Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

ứng dụng hợp đồng giao sau để giảm thiểu tác động biến động giá cà phê, đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp và người nông dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (900.4 KB, 70 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu cà phê lớn nhất trên thế giới,
kim ngạch xuất khẩu cà phê hàng năm chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP của quốc
gia. Thế nhưng hiện nay ngành cà phê Việt Nam vẫn tồn tại những phương thức
kinh doanh mua bán cũ, không phù hợp để có thể cạnh tranh với các nước trên thế
giới, nền sản xuất trong nước phụ thuộc vào biến động giá cà phê thế giới mà giá
này được người mua là các doanh nghiệp chế biến cà phê nước ngoài “sắp đặt sẵn”
cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê nước ta. Để có thể khắc phục điểm yếu và nâng
cao khả năng chủ động trong sản xuất, ổn định lợi nhuận không chỉ của các doanh
nghiệp kinh doanh cà phê mà còn của người nông dân thì việc xây dựng và phát
triển thị trường giao sau cà phê là một trong những giải pháp khả thi và hữu hiệu
trong việc phòng ngừa rủi ro biến động giá.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung vào sản phẩm cà phê nhân thô, tìm hiểu những
tồn tại vướng mắc trong các khâu thuộc quy trình sản xuất kinh doanh nhằm tìm ra
những giải pháp dựa trên việc ứng dụng hợp đồng giao sau để giảm thiểu tác động
biến động giá cà phê, đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp và người nông dân.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bằng phương pháp phân tích nghiên cứu, tổng hợp thông tin từ các tài liệu,
sách báo, Internet có liên quan đến ngành sản xuất kinh doanh cà phê, các công cụ
phái sinh, để cho thấy tổn thất của ngành kinh doanh cà phê do ảnh hưởng của biến
động giá và tác dụng của chiến lược phòng ngừa rủi ro biến động giá thông qua hoạt
động của thị trường giao sau.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Dựa trên tình hình thực tế của ngành sản xuất kinh doanh cà phê Việt Nam,
đề tài đề xuất một số giải pháp khả thi trên nền tảng xây dựng và phát triển thị
trường giao sau để giảm ảnh hưởng xấu của biến động giá cà phê đến ngành này.
2




5. Kết cấu của luận văn
§ Lời mở đầu.
§ Chương 1: Tìm hiểu những rủi ro gặp phải do biến động giá đến sản xuất
nông nghiệp, đồng thời tìm hiểu về vai trò của thị trường giao sau.
§ Chương 2: Tìm hiểu thực trạng kinh doanh cà phê ở Việt Nam và khả năng
ứng dụng thị trường giao sau cà phê tại Việt Nam.
§ Chương 3: Đề xuất các giải pháp liên quan đến xây dựng và phát triển thị
trường giao sau nhằm phòng ngừa rủi ro biến động giá cà phê.
§ Kết luận
3

CHƯƠNG I: RỦI RO BIẾN ĐỘNG GIÁ VÀ VAI TRÒ CỦA
THỊ TRƯỜNG GIAO SAU
1.1. Rủi ro biến động giá cả đối với người sản xuất (nông nghiệp)
Đối với người sản xuất, rủi ro biến động giá cả là loại rủi ro đáng lo ngại và
ảnh hưởng nhiều nhất đến thu nhập của họ. Rủi ro biến động giá cả hàng hóa xuất
hiện khi giá sản phẩm xuống thấp hoặc giá đầu vào tăng sau khi người sản xuất đã
quyết định đầu tư. Rủi ro do biến động giá hầu như xuất hiện ở mọi lĩnh vực kinh
doanh bao gồm cả trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.
Đối với người nông dân, khi họ bắt đầu gieo trồng thì tất cả đều hy vọng đến
khi thu hoạch sẽ có sản lượng cao, chất lượng tốt và đặc biệt là giá bán ra bằng hay
tốt hơn thời vụ trước. Không ai muốn tiếp tục nuôi trồng các cây con mà giá cả đã
liên tục rớt trong nhiều năm liền. Tuy nhiên, sản lượng và chất lượng sản phẩm lại
chịu ảnh hưởng nhiều bởi biến động giá theo quan hệ cung cầu cũng như ảnh
hưởng bởi giá cả đầu vào và các yếu tố bất lợi khác như thời tiết, sản lượng của các
nước có diện tích canh tác lớn... Ở các nước đang phát triển, người nông dân luôn
trong thế bị động, không biết trước đầu ra của sản phẩm, cũng như giá cả và nhu
cầu của thị trường, phần đông trông chờ nhiều vào sự may rủi và phụ thuộc nhiều

vào hoạt động thu mua của các thương lái. Đa phần nông dân sản xuất và tiêu thụ
nông sản theo tập quán lâu đời. Họ dốc vốn, công sức đầu tư trong nhiều tháng,
thậm chí nhiều năm để làm ra một loại hàng hóa chưa biết chắc giá cả, không rõ sẽ
bán cho ai. Vì vậy, cả khi người nông dân đã thu hoạch xong lúa, cà phê, hạt tiêu,


thuốc lá, ngô, đậu tương, cao su… thì cũng vẫn gặp phải rủi ro về giá nếu như lúc
đó giá thị trường đang xuống mà chưa bán hết được hàng.
Bên cạnh đó còn có yếu tố do con người gây nên đó là tình trạng sản xuất
theo phong trào không tính đến giá cả sẽ diễn biến như thế nào trong thời gian tới.
Người nông dân đứng trước một mâu thuẫn là khi được mùa thì giá rớt dẫn tới lỗ,
mất mùa thì giá cao nhưng lại không có hàng để bán. Giá đầu vào có xu hướng ngày
4
càng tăng trong khi giá nông sản đầu ra lên xuống thất thường. Ở trường hợp nào đi
chăng nữa thì người nông dân luôn phải chịu thiệt thòi nhiều nhất.
Đối với các doanh nghiệp chế biến, nhà xuất khẩu nông sản cũng sẽ gặp rủi
ro tương tự như người nông dân nếu như họ thu mua nông sản, thu mua nguyên
liệu, chế biến rồi lưu kho để tiêu thụ hoặc xuất khẩu mà không có hợp đồng mua
trước nguyên liệu với người cung cấp với giá ấn định (vì lúc mua giá có thể đang
lên) cũng như không có hợp đồng bán trước với người tiêu thụ với giá ấn định (vì
lúc bán giá có thể đang xuống) thì khi giá cả mặt hàng đó biến động, có thể đẩy
doanh nghiệp vào tình trạng thua lỗ nặng nề. Nhiều doanh nghiệp vừa ký hợp đồng
bán hàng xong, giá cả biến động tăng, tiền thu về không còn đủ để mua lại số hàng
tương tự vừa bán dẫn đến thua lỗ. Những biến động không thể dự đoán trước của
giá hàng hóa không những có thể ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh mà còn ảnh
hưởng đến thị phần, sức cạnh tranh và thậm chí là cả sự tồn tại của DN nếu điều đó
xảy ra trong một thời gian dài.
Như vậy cả nông dân, các thương lái, nhà chế biến và nhà xuất khẩu đều phải
quan tâm đến việc quản lý rủi ro về giá đối với sản phẩm hàng hoá của mình để hạn
chế thiệt hại đến mức tối đa và thu được lợi nhuận cao nhất.

