Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

TÌNH TRẠNG DINH DƯƠNG và THIẾU VI CHẤT ở TRẺ dưới 5 TUỔI BIẾNG ăn tại KHOA KHÁM tư vấn DINH DƯỠNG số 2 – VIỆN DINH DƯỠNG, hà nội, năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.48 KB, 59 trang )

B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI

Lấ HONG HNH NGHI

TìNH TRạNG DINH DơNG Và THIếU VI CHấT
ở TRẻ DƯớI 5 TUổI BIếNG ĂN TạI KHOA KHáM TƯ VấN
DINH DƯỡNG Số 2 VIệN DINH DƯỡNG, Hà NộI, NĂM 2015
Chuyờn ngnh: Dinh dng
Mó s: 06720303

CNG LUN VN THC S Y HC

NGI HNG DN KHOA HC:
1. PGS.TS. TRN TH PHC NGUYT
2. TS. BS. NGUYN TRNG HNG

H NI 2015


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
BMI
CN/T
CC/T
CN/CC
DSM


Ý nghĩa chữ viết tắt/ Nghĩa tiếng Việt
Body mass index/ Chỉ số khối cơ thể
Cân nặng theo tuổi
Chiều cao theo tuổi
Cân nặng theo chiều cao
The Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders/ Cẩm

FTT
ICD
IMFeD

nang thống kê và chẩn đoán các rối loạn tâm thần
Failure to thrive/ Không tăng trưởng
International Classification of Disease/ Phân loại bệnh quốc tế
Identification and Management of Feeding Difficulties/

MDI
SD
SDD
TPHCM
WHO

Xác định và xử trí biếng ăn
Mental Development Index/ Chỉ số phát triển tâm thần
Standard deviation/ Độ lệch chuẩn
Suy dinh dưỡng
Thành phố Hồ Chí Minh
World Health Organizarion/ Tổ chức Y tế Thế giới



MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ..................................................................................................1
CHƯƠNG 1......................................................................................................3
TỔNG QUAN..................................................................................................3
1.1.TỔNG QUAN VỀ BIẾNG ĂN.......................................................................................................3

1.1.1.Khái niệm về biếng ăn.......................................................................3
1.1.2.Phân loại về biếng ăn.........................................................................3
1.1.2.1. Phân loại các nhóm biếng ăn theo Hội Tâm lý Hoa Kỳ.................4
1.1.2.2. Phân loại các nhóm biếng ăn của Irene Chatoor............................5
1.1.2.3. Phân loại các nhóm biếng ăn của Benny Kerzner..........................9
1.1.2.4. Công cụ IMFeD...........................................................................11
1.2. TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA TRẺ BIẾNG ĂN...................................................................12

1.2.1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ biếng ăn trên thế giới và Việt Nam 12
1.2.1.2. Chậm phát triển thể chất.................................................................13
1.2.1.3. Chậm phát triển tâm thần vận động.............................................13
1.2.2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ biếng ăn
.........................................................................................................14
1.2.2.3. Dễ nôn, trớ, trào ngược khi ăn.....................................................14
1.2.2.4. Hành vi bất thường liên quan đến bữa ăn....................................15
1.3. TÌNH TRẠNG THIẾU VI CHẤT CỦA TRẺ BIẾNG ĂN..................................................................15

1.3.1. Tình trạng thiếu vi chất của trẻ biếng ăn trên thế giới và Việt Nam
.........................................................................................................15
1.3.2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng thiếu vi chất của trẻ biếng ăn
.........................................................................................................16
CHƯƠNG 2....................................................................................................18
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................18
2.1. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU – THỜI GIAN NGHIÊN CỨU.............................................................18



2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU....................................................................................................18

2.2.1. Tiêu chuẩn loại trừ..........................................................................18
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...............................................................................................18

2.3.1. Thiết kế nghiên cứu.........................................................................18
2.3.2. Cỡ mẫu – Cách chọn mẫu...............................................................18
2.3.3. Thu thập số liệu...............................................................................19
2.3.4. Tiêu chí đánh giá.............................................................................21
2.3.5. Trình tự tiến hành nghiên cứu.........................................................23
2.4. XỬ LÝ SỐ LIỆU.......................................................................................................................23
2.5. SAI SỐ VÀ CÁCH KHẮC PHỤC................................................................................................23
2.6. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU...........................................................................................24

CHƯƠNG 3....................................................................................................25
DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.........................................................25
3.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU...........................................................................25

3.1.1. Phân bố đối tượng theo nhóm tuổi..................................................25
Nhận xét:...................................................................................................25
3.1.2. Phân bố đối tượng theo giới tính.....................................................25
3.1.3. Đặc điểm về nơi cư trú....................................................................26
3.1.4. Người chăm sóc trẻ chính ở nhà.....................................................26
3.1.5. Trình độ học vấn của mẹ.................................................................27
3.1.6. Thứ tự con trong gia đình................................................................27
3.1.7. Khoảng cách với lần sinh trước......................................................27
3.1.8. Tuổi thai lúc sinh của trẻ.................................................................27
3.1.9. Cân nặng sơ sinh của trẻ.................................................................28

3.1.10. Thời điểm xuất hiện biếng ăn........................................................29
3.2. TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
.........................................................................................................31
3.2.1. Tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu...........................31


3.2.1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân của đối tượng nghiên cứu.........31
3.3. TÌNH TRẠNG THIẾU VI CHẤT CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU...............................................34

3.3.1. Tình trạng thiếu máu của đối tượng nghiên cứu.............................34
3.3.1.1. Nồng độ Hemoglobin trung bình của đối tượng nghiên cứu..........................................34

3.3.1.2. Tỷ lệ thiếu máu của đối tượng nghiên cứu...................................34
3.3.2. Tình trạng kẽm huyết thanh của đối tượng nghiên cứu..................36
3.3.2.1. Nồng độ kẽm huyết thanh trung bình của đối tượng nghiên cứu..................................36

3.3.3. Liên quan giữa thiếu máu và thiếu kẽm ở đối tượng nghiên cứu. . .37
CHƯƠNG 4....................................................................................................37
DỰ KIẾN BÀN LUẬN..................................................................................37
4.1. TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU................................................37

4.1.1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân theo các nhóm biếng ăn............38
4.1.2. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi theo các nhóm biếng ăn............38
4.1.3. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể gầy còm theo các nhóm biếng ăn...........38
4.1.4. Tỷ lệ thừa cân – béo phì theo các nhóm biếng ăn...........................38
4.2. TÌNH TRẠNG THIẾU VI CHẤT CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU...............................................38

4.2.1. Tình trạng thiếu máu của đối tượng nghiên cứu.............................38
4.2.2. Tình trạng thiếu kẽm của đối tượng nghiên cứu.............................38
DỰ KIẾN KẾT LUẬN..................................................................................39

