Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Nghiên cứu hiệu quả điều trị và tác dụng không mong muốn của viên nang HQ đến một số chỉ số sinh học ở bệnh nhân phì đại lành tính tuyến tiền liệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 105 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Phì đại lành tính tuyến tiền liệt là bệnh thường gặp ở nam giới tuổi cao. Tần
suất bị bệnh tăng lên khi tuổi thọ càng cao. Ở Hoa Kỳ, mỗi năm có tới 1,2 triệu
người đi khám về bệnh này, trong đó có 400.000 người phải can thiệp [64]. Tại
Pháp, bệnh chiếm tỷ lệ 35- 40% nam giới ngoài 50 tuổi. Ở Trung Quốc (theo
Vương kỳ- Trung y học Bắc kinh, 1995) người trên 50 tuổi phì đại lành tính tuyến
tiền liệt chiếm tỷ lệ trên 20%.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây bệnh có xu hướng tăng lên [45].
Trong 5 năm (1982- 1986), số bệnh nhân phẫu thuật phì đại lành tính tuyến tiền liệt
chiếm tới 11,8% tổng số bệnh nhân điều trị phẫu thuật tiết niệu tại bệnh viện SaintPaul [5]. Từ năm 1992 đến 1994 tại khoa Ngoại Tiết niệu bệnh viện Việt - Tiệp, Hải
Phòng đã điều trị cho 268 trường hợp phì đại lành tính tuyến tiền liệt, chiếm tỷ lệ 26%
số bệnh nhân điều trị tại khoa [17]. Theo Trần Đức Thọ, bệnh chiếm tỷ lệ khoảng 59%
nam giới ở tuổi trên 50 và 76,9% ở tuổi trên 70 [39]. Bệnh phì đại lành tính tuyến tiền
liệt ở giai đoạn đầu chủ yếu gây rối loạn tiểu tiện, làm giảm sút chất lượng cuộc sống
của bệnh nhân. Giai đoạn sau, nếu không được điều trị tích cực, sẽ phát triển to ra sẽ
chèn ép cổ bàng quang và niệu quản, gây nhiều biến chứng nặng nề như nhiễm khuẩn
đường tiết niệu, sỏi tiết niệu, bí đái, suy thận có thể gây tử vong.
Hiện nay, y học hiện đại có rất nhiều phương pháp điều trị ngoại khoa hoàn
chỉnh: phẫu thuật bóc u, phẫu thuật bằng nội soi hoặc điều trị bảo tồn bằng thuốc
tân dược: thuốc đối kháng α- adrenergic, thuốc ức chế 5α-reductase, thuốc có nguồn
gốc nội tiết… Tuy nhiên, việc điều trị ngoại khoa không phải nơi nào cũng có điều
kiện áp dụng, mặt khác các thuốc điều trị nội khoa, thuốc tân dược cũng có nhiều
biến chứng và tác dụng phụ không mong muốn [5].
Y học cổ truyền không có tên bệnh phì đại lành tính tuyến tiền liệt, các y
văn xưa và nay đều qui nạp vào phạm trù “lung bế” “long bế “, phương pháp điều trị
chủ yếu lợi niệu thông lâm, nhuyễn kiên tán kết. Ở Trung Quốc, trong những năm gần


2



đây đã có nhiều công trình nghiên cứu điều trị phì đại lành tính tuyến tiền liệt bằng các
thuốc thảo mộc đã thu được kết quả khả quan.
Ở Việt Nam cũng đã có nhiều vị thuốc thảo mộc điều trị phì đại lành tính
tuyến tiền liệt.
Bồ quân, có tên khoa học là Flacourtia jangomas, Bồ quân là vị thuốc thảo
dược có tác dụng thanh nhiệt, trừ thấp, lợi niệu, thông lâm theo y học cổ truyền,
Trong dân gian từ lâu Bồ quân được sử dụng để điều trị các chứng bệnh tiểu buốt,
tiểu dắt, cho những kết quả khả quan.Tuy nhiên, cho đến nay chúng tôi chưa thấy có
công trình nào nghiên cứu hoàn chỉnh về vị thuốc này. Trên cơ sở tác dụng của vị
thuốc và biện chứng luận trị của y học cổ truyền, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
ứng dụng điều trị bệnh phì đại lành tính tuyến tiền liệt của viên nang HQ, là viên
nang cứng 0,25g được làm từ cao cứng của dịch sắc rễ cây Bồ quân.
Đề tài được tiến hành đề nhằm các mục tiêu sau:
1.

Nghiên cứu tính an toàn của viên nang HQ trên động vật thực
nghiệm.

2.

Nghiên cứu tác dụng chống viêm và điều trị phì đại lành tính tuyến
tiền liệt của viên nang HQ trên động vật thực nghiệm.

3.

Nghiên cứu hiệu quả điều trị và tác dụng không mong muốn của
viên nang HQ đến một số chỉ số sinh học ở bệnh nhân phì đại lành
tính tuyến tiền liệt.



3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. CƠ CHẾ BỆNH SINH, GIẢI PHẪU BỆNH VÀ SINH LÝ BỆNH PHÌ ĐẠI
LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT
1.1.1. Vị trí, hình dáng
Tuyến tiền liệt nằm ở dưới bàng cổ quang và bọc xung quanh niệu đạo, có
hình nón mà đáy ở trên và đỉnh ở dưới.Trục của tuyến tiền liệt đi chếch xuống dưới
và ra trước, hợp với đường ngang một góc khoảng 50 o. Tuyến nằm ngay dưới cổ
bàng quang, bao quanh phần niệu đạo sát cổ bàng quang, phần niệu đạo xuyên qua
tuyến tiền liệt dài khoảng 3cm.
Thể tích tuyến tiền liệt rất thay đổi, to nhỏ tuỳ theo từng người và từng lứa
tuổi, lúc trưởng thành nặng 15- 25gam, trung bình 20gam, rộng khoảng 4cm, cao
khoảng 3cm, dầy khoảng 2,5cm [24],[26].

Hình 1.1. Tuyến tiền liệt và liên quan


4

1.1.2. Cơ chế bệnh sinh và chức năng tuyến tiền liệt.
Tuyến tiền liệt là một tuyến ngoại tiết kiểu ống túi, gồm rất nhiều túi nhỏ,
trong lòng túi được lót bằng những tế bào biểu mô chế tiết hình trụ.
Tuyến tiền liệt cùng với túi tinh tiết ra tinh dịch gồm các chất kẽm, acid
citric, fructose, photphorylcolin, spermin, acid amin tự do, prostaglandin và các
enzym photphotase acid và lacticodehydrogenase để nuôi dưỡng và kích thích sự di
động của tinh trùng [22], [25], [41].
Nhưng từ 45 tuổi trở lên, tuyến tiền liệt ngừng tăng trưởng và bắt đầu có chiều