Chính vì vậy họ cần có những công cụ phòng ngừa để đạt được mục tiêu
giảm thiểu rủi ro biến động giá, một trong những công cụ hữu hiệu đã được các
nước phát triển ứng dụng từ lâu đó là thực hiện giao dịch các hợp đồng giao sau trên
sàn giao dịch giao sau. Chính nhờ có hợp đồng mua, bán trước với giá ấn định và
giao hàng sau mà các bên có thể hạn chế đến mức tối đa rủi ro về biến động giá nhờ
cơ chế hoán đổi và lựa chọn mà sàn sẽ trực tiếp điều hành. Điều này không thể có
được trong thị trường truyền thống khi thực hiện việc giao hàng ngay theo phương
thức mua đứt bán đoạn thì giá bán chỉ là giá cao vào thời điểm đó, nhưng sau đó các


cơ hội giá có lợi hơn sẽ phải bỏ qua vì hàng đã bán rồi, hoặc nếu ký gửi để bán hộ
thì người bán phải thanh toán tiền lưu kho, tiền bảo quản… và vẫn có thể bị ép giá
do người mua cố tình gây ra. Như vậy nhờ chức năng quản lý rủi ro về giá (đây là
chức năng quan trọng nhất mà thị trường giao sau thực hiện được) và nhờ kinh
5
doanh tập trung có tổ chức với khối lượng giao dịch lớn thông qua các sàn giao dịch
trên khắp thế giới mà thị trường giao sau đã mang lại lợi ích trực tiếp cho các thành
phần tham gia cũng như góp phần bình ổn giá cả, tạo ra môi trường kinh doanh lành
mạnh.
Trong phần tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về thị trường giao sau với
cách thức giao dịch như thế nào? Chức năng của nó trong hệ thống tài chính?...
1.2. Tổng quan về thị trường giao sau
Thị trường giao sau là nơi mà hàng hóa được giao dịch tập trung tại một sàn
giao dịch, trong đó người bán và người mua gặp nhau trên thị trường với một mức
giá được chấp nhận và hàng hóa được chuyển giao khi đến một ngày đặc biệt được
ấn định trong tương lai. Tất cả giao dịch đều được thông qua một trung gian môi
giới của sàn với những tiêu chuẩn khắt khe về số lượng và chất lượng của hàng hóa.
Hàng hóa ở đây bao gồm hàng hóa thông thường như lúa mì, cà phê, cao su,… và
hàng hóa tài chính như trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, vàng, ngoại tệ, đồng, bạc,…
Thị trường giao sau rất khác biệt so với thị trường giao ngay và thị trường kì

hạn. Trước tiên là khác biệt về ngày giao hàng, trong giao dịch giao ngay là mua đứt
bán đoạn, còn hợp đồng giao sau là giao vào một ngày thỏa thuận trước với mức giá
định trước. Tiếp đến là cách thức giao dịch, hợp đồng giao sau thường được giao
dịch trên một sàn giao dịch chính thức mang đầy đủ tính pháp lý, người bán, người
mua cần phải thực hiện kí quỹ trên tài khoản phong tỏa để đảm bảo thực hiện nghĩa
vụ trong giao dịch. Trên thị trường này có thể tóm gọn lại chỉ có hai chủ thể, một là
người tham gia phòng ngừa (hegding), họ luôn muốn hàng hóa được bảo hiểm giá
trước sự biến động khôn lường của thị trường. Hai là người đầu cơ (speculator), họ
luôn muốn kiếm lợi nhuận dựa trên dự đoán chủ quan về giá cả thị trường, họ sẽ
chốt lời hoặc chốt lỗ bằng cách chốt “vị thế” muabán trong thị trường, số tiền họ
được hoặc mất sẽ không vượt quá giá trị kí quỹ phong tỏa. Trên thực tế, có 2% hợp


đồng đã thỏa thuận được chuyển giao, kết thúc “vị thế” muabán luôn được lựa
chọn nhiều khi đầu tư trên thị trường hàng hóa giao sau.
6
Điều khác biệt tiếp theo là ở các đặc điểm của hợp đồng giao sau như: giá
cả, trung tâm thanh toán bù trừ, nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro biến động giá, đầu
cơ…
1.2.1. Giá cả và các yếu tố quyết định
Giá cả được quyết định bởi các điều kiện cung cầu, nếu trên thị trường có
nhiều người mua hơn người bán, giá hàng hóa sẽ tăng lên nhanh chóng, ngược lại
trên thị trường mà người mua ít hơn người bán, giá sẽ giảm. Vậy từ đâu mà hình
thành nên các điều kiện cung cầu.
Đó là do các lệnh đặt mua và bán khắp nơi trên thế giới đổ về và được tập
trung tại sàn giao dịch hàng hóa. Những lệnh này khi được nhập vào sàn giao dịch
thì sẽ trở thành các hợp đồng giao sau với những điều kiện ràng buộc nhất định giữa
bên bán và bên mua. Đối với các hợp đồng khác thì giá cả được hình thành trên mặt
bằng chung là thỏa thuận, nhưng giao dịch giao sau thì không, nó có nhiều hệ thống
đấu giá được kết nối với bảng điện tử của sàn, những giá này được tự do đặt theo ý

muốn chủ quan của nhà đầu tư và được chuyển đến sàn thông qua hệ thống máy
tính kết nối. Sự đặt giá này được đặt trong một khoản thời gian quy định, đây được
gọi là giờ giao dịch. Theo đó sẽ có nhiều loại lệnh khác nhau được đặt tùy vào tính
chất đầu tư của cá nhân, ví dụ như lệnh thị trường, lệnh giới hạn, lệnh dừng lỗ…
Chính vì cơ chế đấu giá và cơ chế vận hành của thị trường giao sau đã làm
giá cả hàng hóa phản ánh đúng giá trị thực của nó. Mặt khác nếu lạm dụng thì sẽ
gây ảnh hưởng lớn đến hiện tượng đầu cơ giá, tất nhiên luật định sẽ tạo nhiều cản
trở cho các hoạt động đầu cơ giá đó, nhưng tất cả vẫn phải đảm bảo mục đích cơ
bản của sàn giao dịch giao sau là cung cấp cho các thành viên có thể tự do mua bán
các loại hàng hóa khác nhau vì mục đích lợi nhuận. Đồng thời sàn này được hoạt
động vì mục đích phi lợi nhuận, nhưng mọi giao dịch thông qua sàn cần phải qua
một trung tâm môi giới, tất nhiên nhà đầu tư phải trả một khoản phí hoa hồng nhất
định cho trung tâm này.
7


Ngoài ra, tại sàn giao dịch luôn có một sự hiện diện không thể thiếu của một
trung tâm, đó là trung tâm thanh toán bù trù. Chính trung tâm này đã điều hành hoạt
động của sàn một cách trơn tru và hạn chế sự đầu cơ giá bất hợp pháp của nhà đầu
tư. Vậy trung tâm này có chức năng cụ thể ra sao? Và tầm quan trọng của nó thể
hiện như thế nào?
1.2.2. Trung tâm thanh toán bù trừ (TTTTBT)
Mọi nhà đầu tư trên thị trường hàng hóa giao sau cần phải hiểu rõ cơ chế
hoạt động và chức năng của trung tâm thanh toán bù trừ cũng như hiểu rõ sự vận
hành của thị trường giao dịch giao sau.
Tại mỗi sàn giao dịch đều có một trung tâm thanh toán bù trừ của riêng mình
để đảm bảo giao dịch được thông suốt. Mọi thành viên trên sàn luôn luôn yêu cầu
sự rõ ràng trong giao dịch ở cuối mỗi phiên thông qua trung tâm thanh toán bù trừ,
đồng thời các thành viên này phải thực hiện nghiệp vụ ký quỹ phong tỏa bắt buộc ở
trung tâm thanh toán bù trừ. Đây là yếu tố quy định bắt buộc cho một giao dịch giao

sau, khoản ký quỹ này sẽ đảm bảo các nhà đầu tư thực hiện đúng nghĩa vụ của một
hợp đồng giao sau.
Tùy vào số lượng hợp đồng giao dịch mà sẽ có những quy định cụ thể về
lượng tiền cần ký quỹ và cuối mỗi phiên, trung tâm thanh toán bù trừ sẽ thực hiện
chốt lãi hoặc lỗ thông qua tài khoản này. Ví dụ như tại cuối phiên giao dịch, một
quầy môi giới của một nhà đầu tư báo cáo về trung tâm thanh toán bù trừ như sau:
tổng cộng hợp đồng mua giao sau cà phê đã kí kết chuyển giao vào tháng 5 là 100
tấn, tổng hợp đồng bán giao sau cà phê kí kết chuyển giao vào tháng 5 là 50 tấn, nhà
đầu tư này đã có trạng thái “net long” (phòng ngừa vị thế mua) là 50 tấn. Trung tâm
thanh toán bù trừ yêu cầu phải mở tài khoản kí quỹ là 2.000.000VNĐ cho một tấn
thì số tiền bắt buộc kí quỹ là 100.000.000VNĐ.
Thông qua tài khoản kí quỹ, cuối mỗi ngày giao dịch, trung tâm thanh toán
bù trừ sẽ thực hiện cộng tiền lãi hoặc trừ tiền lỗ vào tài khoản kí quỹ. Hiện tượng
này diễn ra cho đến ngày kết thúc hợp đồng hoặc kết thúc trạng thái muabán. Nếu
8
nhà đầu tư lỗ trong giao dịch và số tiền kí quỹ không đủ thì trung tâm thanh toán bù
trừ buộc nhà đầu tư phải thực hiện kí quỹ thêm theo đúng hợp đồng. Với điều này