DỰ KIẾN KHUYẾN NGHỊ.........................................................................40
KẾ HOẠCH THỰC HIỆN...........................................................................41
DỰ TRÙ KINH PHÍ.....................................................................................42
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1 : Phân bố đối tượng theo nhóm tuổi............................................25
Bảng 3.2: Người chăm sóc trẻ chính ở nhà.................................................26
Bảng 3.3: Trình độ học vấn của mẹ.............................................................27
Bảng 3.4: Thứ tự con trong gia đình...........................................................27
Bảng 3.5: Khoảng cách với lần sinh trước..................................................27
Bảng 3.6 : Cân nặng sơ sinh của trẻ............................................................28
Bảng 3.7: Thời điểm xuất hiện biếng ăn......................................................29
Bảng 3.8: Thời gian biếng ăn........................................................................29
Bảng 3.9: Biểu hiện của trẻ trước biếng ăn.................................................30
Bảng 3.10: Tỷ lệ các nhóm biếng ăn............................................................31
Bảng 3.11: Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân theo các nhóm biếng ăn....31
Bảng 3.12: Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi theo các nhóm biếng ăn...32
Bảng 3.13 : Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể gầy còm theo các nhóm biếng ăn..33
Bảng 3.14: Tỷ lệ thừa cân – béo phì theo các nhóm biếng ăn...................33
Bảng 3.15: Nồng độ Hemoglobin trung bình theo các nhóm biếng ăn.....34
Bảng 3.16: Tỷ lệ thiếu máu theo các nhóm biếng ăn..................................34
Bảng 3.17: Phân tích mối liên quan giữa tình trạng thiếu máu với một số
yếu tố khác.....................................................................................................35
Bảng 3.18 : Nồng độ kẽm huyết thanh trung bình theo các nhóm biếng ăn
.........................................................................................................................36
Bảng 3.19: Tỷ lệ thiếu kẽm theo các nhóm biếng ăn..................................36
3.3.3.1. Tương quan giữa thiếu máu và thiếu kẽm ở đối tượng nghiên cứu

.........................................................................................................................37
Bảng 3.20 : Tương quan giữa thiếu máu và thiếu kẽm ở trẻ biếng ăn.....37
Nồng độ hemoglobin......................................................................................37


n.......................................................................................................................37
Nồng độ kẽm huyết thanh.............................................................................37
χ.......................................................................................................................37
P......................................................................................................................37
>0,05................................................................................................................37
Bảng 3.21: Phân tích mối liên quan giữa tình trạng thiếu kẽm với một số
yếu tố khác.....................................................................................................37

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1 : Phân bố đối tượng theo giới tính...........................................25
Biểu đồ 3.2 : Phân bố đối tượng theo nơi cư trú.........................................26
Biểu đồ 3.3: Tuổi thai lúc sinh của trẻ.........................................................28
Biểu đồ 3.4: Tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu................31
Nhận xét:........................................................................................................31


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Với hầu hết trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ, nuôi ăn dường như là tiến trình tự nhiên.
Tuy nhiên, chỉ khoảng 25% trẻ phát triển bình thường về các mặt và lên đến 80%
trẻ có vấn đề phát triển được ghi nhận liên quan đến các vấn đề nuôi ăn. Ngoài ra,
người ta nhận thấy có 1% đến 2% trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ có khó khăn nuôi ăn nặng
đi kèm kém tăng cân. Rối loạn nuôi ăn không chỉ dẫn đến thiếu chất dinh dưỡng,

suy dinh dưỡng, làm gián đoạn phát triển của trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ mà còn liên
quan đến những khiếm khuyết phát triển nhận thức, các bất thường hành vi về sau,
cũng như các rối loạn lo âu và rối loạn nuôi ăn suốt trong thời kỳ thơ ấu, thanh thiếu
niên, ảnh hưởng xấu đến khả năng hòa nhập xã hội của trẻ. Do đó, việc nhận ra,
hiểu và điều trị sớm các rối loạn nuôi ăn là rất quan trọng [1].
Các tác giả nước ngoài dùng những thuật ngữ khó khăn trong nuôi ăn (Benny
Kerzner), rối loạn nuôi ăn (Irene Chatoor) để chỉ tất cả các loại khó ăn và các vấn
đề ảnh hưởng xấu đến quá trình nuôi ăn của trẻ mà cha mẹ hay người chăm sóc trẻ
gặp phải. Ở đây chúng tôi dùng thuật ngữ biếng ăn để mô tả biểu hiện trẻ từ chối ăn,
để gần gũi với bệnh nhân ở nước ta.
Cho đến gần đây, chưa có một khung chẩn đoán nào để giúp các bác sĩ nhi
khoa đánh giá và điều trị các bệnh nhi được gia đình nhận định là biếng ăn. Một
chương trình mới IMFeD (Xác định và chẩn đoán biếng ăn) là một sáng kiến của
Benny Kerzner, chuyên ngành Nhi khoa, thuộc Trung tâm Nhi khoa Quốc gia Hoa
Kỳ, nhằm cung cấp cho các nhân viên y tế và các bác sĩ nhi khoa thông tin và công
cụ giúp thuận tiện trong quá trình chẩn đoán các nhóm biếng ăn thường gặp, có
hướng tiếp cận và điều trị thích hợp cho từng nhóm biếng ăn, giáo dục cha mẹ hay
người chăm sóc trẻ những phương pháp tiếp cận và điều trị thích hợp.
Tần suất biếng ăn ở một số quốc gia trên thế giới như ở Hoa Kỳ là 50% ở trẻ
tập đi từ 4-24 tháng tuổi [2], ở Tây Ban Nha là 44% trẻ từ 1-10 tuổi [3], ở Anh là
33% trẻ dưới 5 tuổi [4], ở Philippine là 67% [2], và 39,7% trẻ từ 1-6 tuổi từ Trung
Quốc [5]. Ở Việt Nam, theo khảo sát của Viện Dinh Dưỡng Quốc gia, tỷ lệ biếng ăn


2

của trẻ em chiếm đến 45,9%-57,7% [6]. Nghiên cứu của Đào Thị Yến Phi (2005)
[7] cho thấy tỷ lệ trẻ biếng ăn được gia đình nhận định là 65,5%, tỷ lệ trẻ được nhận
định là có biếng ăn đồng thời có sự giảm cân nặng theo tuổi là 60,8%, tỷ lệ biếng ăn có
ảnh hưởng đến thể chất trong số trẻ được gia đình nhận định là biếng ăn là 92,9%.

