp từ bậc học thấp hơn; 8 trường được nâng cấp từ khoa trực
thuộc ĐH quốc gia, ĐH vùng, chỉ có 32 trường xây dựng hoàn toàn mới. Kết quả
giám sát cho thấy, các trường ĐH được thành lập trên cơ sở nâng cấp một khoa trực
thuộc ĐH quốc gia, ĐH vùng hoặc chia tách từ một trường ĐH, có ưu thế hơn


trong việc chuẩn bị các điều kiện bảo đảm chất lượng, đặc biệt về đội ngũ giáo
viên, năng lực tổ chức, quản lý thực hiện nhiệm vụ đào tạo. Còn các đơn vị được
nâng cấp từ bậc học thấp hơn, CĐ lên ĐH và trung cấp lên CĐ lại gặp khó khăn rất
lớn trong việc nâng cấp cơ sở vật chất, đội ngũ để đáp ứng yêu cầu đào tạo ở bậc
học cao hơn. Học sinh tốt nghiệp cấp III muốn vào các trường đại học phải tham
gia kỳ thi tuyển sinh đại học. Chương trình bậc đại học của Việt Nam kéo dài từ 4
đến 6 năm; 2 năm đầu là chương trình đại học đại cương, 2 (hay 4) năm sau là
chương trình chuyên ngành. Dù là ngành gì, sinh viên phải học một số tiết về quốc
phòng an ninh.
Sau khi tốt nghiệp, sinh viên được cấp bằng đại học với các tên gọi như: cử
nhân, kỹ sư, kiến trúc sư, bác sĩ, nhạc sĩ,...
5. Giáo dục sau đại học
Cao học
Các cá nhân sau khi tốt nghiệp đại học, có nhu cầu học cao học, vượt qua
được kỳ thi tuyển sinh cao học hằng năm sẽ được tham dự các khoá đào tạo cao
học. Thời gian đào tạo thường là 3 năm, có thể dài hơn hoặc ngắn hơn phụ thuộc
vào quy định của chuyên ngành và của cơ sở đào tạo. Các cá nhân đi học cao học

có thể theo hai diện: tự đi học thì phải trang trải toàn bộ chi phí học tập; cơ quan cử
đi học thì sẽ được cơ quan chi trả chi phí học tập, tuy nhiên, các đối tượng này khi
đi học phải có sự đồng ý của cơ quan cử đi học. Sau khi tốt nghiệp, các học viên
cao học được cấp bằng thạc sĩ.
Nghiên cứu sinh
Đây là bậc đào tạo cao nhất ở Việt Nam hiện nay. Tất cả các cá nhân tốt
nghiệp từ đại học trở lên đều có quyền làm nghiên cứu sinh với điều kiện phải vượt
qua kỳ thi tuyển nghiên cứu sinh hàng năm. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt


Nam có có sự định thay đổi trong cách tuyển chọn nhằm nâng cao chất lượng
nghiên cứu sinh. Thời gian làm nghiên cứu sinh thường là 4 năm với người có bằng
cử nhân hay kỹ sư và 3 năm với người có bằng thạc sĩ. Tuy nhiên, thời gian làm
nghiên cứu sinh còn phụ thuộc vào ngành học và loại hình học (học tập trung hay
không tập trung). Sau khi hoàn thành thời gian và bảo vệ thành công luận án, các
nghiên cứu sinh sẽ được cấp bằng tiến sĩ.

Câu 2: Thành tựu và hạn chế của giáo dục Việt Nam trong những năm
đổi mới
Trong Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 của Việt Nam
(Nguồn: www.moj.gov.vn), cũng đã chỉ ra những thành tựu và hạn chế của
ngành giáo dục đào tạo của Việt Nam, cụ thể:
-

Những thành tựu:

Bướcvào Thế kỷ 21 giáo dục Việt Nam đã trải qua 15 năm đổi mới và thu
được những thành quả quan trọng về mở rộng quy mô, đa dạng hóa các hình thức
giáo dục và nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà trường. Trình độ dân trí được nâng
cao. Chất lượng giáo dục có những chuyển biến bước đầu.

a) Một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất và đa
dạng hóa đã được hình thành với đầy đủ các cấp học và trình độ đào tạo từ mầm
non đến sau đại học. Mạng lưới các trường phổ thông được xây dựng rộng khắp
trên toàn quốc. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi có trường nội trú và bán trú cho
con em các dân tộc ít người. Các trường, lớp trung tâm dạy nghề phát triển dưới
nhiều hình thức, các lớp dạy nghề ngắn hạn phát triển mạnh. Các trường đại học và
cao đẳng được thành lập ởhầu hết các khu dân cư lớn của cả nước, các vùng, các
địa phương. Cơ sở vật chất kỹ thuật các trường được nâng cấp, cải thiện. Số trường
lớp được xây dựng mới theo chuẩn quốc gia ngày càng tăng.