sẽ ràng buộc bên mua và bên bán thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và giúp họ biết trước
khoản lãi lỗ khi đầu tư qua thông báo hằng ngày.
1.2.3. Ký quỹ
Để đảm bảo các rủi ro trong giao dịch trên thị trường giao sau và tùy thuộc
vào tính chất đầu tư, hệ thống ký quỹ sẽ có những quy định ràng buộc khác nhau.
Chẳng hạn số tiền ký quỹ sẽ khác nhau khá lớn giữa chủ thể phòng ngừa biến động
giá (hedging) và chủ thể đầu cơ (speculator), lúc nào chủ thể đầu cơ giá cũng luôn
chịu mức ký quỹ cao hơn. Số tiền ký quỹ tùy thuộc vào số lượng hợp đồng và
những quy định của sàn giao dịch giao sau.
Tuy nhiên, chỉ có ba loại tài khoản ký quỹ :
§ Mức ký quỹ ban đầu (Initial margin): mức ký quỹ này do trung tâm thanh

toán bù trừ tại London quy định dựa trên những phân tích lịch sử về biến
động giá cả của các hợp đồng giao sau, nó được xem xét định kỳ, phụ thuộc
Ngày

Vị thế

Ft (triệu đ)

Tích lũy

15/8/2010

Mua 10 HĐ giao sau

25

Sn – 25

15/9/2010

Bán 10 HĐ giao sau

27

27 – Sn

Tích lũy khi đến hạn

100*(27 – 25) = 200


vào mức độ biến động. Mức ký quỹ ban đầu được áp dụng cho cả trạng thái
trường/đoản trên cơ sở mỗi hợp đồng, và có thể hoàn lại dựa trên tính thanh
khoản của các trạng thái. Mức ký quỹ thường chiếm khoảng 1015% giá trị
hợp đồng.
§ Mức ký quỹ duy trì (Maintenance Margin) là số dư tối thiểu trên tài khoản ký
quỹ để duy trì một trạng thái mở sau khi đánh giá lại hàng ngày theo giá trị
của
hàng hóa,
Sn làchỉnh
giá giao
ngay và loại trừ mọi chi phí giao dịch.
thị trường
và điều
lãi lỗ.
§ Mức ký quỹ bổ sung (Margin call): khi số dư tối thiểu hoặc số tiền ký quỹ

ban đầu bị thiếu hụt theo quy định của trung tâm thanh toán bù trừ, các nhà
đầu tư cần thực hiện ký quỹ bổ sung (margin call), khoản ký quỹ bổ sung
được tính trên cơ sở chênh lệch giữa giá tất toán của ngày hôm nay và giá
đêm hôm trước, được tính toán dựa trên mỗi trạng thái mở.
9


1.2.4. Nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro biến động giá
Giao dịch giao sau xác lập được một thị trường mà người mua người bán trao
đổi mua bán với những mục đích khác nhau, nhưng chu vi lại thị trường chỉ bao
gồm hai chủ thể. Một là chủ thể phòng ngừa rủi ro biến động giá (hedging), một là
chủ thể đầu cơ (speculator) trong sự biến động giá.
Đối với chủ thể tham gia phòng ngừa, họ thường là những người sản xuất,
chế biến, xuất nhập khẩu hàng hóa… khi giao dịch trên thị trường thường luôn đặt

mình ở vị thế thích hợp (phòng ngừa vị thế mua hoặc phòng ngừa vị thế bán) để
phòng ngừa, bảo hiểm và hạn chế rủi ro với sự biến động giá không thể dự đoán
được. Trong đó, nghiệp vụ phòng ngừa (hedge) có rất nhiều loại, có thể đơn cử một
Ngày

Vị thế

Ft (triệu đ)

Tích lũy

24/8/2010

Bán 5 HĐ giao sau

25

25Sn

24/9/2010

Mua 5 HĐ giao sau

27

Sn27

Tích lũy khi đến hạn

50*(25 27)= 150.000


vài ví dụ như sau:
§ “Long hedge” – “phòng ngừa vị thế mua”: một công ty chuyên xuất khẩu cà
phê nhân đã ký hợp đồng chốt giá bán 100 tấn cà phê cho đối tác nước ngoài.
Lo ngại giá cà phê trên thế giới tăng mạnh (do nhiều yếu tố quyết định như
cung cầu, thời tiết, năng suất…) sẽ làm chi phí đầu vào tăng mạnh, ảnh
hưởng trực tiếp đến sự cạnh tranh giá cả trên thị trường. Chính vì vậy, công
ty quyết định tham gia bảo hộ giá trên thị trường giao sau. Giả định rằng,
công ty muốn mua 100 tấn cà phê trong một tháng kể từ hôm nay, nhà quản
lý sẽ đặt lệnh mua cà phê bằng hợp đồng giao sau để giảm thiểu rủi ro khi giá
tăng lên. Theo quy định trên sàn 10 tấn là tối thiểu cho mỗi hợp đồng giao
sau, vì vậy, công ty cần mua 10 hợp đồng giao sau. Trong bảng dưới sẽ cho
thấy sự biến động giá cà phê và lợi nhuận đạt được của 10 hợp đồng giao sau
này, giả định các hợp đồng này được định giá bằng VNĐ, Ft là giá giao sau
10
Đến cuối tháng, giá cà phê trên thị trường giao sau tăng từ 25 triệu VNĐ mỗi
tấn lên 27 triệu VNĐ. Công ty sẽ tiến hành bán 10 hợp đồng giao sau này để kết
thúc vị thế mua vào ngày 15/9/2010, lúc này công ty đã tích lũy được khoản lợi
nhuận ròng từ bảo hộ trên thị trường giao sau là 200 triệu VNĐ chỉ sau 1 tháng để


bù vào chi phí đầu vào gia tăng khi mua giao ngay cà phê.
§ “Short hedge” – “ phòng ngừa vị thế bán”: một chủ trang trại cà phê dự tính
bán 50 tấn cà phê sẽ thu hoạch vào tháng sau. Người này muốn chắc chắn sẽ
bán được giá nên đã quyết định bán chúng trên thị trường giao sau để bảo hộ
trường hợp giá cà phê trên thế giới giảm xuống. Đối với sàn giao dịch cà
phê, giá trị nhỏ nhất cho mỗi hợp đồng giao sau cà phê được giao dịch là 10
Ngày

Vị thế


Ft

Tích lũy

3/8/2010

Mua 10 HĐ giao sau

$36

Sn$36

3/9/2010

Ban 10 HĐ giao sau

$34

$34Sn

Tích lũy khi đến hạn

10.000*($34$36)=20.000

tấn. Vì vậy ông ta phải thực hiện bán 5 hợp đồng giao sau cà phê. Bảng dưới
sẽ cho thấy sự biến động giá và kết quả bảo hộ giá từ hợp đồng này. Trong
đó, cà phê được định giá bằng VND, chi phí giao dịch không đáng kể. Giá cà
phê trong tháng ngày một tăng lên, đến 27 triệu đồng mỗi tấn, lúc này nếu để
đến hạn ông ta sẽ bị mất khoản tiền khá lớn. Khôn ngoan hơn hết là chốt vị

thế bán, chấm dứt hợp đồng.

1.2.5. Nghiệp vụ đầu cơ trên thị trường giao sau
Thị trường giao sau luôn tồn tại tính công bằng trong giao dịch, đối với
những nhà kinh doanh tham gia phòng ngừa biến động giá, họ có thể bán hàng hóa
ở mức giá tốt hơn hoặc loại bỏ vị thế trên thị trường giao sau để giao dịch hàng hóa
trên thị trường giao ngay. Với những khoản tiền bị mất do dự đoán giá hàng hóa
giao sau sẽ được chuyển tiếp cho những nhà đầu cơ, những người dám cược chiều
11
ngược lại của giá hàng hóa. Họ cũng chính là thành phần không thể thiếu của thị
trường.