hướng tăng sản bệnh lý để hình thành u phì đại lành tính tuyến tiền liệt
Jalbravan và cs. (1902), Tendler và cs. (1905) cho rằng sự phát triển đầu tiên
của phì đại lành tính tuyến tiền liệt (PĐLTTTL) là từ trong những tuyến quanh niệu
đạo, dưới niêm mạc và trong cơ thắt, trên ụ núi, trước các ống phóng tinh, dưới cổ
bàng quang. Mô này lớn lên, phát triển đẩy ép các mô xung quanh tạo ra các vỏ bọc
quanh tuyến tiền liệt (TTL).
Thuyết này giải thích khi PĐLTTTL phát triển về phía bàng quang sẽ tạo
thành mảng lồi vào trong bàng quang hoặc khi nó phát triển về phía trực tràng sẽ
tạo thành một mảng lồi về phía trực tràng.
Nguyên nhân sinh bệnh của PĐLTTTL có nhiều điều chưa sáng tỏ. Tuy
nhiên, vì bệnh xuất hiện ở người cao tuổi nên có khả năng là do sự thay đổi nội tiết.
PĐLTTTL cần có hai điều kiện để hình thành, đó là tinh hoàn phải có chức
năng và tuổi cao, thường từ 45 tuổi trở lên [ 45], [47], [ 111].
Do đó, hiện nay, các nghiên cứu tập trung đi sâu vào 4 hướng sau: vai trò của
yếu tố nội tiết; mối quan hệ của mô đệm với lớp biểu mô và các yếu tố phát triển; sự
cân bằng giữa tăng sinh và tiêu hủy tế bào và lý thuyết về các tế bào gốc; sự biến
đổi của hệ thống miễn dịch và viêm nhiễm tại chỗ. Nhưng các thuyết được nhắc tới
nhiều nhất là vai trò của nội tiết và yếu tố phát triển.


5

1.1.2.1. Vai trò của yếu tố nội tiết
* Vai trò của tinh hoàn:
PĐLTTTL không xuất hiện ở những bệnh nhân đã cắt tinh hoàn trước tuổi
dậy thì và hiếm gặp ở đàn ông đã cắt tinh hoàn trước tuổi 40. Chỉ thấy có một thông
báo của Scott (1953), tác giả đã phẫu thuật TTL cho một bệnh nhân 60 tuổi đã cắt
tinh hoàn lúc 28 tuổi [123], [170].
* Vai trò của testosteron:
Sự tăng trưởng của TTL trước hết phụ thuộc vào nội tiết tố nam. Sự phát triển

đầu tiên của TTL được điều khiển bởi testosteron bào thai. Tại tế bào đích, testosteron
được gắn với receptor để vào nhân tế bào có tác dụng: Điều hoà hormon FSH, LH, sự
biệt hoá của cơ quan sinh dục, kích thích tuyến Wolff, sản sinh tinh trùng.
Ở nam giới trưởng thành có tới 95% testosteron có nguồn gốc từ tinh hoàn.
Vai trò của androgen thực chất là dihydrotestosteron được chuyển hoá từ testosteron
tại tế bào đích nhờ tác dụng của enzym trung gian 5α- reductase Qua chuyển hoá
testosteron chuyển thành dihydrotestosteron; dihydro testosteron gắn với receptor
để vào nhân tế bào, tại nhân của tế bào dihydrotestosteron gắn với các RNAm hoạt
động. Chính các RNAm này sẽ tạo ra ở ribosom các protein tổng hợp, đây là yếu tố
tăng trưởng tế bào TTL.
Enzym 5α- redutase có hai dạng: một dạng có hoạt tính mạnh ở pH 7,5 còn
được gọi là enzym 5α- reductase kiềm và loại có hoạt tính mạnh ở pH 5,0 còn được
gọi là enzym 5α- reductase acid. Enzym 5α- reductase kiềm có ở tế bào biểu mô
đáy, phân bố chủ yếu ở gan và da, niêm mạc không thuộc cơ quan sinh dục. Trái lại,
loại 5α- reductase acid phân bố ở tế bào xơ và liên kết ở gan và cơ quan tiết niệu,
sinh dục nam [ 71], [158], [168].
Các nghiên cứu cho thấy rằng nồng độ dihydrotestosteron ở những bệnh
nhân PĐLTTTL cao hơn so với những người cùng tuổi nhưng không bị PĐLTTTL.
Đối với những người có TTL bình thường, hàm lượng dihydrotestosteron có từ 12ng/g mô, còn ở bệnh nhân PĐLTTTL hàm lượng dihydrotestosteron từ 4- 6 ng/g
mô [ 45], [47]. Các nghiên cứu cũng cho thấy ở những người đã cắt bỏ tinh hoàn


6

trước tuổi dậy thì sẽ không bị PĐLTTTL. Tuy nhiên, giả thiết này vẫn còn có những
mâu thuẫn, bởi vì nam giới khi tuổi càng cao, tỷ lệ testosteron càng giảm. Ở những
người ngoài 40 tuổi tỷ lệ testosteron bắt đầu giảm, nhưng vẫn bị bệnh PĐLTTTL.
* Vai trò của estrogen:
Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy rằng estrogen có tham gia vào nguyên nhân
gây PĐLTTTL [93], [137], [141].

Theo Wright E. J. và cs. [164] sự PĐLTTTL là do mất cân bằng giữa
estrogen và androgen trong cơ thể ở đàn ông có tuổi, lượng testosteron sẽ giảm xuống,
trong khi đó estrogen không giảm gây nên estrogen tăng tương đối. Bình thường ở
nam giới, estrogen được sinh ra từ chuyển hóa của các androstenedione của tuyến
thượng thận và từ chuyển hóa testosteron của tinh hoàn dưới tác dụng của enzym
aromatase. Tsugaya (1996) định lượng aromatase mRNA trong mô TTL của các bệnh
nhân PĐLTTTL và ung thư TTL thấy hàm lượng chất này tăng cao [26], [47], [155].
Walsh và Wilson nghiên cứu và kết luận estrogen hợp đồng với androgen
gây PĐLTTTL. Theo Grayhac (1955), estrogen tác động lên prolactin làm tăng tiềm
lực của androgen nên gián tiếp gây PĐLTTTL.
* Androgen thượng thận và prolactin:
Các nghiên cứu chưa chứng minh được tác dụng trực tiếp của androgen
thượng thận và prolactin gây nên PĐLTTTL. Nhưng người ta nhận thấy rằng
prolactin có tác dụng làm gia tăng tác dụng của nội tiết tố nam. Có lẽ do vậy mà nó
đã gián tiếp gây PĐLTTTL [141].
- Delta 4- androstenedion thượng thận sẽ chuyển thành testosteron khi
được gắn với hydroxyl 17õ. Việc cắt bỏ tinh hoàn đã dẫn đến sự thoái triển thể
tích của TTL.
- Prolactin cũng là một nhân tố kích thích sự sinh trưởng TTL dưới sự điều
khiển của androgen. Những cơ quan nhận cảm prolactin đã được phân lập trong mô
TTL [ 39], [76].