Lực lượng lao động đã qua đào tạo theo các loại hình và trình độ khác nhau
chiếm20% trong tổng số lao động cả nước, đạt chỉ tiêu định hướng Nghị quyết
Trung ương 2 Khóa VIII đã đề ra.
b) Công tác xã hội hóa giáo dục đã đem lại kết quả bước đầu. Các lực lượng
xã hội tham gia ngày càng tích cực vào việc huy động trẻ đến trường, xây dựng cơ
sở vật chất của trường học, đầu tư mở trường, đóng góp kinh phí cho giáo dục dưới
nhiều hình thức khác nhau. Tỷ trọng nguồn kinh phí xã hội đóng góp trong tổng
kinh phí giáo dục ngày càng tăng, đạt khoảng 25% vào năm 2000.
c) Chất lượng giáo dục có chuyển biến trên một số mặt: Trình độ hiểu biết,
năng lực tiếp cận tri thức mới của một bộ phận học sinh, sinh viên được nâng cao;
giáo dục trung học phổ thông chuyên đạt trình độ cao của khu vực và thế giới, số
học sinh phổ thông đạt các giải quốc gia và quốc tế ở một số môn học ngày càng
tăng. Số đông sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng có hoài bão lập thân, lập
nghiệp và có tinh thần tự lập, năng động. Chất lượng đào tạo của một số ngành
khoa học cơ bản và khoa học công nghệ đã được nâng cao một bước. Giáo dục đại
học đã từng bước vươn lên, đào tạo được một đội ngũ đông đảo cán bộ khoa học kỹ
thuật từ cử nhân, thạc sĩ cho đến tiến sĩ, đã và đang công tác và có những cống hiến
quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Nhờ những thành tựu của giáo dục và các lĩnh vực xã hội khác mà chỉ số

phát triển con người (HDI) của nước ta theo bảng xếp loại của Chương trình phát
triển Liên hiệp quốc (UNDP) 10 năm gần đây có những tiến bộ đáng kể: từ 0,456 xếp thứ121 tăng lên 0,682 - xếp thứ 101/174 nước. So với chỉ số phát triển kinh
tế(GDP/người), HDI vượt lên 19 bậc.
Đầu tư cho giáo dục từ ngân sách nhà nước và các nguồn khác tăng lên.
Ngân sách nhà nước dành cho giáo dục tăng từ 8% năm 1990 lên tới 15% năm
2000. Nhiều chương trình, đề án lớn huy động đa dạng nguồn lực để phát triển giáo
đục, đặc biệt là cho giáo dục phổ thông đã được triển khai.


Ngành giáo dục đã có một số đổi mới về mục tiêu giáo dục; đa dạng hóa các
loại hình giáo dục và các nguồn kinh phí, huy động xã hội tham gia phát triển giáo
dục,tạo cơ hội cho nhiều người học tập, tăng cường trao đổi và hợp tác quốc tế. Các
đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có nhiều hoạt động trợ giúp phát triểngiáo
dục.
Sự ổn định chính trị, những thành quả phát triển kinh tế, cải thiện đời sống
nhân dân của thời kỳ đổi mới đã tạo thêm điều kiện cũng như môi trường thuận lợi
cho giáo dục phát triển.
-

Những yếu kém:

Mặc dầu đã đạt được những thành tựu nêu rên, nhưng nhìn chung, giáo dục
nước ta còn yếu về chất lượng, mất cân đối về cơ cấu; hiệu quả giáo dục chưa cao;
giáo dục chưa gắn bó chặt chẽ với thực tiễn; đào tạo chưa gắn với sử dụng; đội ngũ
giáoviên còn yếu, cơ sở vật chất còn thiếu; chương trình, giáo trình, phương pháp
giáo dục và công tác quản lý chậm đổi mới; một số hiện tượng tiêu cực, thiếu kỷ
cương chậm được khắc phục.
a) Chất lượng giáo dục nói chung còn thấp một mặt chưa tiếp cận được với
trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, mặt khác chưa đáp ứng với các
ngành nghề trong xã hội. Học sinh, sinh viên tốt nghiệp còn hạn chế về năng lực tư

duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng thích ứng với nghề nghiệp; kỷ luật lao
động, tinh thần hợp tác và cạnh tranh lành mạnh chưa cao; khả năng tự lập nghiệp
còn hạn chế.
b) Hiệu quả hoạt động giáo dục chưa cao. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cuối cấp
so với nhập học đầu cấp còn thấp, nhất là ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa (năm học
1999 - 2000 tỷ lệ này ở tiểu học và trung học cơ sở xấp xỉ 70%, ở trung học phổ
thông 78%). Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp; còn nhiều học sinh, sinh viên
sau khi tốt nghiệp chưa có việc làm.


c) Cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền đã được khắc phục
một bước song vẫn còn mất cân đối.Công tác chỉ đạo cũng như tâm lý xã hội vẫn
còn nặng về đào tạo đại học, chưa chú trọng đúng mức đến đào tạo nghề, đặc biệt là
nghề trình độ cao. Việc tăng quy mô đào tạo trong những năm gần đây chủ yếu
diễn ra ở bậc đại học; tỷ lệ học sinh, sinh viên cao đẳng kỹ thuật, công nghệ, trung
học chuyên nghiệp và học nghề còn thấp và tăng chậm. Công tác dự báo, quy hoạch
định hướng ngành nghề đào tạo chưa tốt. Học sinh, sinh viên chưa được nhà trường
hướng dẫn đầy đủ về nghề nghiệp và tạo khả năng tự lập nghiệp.
Các cơ sở giáo dục, nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp tập
trung quá nhiều vào các thành phố lớn, khu công nghiệp lớn. Giáo dục ở vùng sâu,
vùng xa,vùng đồng bào các dân tộc thiểu so còn khó khăn.
Chưa chú trọng đúng mức đến các hình thức giáo dục không chính quy, giáo
dục bên ngoài nhà trường, đặc biệt cho những người đang lao động.
d) Đội ngũ nhà giáo thiếu về số lượng và nhìn chung thấp về chất lượng,
chưa đáp ứng được yêu cầu vừa phải tăng nhanh quy mô vừa phải đảm bảo và nâng
cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Đặc biệt là đội ngũ giảng viên các trường đại
học ít có điều kiện thường xuyên tiếp cận, cập nhật tri thức và những thành tựu
khoa học công nghệ mới của thế giới.
e) Cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu thốn. Chưa thanh toán hết các lớp
học 3 ca; vẫn còn các lớp học tranh tre nứa lá ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Thư