Nghiên cứu của Lê Thị Kim Dung (2013) [8] cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ biếng
ăn từ 12 -36 tháng tại phòng khám Dinh dưỡng bệnh viện Nhi đồng 1, thành phố Hồ
Chí Minh là 38,3%. Nghiên cứu của Trương Tuyết Mai (2013) [9] trên 112 đối tượng
suy dinh dưỡng thấp còi từ 1-3 tuổi cho thấy tỷ lệ biếng ăn là 83,5%.
Như vậy, biếng ăn rất phổ biến trên toàn thế giới và là một trong những mối
quan tâm lớn của các bậc cha mẹ. Để phát hiện, hiểu và điều trị sớm tình trạng
biếng ăn là rất quan trọng. Để cung cấp số liệu về tỷ lệ, tình trạng biếng ăn được gia
đình trẻ ghi nhận và một số yếu tố liên quan đến tình trạng biếng ăn của những trẻ
em đến khám tại Khoa khám tư vấn dinh dưỡng số 2, Viện Dinh Dưỡng, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài “Tình trạng dinh dưỡng và thiếu vi chất ở trẻ dưới 5
tuổi biếng ăn đến khám tại Khoa khám tư vấn dinh dưỡng số 2, Viện Dinh
Dưỡng, năm 2015” với các mục tiêu sau:
1. Tình trạng dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi biếng ăn đến khám tại Khoa
khám tư vấn dinh dưỡng số 2, Viện Dinh Dưỡng, năm 2015.
2. Tình trạng thiếu vi chất ở trẻ biếng ăn dưới 5 tuổi biếng ăn đến khám tại
Khoa khám tư vấn dinh dưỡng số 2, Viện Dinh Dưỡng, năm 2015.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. TỔNG QUAN VỀ BIẾNG ĂN
Biếng ăn là một triệu chứng rất hay gặp ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ, với nhiều
nguyên nhân khác nhau, như yếu tố tâm lý, bệnh tật kèm theo, môi trường và xã
hội. Biếng ăn làm cho trẻ chậm tăng cân, chậm tăng cao nếu không can thiệp kịp
thời trẻ sẽ bị suy dinh dưỡng. Trẻ biếng ăn sẽ dẫn đến nhiều hậu quả bất lợi cho sự
phát triển của trẻ như kém hấp thu các chất dinh dưỡng tại đường tiêu hóa, chậm
phát triển về chiều cao, cân nặng, nguy cơ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, thể thấp còi
cao hơn từ 2,5-3 lần, nguy cơ mắc các bệnh nhiễm khuẩn hơn so với trẻ bình

thường [10],[11].
1.1.1. Khái niệm về biếng ăn
Cho đến hiện nay, tiêu chuẩn chính thức để xác định tình trạng biếng ăn vẫn
còn đang được tranh luận. Một số định nghĩa sau đây thường được sử dụng hơn cả
[12],[13],[14],[15]:
- Biếng ăn là tình trạng giảm hoặc mất cảm giác thèm ăn ở trẻ nhỏ, khiến trẻ
không nhận đủ lượng thức ăn theo nhu cầu.
- Trẻ ăn không đủ lượng yêu cầu của lứa tuổi, ăn dưới ½ lượng nhu cầu của
lứa tuổi.
- Thời gian ăn kéo quá dài trên 30 phút.
- Thường kén chọn thức ăn, ăn chậm và không hứng thú với ăn.
- Từ chối ăn trong vòng 1 tháng, không tăng trưởng .
- Chế độ ăn uống nghèo nàn so với nhu cầu khuyến nghị .
1.1.2. Phân loại về biếng ăn
Trước đây thuật ngữ không tăng trưởng (KTT) được dùng chẩn đoán chung
cho tất cả các rối loạn biếng ăn khác nhau. Ban đầu các nhà lâm sàng phân biệt 2
thể KTT : KTT thực thể và KTT cơ năng. KTT thực thể chỉ những trường hợp SDD
có thể do nguyên nhân nội khoa. KTT cơ năng được cho là phản ánh tình trạng


4

thiếu tình mẫu tử hay tâm thần bệnh học của bố mẹ. Thể thứ 3 được thêm vào sau
đó để miêu tả KTT liên quan phức hợp các yếu tố thực thể và môi trường. Những
năm gần đây, người ta đã chỉ trích gay gắt việc sử dụng KTT như là chẩn đoán. Mối
quan tâm chính là không phải tất cả những rối loạn nuôi ăn cho thấy KTT. Nhất
quán với quan điểm này, một số nhà nghiên cứu đã tranh luận cho KTT là một triệu
chứng chứ không phải là một chẩn đoán [16].
1.1.2.1. Phân loại các nhóm biếng ăn theo Hội Tâm lý Hoa Kỳ
Hội Tâm lý Hoa Kỳ đã đưa ra hệ thống phân loại biếng ăn có tên là DSM-IV,

gồm các tiêu chí sau [17],[16] :
Không thể cho ăn đủ kéo dài với không tăng cân hoặc sụt cân qua thời gian ít
nhất 1 tháng.
Một số trẻ bị rối loạn ăn uống có chế độ ăn cực kỳ hạn chế làm ảnh hưởng xấu
đến sự phát triển thể chất và tâm lý xã hội, nhưng vẫn có thể duy trì được cân nặng
hoặc tăng cân. Mặc dù những đứa trẻ này đáp ứng với phần đầu của tiêu chí (ăn
không đủ dinh dưỡng), chúng tăng cân, loại trừ chẩn đoán rối loạn nuôi ăn.
Những trẻ khác biểu hiện bằng việc trì trệ hoặc thiếu những kỹ năng ăn uống mà
không thể giải thích bằng những bệnh lý y khoa tiềm ẩn. Những trẻ này thường
sẽ được nuôi ăn bằng ống do đó việc không tăng cân hoặc sụt cân đáng kể không
thể xác nhận được.
Thêm vào đó, những giới hạn của tiêu chuẩn tăng hoặc giảm cân không được
định nghĩa và không bao gồm chậm tăng trưởng (ví dụ như đường biểu diễn chiều
cao hay chiều dài đi xuống). Cuối cùng vẫn chưa rõ là cần có những chứng cứ trực
tiếp cho những rối loạn ăn uống hay không, hay bản thân việc chậm tăng cân có thể
chứng minh được cho những biểu hiện của rối loạn nhai lại và những trẻ từ chối
hoặc hạn chế thức ăn ăn vào.
Rối loạn ăn không do bệnh lý dạ dày- ruột hay các bệnh lý khác đi kèm
Cẩm nang thống kê và chẩn đoán các rối loạn tâm thần (DSM), khác với hệ
thống phân loại bệnh quốc tế (ICD). Trong hệ thống ICD, những vấn đề về nuôi ăn
được phân loại dưới nhiều đề mục khác nhau, phản ánh cả nguyên nhân thực thể
(những rối loạn cấu trúc và chức năng ảnh hưởng đến sinh lý và các cơ quan trong


5

cơ thể) và không thực thể (nguyên nhân xã hội, môi trường). Trong thực hành, khái
niệm những rối loạn nuôi ăn do nguyên nhân thực thể hay không thực thể khó áp
dụng hay chứng minh là đúng. Trẻ bị rối loạn nuôi ăn được thấy trong nhiều bệnh
cảnh lâm sàng, được điều trị bởi các bác sĩ chuyên khoa như chuyên khoa tiêu hóa,