7

Vùng dưới đồi
GnRH
Tuyến yên

FSH, LH


Tinh
hoàn

Testosteron

Prolactin

Tuyến
tiền
liệt

ACTH

Androsteron
nnn

Vỏ
thượng
thận

estrogen
Sơ đồ 1.1. Vai trò của hệ thống nội tiết trong bệnh sinh PĐLTTTL [76].
* Vai trò cuả progesteron:
Progesteron được tổng hợp bởi thể vàng, vỏ thượng thận, nhau thai và tinh
hoàn. Người ta chỉ tìm thấy thụ thể của androgen trong cytosom, chứ không thấy
trong khoang nhân ở TTL. Mặt khác, tỷ lệ hàm lượng progesteron trong plasma là
hết sức thấp và chất này cũng không thấy nhiều trong TTL [39], [93].
* Vai trò của các hormon hướng sinh dục:
Lượng LH lưu hành do thùy trước tuyến yên tiết ra đã kiểm soát số lượng

testosteron do tế bào Leydig của tinh hoàn sản xuất. Ngược lại, testosterone tuần
hoàn được điều khiển bởi cơ chế điều hòa ngược âm tính trên trục dưới đồi- tuyến
yên. LH và FSH được tiết ra thay đổi theo tuổi và giới. Tác dụng của testosteron đối
với sự sản xuất LH và FSH cũng khác nhau. Với liều thấp (50mg), testosteron ức


8

chế LH tuyến yên và LH huyết tương. Với liều mạnh (100mg), FSH cũng bị ức chế.
Oestradiol ức chế đồng thời cả hai hormon ngay cả với liều thấp [39], [76], [141].
1.1.2.2. Vai trò của các yếu tố tăng trưởng
PĐLTTTL là bệnh của nam giới cao tuổi, bệnh bắt đầu bằng sự xuất hiện của
những xơ hoá, hiện tượng này có thể tăng lên do quá trình viêm nhiễm hay do các yếu
tố miễn dịch. Kết quả là số tế bào mầm (tế bào xơ) tăng trưởng nhanh hơn là sự huỷ
hoại (apoptosis) của tế bào còn lại [133], [158], [172].
Yếu tố tăng trưởng được phát hiện bởi Cunha và Levi- Montalcini (1950).
Các yếu tố này có tác dụng làm tăng trưởng các mô sợi, các mô tuyến lân cận họp
thành các nhân xơ quanh niệu đạo. Các nhân phát triển lớn dần, tạo thành
PĐLTTTL.
Năm 1976, Jacobs L. C. và cs. đã phát hiện thấy một chất có ở trong mô TTL
gây nên sự phát triển ở xương. Các tác giả đã đặt tên cho chất đó là yếu tố phát triển
TTL (prostate growth factor- PrGF). Nhiều yếu tố tăng trưởng đã được tìm thấy
trong tuyến tiền liệt của người. Đó là bFGF, TGFβ1, TGFβ2, EGF và IGF [35],
[47], [76], [123], [138].
* Yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi:
Yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi (basis fibroblast growth factor, b- FGF) là
một trong những yếu tố phát triển tuyến tiền liệt, bFGF gây phân bào nguyên bào
sợi và ức chế phân bào tế bào biểu mô [76], [98].
Lawson R. K. [110] cho rằng b- FGF tập trung cao nhất ở vùng quanh niệu
đạo TTL. Sự tập trung b- FGF quanh niệu đạo TTL ở những người có PĐLTTTL

cao hơn ở những người không có PĐLTTTL và ở thiếu niên cao hơn so với người
trưởng thành. Để khẳng định giả thuyết này, người ta đã nuôi cấy tế bào TTL trong
một môi trường có đầy đủ testosteron, nhưng không có b- FGF và thấy rằng không
có sự phát triển của tế bào TTL.


9

* Yếu tố tăng trưởng chuyển dạng beta:
Yếu tố tăng trưởng chuyển dạng beta (transforming growth factor betaTGFβ) có vai trò điều hòa ức chế tăng trưởng nguyên bào sợi và tế bào biểu mô
[76], [77].
* Yếu tố tăng trưởng biểu bì:
Yếu tố tăng trưởng biểu bì (Epithelial Growth Factor- EGF) có vai trò điều
hòa sự tăng sinh tế bào biểu mô [146].
* Yếu tố tăng trưởng giống insulin:
Yếu tố tăng trưởng giống insulin (Insulin like growth factor- IGF) có vai trò
điều hòa tăng sinh tế bào sợi và các tế bào khác [138], [146].
* Yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu:
Yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (Vascular Endothelial Growth Factor VEGF) có vai trò kích thích sự phát triển PĐLTTTL [131], [146], [147], [150].
Trong các yếu tố trên, các yếu tố tăng trưởng EGF, bFGF, IGF, VEGF có
tính chất kích thích. Ngược lại, yếu tố tăng trưởng chuyển dạng TGFβ có tác dụng
kìm hãm sự tăng sản của TTL [47], [131], [146].
1.1.2.3. Hiện tượng chết theo chương trình
Chết theo chương trình (apoptosis) là hiện tượng có tính di truyền của các tế
bào có nhân, là cơ chế sinh lý chủ yếu để duy trì sự hằng định của mô tuyến bình
thường [120].
Tenniswood (1986), Isaacs (1990) đã nêu một sự mất cân bằng xảy ra ở tuổi
già, giữa khu vực các tế bào đang tăng trưởng và tế bào định hướng chết theo
chương trình. Chính các yếu tố tăng trưởng đã làm mất sự hằng định của mô tuyến,
làm các “tế bào gốc” phát triển nhanh trong khi quá trình chết theo chương trình bị

chậm lại. Trong bệnh PĐLTTTL, các tế bào biểu mô TTL cần sự có mặt của tác
nhân tăng trưởng để tồn tại. Khi thiếu các tác nhân này hoặc thiếu androgen, các tế
bào này sẽ chết theo chương trình. Apoptosis giảm nhiều hơn là tăng sinh tế bào
thường xảy ra khi PĐLTTTL [138], [152].


10

1.1.2.4. Sự tương tác của vùng biểu mô tuyến- mô đệm
Cunha (1983) cho rằng quá trình tăng sản TTL là sự “thức tỉnh” của quá
trình hình thành TTL bào thai, trong đó vùng mô đệm tạo ra sự phát triển tế bào
biểu mô.
1.1.2.5. Vai trò của tuổi
PĐLTTTL bắt đầu xuất hiện ở tuổi trên 40, nhưng bệnh nhân thường có triệu
chứng lâm sàng ở tuổi trên 55, với đỉnh cao 65- 75. Theo Berry (1984), tần số xuất
hiện bệnh khá phổ biến: 20% ở tuổi 41- 50; 50% ở tuổi 51- 60 và 90% trên 80 tuổi.
Triệu chứng lâm sàng song song với tuổi thọ: nếu 25% nam giới tuổi 55 có rối loạn
tiểu tiện thì lúc 75 tuổi là 50% [138].
1.1.3. Giải phẫu bệnh phì đại lành tính tuyến tiền liệt
1.1.3.1. Đại thể
Thể tích của PĐLTTTL rất thay đổi, từ vài gam đến vài trăm gam. Phần lớn
là hình cầu và có niệu đạo xuyên qua TTL. Hình thể điển hình nhất của PĐLTTTL
là đầy đủ cả 3 thùy kết hợp với nhau. Các thùy này bọc xung quanh niệu đạo.
Không thể phân biệt và tách rời niêm mạc niệu đạo ra khỏi PĐLTTTL trong phẫu
thuật bóc u [6], [67].
Bọc quanh các thùy là những lớp có thể tách rời u ra khỏi vỏ TTL một cách
dễ dàng. Các lớp bóc tách này có rất nhiều. Nhưng lớp đúng nhất để tách u ra khỏi
vỏ là lớp trong cùng, sát với u nhất. Niêm mạc của niệu đạo phủ lên u liên tiếp với
bên trên là niêm mạc bàng quang, bên dưới là niêm mạc của niệu đạo ụ núi và dưới
ụ núi.