viện, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập còn rất thiếu và lạc hậu.
( Nguồn: www.moj.gov.vn)


Theo Báo cáo “Nâng cao chất lượng giáo dục cho mọi người” của Ngân
hàng Thế giới ( nguồn: www.cpv.org.vn), trong những năm qua, giáo dục Việt
Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tích cực trong công
cuộc xây dựng và đổi mới đất nước.
Thành tựu đạt được
Báo cáo này chỉ ra rằng, tuy thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ
bằng 1/7 của các nước khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, bằng 1/4 mức thu
nhập trung bình của các nước có mức thu nhập trung bình, nhưng tỷ lệ người biết
chữ ngang bằng với hai nhóm nước này. Việt Nam đã đạt được những tiến bộ vượt
bậc liên quan tới trình độ học vấn kể từ đầu những năm 1990. Những tiến bộ này
chủ yếu diễn ra ở cấp tiểu học và trung học mặc dù khả năng theo học đại học cũng
đang dần tăng lên. Tỷ lệ học sinh nhập học bậc tiểu học hiện nay đã gần đạt mức
phổ cập. Tỷ lệ nhập học năm học 2006 bậc tiểu học, trung học và đại học lần lượt
đạt khoảng 100%, 76% và 16%. Những tỷ lệ này đã tạo cho Việt Nam có một chỗ
đứng rất thuận lợi so với những nước có mức thu nhập bình quân đầu người tương
tự. Do chất lượng giáo dục và khả năng đi học ngày càng tăng cao, tỷ lệ nhập học
quá tuổi cũng giảm đi và dần dần chuyển sang các lớp cao hơn trước khi giảm hẳn
đối với mọi khối lớp và bậc học. Hiệu quả giáo dục nhìn chung khá ấn tượng. Điều
đó cho thấy cho tới nay không có sự đánh đổi giữa số lượng và chất lượng. Chất
lượng giáo dục cao hơn đã khuyến khích học sinh ở lại trường và hoàn thành bậc
học hơn.


Thách thức cần sớm được giải quyết
Tuy giáo dục của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng
Báo cáo này cũng chỉ ra rằng, giáo dục Việt Nam vẫn còn những tồn tại, cần sớm

được giải quyết. Theo Báo cáo này, vấn đề lớn đầu tiên Việt Nam đang gặp phải là
trình độ học vấn, tỷ lệ đi học và hoàn thành bậc học không đồng đều, đặc biệt giữa
các nhóm thu nhập và các nhóm dân tộc. Mặc dù trình độ học vấn của mọi nhóm
thu nhập từ năm 1992 đến 2008 đã tăng lên, nhưng nhóm có thu nhập thấp có tỷ lệ
đi học thấp hơn tỷ lệ trung bình của cả nước đối với cả bậc trung học cơ sở và trung
học phổ thông: 84% đối với giáo dục trung học cơ sở và 48% đối với giáo dục
trung học phổ thông (năm 2006). Điều này có nghĩa đối với bậc trung học phổ
thông, nhóm có thu nhập cao có tỷ lệ đi học cao hơn 1,8 lần so với nhóm có thu
nhập thấp. Tỷ lệ trẻ em nghèo hoàn thành bậc học tiểu học là 73% trong khi đó tỷ
lệ này là 95% đối với nhóm có thu nhập cao, điều này cho thấy nhu cầu cần phải
giải quyết vấn đề này. Mặt khác, hiện đang tồn tại khoảng cách giữa một bên là
nhóm người Kinh, người Hoa và một bên là các dân tộc thiểu số khác ở mọi bậc
học và khoảng cách này lớn hơn ở các bậc học lớn hơn. Năm 2008, tỷ lệ đi học của
nhóm dân tộc thiểu số đạt 89% đối với bậc tiểu học, 85% bậc trung học cơ sở và
52% bậc trung học phổ thông. Tỷ lệ này ngày càng giảm đối với bậc trung học phổ
thông, tỷ lệ đi học 64% năm 2004 đã giảm xuống còn 52% năm 2008. Mặc dù tỷ lệ
hoàn thành bậc tiểu học của các nhóm dân tộc thiểu số đã tăng từ 14% năm 1992
lên 78% năm 2008 nhưng các nhóm dân tộc thiểu số này vẫn có tỷ lệ hoàn thành
bậc tiểu học thấp nhất không chỉ so với nhóm người Kinh và người Hoa (đạt 92%
năm 2008) mà còn so với các nhóm được so sánh khác dựa trên sự phân loại về khu
vực thành thị/nông thôn, thu nhập và giới.
Báo cáo này cũng chỉ ra rằng, mặc dù mức độ chênh lệch không còn lớn như
trước nhưng tỷ lệ đi học trung bình trên cả nước vẫn khá chênh lệch giữa khu vực
nông thôn và thành thị, tỷ lệ đi học bậc trung học phổ thông ở nông thôn là 65% và