chuyên gia về ngôn ngữ và phát âm, chuyên gia sức khỏe tâm thần. Nói chung, các
khó khăn nuôi ăn có thể do bệnh lý y khoa, do những khó khăn về chức năng, do
cảm xúc, do hành vi, hoặc những vấn đề trong các mối quan hệ. Việc phân biệt
nguyên nhân rõ ràng khó thực hiện vì trẻ em có biểu hiện đa dạng và cần nhiều cách
điều trị.
Rối loạn ăn không tính đến rối loạn tâm thần khác (ví dụ : Rối loạn nhai lại)
hoặc do thiếu sự sẵn có của thực phẩm
Tiêu chí của rối loạn nhai lại chưa rõ ảnh hưởng đến việc ăn uống của trẻ hay
việc lên cân kém. Trong lý thuyết, rối loạn này biểu hiện thích ăn uống, không tính
đến việc thiếu hụt thực phẩm. Thực tế cho thấy các rối loạn nuôi ăn thường gặp nhất
là có nhiều nguyên nhân, đáng chú ý là yếu tố hành vi.
Khởi phát trước 6 tuổi
Trong hệ thống DSM, trẻ khởi phát các vấn đề ăn uống sau 6 tuổi không có
một chẩn đoán rối loạn nuôi ăn chính thức. Các rối loạn ăn uống có khởi phát và
biểu hiện trong thời niên thiếu bị loại ra khỏi hệ thống chẩn đoán DSM và không
được điều trị thích hợp.
Tiêu chí DSM không giải quyết được các lý do tại sao trẻ nhũ nhi hay trẻ nhỏ không
ăn đủ số lượng yêu cầu và không phân loại được các loại biếng ăn [9],[18].
1.1.2.2. Phân loại các nhóm biếng ăn của Irene Chatoor
Để giải quyết câu hỏi làm thế nào phân biệt các vấn đề nuôi ăn nặng khác
nhau và với các khó khăn trong nuôi ăn thoáng qua hay nhẹ hơn, Irene Chatoor đã
phát triển một hệ thống phân loại mô tả các hiện tượng và cung cấp tiêu chí chẩn
đoán thực hành cho 6 nhóm nhỏ của rối loạn nuôi ăn ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ.
Tiêu chí chẩn đoán cho 6 rối loạn được mô tả bao gồm các triệu chứng lâm
sàng phân biệt các rối loạn này với nhau và các số đo mức độ suy giảm giúp phân
biệt các rối loạn nuôi ăn với các vấn đề nuôi ăn dưới mức lâm sàng ít nặng hơn.
Phạm vi của tổn thương không chỉ quan tâm chủ yếu đến dinh dưỡng, ví dụ như


6


không tăng trưởng, thiếu hụt chế độ ăn chuyên biệt, thiếu ăn đe dọa sức khỏe và
tăng trưởng của trẻ mà còn bao gồm chậm vận động miệng, chậm phát triển nói,
tách rời và lo âu xã hội. Mặc dù 6 nhóm nhỏ của rối loạn nuôi ăn cho thấy sự trùng
lắp của một số triệu chứng và một số tiêu chí đánh giá tổn thương, chúng cho thấy
sự kết hợp khác nhau của các triệu chứng và các phạm vi tổn thương khác nhau
được coi là có liên quan tới các nguyên nhân khác nhau.
Phân loại 6 nhóm nhỏ của các rối loạn nuôi ăn không bao gồm tất cả nhưng
nó bao phủ hầu hết các rối loạn nuôi ăn thường gặp có liên quan các triệu chứng về
hành vi.
Biếng ăn do điều chỉnh trạng thái
Tiêu chí chẩn đoán [19] :
- Khó khăn ăn uống của trẻ xuất hiện trong những tháng đầu đời và kéo dài ít
nhất 2 tuần.
- Trẻ khó khăn trong việc đạt được và duy trì một trạng thái tỉnh táo, ổn định
trong lúc ăn, trẻ hoặc quá buồn ngủ hoặc là quá kích động hoặc rất khó chịu khi ăn.
- Trẻ không đạt được cân nặng phù hợp với lứa tuổi hoặc sụt cân.
- Khó khăn ăn uống của trẻ không thể giải thích được do bệnh lý thực thể.
Biếng ăn do thiếu đồng cảm giữa người cho ăn và trẻ
Tiêu chí chẩn đoán [20] :
- Dạng biếng ăn này thường quan sát thấy trong những năm đầu đời, khi trẻ
nhũ nhi biểu hiện một số vấn đề y khoa cấp tính (thường gặp nhiễm trùng) phải đi
khám bác sĩ chăm sóc sức khỏe ban đầu hoặc đi cấp cứu, và bác sĩ phát hiện trẻ bị
suy dinh dưỡng.
- Trẻ nhũ nhi thiếu các dấu hiệu phát triển về giao tiếp thích hợp (ví dụ : trao
đổi ánh mắt, mỉm cười, hoặc nói bi bô) với người chăm sóc trong khi ăn.
- Trẻ nhũ nhi chậm tăng trưởng đáng kể.
- Người chăm sóc ban đầu thường không nhận thấy hoặc phủ nhận các vấn đề
về nuôi ăn và tăng trưởng của trẻ.
- Sự thiếu tăng trưởng và thiếu các mối quan hệ không phải chỉ do rối loạn

thực thể hay rối loạn phát triển toàn thân.


7

Biếng ăn nhũ nhi
Tiêu chí chẩn đoán [21] :
- Đặc điểm của rối loạn nuôi ăn này là việc nhũ nhi trong tuổi tập đi từ chối ăn
đủ khối lượng thức ăn cần thiết ít nhất trong 1 tháng.
- Việc từ chối thức ăn thường bắt đầu vào giai đoạn chuyển tiếp sang ăn bằng
muỗng hoặc tự ăn, điển hình từ lúc 6 tháng đến 3 tuổi.
- Trẻ hiếm khi đòi ăn, không thích thức ăn và việc ăn. Thích chơi, chạy xung
quanh và thích nói chuyện hơn là ăn.
- Trẻ chậm tăng trưởng rõ rệt (suy dinh dưỡng cấp hay mạn tính theo tiêu
chuẩn của Waterlow (1997)) hoặc trọng lượng của trẻ lệch quá 2 bách phân vị trong
giai đoạn 2-6 tháng tuổi.
- Việc từ chối thức ăn không khởi đầu sau một chấn thương vùng hầu họng
hay ống tiêu hóa.
- Việc từ chối thức ăn không do bệnh một bệnh lý nền khác.
Ác cảm với thức ăn
Tiêu chí chẩn đoán [22] :
- Biếng ăn đặc trưng bởi từ chối một số thức ăn nhất định của trẻ do mùi, độ
mịn, nhiệt độ hay khẩu vị của thức ăn trong vòng tối thiểu 1 tháng.
- Khởi đầu của việc từ chối thức ăn diễn ra trong khi bắt đầu một thức ăn mới
hay một loại thức ăn mà trẻ có ác cảm (ví dụ : trẻ uống được sữa nhưng từ chối sữa
có mùi vị không giống, trẻ có thể ăn bột, nhưng không thích bột lợn cợn hay thức ăn
cứng phải nhai, trẻ có thể nhai thức ăn nhưng lại từ chối thức ăn nghiền).
- Phản ứng của trẻ đưa đến ác cảm với thức ăn xếp loại từ nhăn mặt hoặc phun
thức ăn ra ngoài đến nôn khan và nôn ói. Sau phản ứng ác cảm, trẻ từ chối luôn cả
những thức ăn trẻ vẫn thường dùng và từ chối luôn các thức ăn có màu sắc, hình thức

hoặc mùi vị tương tự. Hậu quả là trẻ từ chối hầu hết thức ăn.
- Trẻ miễn cưỡng ăn thức ăn mới nhưng khi đưa thức ăn trẻ thích thì trẻ ăn
nhanh hơn.