1.1.3.2. Vi thể
Cắt ngang PĐLTTTL thấy các thùy của u tuyến nằm rất gần nhau, giống như
hình cầu. Những thùy này đặc, chắc, mầu trắng đục và có thể tách theo các thớ. Các
thùy này là một phức hợp gồm sự tăng sinh của những tuyến ống túi xơ và cơ. Các
phần này kết hợp với nhau, thường thay đổi thất thường: xơ-cơ-tuyến, tuyến thuần
nhất, xơ hoặc mạch-xơ, xơ-cơ, cơ đơn độc hay xơ-tuyến. Những thành phần này


11

được pha trộn với những tỷ lệ khác nhau, tùy theo sự tăng trưởng các thành phần
của tuyến [6], [46], [67], [138].
1.1.4. Sinh lý bệnh.
PĐLTTTL là nguyên nhân thường gặp gây hội chứng tắc đường niệu dưới,
ảnh hưởng đến hệ tiết niệu [7], [45], [132]. Ảnh hưởng của PĐLTTTL bao gồm:
1.1.4.1. Ảnh hưởng tới niệu đạo tuyến tiền liệt
TTL bao quanh niệu đạo, sát bàng quang nên khi PĐLTTTL thì niệu đạo sẽ bị
ảnh hưởng đầu tiên. Niệu đạo TTL bị kéo dài và bị chèn ép bởi các thùy của TTL.
Nếu chụp bàng quang-niệu đạo với thuốc cản quang, trên phim nghiêng sẽ
thấy niệu đạo bị kéo dài và có hình lưỡi kiếm do hai thùy bên phì đại ép niệu đạo
dẹt lại [112].
1.1.4.2. Ảnh hưỏng tới cổ bàng quang:
Khi PĐLTTTL, cổ bàng quang sẽ bị đẩy lên cao vào trong lòng bàng quang
và bị chèn ép. Tùy theo sự phì đại của các thùy mà kéo theo sự biến dạng của cổ
bàng quang. Ngoài sự chèn ép, cổ bàng quang còn bị xơ cứng, mép sau bị đẩy lên
cao làm thành bè chắn, cản trở sự tiểu tiện sau mổ. Vì vậy, trong những trường hợp
này, khi phẫu thuật phải cắt cổ bàng quang mới tránh được đái khó sau phẫu thuật
[112].
1.1.4.3. Ảnh hưởng tới bàng quang:
Do sự phát triển của TTL gây chèn ép ở cổ bàng quang, trong giai đoạn đầu

thành bàng quang phì đại để thắng chướng ngại vật. Bàng quang tăng trương lực,
tăng co bóp để đẩy nước tiểu ra: thành bàng quang có hình cột, hình hang, có khi có
túi thừa [59], [112]. Sang giai đoạn mất bù, sự phì đại chấm dứt, thành bàng quang
ngày càng giãn mỏng, khả năng co bóp yếu. Lúc này sẽ để lại nước tiểu tồn dư, dễ
gây nhiễm khuẩn đường tiết niệu, gây bí đái hoàn toàn hoặc không hoàn toàn [59].
1.1.4.4. Ảnh hưởng tới niệu quản:
Bình thường áp lực niệu quản tăng dần từ bể thận đến bàng quang. Đoạn
niệu quản trong thành bàng quang có hệ thống van chống trào ngược. Khi áp lực
của bàng quang càng tăng thì van càng đóng kín. PĐLTTTL chèn ép niệu quản và


12

cổ bàng quang, làm cho áp lực của bàng quang luôn tăng cao, làm cho van đóng
kín, cản trở sự lưu thông nước tiểu từ bể thận xuống bàng quang, dẫn đến niệu quản
giãn quá mức, quá trình ứ nước tiểu ở niệu quản kéo dài sẽ ảnh hưởng tới thận.
1.1.4.5. Ảnh hưởng tới thận:
Do ứ đọng nước tiểu ở bàng quang làm ảnh hưởng đến các van, làm nước
tiểu trào ngược gây viêm nhiễm, ứ nước ở thận và gây suy thận.

Hình 1.2. Những ảnh hưởng của PĐLTTTL
1.2. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG PHÌ ĐẠI LÀNH TÍNH
TUYẾN TIỀN LIỆT
1.2.1. Đặc điểm lâm sàng phì đại lành tính tuyến tiền liệt
1.2.1.1. Triệu chứng cơ năng
Biểu hiện “hội chứng tiền liệt” bao gồm hội chứng kích thích và hội chứng
do chèn ép:


13


* Hội chứng kích thích:
Đó là sự đáp ứng của bàng quang với chướng ngại vật ở cổ bàng quang. Vì
phải luôn tăng cường sức co bóp để chống lại sự cản trở gây nên do PĐLTTTL nên
bàng quang dễ bị kích thích hơn so với bình thường. Các triệu chứng gồm có:
- Tiểu gấp: buồn đi tiểu một cách cấp thiết, không nhịn được quá vài phút
hoặc nhịn rất khó.
- Tiểu nhiều lần cả ban đêm lẫn ban ngày, nhất là về đêm, thường từ 2 lần trở
lên làm bệnh nhân mất ngủ.
Hai triệu chứng này thường xuất hiện sớm, những bệnh nhân thích nghi được
hoặc thường quan niệm là do tuổi già nên không đi khám [26], [39].
* Hội chứng do chèn ép:
Đó là biểu hiện của PĐLTTTL chèn ép cổ bàng quang:
- Tiểu khó: phải rặn nhiều mới đi tiểu được, tia nước tiểu yếu và phải đi làm
nhiều giai đoạn, đứng lâu mới tiểu hết.
- Đi tiểu có tia nước tiểu yếu và nhỏ, có khi ra hai tia.
- Khi đi tiểu, luợng nước tiểu sau cùng tiểu rớt xuống không vọt ra xa.
- Có nước tiểu tồn đọng: đi tiểu xong bệnh nhân vẫn còn cảm giác tiểu chưa
hết [26], [39], [47].
Các triệu chứng này có thể đơn độc, nhưng khi nặng có thể kết hợp nhiều
triệu chứng. Trong giai đoạn có biến chứng còn có thể gặp các triệu chứng sau 26],
[47]:
- Đái máu đầu bãi, nếu cuối bãi có thể là viêm niêm mạc bàng quang, u bàng
quang kết hợp, sỏi tạo ra do quá trình ứ nước tiểu hoặc túi thừa bàng quang do quá
trình co dãn không đồng đều mà phát sinh ra túi thừa.
- Tiểu đục và tiểu buốt khi có nhiễm khuẩn bàng quang, TTL, viêm mào tinh
hoàn, viêm bể thận, nhiễm khuẩn máu...
- Đái tràn: nước tiểu tự chẩy qua cổ bàng quang khi có một áp lực nhỏ ở
trong ổ bụng ép vào bàng quang, đái rỉ hay xuất hiện khi bệnh nhân ngủ.