ở thành thị là 79%. Ở khu vực nông thôn, trình độ học vấn tăng lên chủ yếu ở bậc
tiểu học và trung học, còn ở khu vực thành thị trình độ học vấn tăng lên ở bậc đào
tạo nghề và đại học. Tỷ lệ hoàn thành bậc học ở khu vực nông thôn bằng 2/3 tỷ lệ
hoàn thành bậc học ở khu vực thành thị. Sự khác biệt về trình độ học vấn và tỷ lệ

hoàn thành bậc học như vậy dần dần dẫn tới sự khác biệt ngày càng lớn mặc dù dân
số khu vực thành thị chỉ chiếm 20% dân số cả nước và sự khác biệt này sẽ tái diễn
qua nhiều thế hệ.
Vấn đề lớn thứ hai của hệ thống giáo dục Việt Nam là kết quả học tập chưa
đạt yêu cầu. Vấn đề chất lượng cần phải được xem xét. Chất lượng không chỉ tác
động tới số lượng mà còn hạn chế kết quả đạt được liên quan tới tỷ lệ đi học và
hoàn thành bậc học khi chất lượng trường còn thấp. Một số học sinh đã hoàn thành
bậc tiểu học nhưng học rất ít, vì vậy họ thực sự vẫn chưa hoàn thành bậc tiểu học.
Ở Việt Nam, số năm đi học là một yếu tố gây tác động lớn tới kết quả học tập của
học sinh, điều đó khẳng định trẻ em học được càng nhiều nếu các em càng học lên
các lớp trên, song chất lượng vẫn còn là một vấn đề của toàn bộ dân số nói chung
và của một số nhóm nói riêng. Mặt khác, hiện đang tồn tại khoảng cách lớn về
điểm số giữa học sinh khu vực thành thị và nông thôn/vùng sâu vùng xa, giữa học
sinh giàu và nghèo và giữa học sinh dân tộc thiểu số và học sinh dân tộc chiếm đa
số. Chất lượng giáo dục thấp thường có vai trò nhất định khi lý giải về tỷ lệ bỏ học
vẫn tồn tại ở bậc tiểu học và trung học đối với nhóm dân số có hoàn cảnh khó khăn.
Nhìn chung, một số chính sách giáo dục được áp dụng ở Việt Nam trong
những thập kỷ vừa qua đã thu được nhiều kết quả. Nhưng, vẫn còn tồn tại nhiều
vấn đề liên quan tới nâng cao chất lượng cần phải giải quyết và yêu cầu cấp bách
cần xóa bỏ khoảng cách về trình độ học vấn và kết quả học tập. Sự tồn tại của
những thách thức này chứng tỏ nhiều yếu tố vẫn còn hiện diện, một số yếu tố có thể
không dễ bị các chính sách giáo dục tác động trong khi các yếu tố khác vẫn chưa


được giải quyết hoặc chưa được giải quyết triệt để thông qua các chính sách giáo
dục.
( Nguồn: www.cpv.org.vn).

Câu 3: Chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam
Phát triển nguồn nhân lực trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú trọng yếu
tố con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Đại hội Đảng lần thứ VIII (6-1996) đã nêu quan điểm: “Lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
chóng và bền vững”. Và “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to
lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc CNHHĐH”.
Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) đã cụ thể hóa, bổ sung, phát triển và làm
sáng tỏ thêm một số nội dung mới. Thể hiện ở những điểm sau:
Một là, đặc trưng về con người XHCN nêu trong Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) được diễn đạt gọn hơn song vẫn bảo đảm đúng bản chất xã hội
XHCN mà chúng ta xây dựng. Đó là: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Để phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại và thực hiện được mục tiêu phát triển con người mà Cương lĩnh
2011 đề ra, Đảng ta nhấn mạnh: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con
người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát
triển”. Quan điểm này là sự tiếp nối tư tưởng nhất quán của Đảng, coi con người là


chủ thể và là nguồn lực quan trọng nhất, quyết định sự phát triển xã hội và sự
nghiệp cách mạng Việt Nam; mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội phải hướng
tới mục tiêu nhân văn cao cả là vì con người.
Điểm mới trong tư duy của Đại hội Đảng lần thứ XI là, một mặt, khẳng định
vai trò chủ thể của con người. Mặt khác, chỉ rõ để con người có điều kiện phát triển
toàn diện và thực sự là chủ thể, cần phải có cơ chế thích hợp. Cơ chế đó là mở rộng
dân chủ, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho nhân dân phát huy tối đa quyền
làm chủ của mình. Bởi lẽ, dân chủ là một trong những điều kiện căn bản nhất để
phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người. Đồng thời, một khi dân chủ được
bảo đảm đầy đủ sẽ tạo ra sự đồng thuận xã hội cao, đó là yếu tố không thể thiếu để