8

- Nếu không có thực phẩm bổ sung, trẻ sẽ có biểu hiện thiếu một hoặc nhiều
chất chuyên biệt (ví dụ: vitamin, sắt, kẽm hay đạm) nhưng thường trẻ vẫn cao lớn
thậm chí còn có thể dư cân và/hoặc:
• Chậm phát triển cơ vận động vùng miệng và chậm diễn cảm bằng lời nói
và/hoặc
• Bắt đầu từ mẫu giáo, trẻ đã cho thấy sự lo lắng trong giờ ăn và tránh
-

những kích thích nào từ chung quanh có liên quan đến việc ăn uống.
Việc từ chối thức ăn không theo sau những chấn thương vùng hầu họng.
Từ chối ăn một số thức ăn chuyên biệt không liên quan đến dị ứng thức ăn
hay do trẻ đang bệnh.

Rối loạn nuôi ăn sau chấn thương
Tiêu chí chẩn đoán [23] :
-

Đặc trưng của rối loạn nuôi ăn này khởi đầu bằng việc trẻ đột ngột bỏ ăn hoàn toàn.

-

Khởi phát bỏ ăn có thể ở bất kỳ tuổi nào, từ nhũ nhi đến người lớn.


-

Bỏ ăn xảy ra sau một biến cố gây chấn thương hay những tổn thương lặp đi
lặp lại vùng hầu họng và đường tiêu hóa (sặc, ọe, nôn, trào ngược dạ dày-thực
quản, đặt nội khí quản hay ống thông mũi-dạ dày, hút, ép ăn) gây ra đau đớn
dữ dội cho trẻ.

-

Kiên quyết bỏ ăn biểu hiện theo một trong những cách sau, tùy thuộc vào
cách thức trẻ ăn lúc xảy ra chấn thương, hoặc bú bình hoặc ăn thức ăn đặc:
• Không chịu bú bình nhưng có thể ăn bằng muỗng (dù nhất định không
chịu bú bình khi thức, trẻ có thể bú bình khi ngủ).
• Không chịu ăn thức ăn đặc nhưng có thể bú bình, uống thức uống lỏng
khác hay thức ăn nghiền.
• Không chịu ăn gì bằng đường miệng.

-

Việc gợi nhớ lại biến cố gây chấn thương làm trẻ sợ hãi, biểu hiện bằng một
hoặc nhiều cách sau:
• Biểu lộ sự sợ hãi khi được đặt vào chỗ chuẩn bị ăn.
• Phản kháng dữ dội khi tiếp xúc với bình sữa hoặc thức ăn.
• Phản kháng không chịu nuốt thức ăn trong miệng.


9

-


Bỏ ăn đặt ra vấn đề tức thời hay lâu dài về sức khỏe, dinh dưỡng, phát triển;
đe dọa tiến trình ăn uống phù hợp tuổi của trẻ.

Rối loạn nuôi ăn liên quan đến một bệnh nội khoa
Tiêu chí chẩn đoán [24] :
-

Rối loạn nuôi ăn được đặc trưng bởi việc không chịu ăn và ăn không đủ ít
nhất 2 tuần.

-

Trẻ có thể bắt đầu không chịu ăn ở bất kỳ tuổi nào, mức độ có thể tăng giảm,
tùy thuộc tình trạng bệnh nội khoa.

-

Nhũ nhi và trẻ mới biết đi bắt đầu bữa ăn dễ dàng, nhưng sau đó biểu hiện
đau đớn và không chịu ăn tiếp.

-

Nhũ nhi và trẻ mới biết đi đang mắc một bệnh lý thực thể làm trẻ đau đớn (ví
dụ : trào ngược dạ dày-thực quản, hay mắc bệnh hô hấp, tim mạch).

-

Nhũ nhi và trẻ mới biết đi chậm tăng cân, thậm chí sụt cân.

-


Điều trị bệnh nội khoa cải thiện được vấn đề nuôi ăn nhưng có thể không
giảm hoàn toàn.

1.1.2.3. Phân loại các nhóm biếng ăn của Benny Kerzner
Phân loại biếng ăn của Kerzner (2009) dựa trên phân loại của Chatoor và có
cải biên cho phép phân loại cả nhóm trẻ khỏe mạnh nhưng bị cha mẹ cho là kém ăn.
Phân loại này gồm 4 nhóm [25]:
Kém ngon miệng (ít thèm ăn)
Bao gồm:
- Trẻ không biếng ăn nhưng được cha/mẹ nhận định sai là biếng ăn : Một số
trẻ bị cha mẹ đánh giá là ăn ít nhưng thật ra là phù hợp với kích thước và nhu cầu
dinh dưỡng của trẻ. Trẻ thường nhỏ con nhưng đã đạt mức tăng trưởng phù hợp với
chiều cao của cha mẹ. Sự quan tâm quá mức của cha mẹ có thể dẫn đến những giải
pháp cưỡng bức ăn sẽ có tác động ngược lên trẻ.
- Trẻ quá hiếu động ít quan tâm đến ăn : Trẻ hiếu động, tò mò, ham học hỏi
nhưng ít có biểu hiện đói hay hứng thú với việc ăn. Trẻ thích chơi và giao tiếp với


10

người khác hơn là ăn. Trẻ có thể chỉ ăn vài miếng rồi thôi không ăn nữa. Trẻ rất dễ
bị phân tâm khi ăn và khó có thể giữ trẻ tại bàn hay ghế ăn trong bữa ăn.
- Trẻ thờ ơ, lãnh đạm : Trẻ ít thèm ăn và có biểu hiện lãnh đạm, trầm cảm.
Trẻ ít nói và ít giao tiếp không lời (ví dụ : cười, nói bi bô, tiếp xúc ánh mắt) với
người chăm sóc trẻ. Có thể có dấu hiệu trẻ bị bỏ rơi.
- Trẻ có bệnh lý thực thể : Trẻ ít thèm ăn hoặc từ chối thức ăn vì đang có
bệnh thực thể nặng. Các dấu hiệu cảnh báo có thể giúp nhận biết phần lớn các
trường hợp này nhưng không phải tất cả. Cần cảnh giác cao độ với những bệnh lý
có triệu chứng sơ sài (ví dụ : bệnh không hấp thu chất béo).

Quá kén chọn thức ăn
Trẻ liên tục từ chối một hoặc một số loại thức ăn cụ thể nào đó, vì do mùi, vị,
độ mịn màng hay hình dạng của thức ăn. Trẻ trở nên lo lắng và sợ ăn khi bị ép ăn
những thức ăn mà trẻ ác cảm. Trẻ có các biểu hiện chống đối khi ăn như: nôn, khóc,
không chịu mở miệng.
Sợ thức ăn
Trẻ biểu lộ sự sợ hãi khi biết sắp phải ăn như: khóc, nôn, không chịu mở
miệng. Trẻ thường có tiền sử sợ hãi liên quan đến vấn đề khi nuôi ăn, ví dụ như
nghẹn thức ăn gây ngạt thở, ăn qua ống thông.
Đau quặn bụng khi ăn
Trẻ khóc không thể dỗ được và làm gián đoạn bữa ăn. Bà mẹ có khuynh
hướng cho trẻ ăn nhiều lần hơn vì nghĩ rằng trẻ khóc vì đói. Trẻ thường khỏe mạnh,
trong trường hợp nặng trẻ có thể sụt cân.
Phân loại biếng ăn của Kerzner bổ sung nhóm đau quặn bụng khi ăn và
không có nhóm biếng ăn do điều chỉnh trạng thái khi so sánh với phân loại của
Chatoor. Phân loại này thích hợp khi xác nhận các loại biếng ăn ở trẻ lớn hơn (≥4
tháng tuổi). Phân loại biếng ăn của Kerzner có ưu điểm làm nổi bật bản chất của
biếng ăn trong phân chia các nhóm, đó là nhóm ít thèm ăn (bao gồm tất cả các
nguyên nhân), kén chọn thức ăn (ác cảm thức ăn), nhóm sợ ăn, nhóm đau quặn bụng
khi ăn.