Có thể lấy một ví dụ đơn giản. Thị trường sản phẩm dầu thô giao ngay đang
từng ngày tăng giá, cùng với các yếu tố vĩ mô khác, nhà đầu cơ dự đoán rằng trong
một tháng tới, giá dầu thô sẽ tiếp tục tăng lên nên đã mua 10 hợp đồng giao sau trên
thị trường NYMEX, mỗi hợp đồng là 1.000 barrels (barrels là đơn vị tính của dầu
thô). Đến khi đáo hạn nhà đầu cơ này đã bị lỗ 20.000 USD, tuy nhiên, khoản lỗ này
đã được trừ theo từng ngày giao dịch với tài khoản ký quỹ, nên có thể theo dõi sát
tình hình biến động lỗ lãi. Ngoài ra, trong đa số trường hợp trên nhà đầu cơ thường

cắt lỗ của hợp đồng bằng cách đóng trạng thái vị thế.

Theo nhiều nhận định, đầu cơ trên thị trường giao sau chẳng khác nào một
trò cờ bạc. Điều này không đúng bởi một trò cờ bạc sẽ không tạo được một giá trị
hàng hóa cho nền kinh tế mà luôn đối diện với nhiều rủi ro. Hoạt động đầu cơ được
luật pháp công nhận và nhà đầu cơ có thể lựa chọn chuyển giao hàng hóa khi đến
hạn hoặc kết thúc vị thế bằng các hợp đồng ngược hợp đồng ban đầu, từ đó sẽ đánh
giá chính xác lượng cung cầu thực sự của thị trường hàng hóa. Cũng nhờ các hoạt
động đầu cơ (dĩ nhiên là hoạt động trong khuôn khổ quản lý của pháp luật) đã tăng

thêm tính thanh khoản cho các hợp đồng giao dịch trên thị trường này.
1.3. Lợi ích và rủi ro của thị trường giao sau từ những nghiên cứu thực
nghiệm trên thế giới
Thị trường giao sau đầu tiên trên thế giới ra đời tại thành phố Chicago (Hoa
Kỳ). Ngày nay, thị trường giao sau đã vượt xa khỏi giới hạn của hợp đồng nông sản
ban đầu, với những lợi ích rõ ràng của mình, nó trở thành công cụ tài chính để bảo
12
vệ các loại hàng hóa truyền thống và cũng là một trong những công cụ đầu tư hữu
hiệu nhất trong ngành tài chính. Thị trường giao sau hiện nay hoạt động liên tục
thông qua hệ thống Globex nối liền 12 trung tâm tài chính lớn trên thế giới. Sự thay
đổi giá cả của các loại hàng hóa chuyển biến từng giây một và gây ảnh hưởng


không chỉ đến nền kinh tế của một quốc gia mà cả khu vực và toàn thế giới.
Tuy nhiên trước khi thị trường giao sau phát triển và phổ biến rộng rãi như
hiện nay thì trước đó đã xảy ra rất nhiều tranh cãi giữa những nhà kinh tế học về lợi
ích và rủi ro mà thị trường này mang lại. Thị trường giao sau cũng từng bị cáo buộc
là nguyên nhân gia tăng nạn đầu cơ gây biến động giá cả khôn lường và không cần
thiết, những người này cũng đồng thời cho rằng thị trường giao sau chỉ có lợi cho
nhà đầu cơ thao túng giá cả và đi ngược lại lợi ích của người nông dân và người tiêu
dùng, các cáo buộc cho rằng nó không chỉ bóp méo giá cả mà còn tiếp tay cho
những hoạt động phi pháp để làm giàu, do đó đã có một số nước trong thời kỳ đầu
đã thực thi lệnh cấm giao dịch giao sau đối với một số loại hàng hóa nhất định, điển
hình là Ấn Độ trong các thập niên 50 và 60. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho
rằng thị trường giao sau là công cụ đắc lực trong việc kiểm soát giá cả, ổn định sản
xuất và quyết định đầu tư trong nền kinh tế. Nếu dựa vào mức độ tranh luận giữa
những nhà phê bình với những người ủng hộ thị trường giao sau để cân nhắc lợi ích
và rủi ro của nó sẽ là một nhiệm vụ không dễ dàng nếu không có những bằng chứng
thực nghiệm. Trong phần dưới chúng ta sẽ đi tìm hiểu một số nghiên cứu thực
nghiệm của các nhà kinh tế học nhằm giải đáp những câu hỏi liên quan đến lợi ích

và rủi ro của thị trường hàng hóa giao sau.
Học giả Pavaska (1970) cho rằng các nhà phê bình đã sai lầm khi cho rằng
các nhà đầu cơ làm trầm trọng sự tăng giá bằng cách kiếm lợi nhuận trong thời gian
dài trên thị trường giao sau. Ông cho rằng sự thiếu vắng cơ chế thị trường giao sau,
mức độ biến động giá giao sau tương ứng có thể khiến các thương nhân và các
thành phần khác lo tích trữ hàng hóa, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến giá cả
hơn so với bất kỳ một tác động nào khác của những giao dịch giao sau hợp pháp.
13
Trái với quan điểm ủng hộ việc chính phủ thực hiện cấm các giao dịch giao
sau làm ảnh hưởng xấu đến giá giao ngay, nhà kinh tế học Naik, AS (1970), trong
cuốn sách của mình có tên là "Ảnh hưởng của Giao dịch giao sau lên giá cả", đã cho
thấy rõ ràng rằng sự biến động giá là cao hơn khi không có thị trường giao sau so
với giá khi có thị trường giao sau. Cô đã dẫn chứng bằng ba cây trồng như đay, hạt
lanh và lạc. Theo đó cô tiến hành xem xét giai đoạn 19511952 đến 19651966 và
chia thành hai mốc quan trọng (i) khi nền kinh tế không có hoặc có rất ít các giao


dịch giao sau và (ii) khi nền kinh tế có các giao dịch giao sau hiệu quả. Cô đã tính
toán được rằng tỷ lệ phần trăm của tần suất xuất hiện biến động giá thấp tương ứng
với những năm mà các giao dịch giao sau có hiệu quả thì cao hơn những năm không
có giao dịch giao sau (phụ lục III, các trang 99105).
Trong một cuộc phỏng vấn với báo chí, V. Jayashankar Chủ tịch Hội đồng
Gia vị Ấn Độ đã nói rằng "giá cả hàng hóa biến động nhiều hơn khi không có thị
trường giao sau". Để minh họa cho quan điểm của mình, ông chỉ ra rằng "sự biến
động của giá bột nghệ đã được giới hạn ở mức thấp nhất theo sau sự tồn tại thị
trường giao sau ở Sangli, Maharashtra, nơi mà biến động giá cả cao hơn so với ở
Chili [Nền tảng lợi ích của giao dịch hàng hóa giao sau, PTI New Delhi, ngày 12
tháng 10 năm 1998].
Một giảng viên đại học tại Ấn Độ, ông Basab Dasgupta đã xây dựng một mô
hình lý thuyết để giải quyết các vấn đề được đề cập ở trên và đưa ra câu trả lời cụ

thể. Trước khi xây dựng các mô hình để mô tả vai trò của thị trường giao sau, ông
cũng đã đề cập đến một số lý thuyết và kết quả thực nghiệm có ảnh hưởng đến nó.
T.W. Schultz (1949) dựa và 3 tiêu chí dưới đây để tìm ra tác động của giá
nông sản lên các quyết định sản xuất thông qua mức độ phân bổ và sử dụng các
nguồn lực.
(1) Những cam kết về nguồn lực cho tương lai lâu dài
(2) Những cam kết cho tương lai gần
(3) Vị thế giao ngay chứa đựng những quyết định chỉ liên quan đến một phần
nhỏ của cả giai đoạn sản xuất.
14