tạo động lực phát triển đất nước.
Hai là, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, là khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm
2020.
Đại hội Đảng lần thứ X (2006) đã chỉ rõ, để thực hiện thắng lợi công cuộc
đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với kinh tế tri thức phải phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao. Tức là, chuyển hướng chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo chiều
rộng sang chiều sâu, coi trọng và gia tăng chất lượng của nguồn nhân lực. Song,
Đại hội Đảng lần thứ X cũng như các kỳ đại hội trước chưa xác định đó là khâu đột
phá, là những khâu trọng yếu của sự phát triển. Lựa chọn đúng khâu đột phá sẽ tạo
ra những tiền đề, những điều kiện và môi trường thuận lợi để giải phóng mọi tiềm
năng và khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Trong ba khâu đột phá
chiến lược mà Đảng ta xác định thì “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao” được xem là khâu đột phá thứ hai.
Ba là, phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và
ứng dụng khoa học, công nghệ”.
Trong điều kiện khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức phát triển nhanh
chóng, những nước có trình độ phát triển thấp vẫn có thể tận dụng thời cơ, ứng


dụng những thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại để vươn lên tránh nguy cơ
tụt hậu và tạo ra sự phát triển nhanh, bền vững. Điều đó chỉ trở thành hiện thực nếu
có sự gắn kết chặt chẽ giữa đầu tư gia tăng nhanh chóng chất lượng nguồn nhân lực
với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến.
Đối với Việt Nam, một nước có xuất phát điểm thấp thì sự gắn kết này là yêu
cầu nghiêm ngặt và càng phải được coi trọng, thậm chí là vấn đề sống còn của sự
nghiệp đổi mới ở nước ta. Do vậy, “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực
với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” là một nội dung mới thể hiện tính
hướng đích của Đảng ta trong chiến lược phát triển nhanh và bền vững.
Đại hội Đảng lần thứ XI đã nêu ra giải pháp cơ bản để phát triển nhanh

nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao:
1.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị của con người Việt Nam

trong thời đại mới.
Tiếp tục cụ thể hoá quan điểm của Đại hội Đảng lần thứ X (2006) về sự cần
thiết phải xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam thời kỳ
mới, Đại hội XI đã nêu ra những tiêu chí, những chuẩn mực của con người Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay cần phải chăm lo xây dựng để có nguồn nhân lực
chất lượng cao. Những chuẩn mực đó là: “Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng
yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động
giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính”, có khả năng
sáng tạo và ứng dụng khoa học - công nghệ vào quá trình lao động sản xuất và
quản lý.
Yêu nước là truyền thống quí báu của dân tộc ta từ ngàn xưa và đã được phát
huy cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh. Hiện nay, truyền thống yêu nước của dân
tộc càng phải được giữ gìn, phát huy và bổ sung thêm những nội dung mới. Đó là
không cam chịu đói nghèo, là phải xây dựng đất nước phồn vinh, để “sánh vai với
các cường quốc năm châu” và phải có tinh thần quốc tế chân chính. Trong thời đại
hiện nay, hoạt động lao động sản xuất nếu không được đào tạo mà chỉ bằng kinh


nghiệm, bằng vốn sống thì năng suất lao động sẽ hạn chế, kém hiệu quả.
Vì vậy, con người Việt Nam trong thời đại mới phải nêu cao tinh thần trách nhiệm
công dân để không ngừng học tập, trau dồi tri thức; có ý thức và năng lực làm chủ
bản thân, làm chủ xã hội, nhất là phải có khả năng làm chủ khoa học - công nghệ,
vận dụng đúng đắn, thành thạo các kỹ thuật, công nghệ mới hiện đại, các tri thức
khoa học để lao động sản xuất giỏi. Hơn nữa, để đáp ứng những yêu cầu ngày càng
cao, với cường độ lao động lớn, đòi hỏi mỗi người phải có ý thức rèn luyện sức

khoẻ, nâng cao thể lực đủ sức lao động trong môi trường cạnh tranh gay gắt.
Con người Việt Nam hiện nay ngoài lao động giỏi, trình độ cao..., còn phải coi
trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức, sống có nghĩa tình, có văn hóa, có lý tưởng. Để
phát triển nhanh nguồn nhân lực cả về lượng và chất, Đại hội Đảng lần thứ XI chỉ
rõ: “Phải đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới
cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then
chốt”. Việc khẳng định đổi mới cơ chế quản lý giáo dục là khâu then chốt xuất phát
từ thực trạng giáo dục - đào tạo của Việt Nam và yêu cầu mới của thời đại đối với
giáo dục - đào tạo.
Trong nhiều năm qua, mặc dù giáo dục nước ta đã đạt được những thành tựu
nhất định, song nhìn chung, giáo dục Việt Nam chưa theo kịp trình độ phát triển
của giáo dục thế giới, thậm chí nhiều tiêu cực nảy sinh và phát triển trong hệ thống
giáo dục. Do vậy, đây là điểm nút cần phải được tháo gỡ và chỉ khi nào giải quyết
tốt điểm nút này thì giáo dục Việt Nam mới có điều kiện và môi trường pháp lý để
phát triển lành mạnh. Đội ngũ giáo viên các cấp và cán bộ quản lý giáo dục là
những chiếc “máy cái” trong hệ thống giáo dục. Chất lượng, nhân cách, phẩm chất
đạo đức và lý tưởng của đội ngũ này như thế nào ảnh hưởng to lớn và trực tiếp đến
sản phẩm mà họ đào tạo ra - đó chính là những con người, những công dân xây
dựng xã hội. Do vậy, phát triển đội ngũ này một cách toàn diện thực sự là một
trong những khâu then chốt hàng đầu.