11

1.1.2.4. Công cụ IMFeD
IMFeD (Xác định và xử trí biếng ăn) [26],[27] là công cụ đầu tiên và duy nhất
được áp dụng nhằm hỗ trợ các nhân viên y tế và các bác sĩ nhi khoa trong việc đánh
giá và đưa ra hướng điều trị thích hợp cho trẻ có các vấn đề về ăn uống từ 1 tuổi trở
lên. IMFeD được giới thiệu đầu tiên vào năm 2009, do Benny Kerzner, chuyên
ngành Nhi khoa, thuộc Trung tâm Nhi khoa Quốc gia Hoa Kỳ, dựa trên sự phân

loại, cách tiếp cận và phương pháp điều trị biếng ăn của Irene Chatoor. Công cụ
IMFeD là một cách tiếp cận hệ thống đi từ ghi nhận (báo cáo của cha/mẹ về những
khó khăn khi cho trẻ ăn) đến khảo sát (xác định các số đo nhân trắc và các bệnh
thực thể, thông tin về các thói quen và hành vi ăn uống của trẻ, thực hành nuôi
dưỡng của người chăm sóc), chẩn đoán và điều trị.
Công cụ IMFeD gồm 02 phần: hỗ trợ chẩn đoán của bác sĩ, hỗ trợ cha mẹ
cung cấp thông tin [26],[27] :
- Bảng câu hỏi dành cho cha/mẹ hoặc người chăm sóc : Bằng cách kiểm tra
các câu hỏi thích hợp nhất mô tả nhận thức của họ về tình trạng của con mình, cha
mẹ có thể nhanh chóng cung cấp thông tin cho bác sĩ nhi khoa khi tham vấn.
- Bảng câu hỏi dành cho bác sĩ: Giúp các bác sĩ kiểm tra lại các thông tin do
cha/mẹ cung cấp nhằm đảm bảo thu thập được các thông tin chính xác cho chẩn đoán.
Công cụ IMFeD đã được hội nhi khoa dịch ra tiếng việt và phổ biến.
Các dạng biếng ăn và đặc điểm lâm sàng trong IMFeD
Nhận định sai của người chăm sóc (quan tâm quá mức của người chăm sóc)
- Trẻ ăn phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng theo lứa tuổi.
- Trẻ thường có kích thước nhân trắc nhỏ nhưng nằm trong giới hạn bình
thường theo lứa tuổi.
- Sự lo lắng quá mức của người chăm sóc trẻ dẫn đến ép buộc trẻ ăn và tác
động bất lợi đến trẻ.
Trẻ hiếu động ít quan tâm đến ăn- trẻ ít thèm ăn
- Trẻ khỏe mạnh, lanh lợi, hiếu động.
- Trẻ quan tâm đến việc chơi và giao tiếp với mọi người nhưng ít khi biểu lộ
hoặc quan tâm đến việc ăn uống.


12

- Trẻ có thể chỉ ăn một vài miếng và ngừng ăn, dễ lơ đãng với việc ăn và có
thể khó giữ yên tại bàn hoặc ghế trong khi ăn.

Trẻ thờ ơ, lãnh đạm ít quan tâm đến ăn
- Trẻ ít có cảm giác ngon miệng và ăn ít.
- Trẻ có biểu hiện lãnh đạm, thờ ơ, ít giao tiếp bằng lời (cười, nói) và không
lời (ánh mắt) với người cho ăn.
Ác cảm với thức ăn (quá kén chọn thức ăn)
- Trẻ kiên quyết từ chối một số món ăn vì mùi vị, độ mịn màng, hình thức,
thành phần món ăn.
- Trẻ có thể trở nên lo lắng nếu bị ép ăn các thực phẩm không thích.
Sợ ăn
- Trẻ có biểu hiện sợ hãi khi biết sắp phải ăn, trẻ chống lại việc cho ăn bằng
cách khóc, co người hoặc từ chối mở miệng.
- Có thể đã trải qua trước đó một sự cố đáng sợ liên quan đến ăn uống.
Biếng ăn do bệnh lý thực thể
- Trẻ ít thấy ngon miệng (ăn ít) hoặc từ chối ăn uống liên quan đến việc đang
mắc bệnh.
Phân loại biếng ăn trong công cụ IMFeD có một số điểm khác phân loại của
Chatoor và Kerzner: Phân loại biếng ăn trong công cụ IMFeD không có đau quặn
bụng khi ăn khi so với Kerzner và không có biếng ăn do điều chỉnh trạng thái của
Chatoor. Đặc điểm của “sợ ăn” theo phân loại IMFeD giống loại “sợ thức ăn” theo
phân loại của Kerzner và giống “rối loạn nuôi ăn sau chấn thương” theo phân loại
của Chatoor.
1.2. TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA TRẺ BIẾNG ĂN
1.2.1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ biếng ăn trên thế giới và Việt Nam
1.2.1.1. Trẻ ăn không đủ chất dinh dưỡng
Nghiên cứu của Lindberg (2006) [28] trên 15 trẻ có vấn đề ăn uống được
phân loại theo DSM-IV cho thấy, những trẻ rối loạn biếng ăn có khẩu phần ăn thấp
hơn nhóm chứng về năng lượng cacbonhydrat, protein, kẽm, vitamin B6. Đồng thời