Bằng chứng thực nghiệm của ông cho thấy rằng thị trường sữa, một sản
phẩm rất dễ hư hỏng và không có giá giao sau thì việc phân bổ nguồn lực trong
nông nghiệp là khá hiệu quả. Mặt khác, thị trường bông hoặc lúa mì là loại sản
phẩm có thể để lâu và ít tốn chi phí tồn trữ với các dự báo giá giao ngay và giao sau
phát triển cao thì việc tối ưu hóa các nguồn lực sử dụng để trồng 2 loại cây quan
trọng này lại kém hiệu quả hơn. Tóm lại, ông kết luận rằng đối với các hàng hóa
nông nghiệp có thể để lâu thì sự biến động giá càng cao. Ông cũng nói rằng đối với
loại hàng hóa này, cả giá giao ngay và giá giao sau đều không có ý nghĩa đối với
nông dân trong việc lập ra kế hoạch sản xuất cũng như giá giao ngay đối với thị


trường của các sản phẩm nông nghiệp dễ hư hỏng.
Tuy nhiên khám phá của Schultz đã có một vài sai sót bởi vì trong hệ thống
thị trường giao sau, hợp đồng được ký trước và hàng hóa được cung cấp sau vào
một ngày cụ thể. Như vậy, trong trường hợp người bán có đầy đủ hiểu biết hoặc
thông tin về số lượng và chất lượng hàng hóa như vậy sẽ được bán ở mức giá nào,
dựa vào đó ông ta có thể phân bổ lại nguồn lực của mình để gia tăng sản xuất nhằm
đáp ứng theo hợp đồng. Nghĩa là người sản xuất có thể phòng ngừa cho lượng hàng
hóa ông ta đang sản xuất ở thời điểm t và bán giao sau tại thời điểm t +1 khỏi những

rủi ro tổn thất giá trị và bảo vệ lợi nhuận bằng cách chuyển những rủi ro đó cho
người khác. Do đó, khoản phí ông ta phải thanh toán để ngăn chặn hàng hóa của
mình khỏi những rủi ro phụ thuộc vào xác suất xảy ra rủi ro và đơn giá phòng ngừa.
Masahiro Kawai (1983) trình bày một mô hình lý thuyết giải thích ảnh hưởng
của thị trường hàng hóa giao sau lên quá trình hình thành giá và lợi ích chung của
toàn xã hội trên nền tảng những kỳ vọng hợp lý. Ông đã tính toán ảnh hưởng của
giá giao ngay lên sản xuất và sau đó dẫn giải khả năng của thị trường giao sau trong
mô hình. Ông đã chỉ ra rằng mức độ tối ưu của sản xuất chỉ phụ thuộc vào giá cả
giao sau và hệ số chi phí. Theo ông, số lượng hợp đồng giao sau được xác định bởi
mức tối ưu của sản xuất và đầu cơ phản ánh sự khác biệt giữa kỳ vọng chủ quan của
nhà sản xuất về giá giao ngay thời gian tới và giá giao sau tương ứng. Kawai đã
không xem xét đến tác động của những biến động trong kế hoạch sản xuất đến thị
15
trường giao sau. Hơn nữa, những quyết định trong sản xuất được thực hiện hoàn
hoàn toàn độc lập với những quyết định về giao dịch giao sau bất chấp rủi ro và xác
suất của giá giao ngay. Ông cũng lập luận rằng nhà sản xuất sử dụng hợp đồng giao
sau không chỉ để phòng ngừa rủi ro biến động giá mà còn để tìm kiếm cơ hội đầu
cơ.
Quay trở lại mô hình của Basab Dasgupta, biến động trong sản xuất đóng vai
trò quan trọng trong sự hình thành sản xuất cũng như quyết định thị trường giao sau.
Xem xét biến động trong thị trường hàng hóa giao sau là rất quan trọng trong bối
cảnh của hầu hết các nước đang phát triển. Sự bất ổn trong sản xuất nông nghiệp là
một hiện tượng phổ biến ở các nước đang phát triển bởi vì sự phụ thuộc vào thời tiết
một yếu tố ngẫu nhiên.


Kết quả là sự bất ổn định cao của giá các mặt hàng nông nghiệp dẫn đến thu
nhập nông nghiệp không đảm bảo. Nhiều chính phủ đã có biện pháp chính sách
khác nhau theo thời gian để giảm biên độ biến động giá để giảm bất lợi cho người
sản xuất và người tiêu dùng. Những biện pháp, chính sách bao gồm can thiệp giá

trực tiếp như ấn định giá hỗ trợ tối thiểu, dự trù giá và kiểm soát giá cả, những hợp
đồng giao sau trên nền tảng tương tự cũng được coi là một trong những công cụ như
vậy.
Lapan, Moschini và Hanson (LMH) (1991) đã phân tích việc sản xuất và
quyết định phòng ngừa rủi ro của một công ty trên cả hai thị trường giao sau và thị
trường quyền chọn bằng cách sử dụng mô hình tối ưu hóa kỳ vọng. Với các giả định
rằng các hàng hóa được giả định là có đặc tính không thể dự trữ, họ đã chứng minh
rằng giá giao sau và chênh lệch giữa nó với giá giao ngay là nguồn gốc duy nhất của
tính không ổn định. Các tác giả cũng chỉ ra rằng đầu ra phụ thuộc vào giá giao sau
tại thời điểm hiện tại chứ không phụ thuộc vào giá giao sau tại thời điểm kết thúc
hợp đồng (Lapan HG, Moschini và S. Hanson năm 1991, trang 6674).
Cả Kawai và LMH đều cho rằng quyết định sản xuất không phụ thuộc vào
giá giao sau nhưng họ hầu như đã bỏ qua các quyết định tồn trữ hàng hóa bằng cách
giả định rằng hàng hóa không thể lưu giữ.
16

Mô hình của Basab Dasgupta là một phần mở rộng của mô hình LMH nhưng
phức tạp hơn nhiều. Trong mô hình này, ông không chỉ xem xét những mặt hàng có
thể lưu trữ mà bao gồm các biến động sản xuất. Kết quả là, quyết định sản xuất của
nhà cung cấp không chỉ phụ thuộc vào giá giao sau kỳ vọng mà còn cả các biến
động sản xuất dự kiến ảnh hưởng đến quyết định phân bổ nó cho thị trường giao
ngay và giao sau.
Nói tóm lại, qua rất nhiều tranh luận thông qua những mô hình lý thuyết và
bằng chứng thực nghiệm của các nhà kinh tế học, cho đến nay thị trường giao sau
đã chứng minh được lợi ích của mình trong việc cung cấp công cụ phòng ngừa rủi
ro biến động giá cho các nhà sản xuất, đương nhiên trong thị trường này vẫn tồn tại
những rủi ro là sự phát triển mạnh của các nhà đầu cơ, tuy nhiên các chính phủ chỉ
cần kiểm soát hoạt động này trong khuôn khổ luật pháp cho phép thì nó không
những không gây hại cho nền kinh tế mà còn có tác dụng làm tăng tính thanh khoản



cho thị trường này.
1.4. Thực trạng ứng dụng Hợp đồng Giao sau trên thế giới
1.4.1. Thực trạng Giao sau trên thế giới
Thế giới ngày nay đang bước vào nền kinh tế toàn cầu hóa. Bất kỳ sự thay
đổi nào của tình hình kinh tế thế giới cũng đều ảnh hưởng đến nền kinh tế của quốc
gia. Ngược lại, sự chuyển biến trong nền kinh tế quốc gia cũng tác động đến tình
hình kinh tế trong khu vực hay trong phạm vi thế giới.
Toàn cầu hóa mang lại nhiều thuận lợi nhưng đồng thời cũng mang đến
nhiều khó khăn. Những khó khăn đó chính là rủi ro có thể nhận thấy và rủi ro tiềm
ẩn. Các rủi ro này tồn tại một cách ngẫu nhiên trong tất cả quá trình sản xuất, kinh
doanh, quản lý. Chúng hoàn toàn có thể làm cho nhà đầu tư mất sạch tiền, công ty
phá sản và nền kinh tế của một quốc gia suy sụp. Đối mặt trước những nguy cơ đó,
các phái sinh tài chính như hợp đồng giao sau (Futures), hợp đồng quyền chọn
(Option), hợp đồng hoán chuyển lãi suất (Swap)… ngày càng được sử dụng một
cách rộng rãi trên toàn thế giới như là những công cụ chủ yếu và không thể thiếu
17
được trong việc quản lý rủi ro. Tất cả mọi người đều có thể tham gia vào thị trường
này ở bất cứ nơi đâu và bất cứ khi nào thông qua hệ thống GLOBEX nối liền 12
trung tâm tài chính thế giới (Bermuda, Boca Raton, Chicago, Geneva, Hamburg,
Hong Kong, London, New York, Paris, Singapore, Tokyo, Zurich).
1.4.2. Thành tựu của thị trường giao sau trên thế giới
1.4.2.1. Các sàn giao dịch giao sau
Giao dịch giao sau xảy ra trên hơn 50 sàn giao dịch giao sau khắp thế giới.
Do tính chất của giao dịch toàn cầu, đặc biệt là khi được tự động hóa hoàn toàn, nên
đây chính là điều kiện liên kết các sàn giao dịch lại với nhau. Ví dụ Sàn Giao Dịch
Chicago (CME) và Sàn Giao Dịch Tiền Tệ Quốc Tế Singapore (SIMEX) được liên
kết chặt chẽ đến độ mà giao dịch mở một vị thế Eurodolars trên một sàn giao dịch
này và có thể đóng vị thế lại trên một sàn giao dịch khác. Chính do sự liên kết giữa
các sàn giao dịch ở khắp nơi trên thế giới đã ngày càng làm tăng thêm tính phổ biến