2.

Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm an sinh

xã hội. Chất lượng của nguồn nhân lực phải được đánh giá một cách toàn diện cả
về thể lực, trí tuệ, đạo đức, nhân cách, phẩm chất của con người cách, phẩm chất...
của con người.

Đảng ta khẳng định: “Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng
cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam”. Trong đó, lĩnh vực y tế đóng vai trò
quan trọng hàng đầu. Do vậy, tại Đại hội này, Đảng ta đã tập trung chỉ đạo sát sao
và cụ thể hóa hơn hoạt động của lĩnh vực này, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả chăm sóc sức khoẻ nhân dân, đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH,
HĐH gắn với kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh gay gắt và cường
độ lao động cao.
Trong xã hội hiện nay, còn một bộ phận nhân dân đời sống còn rất nhiều khó
khăn vì nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan. Với truyền thống đoàn kết, nhân
nghĩa tương thân, tương ái của người Việt Nam, Đảng ta khẳng định, tiếp tục sửa
đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ
giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành
viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn,
rủi ro trong đời sống.
Một hệ thống các quan điểm và chính sách tương đối đồng bộ và toàn
diện đã được đề cập, làm cơ sở cho việc phát triển một hệ thống an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội hiệu quả, bền vững để phát triển nguồn nhân lực nhanh và bền
vững.
Những điểm mới trong tư duy của Đảng về chiến lược phát triển nguồn nhân
lực Việt Nam được nêu trong Đại hội Đảng lần thứ XI, một mặt là sự tiếp nối
những quan điểm, tư tưởng nhất quán của Đảng về vấn đề này tại các kỳ đại hội
trước, mặt khác, là sự bổ sung, phát triển, cụ thể hóa hơn để triển khai có hiệu quả
trong thực tế, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu Đại hội đề ra.
(Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam)


Trong bài viết: “ Giáo dục và đào tạo với phát triển nguồn nhân lực Việt
Nam” của GS-TS Chu Văn Cấp; học viện chính trị -hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, trên Tạp chí số phát triển và hội nhập số 6 (16), tháng 9 – 10 năm
2012:

Thực trạng nguồn nhân lực và yêu cầu đối với giáo dục và đào tạo
nước nhà
- Thực trạng nguồn nhân lực nước ta
+ Về số lượng
Việt Nam đang có NNL dồi dào về số lượng với dân số trung bình trong cả
nước năm 2011 là 87,84 triệu người, nước đông dân thứ 3 trong khu vực và thứ 13
trên thế giới. Trong đó, số người lao động từ 15 tuổi trở lên, năm 2011 là 51,39
triệu người; lực lượng lao động trong độ tuổi 46,48 triệu người. Cơ cấu lao động
(năm 2011) là như sau: Trong ngành nông - lâm - thuỷ sản: 48%/tổng số lực lượng
lao động, công nghiệp và xây dựng chiếm 22,4% và dịch vụ: 29,6%2. Thế nhưng,
yếu tố lao động chỉ đóng góp dưới 20% vào tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn
2001-2010. Nguồn lao động đóng góp ít vào tăng trưởng kinh tế phản ánh những
bất cập sau đây:
Thứ nhất, chưa tận dụng hết lực lượng lao động vào hoạt động kinh tế. Trong
giai đoạn 2006-2010, tốc độ tăng trưởng việc làm bình quân 2,4%/năm, trong khi
tốc độ tăng trưởng lao động bình quân 2,8%/năm. Kết quả là tỷ lệ thất nghiệp ở
thành thị và tỷ lệ sử dụng lao động ở nông thôn vẫn không được cải thiện.
Thứ hai, chất lượng lao động thấp
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo có tăng lên qua các năm nhưng còn thấp xa so
với yêu cầu phát triển và so với các nước. Năm 2003, tỷ lệ lao động qua đào tạo là


21%, năm 2004 tăng lên 22,5%, năm 2005: 25,6%, năm 2008 đạt 29,5% và năm
2010 đạt 32%.
- Thiếu hụt lao động có kỹ năng, theo Báo cáo thảo luận của đại diện Phòng
thương mại Mỹ (Amcham), tại Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam, tháng 6/2010,
khoảng 65% lực lượng lao động Việt Nam không có kỹ năng và khoảng 78% dân
số trong độ tuổi 20-24 không được đào tạo hoặc thiếu các kỹ năng cần thiết. Thứ
ba, năng suất lao động rất thấpThời kỳ 1986-2010, năng suất lao động của Việt
Nam tăng trung bình 4,67%/năm, các nước ASEAN là 3,73%/năm. Giai đoạn