13


những trẻ rối loạn ăn uống cũng có tăng trưởng chậm hơn nhóm chứng. Nghiên cứu
của Dubois (2007), tiến hành nghiên cứu dọc 2103 trẻ từ lúc mới sinh từ 1998 đến
2002 cho thấy, những trẻ kén chọn thức ăn có khẩu phần ăn thấp hơn nhóm chứng
về năng lượng, chất béo, protein và tỷ lệ nhẹ cân gấp hai lần nhóm chứng [29],[30].
1.2.1.2. Chậm phát triển thể chất
Theo nghiên cứu của Susanna Saarilehto và cộng sự (2004) [31] ở 494 trẻ tại
thời điểm 5 tuổi cho thấy trẻ biếng ăn thấp hơn, nhẹ cân hơn so với nhóm chứng.
Nghiên cứu của Wright và cộng sự (2007) [32] tại Anh ở trẻ 30 tháng tuổi cũng cho
thấy 11,1% trẻ biếng ăn tăng cân ít hơn trong 2 năm đầu so với 3,5% trẻ không
biếng ăn. Nghiên cứu của Đào Thị Yến Phi (2006) [7] cho thấy cân nặng trung bình
của nhóm trẻ biếng ăn thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm trẻ không biếng ăn. Trong
nghiên cứu của Lê Thị Kim Dung (2013) [8] có 38,3% trẻ trong 366 trẻ biếng ăn từ
12-36 tháng tuổi bị suy dinh dưỡng.
1.2.1.3. Chậm phát triển tâm thần vận động
Chứng biếng ăn của trẻ có thể làm ảnh hưởng đến không khí gia đình, gây
tâm lý căng thẳng cho mọi người trong gia đình. Các nghiên cứu cũng cho thấy
người chăm sóc quá lo lắng có thể áp dụng các phương pháp cưỡng chế có thể ảnh
hưởng xấu đến tương tác giữa người nuôi trẻ và trẻ. Các tác động bất lợi đó có thể
ảnh hưởng xấu đến phát triển tâm thần kinh của trẻ. Nghiên cứu của Chatoor (2004)
[33] cho thấy những trẻ chán ăn, ác cảm với thức ăn có điểm số phát triển tâm thần
(MDI) thấp hơn đáng kể so với trẻ bình thường, đặc biệt trẻ ác cảm với thức ăn có
điểm số MDI thấp hơn 14 điểm. Biếng ăn và các rối loạn về ăn uống ở độ tuổi nhỏ
thường kéo dài đến tuổi trưởng thành và là tiền đề của biếng ăn ở người lớn.
1.2.1.4. Rối loạn về nội tiết và chuyển hóa
Giảm tốc độ chuyển hóa của cơ thể, hạ thân nhiệt, tụt huyết áp, mất nước, rối
loạn thăng bằng điện giải, tóc thưa mảnh, giảm bạch cầu, loãng xương, gan nhiễm
mỡ….nếu tình trạng biếng ăn kéo dài dẫn đến suy kiệt trầm trọng [34],[35].
Theo Hütter (2009) [36], thiếu máu và giảm bạch cầu nhẹ được phát hiện
trong gần một phần ba của những bệnh nhân này, trong khi đó giảm tiểu cầu là khá



14

phổ biến. Cơ chế chính xác cho những phát hiện này vẫn chưa rõ ràng, nhưng 50%
bệnh nhân chán ăn tâm thần với những thay đổi về huyết học hiển thị dấu hiệu hình
thái của một phần tủy xương teo. Suy dinh dưỡng, thiếu vi chất dinh dưỡng là một
trong những yếu tố nguy cơ làm suy giảm miễn dịch và tăng nguy cơ nhiễm khuẩn.
Các yếu tố này tác động trở lại làm cho trẻ càng chán ăn và tạo ra vòng luẩn quẩn.
1.2.2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ biếng ăn
1.2.2.1. Số lượng thức ăn ăn vào ít hơn so với nhu cầu thực sự
Trẻ biểu hiện khó khăn trong việc điều chỉnh trạng thái, ảnh hưởng xấu đến
khả năng ăn uống một cách hiệu quả. Trẻ gặp khó khăn trong việc đạt được và duy
trì một trạng thái tỉnh táo bình ổn cần thiết cho việc ăn uống [37],[38]. Một số thì
quá kích thích, khóc quá mức và không thể giữ bình tĩnh trong lúc ăn. Số khác thì
buồn ngủ và không thể đánh thức hoặc không thức đủ lâu để ăn [39]
1.2.2.2. Kén chọn thức ăn, chỉ chấp nhận một số loại thức ăn
Trẻ phản ứng với vị thức ăn mới, hay thức ăn có độ mịn màng khác trước
bằng cách nhăn mặt, phun thức ăn hoặc nôn khan hay nôn ói. Trẻ từ chối khi nhìn thấy
thức ăn mà trẻ có ác cảm, nhất là những thức ăn mà đã từng kích thích trẻ nôn khan
hoặc nôn ói. Cha mẹ càng cố gắng ép trẻ ăn những loại thức ăn này, trẻ càng sợ hãi ăn
và càng lúc càng từ chối nhiều loại thức ăn hơn nữa. Trẻ sẽ khóc thét, chạy trốn khi
nhìn thấy thức ăn. Các trẻ này có thể từ chối đủ các loại thức ăn, thường gặp nhất là rau
củ, trái cây, thịt. Trong những trường hợp đỉnh điểm, trẻ từ chối ăn cả những thức ăn
trẻ thích nếu thức ăn tiếp xúc với thức ăn khác trên đĩa, nếu thức ăn không có nhiệt độ
hợp lý, hoặc nếu thức ăn đó không là nhãn hiệu mà trẻ thích [40],[39].
1.2.2.3. Dễ nôn, trớ, trào ngược khi ăn
Khởi đầu việc bỏ ăn thường khá đột ngột và xảy ra sau những chấn thương
vùng hầu họng, đường tiêu hóa, ví dụ như nôn khan, sặc, nôn ói, trào ngược dạ dày
- thực quản, đặt nội khí quản hoặc ống thông mũi – dạ dày, hay trẻ bị ép ăn [41],

[30]. Trẻ dễ lo lắng hoặc nhạy cảm với đau hơn. Trẻ ăn chậm, không chịu nhai nuốt,
ngậm thức ăn. Trẻ sợ thức ăn mắc ở vùng hầu họng và làm trẻ sặc đến chết [37],
[42].


15

1.2.2.4. Hành vi bất thường liên quan đến bữa ăn
Trẻ dễ dàng bị phân tâm bởi những kích thích bên ngoài. Nếu có người tiến
vào phòng, nếu điện thoại reo, hoặc ngay cả khi đổi tư thế, trẻ sẽ ngừng ăn, nhìn
chung quanh và không muốn ăn nữa. Trẻ rất hiếu động, thích chơi đùa, trẻ có thể
ném thức ăn và dụng cụ ăn, thường xuyên tìm cách trèo khỏi ghế để chạy chơi. Trẻ
hầu như không thấy đói và không thích ăn [42],[43]. Ho, nôn ói, nổi giận, quăng đồ
đạc, đập phá, quăng ném thức ăn, trốn vào một góc, xua đuổi người cho ăn… Ngoài
bữa ăn trẻ không có các hành vi này.
1.3. TÌNH TRẠNG THIẾU VI CHẤT CỦA TRẺ BIẾNG ĂN
1.3.1. Tình trạng thiếu vi chất của trẻ biếng ăn trên thế giới và Việt Nam
Biếng ăn kéo dài là một nguyên nhân quan trọng gây ra suy dinh dưỡng và
chậm phát triển ở trẻ biếng ăn. Dù cho nguyên nhân gây biếng ăn là gì, thường sau
một thời gian sẽ dẫn đến biếng ăn do thiếu các vi chất dinh dưỡng đặc hiệu. Suy
dinh dưỡng, thiếu máu, trong đó thiếu kẽm là nguyên nhân đáng được lưu ý vì vai
trò sinh học đặc biệt của nó. Hiện nay thiếu kẽm được biết là một vấn đề sức khỏe
cộng đồng của

nhiều nước.

Theo International Zinc Nutrition Consultative Group (IZiNCG, Nhóm tư
vấn dinh dưỡng kẽm quốc tế) (2004), hiện nay 1/3 trẻ em trước tuổi đi học ở những
nước có thu nhập thấp bị suy dinh dưỡng thể còi cọc - một thể suy dinh dưỡng mà
nguyên nhân chắc chắn có liên quan đến thiếu kẽm.