của thị trường này.
Theo số liệu trên tạp chí Futures Industry phát hành tháng Giêng/tháng Hai


năm 2002, có khoảng 316 triệu hợp đồng được giao dịch tại CME trong năm 2001.
CBOT có khối lượng giao dịch gần 210 triệu đồng. Sàn giao dịch giao sau bận rộn
nhất trên thế giới là EUREX, là sàn giao dịch liên kết giữa Đức và Thụy Sĩ đã giao
dịch trên 435 triệu hợp đồng. Sàn giao dịch giao sau tài chính quốc tế Luân Đôn
giao dịch trên 161 triệu hợp đồng. Futures Industry ước tính số lượng hợp đồng giao
sau giao dịch trên thế giới năm 2001 là 1,8 tỷ hợp đồng trong đó 1/3 số lượng giao
dịch này là từ Mỹ.
1.4.2.2. Sự phát triển của thị trường giao sau tài chính
Vào năm 1976, thị trường tiền tệ quốc tế đã giới thiệu hợp đồng giao sau đầu
tiên trên trái phiếu chính phủ và các công cụ tài chính ngắn hạn là trái phiếu kho bạc
TBill Mỹ loại 90 ngày. Hợp đồng này đã được giao dịch rất năng động trong nhiều
năm liền nhưng sau đó đã giảm dần do những thành công mang lại từ các hợp đồng
giao sau Eurodollar dạng giao dịch đã được phát triển mạnh mẽ trong những năm
thập niên 1980.
18

CBOT bắt đầu giao dịch giao sau trái phiếu TBond Mỹ vào năm 1977 loại
hợp đồng giao sau thành công nhất trong các thời kỳ. Chỉ trong vòng một vài năm,
công cụ này trở thành hợp đồng giao dịch năng động nhất và vượt qua cả hợp đồng
giao sau ngũ cốc, vốn đã tồn tại hơn một thế kỷ trước đây.
Vào thập niên 1980, hợp đồng giao sau chỉ số chứng khoán đã đạt được
những thành công cao độ. Công cụ này là chiếc cầu nối giữa các nhà giao dịch cổ
phiếu tại New York và các nhà giao dịch giao sau tại Chicago. Tại Mỹ, chỉ sau một
vài năm đã có hợp đồng giao sau chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones, một chỉ
số tên tuổi trên thị trường chứng khoán .
Hợp đồng giao sau chỉ số chứng khoán đã thành công vang dội khắp toàn

cầu. Hầu hết các nước phát triển đều có sàn giao dịch giao sau riêng cho hợp đồng
chỉ số chứng khoán hoạt động. Một số nước có hợp đồng giao sau chỉ số chứng
khoán phổ biến gồm Anh, Pháp, Nhật, Đức, Tây Ban Nha và Hongkong
1.4.3. Thị trường giao sau ở Việt Nam
Trong điều kiện hiện nay, các thành phần kinh tế luôn phải đối mặt với các
rủi ro về giá cả, thông tin, thị trường (nguồn hàng, cung cầu) và tỷ giá trong hoạt
động xuất nhập khẩu. Những rủi ro này không chỉ ảnh hưởng đến những người trực


tiếp sản xuất, kinh doanh mà ảnh hưởng đến cả nền kinh tế. Tuy nhiên, hầu hết các
thành phần kinh tế Việt Nam chỉ biết chấp nhận vì chưa có công cụ bảo vệ rủi ro.
Trong những năm gần đây, khi tiếp xúc làm ăn với nước ngoài, chúng ta dần
dần biết được những phương cách bảo hộ rủi ro trên thị trường tài chính phái sinh.
Một số doanh nghiệp đã sử dụng công cụ này để bảo hộ cho hoạt động kinh doanh
của mình và dựa vào thông tin, giá cả trên các thị trường này để điều tiết sản xuất,
không còn lo bị ép giá. Việt Nam đang tổ chức các chợ đầu mối, các trung tâm giao
dịch và tiến tới hình thành các thị trường giao sau về nông sản. Trong lĩnh vực
ngoại hối, Chính phủ đã cho phép sử dụng hợp đồng quyền chọn để bảo vệ hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu. Tuy muộn màng so với xu thế phát triển thế giới
nhưng sự khởi đầu này cũng là một tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế Việt Nam.
19
Hợp đồng giao sau được ứng dụng rộng rãi trên thế giới để phòng ngừa rủi ro, thu
hút các nhà đầu cơ tham gia và kích thích phát triển kinh tế. Là bộ phận của nền
kinh tế thế giới, chịu rủi ro từ những biến động kinh tế toàn cầu, Việt Nam nên học
hỏi xây dựng Sàn giao dịch giao sau phục vụ cho mục đích phòng ngừa rủi ro, tạo
đà cho kinh tế phát triển vững bền.
1.5. Sự cần thiết của việc ứng dụng Thị trường giao sau để phòng ngừa rủi ro
biến động giá cà phê tại Việt Nam hiện nay
Hợp đồng giao sau là một khái niệm khá mới về mặt kinh tế lẫn trong khoa
học pháp lý tại Việt Nam nhưng có tiềm năng to lớn cho nền kinh tế, đặc biệt là

những giải pháp hiệu quả cho những nhà sản xuất kinh doanh cà phê Việt Nam
thoát khỏi tình trạng bấp bênh, rủi ro trong làm ăn nói riêng.
Thị trường hàng hoá giao sau đã và đang tiếp tục chứng minh là một công cụ
hữu hiệu đối với việc khắc phục những ách tắc trong lưu thông của một nền kinh tế
vận hành theo cơ chế thị trường; góp phần làm đa dạng hoá các hình thức lưu thông
và đóng vai trò như một công cụ bảo hiểm đối với những nhà sản xuất.
Đối với nền kinh tế bao cấp không vận hành theo cơ chế thị trường thường
không gặp phải những yếu tố rủi ro do thị trường mang lại. Ngược lại, nền kinh tế
vận hành theo cơ chế thị trường thì rủi ro từ phía thị trường đối với những nhà sản
xuất trực tiếp thường là rất lớn đặc biệt là trong điều kiện hội nhập như hiện nay.