2001-2010, năng suất lao động của Việt Nam tăng trung bình 5,53%/năm, nhưng
thấp hơn nhiều so với Trung Quốc (7,26%/năm). Về mặt tuyệt đối, Việt Nam vẫn là
quốc gia có năng suất lao động thấp trong khu vực Đông Nam Á. Ví dụ, năm 20092010, năng suất lao động của Việt Nam chỉ tương đương 52,6% của Trung Quốc,
40% của Thái Lan, 14,9% của Singapore và 9% của Mỹ.
+ Về chất lượng
- Hiện nay, nhân lực phổ thông vẫn chiếm số đông, thiếu hụt các chuyên gia,
các nhà quản trị cao cấp, công nhân kỹ thuật … ở tất cả các ngành nghề, lĩnh vực,
đặc biệt là trong các ngành trọng điểm và mũi nhọn của nền kinh tế.
- NNL nông dân, trong số 21,264 triệu lao động nông thôn trong độ tuổi lao
động trên phạm vi cả nước, có đến 20,765 triệu người (chiếm 97,65%) chưa qua
đào tạo và không có chứng chỉ chuyên môn; người có bằng sơ cấp, công nhân kỹ
thuật chiếm 1,26%, trung cấp 0,87%, đại học, cao đẳng: 0,22%.
- NNL công nhân có 9,5 triệu người, chiếm 11% dân số cả nước, 21% lực
lượng lao động xã hội4. Theo TS Nguyễn Mạnh Thắng, Viện công nhân – công
đoàn, hiện nay giai cấp công nhân nước ta chiếm 13,5% dân số, 26,46% lực lượng
lao động xã hội. Tuy vậy, giai cấp công nhân đang đứng trước những khó khăn,


thách thức lớn. Trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp nói chung còn thấp so
với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Cơ cấu đội ngũ
công nhân còn mất cân đối nghiêm trọng; thiếu công nhân lành nghề, kỹ sư công
nghệ cao, các nhà quản lý giỏi; thừa công nhân lao động giản đơn.
- Đội ngũ trí thức, trong những năm gần đây, đội ngũ trí thức VN tăng khá
mạnh, chỉ tính riêng số sinh viên cũng cho thấy sự tăng nhanh vượt bậc, năm 2001
khoảng 800.000, năm 2009 là 1.719.499 đưa tỷ lệ sinh viên/1 vạn dân tăng nhanh,
năm 2009 là 195 sinh viên/1 vạn dân, năm 2010 đạt 200 sinh viên/1 vạn dân.
Số trí thức có trình độ tiến sĩ, tiến sĩ khoa học cũng tăng nhanh. Theo thống
kê năm 2008 cả nước có 14.000 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học.Theo thống kê của Hội
đồng chức danh giáo sư nhà nước, từ năm 1980 đến tháng 11/2011, số lượt người
được công nhận chức danh và công nhận đạt tiêu chuẩn giáo sư là 1.459 người và

phó giáo sư là 8.048
Đội ngũ chủ doanh nghiệp, theo kết quả điều tra 63.000 doanh nghiệp ở 36
tỉnh thành phố, của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2008, tỷ lệ giám đốc doanh
nghiệp có trình độ thạc sĩ là 2,99%, đại học: 37,82%, cao đẳng: 3,56%; trung học
chuyên nghiệp: 12,33%, tốt nghiệp phổ thông trung học trở xuống:43,3%
Tóm lại, được coi là quốc gia có lợi thế về NNL dồi dào, nhân lực cần cù,
thông minh và có khả năng tiếp thu nhanh những thành tựu khoa học – công nghệ
mới, hiện đại, nhưng chất lượng NNL lại thấp kém. Theo Diễn đàn kinh tế thế giới,
năm 2005, NNL VN về chất lượng được xếp thứ 53/59 nước được khảo sát. Theo
Ngân hàng thì chất lượng NNL VN chỉ là 3,79 điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á
tham gia xếp hạng.
+ Về cơ cấu nguồn nhân lực


- Mất cân đối cơ cấu đào tạo: tỷ lệ người tốt nghiệp các cấp đào tạo ở VN
hiện nay là ngược với thế giới. Trên thế giới, tỷ lệ lao động có trình độđại học trung cấp- công nhân là 1- 4-10, ở VN là: 1- 0,98 - 3,02. Và cứ 1 vạn dân có 195
sinh viên, trong khi đó thế giới là 100, của Trung Quốc là 140, mặc dù GDP/người
của Trung Quốc gấp 2 lần của VN. Cơ cấu nhân lực có trình độ đại học, cao đẳng
trở lên so với tổng số lao động của từng vùng trong cả nước không đều: Vùng Đồng
bằng sông Hồng chỉ chiếm22,6% lao động làmg việc, nhưng có đến 35% số lao
động có trình độ đại học, cao đẳng tập trung ở đây; vùng Đông Nam Bộ có con số
tương ứng là: 16% và 23,1%, vùng Đồng bằng sông Cửu Long là 20,4% và 9,9%6
- NNL hiện nay của đất nước ta được đánh giá là chưa đáp ứng được yêu cầu
của phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, chưa có những đóng góp đáng
kể để tăng năng suất lao động xã hội, cải thiện năng lực cạnh tranh và thoát khỏi
“bẫy thu nhập trung bình” (tình trạng bất lực không thoát ra khỏi mô hình kinh tế
dựa trên lao động rẻ và phương pháp suản xuất với công nghệ thấp). Đại hội lần thứ
XI của Đảng đã coi sự yếu kém của NNL là một trong các “điểm nghẽn” của sự
phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Nguyên nhân của tình hình là: Do sự tụt hậu
về phát triển kinh thống giáo dục – đào tạo quá chậm đổi mới, chất lượng giáo dục