14

- Bí đái cấp: bệnh nhân không thể đái được, đau hạ vị, cầu bàng quang căng
to do phù nề xung huyết hay xẩy ra ở bệnh nhân PĐLTTTL sau khi ngồi lâu ở một
tư thế như đi ô tô hoặc nhịn đái, uống quá nhiều
- Suy thận: do hậu quả của quá trình ứ nước tiểu từ bàng quang, niệu quản,
thận mà gây ra ứ nước tại thận, suy thận, nhiễm trùng bể thận.
1.2.2. Chẩn đoán các giai đoạn PĐLTTTL theo YHHĐ.
1.2.2.1. Giai đoạn 1
* Triệu chứng toàn thân: thường chưa thay đổi gì đáng kể.
* Triệu chứng cơ năng:
Giai đoạn này biểu hiện với các triệu chứng:
- Đái khó: có 4 triệu chứng có thể phối hợp với nhau hoặc đơn độc như :
+ Thời gian dặn: khởi động kéo dài.
+ Dòng nước tiểu yếu.
+ Kết thúc dòng nước tiểu không rõ ràng, không dứt khoát, có nhỏ giọt nước
tiểu trước khi kết thúc.
+ Đái phải rặn kết hợp với tăng áp lực ổ bụng.
- Đái tăng về đêm: đêm phải trở dậy 2- 3 lần đi đái/ đêm, với lượng
nước tiểu nhỏ, nhất là hay xảy ra nửa đêm về sáng.
- Không có cảm giác nặng tức vùng hạ vị.
* Triệu chứng thực thể:
- Không có cầu bàng quang.
- Thăm trực tràng: tuyến tiền liệt tăng về thể tích (nhẵn, ranh giới rõ, không đau).
* Cận lâm sàng:
- Xét nghiệm: Urê và creatinin máu bình thường.
- Siêu âm:
+ Thận, niệu quản, bàng quang bình thờng, thể tích tuyến tiền liệt tăng.
+ Không có nước tiểu tồn dư trong bàng quang sau khi đái.

1.2.2.2. Giai đoạn 2
* Triệu chứng toàn thân: Có thể có triệu chứng mất ngủ, kém ăn, mệt mỏi…


15

* Triệu chứng cơ năng:
Đái khó tăng lên, đi đái phải rặn đái, sau tiểu vẫn còn cảm giác không thoải
mái, thời gian đái kéo dài, đái tăng dần cả ban ngày và ban đêm, cảm giác nặng tức
hạ vị.
* Triệu chứng thực thể:
Có cầu bàng quang nhỏ ở vùng hạ vị (chỉ phát hiện được ở những bệnh nhân
gầy) bằng phương pháp thăm trực tràng kết hợp với một tay nắm ở vùng hạ vị, thăm
trực tràng tuyến tiền liệt to.
* Cận lâm sàng:
- Xét nghiệm: Ure và creatinin máu bình thường.
- Siêu âm:
+ Thận, niệu quản, bàng quang không giãn, thể tích tuyến tiền liệt tăng.
+ Thể tích nước tiểu tồn dư trong bàng quang sau khi đi tiểu: >50ml,
nhưng không vượt quá dung tích sinh lý bình thường của bàng quang.
1.2.2.3. Giai đoạn 3
* Triệu chứng toàn thân:
-

Bệnh nhân mệt mỏi, chán ăn, khát nước, đau đầu.

* Triệu chứng cơ năng:
- Đái rỉ, ban đêm ngủ xuất hiện nước tiểu nhưng không có phản xạ đi đái
(đái nghịch thường).
- Triệu chứng của tăng ure máu: gồm những triệu chứng về thần kinh (đau

đầu, có khi lơ mơ, suy nhược thần kinh…), những triệu chứng về tim mạch (cao
huyết áp, khó thở, phù hai chi dưới).
* Triệu chứng thực thể:
- Có cầu bàng quang.
- Thăm trực tràng: tiền liệt tuyến to.
* Cận lâm sàng:
- Xét nghiệm: Ure máu và creatinin máu tăng.
- Siêu âm:


16

+ Thể tích tuyến tiền liệt tăng, đôi khi có cả giãn đài bể thận, túi thừa bàng quang.
+ Thể tích nước tiểu tồn dư vượt quá dung tích sinh lý bình thường của bàng
quang. ở giai đoạn này, bàng quang mất bù và dấu hiện lâm sàng nặng nề nhất là
suy thận.
1.2.3. Chẩn đoán phân biệt
Cần phải chẩn đoán phân biệt với các chứng bệnh sau [18].
- Hẹp niệu đạo do chấn thương:
Có tiền sử chấn thương niệu đạo, các kỹ thuật thăm khám bằng dụng cụ, nội
soi, chụp niệu đạo cản quang ngược dòng cho phép đánh giá chính xác.
- Bàng quang thần kinh:
Xuất hiện sau chấn thương cột sống, tủy sống, viêm tủy hoặc can thiệp
ngoại khoa cột sống, tủy sống, với các triệu chứng mất cảm giác vùng tầng sinh
môn, rối loạn cơ vòng.
- Xơ cứng cổ bàng quang:
Phát hiện qua soi bàng quang, X quang, thăm khám bằng dụng cụ.
- Ung thư bàng quang thâm nhiễm vào cơ bàng quang:
Biểu hiện đái ra máu, soi bàng quang thấy hình ảnh khối u, chụp thận có
thuốc thấy hình khuyết trong bàng quang.

- Viêm tuyến tiền liệt:
Biểu hiện viêm, đau vùng sinh dục, sốt, nhất là trong trường hợp cấp tính.
- áp xe tuyến tiền liệt:
Thăm trực tràng thấy cơ hậu môn nhão, khối mủ bùng nhùng khác biệt rõ
ràng với tuyến tiền liệt bình thường.
- Ung thư tuyến tiền liệt:
Thăm trực tràng có một hoặc nhiều u nhỏ, rắn chắc, cứng như đá, không
nhẵn, có thể xâm nhiễm sang vỏ tuyến, trực tràng. Siêu âm có biểu hiện cản âm và
gián đoạn ở vùng vỏ của khối ung thư. Xét nghiệm đặc hiệu là PSA và nồng độ
photphataza acid. Nếu nghi ngờ cần làm sinh thiết, chụp cắt lớp vi tính (CT
scanner) và cộng hưởng từ (MRI).


17

1.2.3.1. Các thang điểm đánh giá lâm sàng tuyến tiền liệt
Để lượng giá các triệu chứng cơ năng của PĐLTTTL các nghiên cứu trên thể
giới đó đề xuất nhiều thang điểm đánh giá lâm sàng PĐLTTTL:
- Thang điểm quốc tế IPSS: 6/1991, hội nghị các nhà tiết niệu quốc tế đã
thông qua thang điểm của hội niệu học Mỹ dành cho u lành tuyến tiền liệt (IPS:
International Prostate Symptom Score), dùng để đánh giá mức độ của các triệu
chứng và đề ra biện pháp điều trị cũng như theo dõi. Thang điểm gồm 7 câu hỏi.
Tổng số điểm là từ 0-35 điểm, chia ra 3 mức độ: nhẹ (1-7 điểm), vừa (8-19 điểm),
nặng (20-35 điểm) (phụ lục) [18], [21], [66], [78], [85], [100], [118].
- Thang điểm chất lượng cuộc sống (Quality of Life – QoL): bao gồm các
câu hỏi đánh giá liên quan đến tình trạng tiểu tiện với 7 mức độ cảm nhận khác
nhau của bệnh nhân và được cho điểm từ 0-6, chia làm 3 mức độ nhẹ: từ 1-2 điểm,
trung bình từ 3-4 điểm, nặng từ 5-6 điểm (phụ lục).
- Thang điểm Madsen: bao gồm 9 câu hỏi về các rối loạn tiểu tiện của bệnh
nhân. Điểm từ 0 - 25 điểm, rối loạn càng nặng thì thang điểm càng cao.