Đối tượng có nguy cơ thiếu kẽm cao là trẻ em, đặc biệt là trẻ em trong giai
đoạn ăn bổ sung, trẻ suy dinh dưỡng giai đoạn hồi phục, trẻ vị thành niên, phụ
nữ mang thai, bà mẹ đang cho con bú và người già. Đây là những đối tượng có
nhu cầu kẽm cao nhưng khả năng đáp ứng kẽm từ khẩu phần ăn không đủ [44].
Ở các nước đang phát triển, thiếu kẽm đứng hàng thứ 5 trong số 10 yếu tố
nguy cơ cao nhất. Thiếu kẽm còn được xếp trên cả thiếu sắt và vitamin A.
Nếu tính tất cả các nước trên thế giới thì thiếu kẽm đứng hàng thứ 11 trong số
20 yếu tố nguy cơ dẫn đầu.


16

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho rằng 800.000 trường hợp chết trên thế
giới hàng năm là do thiếu kẽm và trên 28 triệu năm sống khoẻ mạnh đã bị mất.
Người ta ước tính rằng, thiếu kẽm ảnh hưởng tới 1/3 dân số thế giới nói chung và
tuỳ theo khu vực, nó ảnh hưởng tới từ 4% đến 73% quần thể. Nhìn chung, thiếu
kẽm chiếm khoảng 16% nguyên nhân của nhiễm trùng đường hô hấp dưới, 18% của
sốt rét, 10% của tiêu chảy [45].
Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Danh trên 132 trẻ từ 3-48 tháng có dấu hiệu
giảm tiêu thụ năng lượng, nhận thấy 53% số trẻ có hàm lượng kẽm huyết thanh
thấp, 48% trẻ có Hb thấp, 25,7% trẻ có cả Hb và kẽm huyết thanh cùng thấp [46].
Trong khoảng thời gian từ 1999 đến 2004, chương trình phòng chống suy
dinh dưỡng của Việt Nam đã đạt được nhiều thành công, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ
em dưới 5 tuổi giảm nhanh: thể thiếu cân giảm từ 36,7% (1999) xuống 26,6%
(2004); thể thấp còi giảm từ 38,7% (1999) xuống 30,7% (2004). Tuy vậy vẫn là cao
nếu lấy điểm ngưỡng tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi là 20 % để đánh giá nguy cơ
thiếu kẽm theo khuyến cáo của WHO /IZiNCG. Đặc biệt chỉ có 3 thành phố trong
toàn quốc là Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh có tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị
suy dinh dưỡng thấp còi dưới 20%. Rất nhiều địa phương tỷ lệ này còn rất cao: trên
30 %, thậm chí trên 40% [47], [45].

Như vậy, có thể nói thiếu kẽm hiện đang là một vấn đề sức khoẻ có ý nghĩa
cộng đồng ở Việt Nam với nguy cơ ở mức độ cao.
1.3.2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng thiếu vi chất của trẻ biếng ăn
1.3.2.1. Ảnh hưởng của thiếu kẽm tới sức khoẻ và bệnh tật trẻ em [44],[48], [499].
Thiếu dinh dưỡng: Chậm tăng trưởng, suy dinh dưỡng nhẹ và vừa, chậm tăng
trưởng chiều cao.
Rối loạn tiêu hóa và chuyển hóa: Trẻ có tình trạng suy giảm tiêu thụ năng
lượng như chán ăn hoặc giảm ăn, giảm bú, chậm tiêu, táo bón nhẹ; buồn nôn và nôn
kéo dài ở trẻ.
Rối loạn tâm - thần kinh: Rối loạn giấc ngủ (trằn trọc khó ngủ, mất ngủ),
thức giấc nhiều lần trong đêm, khóc đêm kéo dài. Suy nhược thần kinh (đau đầu,


17

thần kinh dễ bị kích thích, giảm trí nhớ…). Rối loạn cảm xúc (thờ ơ, lãnh đạm, trầm
cảm, thay đổi tính tình). Suy yếu hoạt động của não, mơ màng chậm chạp, hoang
tưởng, mất điều hòa lời nói, rối loạn vị giác và khứu giác, khuyết tật, bại não, chậm
phát triển tâm thần vận động...
Suy giảm khả năng miễn dịch: Nhiễm trùng tái diễn ở đường hô hấp (viêm
mũi họng, viêm phế quản tái đi tái lại, viêm đường tiêu hóa, viêm da, mụn bỏng,
mụn mủ, viêm niêm mạc)…
Tổn thương biểu mô: khô da, viêm da vùng mặt trước hai chi dưới, nám da,
bong da, dầy sừng và nứt gót da hai bên, viêm niêm mạc miệng, viêm lưỡi, vết
thương lâu lành, dị ứng. Loạn dưỡng móng, tóc giòn dễ gãy.
Tổn thương mắt: sợ ánh sáng, mất khả năng thích nghi với bóng tối, mù đêm,
quáng gà, khô mắt, loét giác mạc.
Thiếu kẽm nặng biểu hiện đặc trưng bởi các tổn thương điển hình: viêm da,
dầy sừng, sạm và bong da mặt ngoài hai cẳng chân (vẩy cá), hói, loạn dưỡng móng
(móng nhăn, có vệt trắng, chậm mọc), khô mắt. Viêm quanh hậu môn, âm hộ, tiêu

chảy. Tăng nhạy cảm đối với bệnh nhiễm trùng, gây ra nhiễm trùng tái diễn. Kích
thích thần kinh, rối loạn nhận thức, mắc chứng ngủ lịm, chậm phát triển tâm thần
vận động. Chậm phát triển giới tính, giảm năng tuyến sinh dục, ít tinh trùng, bệnh
bất lực. SDD nặng, chứng lùn.


18

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU – THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được tiến hành tại Khoa khám tư vấn dinh dưỡng số 2-Viện
Dinh Dưỡng, 91 Nguyễn Ngọc Vũ, Hà Nội.
Thời gian nghiên cứu : Từ tháng 6 năm 2015 đến tháng 6 năm 2016.
2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Trẻ em từ 6 tháng đến dưới 59 tháng tuổi đến khám tư vấn dinh dưỡng tại
Khoa khám tư vấn dinh dưỡng số 2 - Viện Dinh Dưỡng, 91 Nguyễn Ngọc Vũ, Hà
Nội năm 2015 được chẩn đoán biếng ăn.
2.2.1. Tiêu chuẩn loại trừ
- Trẻ biếng ăn do dị tật bẩm sinh đường tiêu hóa chưa được điều trị.
- Người đưa trẻ đến khám không phải là người chăm sóc trẻ trực tiếp hàng ngày.
- Người nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ trực tiếp hàng ngày có vấn đề về tâm thần
kinh, tâm lý, xã hội…. và các câu trả lời phỏng vấn có mâu thuẫn.
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả.
2.3.2. Cỡ mẫu – Cách chọn mẫu
2.3.2.1. Cỡ mẫu được tính toán cho nghiên cứu mô tả cắt ngang cho một tỷ lệ
theo công thức sau:
n=Z2(1-α/2)


p (1 − p )
d2

Trong đó :
n = cỡ mẫu cần thiết
p = 0,31 (tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ biếng ăn theo nghiên cứu của Lê Thị
Kim Dung (2013) ) [8]
Z1-α/2 = 1,96 là giá trị giới hạn của độ tin cậy với α =0,05 với độ tin cậy của
ước lượng khoảng là 95%.


×