và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo NNL trình độ cao còn
hạn chế. Theo bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu, năm 2008 của Ngân
hàng thế giới cho thấy yếu tố đào tạo đại học của VN xếp hạng 98 và chất lượng
của hệ thống giáo dục, xếp thứ 120/130 quốc gia được xếp hạng.
- Những yêu cầu cần thiết đối với giáo dục và đào tạo về phát triển nguồn
nhân lực ở nước ta hiện nay
Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Việt Nam cần có NNL đủ về số lượng, chất lượng cao
và có một cơ cấu hợp lý đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công cộng và trình


độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề.Theo đó, yêu cầu đối với giáo dục và
đào tạo trong việc đào tạo NNL nhất là NNL chất lượng cao như sau:
- Một là, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, trung thực, đảm bảo
công bằng trong giáo dục, khắc phục xu hướng, thương mại hoá giáo dục thông qua
khẩu hiệu “xã hội hoá” vốn chưa minh bạch rõ ràng như hiện nay. Thực hiện tốt
bình đẳng về cơ hội học tập và các sách xã hội trong giáo dục, ưu tiên đào tạo nhân
lực phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, miền núi. Coi trọng giáo dục đạo
đức, lối sống, năng lực sáng tạo,
kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp co học sinh, sinh viên …
- Hai là, tập trung nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp học, đặc biệt
là giáo dục đại học và cao đẳng, với những định hướng chủ yếu:
(1) Đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục theo hướng
hiện đại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Trong ngắn hạn, khắc phục tình trạng
thiếu giáo trình, sách giáo khoa, trang thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật cần thiết
phục vụ cho dạy và học. Hiện nay công nghệ giáo dục trên thế giới luôn luôn phát
ttriển và đổi mới, nếu những điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật, máy móc, thiết bị
phục vụ cho dạy và học tập ở nước ta được tăng cường thì chắc chắn chất lượng
giáo dục, đào tạo sẽ được nâng cao.
(2) Cơ cấu lại hệ thống giáo dục - đào tạo đại học, đào tạo thực hành và đào

tạo nghề, theo hướng:
Đảm bảo sự cân đối trong ngành học ở bậc đại học. Bởi hiện nay đang có sự
khác biệt lớn giữa số lượng sinh viên theo học ở các ngành nghề: Văn hoá, nghệ
thuật chỉ chiếm khoảng 1,3%, khoa học, công nghệ và kỹ thuật chỉ đạt 15,2%, kinh
tế và luật 42,78%, còn lại là các ngành nghề khác. Hiện tại có thể nói là ta đang


thừa cử nhân luật, kinh tế và đang thiếu nhiều kỹ sư, kỹ thuật viên và cán bộ khoa
học cơ bản.
(3) Khắc phục sự mất cân đối cơ cấu đào tạo: Đại học, cao đẳng, công nhân.
Bởi tỷ lệ người tốt nghiệp cơ cấu đào tạo ở Việt Nam hiện đang ngược so với thế
giới. Trong khi trên thế giới tỷ lệ người lao động có trình độ đại học – trung cấp công nhân là 1-4-10 thì ở Việt Nam là 1-0,98-3,02. Công tác đòa tạo nghề chưa
được quan tâm đúng mức, hệ thống đào tạo nghề còn manh mún, phân tán dưới sự
quản lý của nhiều cơ quan khác nhau. Phương thức đào tạo có nhiều khiếm khuyết.
Đào tạo thợ lý thuyết nhiều hơn tay nghề doanh nghiệp khi sử dụng phải đào tạo
lại. Trung cấp chuyên nghiệp: nửa thầy, nửa thợ thầy cũng không làm được mà thợ
thì cũng không xong. Cao đẳng đại học: khoa học cơ bản chưa đủ, khoa học ứng
dụng cũng yếu.
- Ba là, “đổi mới cơ chế quản lý, giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý là khâu then chốt”. Ở đây, chúng ta thấy:
(1) Quản lý giáo dục và đào tạo thiếu tính “tập trung thống nhất” mà phân
tán dưới sự quản lý của nhiều cơ quan khác nhau (Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội; Bộ Giáo dục và Đào tạo; các bộ chuyên ngành và các địa phương). trung
cấp chuyên nghiệp dục và Đào tạo; các bộ chuyên ngành và các địa phương). Điều
này được phản ánh như sau: Trong số 376 trường đại học, cao đẳng trong cả nước
thì Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý 54 trường (14,4%), các Bộ ngành khác quản lý
116 trường (30,8%), Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quản lý chừng 125 trường
(33,3%) và có 81 trường dân lập, tư thục (21,5%);
(2) Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, không ít những người làm công tác lãnh
đạo, quản lý giáo dục, đào tạo các cấp, những người trực tiếp hoạt động trong lĩnh

vực giáo dục, đào tạo còn thiếu tri thức và tầm nhìn còn hạn chế cộng với đào đức
nghề nghiệp xuống cấp, nên việc lãnh đạo và quản lý lĩnh vực phát triển giáo dục


×