- Thang điểm Peters A. Craig cho điểm tỷ lệ thuận với các rối loạn tiểu tiện.
Số điểm từ 0 - 32.
- Thang điểm triệu chứng TTL của Đan Mạch (DAN-PSS-1): bao gồm 12 câu
hỏi, mỗi câu hỏi lại cứ 2 câu hỏi nhỏ dựng để đánh giá mức độ của các triệu chứng rối
loạn tiểu tiện. Mỗi câu hỏi tương ứng với 4 mức độ, được cho điểm từ 0- 3 [65].
- Bộ câu hỏi dạng rút ngắn đánh giá về tiểu tiện ở nam giới của Hội tiểu tự
chủ quốc tế (ICSmaleSF): gồm 14 mục, mỗi mục có 5 loại theo thứ tự, cho điểm 04, gồm các câu hỏi về tần suất đi tiểu, số lần tiểu đêm và ảnh hưởng của các triệu
chứng tiết niệu với đời sống của bệnh nhân [77].
Hiện nay thang điểm IPSS và QoL được sử dụng rộng rãi nhất để đánh giá
các triệu chứng cũng là cơ sở để lựa chọn phương pháp điều trị, đánh giá kết quả
điều trị và theo dõi bệnh nhân sau điều trị [47].


18

1.2.4. Khám lâm sàng
* Thăm trực tràng:
- PĐLTTTL được phát hiện như một khối tròn đều, trơn láng, nhẵn, có tính
đàn hồi, không đau, còn rãnh giữa hay không sờ thấy, mật độ đồng đều, không có
nhân rắn, ranh giới rõ rệt mềm hoặc chắc nhưng không bao giờ cứng như gỗ (có thể
gặp trong ung thư TTL) [47], [126].
- Trong trường hợp viêm TTL cấp, bệnh nhân sẽ rất đau khi ấn vào TTL. Khi
ung thư TTL, sờ vào tuyến thấy chắc như sỏi, mật độ không đồng đều, không đàn hồi.
* Khám bộ phận sinh dục:
Khám vùng thắt lưng hai bên để phát hiện thận to do ứ nước.Khám vùng hạ
vị để phát hiện cầu bàng quang [26], [47].
1.2.5. Đặc điểm cận lâm sàng phì đại lành tính tuyến tiền liệt
1.2.5.1. Xét nghiệm nước tiểu
Xét nghiệm nước tiểu tìm hồng cầu, bạch cầu, tế bào mủ hay vi khuẩn trong
nước tiểu, protein niệu [129].

1.2.5.2. Xét nghiệm máu
* Định lượng ure, creatinin máu: để đánh giá chức năng thận. PĐLTTTL giai
đoạn muộn đều có nguy cơ suy thận [76], [129].
* Định lượng PSA (Prostatic Specific Antigen):
PSA là kháng nguyên đặc hiệu với tế bào tuyến tiền liệt, việc áp dụng đo
nồng độ PSA vào chuẩn đoán, theo dõi điều trị và tiến triển của bệnh là việc làm rất
có ý nghĩa trên lâm sàng. Mặc dù PSA không phải đặc hiệu riêng cho ung tuyến tiền
liệt nhưng tế bào ung thư của tuyến tiền liệt tiết ra PSA gấp 10 lần so với tế bào phì
đại lành tính tuyến tiền liệt cũng như viêm tuyến tiền liệt. Nhiều nghiên cứu đã cho
thấy ung thư TTL chủ yếu tăng dạng PSA kết hợp, ngược lại trong u lành TTL tăng
chủ yếu PSA tự do.
Stamey và Partin (1990) cho rằng nồng độ PSA có liên quan trực tiếp với thể
tích khối ung thư tuyến tiền liệt. Nếu nồng độ PSA <10 ng/ ml ít có giá trị, PSA từ 10
-20 ng/ml tỷ lệ ung thư là 75%, PSA > 30ng/ml ung thư là 90%, nếu nồng độ PSA
>50ng/ml bao xơ bị xâm lấn tới 78%, túi tinh bị xâm lấn tới 90% và các hạch bị xâm


19

lấn tới 60%. Vì vậy, những năm gần đây định lượng PSA trong huyết thanh vẫn được
coi là một phương tiện hữu hiệu để phát hiện sớm ung thư tuyến tiền liệt (khi khối ung
thư vẫn còn nằm trong bao tuyến).
Gần đây nhiều công trình nghiên cứu đã đưa ra các chỉ số mới như mật độ
PSA, tốc độ PSA, chỉ số PSA tự do trên PSA toàn phần (fPSA/tPSA)[9], [12], [19],
[39], [46].
Nhiều nghiên cứu chỉ ra giới hạn của chỉ số PSA tự do/ PSA toàn phần là từ
0,15 – 0,25. Đối với những bệnh nhân có tỉ lệ PSA tự do / PSA toàn phần <0,15 thì
phải tiếp tục các biện pháp để chẩn đoán ung thư TTL.
1.2.5.3. Siêu âm
- Siêu âm tuyến tiền liệt: cho phép xác định khối lượng, hình dạng phát triển

và mật độ TTL, phát hiện những vùng calci hoá TTL, những vùng giảm âm của nhu
mô, thuỳ giữa của TTL, sự cân xứng của các túi tinh, bàng quang,
- Siêu âm bàng quang trên xương mu để đánh giá thể tích, nước tiểu tồn đọng
trong bàng quang sau tiểu, đo bề dày khối cơ bàng quang, tìm sỏi, túi thừa bàng
quang và các tổn thương phối hợp, tìm thuỳ giữa của TTL.
- Siêu âm thận, niệu quản: để đánh giá ảnh hưởng của PĐLTTTL lên đường
niệu trên, sỏi, kích thước của thận... [47], [119].
1.2.5.4. Chụp X quang
- Chụp niệu đồ tĩnh mạch (UIV): được chỉ định làm khi nghi ngờ có tổn thương phối hợp [47], [129].
- Chụp niệu đạo- bàng quang ngược dòng: được chỉ định khi tái xuất hiện
triệu chứng rối loạn tiểu tiện sau khi đã phẫu thuật hoặc có bệnh lý thần kinh kèm
theo [47], [129].
1.2.5.5. Nội soi bàng quang
Nội soi bàng quang dùng để xem có sỏi, có túi thừa, hình ảnh trực tiếp của
khối u, tình trạng cổ bàng quang trước mổ [47], [129].


20

1.2.5.6. Đo lưu lượng nước tiểu (niệu dòng đồ)
Niệu dòng đồ không cho phép chẩn đoán PĐLTTTL, nhưng sự thay đổi của
niệu dòng đồ là một bằng chứng của tiểu khó [39], [129].
Theo Anbert Leriche, khi lưu lượng nước tiểu <6ml/giây là tắc nghẽn chắc
chắn ở cổ bàng quang; <10ml/giây phần lớn có nguyên nhân tắc nghẽn ở cổ bàng
quang; từ 10-15ml/giây là có thể có cản trở hoặc không có cản trở ở cổ bàng quang
và > 20ml/ giây chắc chắn không có cản trở ở cổ bàng quang.,.
1.3. ĐIỀU TRỊ PHÌ ĐẠI LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT
1.3.1. Điều trị dự phòng
* Mục đích:
Ngăn ngừa các biến chứng và tiến triển của bệnh PĐLTTTL.