Điều đáng lưu ý là hợp đồng giao sau tạo nên tính thanh khoản đồng thời
tránh được rủi ro biến động giá cả cho các bên tham gia. Khác với đánh bạc và cá
cược, phòng ngừa rủi ro bằng hợp đồng giao sau tuy thường được dùng để đầu cơ
nhưng nó không chỉ tạo ra lợi ích cho chính người tham gia hợp đồng; mà cao hơn
là nó giúp cho thị trường tài chính trở nên hoạt động hiệu quả hơn, tạo cơ hội tốt
cho việc phòng ngừa rủi ro. Đây cũng là ưu điểm nổi trội nhất của hợp đồng giao
sau so với kỳ hạn.
Cà phê là một mặt hàng nông sản có đầu ra khá ổn định, thế nhưng ngành cà phê
Việt Nam lại đang chịu ảnh hưởng rất lớn từ sự bất ổn giá cả đẩu ra. Trong khi đó,
20
hợp đồng giao sau lại là công cụ phòng ngừa rủi ro cho hàng hóa đã được áp dụng
và rất thành công trên thế giới như đã trình bày ở mục 1.4. Việc áp dụng những
công cụ này vào thị trường cà phê sẽ là một bước tiến, thúc đẩy ngành cà phê Việt
Nam phát triển ổn định và bền vững, giúp người nông dân trồng cà phê yên tâm sản
xuất và đảm bảo lợi nhuận mong muốn. Với mục tiêu đó, cuối năm 2008 Trung tâm
giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột ra đời với rất nhiều kỳ vọng: xây dựng thương
hiệu cho cà phê VN, gắn kết sản xuất với thị trường, khắc phục những hạn chế trong
hoạt động kinh doanh xuất khẩu truyền thống.

Kết luận chương I
Chiến lược phòng ngừa rủi ro biến động giá bằng việc sử dụng hợp đồng
giao sau là một công cụ hữu dụng trong ngắn hạn và trung hạn để bảo vệ thu nhập
cho nhà sản xuất và kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, khu vực có
nhiều sản phẩm có thể thực hiện tồn trữ và bán giao sau. Tuy chịu nhiều tác động
của rủi ro (rủi ro giá cả, lãi suất, thời tiết…) nhưng nếu xây dựng được thị trường
giao sau các mặt hàng nông sản tại Việt Nam thì người nông dân và các doanh
nghiệp sản xuất nông sản vẫn có thể đương đầu với rủi ro và kinh doanh có lợi
nhuận.
21

CHƯƠNG II: RỦI RO BIẾN ĐỘNG GIÁ TẠI THỊ TRƯỜNG
CÀ PHÊ VIỆT NAM VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG HỢP


ĐỒNG GIAO SAU VÀO GIAO DỊCH CÀ PHÊ

2.1. Rủi ro biến động giá tại thị trường cà phê Việt Nam:
2.1.1. Rủi ro biến động giá do giá xuất khẩu phụ thuộc vào giá thế giới
2.1.1.1. Tìm hiểu biến động giá cà phê trên thế giới thời gian qua
Cây cà phê lần đầu tiên được phát hiện ở Ethiopia cách đây khoảng 2000
năm, cùng với sự phát triển không biên giới của thị trường thương mại, cà phê đã có
mặt ở hầu hết các nước châu Á, Châu Phi và Châu Âu. Hai loại cà phê được giao
dịch thương mại nhiều nhất là cà phê Arabica (gọi tắt là Arabica) và cà phê Robusta
(gọi tắt là Robusta).
Biểu đồ 2.1: Tỷ trọng sản lượng cà phê của các nước và khu vực trên thế
giới vụ mùa 2008/2009

Nguồn: www.ico.org
Mặc dù cây cà phê được trồng đầu tiên ở Ethiopia nhưng từ giữa thế kỷ 19

Brazil đã là nước dẫn đầu về sản lượng, hàng năm chiếm khoảng trên 30% tống
lượng xuất khẩu thế giới. Việt nam là một thị trường xuất khẩu lớn, từ thập niên 90
22
đã vươn lên là nước đứng thứ hai thế giới về sản lượng xuất khẩu, thứ 3 là
Colombia. Hiện nay, với 2 đại diện là Brazil và Colombia, Nam Mỹ trở thành khu
vực có thị phần cà phê lớn nhất thế giới chiếm khoảng 47% tổng sản lượng cà phê
toàn thế giới. Tiếp đó là khu vực Châu Á và Châu Đại Dương, Mehico và các nước
Trung Mỹ cùng chiếm 13%, khu vực Châu Phi chiếm 12%.


Để có thể thấy rõ biến động giá cà phê thế giới thời gian qua, chúng ta cùng
xem biểu đồ 2.2 ở dưới.
Biểu đồ 2.2: Giá cà phê thế giới và giá cà phê robusta thế giới hàng năm
giai đoạn 19942009 (US cents/lb)

Nguồn: www.ico.org
Từ biểu đồ ta thấy giá bình quân biến động lớn. Độ co giãn theo giá của cung
là thấp trong ngắn hạn và tăng lên trong dài hạn. Độ co giãn theo giá của cầu cà phê
là thấp trong ngắn hạn và dài hạn. Chính vì tính co giãn theo giá của cung cầu cà
phê thấp trong ngắn hạn nên giá cà phê thường xuyên biến động trên thị trường thế
giới.
Năm 1994 đợt sương muối tại Brazil làm cung thế giới giảm sút đột ngột và
giá tăng cao. Giá tăng khuyến khích người trồng cà phê mở rộng diện tích, sản
lượng cà phê thế giới tăng liên tục từ 94 triệu pound năm 1990 lên 129 triệu pound
23
(đơn vị tính tương đương khoảng 0,45kg), đây cũng là nguyên nhân chính của việc
giá cà phê thế giới giảm mạnh bắt đầu từ năm 1997.
Sản xuất vượt tiêu dùng trong những năm 19982003 cộng với sự phục hồi
của Brazil và tăng trưởng đột biến của Việt Nam làm cho giá cà phê thế giới giảm
và lâm vào khủng hoảng. Lượng dự trữ tăng 10 triệu pound năm 1997 lên 70 triệu

pound năm 2003. Cung cà phê toàn cầu tăng nhanh hơn cầu cà phê dẫn đến dư thừa.
Từ nửa cuối năm 1997 giá cá phê giảm liên tục đến mức thấp nhất vào năm 2001,


giá trung bình của cà phê rơi từ 180 USD/ pound đến dưới 40 USD/ pound. Giá cà
phê thế giới tiếp tục thấp cho đến năm 2004 kể từ khi có được một số phục hồi về
giá, nhưng vẫn còn thấp hơn mức đã chứng kiến trong năm 1990. Giá cà phê thế
giới giảm xuống mức thấp kỷ lục trong vòng 40 năm trước đó, giảm xuống dưới
mức giá thành làm cho ngành cà phê nói chung và người trồng cà phê nói riêng chịu
thiệt hại nặng nề.
Đến năm 2008 thị trường cà phê thế giới bắt đầu phục hồi. Tuy nhiên các
nước xuất khẩu cà phê vẫn tập trung đến việc tăng sản lượng hơn là quan tâm cải
thiện chất lượng cà phê xuất khẩu do đó giá cà phê thế giới vẫn liên tục nhảy múa
trong niên vụ 2008/2009.
Theo dự báo mới nhất của ICO, sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ
2010/2011 sẽ đạt mức 133135 triệu pound; tiêu dùng cà phê năm nay sẽ phục hồi
nhưng cũng chỉ ở mức 129 triệu pound. So với mức sụt giảm hồi đầu năm nay, hiện
giá cà phê đang ở mức cao nhưng nhiều dự báo cho rằng đây chỉ là sự tăng giá do
hạn chế nguồn cung trong ngắn hạn, bởi hiện mới chỉ có Braxin đang thu hoạch cà
phê. Vào tháng 1112, khi Côlômbia và các nước Trung Mỹ đưa hàng ra thị trường,
Việt Nam cũng bước vào vụ thu hoạch thì giá cà phê sắp tới sẽ rất khó lường.
Cà phê có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều nước trên thế giới. Biến động giá
cà phê đã khiến cho nông dân nhiều nước điêu đứng. Biến động giá cà phê thế giới
đã và đang tiếp tục có những ảnh hưởng tới ngành cà phê Việt Nam, một nước có
khoảng 95% sản lượng được xuất khẩu.
24