* Phương pháp:
Cần điều chỉnh chế độ ăn uống và cách sống phù hợp [35], [163].
- Ăn uống điều độ hợp lý, tránh uống rượu mạnh, thức ăn nhiều gia vị.
- Tránh nhịn đi tiểu lâu.
- Nên có chế độ sinh hoạt vận động, luyện tập hợp lý, tránh ngồi lâu, nằm lâu
gây cương tụ máu vùng tầng sinh môn.
- Luyện thói quen đại tiểu tiện đúng giờ, tăng cường hoạt động của cơ bụng,
cơ hoành và chống táo bón.
- Điều trị kịp thời khi viêm nhiễm hệ tiết niệu.
- Chú ý điều trị các bệnh về tiêu hóa, đái tháo đường.
- Ngâm tầng sinh môn trong nước ấm hàng ngày sau khi tập thể dục và buổi
tối trước khi đi ngủ, tập dưỡng sinh.
- Phát hiện sớm các triệu chứng của sự ứ tắc và sự kích thích đường tiểu để
có hướng điều trị phù hợp.
1.3.2. Theo dõi và chờ đợi
Đối với y học hiện đại khi các triệu chứng bế tắc đường tiểu do PDTLT gây
ra cũng nhẹ, không gây ảnh hưởng nhiều, thì người ta khuyến cáo chưa nên điều trị
thuốc, bởi vì biến chứng do điều trị thuốc thì lại lớn hơn. Hơn nữa thật phiền toái


21

khi phải dùng thuốc hàng ngày, vừa tốn kém vừa có nguy cơ chịu tác dụng phụ kéo
dài của thuốc [35], [163].
Chỉ định theo dõi và chờ đợi cho bệnh nhân có rối loạn tiểu tiện nhẹ với
IPSS <7, thể tích cặn bàng quang <8ml, chưa có biến chứng [95], [163].
1.3.3. Điều trị nội khoa
Theo Caine (1975) và Lepor (1984), có hai yếu tố gây rối loạn tiểu tiện trong
PĐLTTTL: do bản thân sự phì đại của TTL (yếu tố tĩnh) và do sự co cơ hay tăng
trương lực của các cơ trơn ở cổ bàng quang và TTL (yếu tố động). Do vậy các thuốc

điều trị phải nhằm tác động lên hai yếu tố này.
Điều trị nội khoa được chỉ định cho các trường hợp chưa có biến chứng, triệu
chứng lâm sàng ở giai đoạn rối loạn nhẹ, vừa và nặng: IPSS<20 và QoL<3, thể tích
cặn <100ml [35], [44], [119], [163].
* Thuốc đối kháng α- adrenergic:
Các thuốc đối kháng α- adrenergic có tác dụng giãn cơ cổ bàng quang, giảm
sức cản của ngoại vi, do vậy làm giải phóng dòng nước tiểu [44], [122], [163].
Thuốc không có tác dụng cải thiện triệu chứng tiểu đêm mặc dù nó làm giảm triệu
chứng trong rối loạn tiểu tiện do PĐLTTTL [109]. Trong mô đệm TTL chủ yếu là
thụ thể alpha týp c. Vì vậy, thuốc alpha týp c là thuốc lý tưởng dùng điều trị
PĐLTTTL. Một số thuốc trong nhóm này đã được nghiên cứu và sử dụng. Song các
thuốc này vẫn còn nhiều tác dụng không mong muốn như: chóng mặt, choáng váng,
hạ áp, ảnh hưởng đến sinh lý...
- Loại ức chế alpha không chọn lọc: Phenoxybenzamin, Nicergolin,
Thymoxamin (hiện nay ít dùng).
- Loại ức chế chọn lọc trên alpha 1: Prazosin, Alphazosin, Indoramin,
Alfuzosin [56], [74], [113], [119], [124], [135], [139].
- Loại ức chế alpha có tác dụng kéo dài: Terazosin, Dosazosin, Tamsulosin
[60], [95], [113], [114], [135].
* Thuốc ức chế 5 α- reductase:
Finasterid và Dutasterid ngăn cản sự chuyển hóa testosteron thành dihydro
testosteron. Thuốc tác động lên mô tuyến hạn chế và làm giảm kích thước của T


22

TL. Finasterid có thể gia tăng lưu lượng dòng niệu đỉnh và làm giảm triệu
chứng của PĐLTTTL .Đặc biệt thuốc làm giảm nồng độ PSA trong máu xuống 50%
nhưng phải dùng thời gian dài ít nhất trong 6 tháng, nhưng cũng nhiều tác dụng
phụ: giảm hứng tình dục, đau ngực, giảm tinh trùng [47], [75], [87], [130].

* Thuốc có nguồn gốc nội tiết:
Androgen là hormon chủ yếu kích thích sự tăng trưởng của TTL. Vì thế người ta loại bỏ androgen, có thể dùng các phương pháp như sau:
- Loại bỏ sự phóng thích (ức chế) LH của tuyến yên dẫn đến giảm testosteron
(ví dụ, các chất đối kháng LHRH) như: Leprolid, Gonadonalin…
- Ức chế sự tổng hợp testosteron ở tế bào Leydig của tinh hoàn bằng cách ức
chế 5α- reductase không cho chuyển hoá testosterone thành dihydro testosteron.
- Ức chế tác động của androgen ở cơ quan đích: cạnh tranh vị trí kết hợp
receptor ở cơ quan nhận cảm androgen hoặc can thiệp vào quá trình chuyển hóa nội
bào của testosterone như: Cyproteronacetat, Flutamid.
Hiện nay, các loại thuốc này được dùng chủ yếu trong ung thư TTL và ít được dùng trong PĐLTTTL [11], [35], [45], [122].
* Thuốc chiết xuất từ thảo mộc
Dùng trong các trường hợp đi tiểu nhẹ, bệnh nhân còn chịu được và nước
tiểu tồn lưu dưới 100ml. Các thuốc thảo mộc hiện nay cơ chế tác dụng chưa rõ ràng
cần phải nghiên cứu tiếp. Các loại thuốc thường dùng là:
- Tadenan có hoạt chất chiết xuất từ vỏ cây Pygeum Africanum [19], [35], [68].
- Permixon chiết xuất từ quả cây cọ lùn ở Nam Mỹ (Serenoa Repens) [35].
- Bromocriptin là chất bán tổng hợp Alcaloit của cây cựa gà, có tác dụng ức chế sự
bài tiết prolactin, chất đối kháng đặc hiệu của các thụ thể Dopaminergic [38], [44], [47].
- Cernilton: là thuốc có thành phần chiết xuất từ lúa mạch đen (Secale Cereale).Viên nang CRILA là thuốc được chiết xuất từ cây Trinh nữ hoàng cung.
1.3.4. Điều trị ngoại khoa
1.3.4.1. Chỉ định
Được dùng để điều trị PĐLTTTL khi có biến chứng. Theo khuyến cáo của Hiệp
hội Niệu học Hoa Kỳ, điều trị ngoại khoa được chỉ định cho các trường hợp sau:


23

- Chỉ định tuyệt đối:
+ Bí tiểu hoàn toàn: ít nhất 1 lần thất bại sau khi rút ống thông tiểu.
+ Nhiễm khuẩn đường tiểu tái diễn, đái máu đại thể tái diễn.

+ Sỏi bàng quang, suy thận, túi thừa bàng quang lớn do PĐLTTTL.
- Chỉ định tương đối:
+ Bệnh gây ảnh hưởng đến sức khỏe, sinh hoạt và công tác.
+ Các trường hợp chưa gây bí tiểu nhưng đã có biến chứng, tai biến trong
bệnh tim mạch, hen phế quản, tai biến mạch máu não đã ổn định, nhồi máu cơ tim
đã ổn định [45], [47], [100].
Theo Trần Văn Sáng, điều trị ngoại khoa chỉ định khi chỉ số IPSS>20, QoL >
3, lượng nước tiểu tồn lưu trong bàng quang >100ml [35].
1.3.4.2. Phương pháp phẫu thuật
Việc điều trị ngoại khoa PĐLTTTL đã được Amussat (Pháp) thực hiện lần
đầu tiên vào năm 1827. Từ đó đến nay đã có rất nhiều các tác giả tiếp tục nghiên
cứu và điều trị bệnh này. Các phương pháp phẫu thuật hiện nay tập trung làm 2 loại:
phẫu thuật mở và phẫu thuật nội soi cắt PĐLTTTL [63].
* Phẫu thuật mở:
Được dùng khi PĐLTTTL ≥80g, sỏi bàng quang lớn, túi thừa bàng quang
lớn. Theo Nguyễn Bửu Triều chỉ định của phẫu thuật mở là PĐLTTTL >50g hoặc
nếu có kèm hẹp niệu đạo, xơ cứng khớp háng. Phẫu thuật mở bóc PĐLTTTL thực
hiện theo 2 đường: trên xương mu và sau xương mu [104].
* Phẫu thuật nội soi:
Trong vòng 20 năm trở lại đây, phương pháp cắt nội soi đã chiếm ưu thế so
với các phương pháp mổ mở để điều trị PĐLTTTL do phương pháp này đạt hiệu
quả cao, có nhiều ưu điểm như tỷ lệ tử vong thấp, ngày điều trị rút ngắn, tỷ lệ tai
biến, biến chứng giảm và điều trị tốt cho các bệnh nhân có nguy cơ cao: bệnh thần
kinh, tim mạch, bệnh về não hoặc không thể điều trị bằng phương pháp khác. Nhiều
nghiên cứu đều khẳng định sự tin cậy của phương pháp này nhờ những tiến bộ về kỹ
thuật [8], [11], [53], [63], [81], [91], [144].


24


* Những cải tiến trong cắt nội soi PĐLTTTL [44]
- Dùng điện cực bốc hơi (TUEVP- Transurethral electro- vaporization of the
prostate). Irwin Bush (1960) dùng một điện cực có đầu lăn có khả năng làm bốc hơi mô
TTL, khi được cung cấp năng lượng 200- 300W. Phương pháp được sử dụng cho các
PĐLTTTL nhỏ, ít gây chảy máu và ít gây các biến chứng.
-Laser: dùng sức nhiệt để gây bốc hơi hay gây hoại tử đông, nhờ sự điều
chỉnh làn sóng, công suất và thời gian sử dụng. Năng lượng laser đó được sử dụng
để phá hủy các khối u ở nhiều cơ quan trong cơ thể. Hai nguồn năng lượng chính được sử dụng là neodymium: yttrium-aluminum-garnet và Holmium: YAG. Các
phương pháp thường dùng: đốt mô tuyến tiền liệt và gây hoại tử bằng laser, làm bốc
hơi bằng laser qua niệu đạo, cắt u bằng Holmium laser qua đường niệu đạo [20],
[40].
Tại Viện Lão khoa đã điều trị phì đại lành tính tuyến tiền liệt bằng laser
diode cho hiệu quả cao. Laser diode cải thiện tốt điểm triệu chứng và điểm chất
lượng cuộc sống, khối lượng tuyến tiền liệt không teo hẳn nên ít ảnh hưởng đến
các hoạt động sinh dục so với phần cắt phẫu thuật [19], [39], [47], [100].
* Các phương pháp nội soi khác [44], [80]:
- Nong TTL: Burhenne (1984) đã sử dụng một bóng nhỏ để nong TTL. Các
cơ trơn được giãn ra, mép trước của TTL được nới rộng.
- Đặt nòng “Prostakath”: Fabian (1980) dùng một nòng lò xo trong niệu đạo
TTL để nong một cách thường xuyên nhưng không cản trở hoạt động của cơ thắt.
Sau 3- 6 tháng, niêm mạc phủ lên nòng, giúp cho dòng chảy thuận lợi.
- Dùng nhiệt hay sức nóng để điều trị (hyperthermy, thermotherapy): đưa sức
nóng hay nhiệt vào chiều sâu của TTL để làm tổn thương các tế bào của TTL và
làm cho kích thước TTL nhỏ đi [44], [47], [106].
1.4. QUAN NIỆM CỦA Y HỌC CỔ TRUYỀN VỀ PHÌ ĐẠI LÀNH TÍNH
TIỀN LIỆT
1.4.1. Quan niệm của các y văn cổ


25


Lý luận về hình thành và bài niệu, tiểu tiện không thông của y học cổ truyền
(YHCT) tập trung ở các tài liệu sau đây [14], [19], [20].
- “Tố vấn linh khu bí điểm luận” viết: Tam tiêu là cơ quan quyết độc “lưu
thông nước”, nơi thủy đạo chảy ra. Bàng quang là cơ quan Châu đô “phủ kho
chứa”, tân dịch tàng chữ ở đó, khí hoá thì có thể xuất ra được.
- “Tố vấn Tuyên minh ngũ khí luận” viết: Bệnh của ngũ khí… hạ tiêu đầy tràn
là thủy, bàng quang không thông là lung, không khống chế được là di niệu.
- “Tố vấn khí quyết luận” viết: bào chuyển nhiệt đến bàng quang thì lung
niệu huyết.
- “Linh khu bản thâu” viết: Nhị tiêu đi vào lạc (kinh lạc), bàng quang khống
chế hạ tiêu là thực thì bế lung, hư thì di niệu, di niệu thì phải bổ cho nó, bế lung thì
phải tả cho nó.
- “Linh khu ngũ vị luận” viết: toan (chất chua) đi qua cân, ăn nhiều chất toan
thì lung tắc dữ dội, toan vào vị khí sáp để hấp thu rồi đi lên lưỡng tiêu, nếu toan
đến vị mà không thể xuất ra được thì lưu lại ở vị, trong vị mà ôn hoà thì đổ xuống
bàng quang, màng bào của bàng quang thì mỏng mềm mại gặp toan thì sun soắn lại,
khó trở lại mà không thông, thủy đạo không hành được cho nên gây lung.
Theo Nội kinh thì sự phát sinh ra lung và bế có liên quan trực tiếp đến tam
tiêu, đồng thời chịu tác động khí hoá của thận. So sánh với di niệu, lung bế thường là
thực chứng, di niệu thường là hư chứng. Do ảnh hưởng tư tưởng của “Nội kinh” nên
các y gia đời sau thường tuân theo nguyên lý của nội kinh hoặc có phát huy thêm.
- “Biện chứng lục” viết: người bị bí kết tiểu tiện đi giải không thông, thấy
căng ở bụng dưới mà không đau, thượng tiêu không phiền nhiệt (bồn chồn) không
tức ngực, miệng không khát, lưỡi không khô, người ta cho rằng đó là thủy bế ở
bàng quang, có ai biết được rằng hỏa suy ở mệnh môn. Vậy thì bàng quang là cơ
quan quyết độc (lưu thông nước) thông qua khí hoá ở thận mà xuất ra được, khí này
là hỏa mệnh môn. Mệnh môn hỏa vượng thì bàng quang thông thủy, mệnh môn hỏa
suy thì bàng quang bế thủy, hoặc viết rằng: Đái vặt là do hỏa mệnh môn bị suy, hỏa
suy chính là để tiểu tiện cực thông, cớ sao lại dẫn đến bế tắc? Hỏa của mệnh môn



×