2.1.1.2. Nguyên nhân gây ra bất ổn giá cà phê thế giới
v Nguồn cung của những nước có sản lượng lớn
Giá cà phê thế giới phụ thuộc rất lớn vào sản lượng của những quốc gia đang

nắm giữ tỷ trọng xuất khẩu lớn như Brazil, Colombia, Việt Nam. Nếu thời tiết tại
các nước này diễn biến không tốt có khả năng mất mùa thì giá cà phê sẽ tăng lên và
ngược lại.
Mùa đông Brazil thường diễn ra trong khoảng từ 21/6 đến 25/8 hàng năm,
đây là thời gian lạnh nhất trong năm, biểu đồ giá cà phê luôn có tỷ lệ nghịch với hàn
thử biểu trong giai đoạn này, chỉ với một bản báo cáo đêm qua nhiệt độ những vùng
trồng đã xuống thấp dưới 0°C hoặc dự báo trong những ngày tới sẽ rất lạnh thì hầu


như ngày hôm sau thế nào giá cũng tăng, hoặc ít nhất là không sụt thêm nữa.
v Giá trị và khối lượng cà phê giao dịch tại các sàn giao dịch trên thế giới
Lượng cà phê giao dịch trên thế giới ước tính lớn gấp 5 lần (hoặc hơn nữa)
lượng cà phê thực mà nông dân làm ra (sản lượng thế giới khoảng 127 triệu pound
trong vụ 2009). Tức là cũng một bao cà phê ấy thôi, nhưng nhà đầu tư A bán cho
nhà đầu tư B, rồi người này bán cho nhà đầu tư C đều được tính vào lượng giao dịch

Năm

Sản lượng xuất khẩu

Kim ngạch xuất khẩu

Đơn giá XK bình quân

(tấn)

(USD)

(USD/tấn)


2001

844,452

338,094,000

400.37

2002

702,017

300,330,000

427.81

2003

693,863

446,547,000

643.57

2004

745,000

576,154,000


773.36

2005

786,025

840,000,000

1,068.67

2006

887,000

1,070,000,000

1,206.31

2007

1,190,000

1,860,000,000

1,563.02

2008

1,060,000


2,135,000,000

2,014.15

2009

1,180,000

1,730,000,000

1,466.10

hàng ngày trên thị trường.
Điều này có nghĩa là giá cà phê thế giới không chỉ phụ thuộc vào việc Brazil
có bị sương giá hay Việt Nam có bị hạn hán không mà còn phụ thuộc vào những
nhà đầu tư lớn dùng cà phê như một mặt hàng kiểu chứng khoán cho việc kinh
doanh của mình. Vị thế đang phải bán ra với những lô hàng mà họ đã mua vào trước
đó hay cần mua vào những lô hàng để có mà giao hoặc mua vào để chờ giá lên theo
phân tích của họ đều tác động rất lớn đến giá cả.
Giả sử một nhà đầu tư đang ở vị thế bán nhận định Mỹ có khả năng đánh Iran
và giá dầu trong thời gian ngắn có thể tăng lên 100USD/thùng, sau khi tổng hợp và
phân tích tình hình họ có khả năng bán mạnh số cà phê đang nắm giữ dựa trên các
hợp đồng mua giao sau cà phê mà mình đang có để lấy tiền mua dầu vào. Động tác
bán cà phê như thế sẽ ảnh hưởng tức thì lên giá cà phê và tạo ảnh hưởng dây
chuyền.
25


2.1.1.3. Ảnh hưởng của biến động giá cà phê thế giới đến thị trường Việt
Nam

Từ khoảng mười năm trở lại đây, cà phê Việt Nam có vị trí quan trọng và là
nước cung cấp nguyên liệu cho thị trường thế giới. Đứng sau Brazil, VN là nước
sản xuất cà phê lớn thứ hai thế giới với 15% thị phần. Trên 90% tổng sản lượng sản
xuất ra đều được xuất khẩu, chủ yếu là cà phê robusta nhân sống (cà phê vối) và cà
phê arabica (cà phê chè). Riêng cà phê Robusta xuất khẩu, VN đứng trên cả Brazil
và trở thành nhà xuất khẩu mặt hàng này lớn nhất thế giới.
Bảng 2.1: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam từ năm
2001 đến năm 2009

Nguồn:ww.agro.gov.vn, www.vicofa.org.vn và www.giacaphe.com
Hiện nay nước cung cấp cà phê lớn nhất thế giới là Brazin mỗi năm sản xuất
2,5 triệu tấn cà phê, trong đó 50% dùng chế biến cà phê hòa tan trong nước, một
phần sản lượng cà phê hòa tan này được xuất khẩu. Với hơn 100 triệu dân, bình
quân mỗi người dân tiêu dùng 45kg cà phê thì lượng tiêu thụ trong nước của
Braxin đã khoảng 450.000 tấn nên họ không bị ảnh hưởng bởi giá quốc tế.
26
Còn Việt Nam hiện nay mới chế biến được khoảng 10.000 tấn (bằng 5% tổng


sản lượng), con số quá ít so với 1 triệu tấn cà phê nhân sản xuất ra mỗi năm. Thêm
vào đó, tiêu dùng nội địa cũng rất thấp, chưa được 0,5kg/người/năm, vì thế ngành
cà phê nước ta phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường xuất khẩu và không thể kiểm
soát giá cà phê thế giới mà hoàn toàn bị động khi giá cà phê thế giới biến động.
Trong khi đó các nước khác trên thế giới lại bắt tay nhau để cùng kiểm soát và chi
phối giá cà phê, hầu hết dự báo của các hãng tin nước ngoài đều hướng vào người
mua. Thậm chí, các viện nghiên cứu giá cả trên thế giới khi đưa ra bản tin đều phục
vụ lợi ích một bên nào đó, còn thực tế không có lợi cho Việt Nam.
Chính vì thế trong quá khứ ngành cà phê Việt Nam đã chịu những tổn thất
nghiêm trọng, điển hình niên vụ cà phê 1991/1992 chúng ta đã phải bán cà phê với
mức rất thấp, có lúc dưới 600USD/tấn. Rồi đến đợt khủng hoảng cung cấp thừa

1999 lại là một đợt giá giảm liên tục đến mức thấp kỷ lục của nhiều thập niên. Thời
kỳ đó có lúc nông dân đã phải bán cà phê với giá thấp dưới giá thành tức là chưa đạt
6,000đ/kg cà phê nhân.
Từ năm 2000, giá cà phê Việt Nam đã giảm mạnh. Năm 2001, với chi phí
chăm sóc lớn gấp đôi số tiền bán sản phẩm, bình quân mỗi héc ta cà phê, người
nông dân lỗ từ 5 7 triệu đồng/năm. Sau nhiều năm khủng hoảng, thị trường cà phê
thế giới có xu hướng phục hồi trở lại, bắt đầu từ cuối năm 2005. Đặc biệt vào những
tháng cuối năm 2006, giá cà phê tăng đột biến. 5 tháng cuối năm 2006, giá cà phê
thế giới tăng hơn giá trung bình 6 tháng đầu năm đến 32%.
Nhìn vào biểu đồ bên dưới ta có thể thấy rất rõ giá cà phê trong nước luôn
theo sát giá thế giới, giá thế giới tăng thì giá trong nước tăng, giá thế giới giảm thì
giá trong nước giảm, thậm chí còn giảm nhanh và nhiều hơn tốc độ giảm của giá thế
giới, điển hình là diễn biến giá cà phê của niên vụ 2008/2009.
27
Biểu đồ 2.3: Giá cà phê thế giới và giá cà phê xuất khẩu bình quân hàng
năm của Việt Nam giai đoạn 19942009(USD/tấn)


Nguồn: www.ico.org, www.agro.gov.vn và www.vicofa.org.vn
Biểu đồ 2.4: Giá cà phê thế giới và giá cà phê xuất khẩu bình quân hàng
tháng của Việt Nam niên vụ 2008/2009 (USD/tấn)

94 95 96 97 98 99 00 01 02 03 04 05 06 07 08 09
19

Nguồn: www.ico.org và www.vicofa.org.vn
Chính vì giá xuất khẩu cà phê của Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn vào biến
động giá cà phê thế giới, thêm vào đó do chất lượng cà phê Việt Nam nên giá xuất
28
khẩu trong nước luôn thấp hơn giá thế giới. Theo báo cáo của hiệp hội cà phê thế

giới niên vụ 2008/2009 sản lượng cà phê xuất khẩu Việt Nam đứng thứ hai thế giới
nhưng về kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng thứ tư. Đây là một bất lợi rất lớn cho bà
con nông dân trồng cà phê và các doanh nghiệp kinh doanh cà phê.
Biểu đồ 2.5: Lượng và giá cà phê xuất khẩu bình quân của Việt Nam
giai đoạn 19942009
1,400,000
1,200,000


×