Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Nghiên cứu tác động toàn cầu hóa đến môi trường văn hóa xã hội trong môi trường kinh doanh du lịch Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.05 KB, 55 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong đời sống con
người. Thậm chí đối với những người có thu nhập cao, nó là một nhu cầu không thể
thiếu. Về phương diện kinh tế, du lịch là một ngành công nghiệp không khói, có thể
giải quyết được một lượng lớn công ăn việc làm, đem lại thu nhập cho người lao động,
phân phối lại thu nhập quốc dân, ... về mặt xã hội, nó góp phần giao lưu văn hóa giữa
các vùng, các địa phương, các quốc gia ...
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tiềm năng du lịch. Ngoài những thắng cảnh
thiên nhiên kỳ thú, những giá trị nhân văn độc đáo, Việt Nam còn được khách du lịch
biết đến như một đất nước anh hùng qua các cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước oai
hùng của dân tộc. Đây có thể coi là một trong những điểm thu hút khách quốc tế cũng
như khách nội địa của du lịch Việt Nam.
Tuy nhiên, dưới sự ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa, môi trường kinh doanh
của tất cả các ngành nghề trong nền kinh tế nói chung và trong ngành kinh doanh du
lịch nói riêng biến động không ngừng và ngày càng phức tạp. Đứng trước tình hình đó,
hầu hết các doanh nghiệp đều tiến hành nghiên cứu những tác động của toàn cầu hóa
đến môi trường cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp để có thể kịp thời ứng phó,
đưa ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp mình tồn tại và ngày càng phát triển.
Trong đó, môi trường văn hóa – xã hội là cơ sở để tạo ra sản phẩm du lịch; hình
thành nên thói quen cư xử của khách hàng trên thị trường. Vì vậy, nó tác động khá
mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh du lịch.
Chính vì thế, nhóm chúng tôi đã chọn đề tài “Nghiên cứu tác động của toàn cầu
hóa đến môi trường văn hóa – xã hội trong môi trường kinh doanh du lịch Việt Nam”
để tìm hiểu cụ thể hơn về những thay đổi của môi trường văn hóa – xã hội dưới tác
động của toàn cầu hóa, cũng như sự ảnh hưởng của yếu tố này đến môi trường kinh
doanh du lịch, cụ thể là ở Việt Nam như thế nào và đưa ra một số giải pháp để cải thiện


2


tác động của toàn cầu hóa đến môi trường văn hóa – xã hội trong kinh doanh du lịch
Việt Nam.
Kết cấu bài được trình bài theo bố cục sau:
-

Chương 1: Nghiên cứu tác động của toàn cầu hóa đến môi trường văn hóa – xã

hội của du lịch.
-

Chương 2: Nghiên cứu tác động của toàn cầu hóa đến môi trường văn hóa – xã

hội của du lịch tại Việt Nam.
-

Chương 3: Một số giải pháp để cải thiện tác động toàn cầu hóa đến môi trường

văn hóa – xã hội trong kinh doanh du lịch Việt Nam.
Nhóm chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của GV. Nguyễn Chí
Tranh. Mặc dù rất nỗ lực để hoàn thành bài thuyết trình, nhưng chắc chắn khó tránh
khỏi thiếu sót, mong quý giảng viên và bạn đọc đóng góp ý kiến để chúng tôi hoàn
thiện bài hơn.


3

CHƯƠNG 1. NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA
ĐẾN MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA – XÃ HỘI CỦA DU LỊCH.
1.1. Tổng quan về môi trường văn hóa – xã hội:
1.1.1.Các khái niệm:

Môi trường văn hóa là nơi các cá thể người thể hiện phẩm chất người, nói cách
khác làphẩm chất văn hóa của mình, đến lượt mình,môi trường văn hóa lại là nơi con
người thực hiện quá trình nhập thân VH của mình, là nơi kiểm soát các hành vi của con
người.
Môi trường xã hội là môi trường mà con người là nhân tố trung tâm, tham gia và
chi phối môi trường. Môi trường xã hội bao gồm: chính trị, kinh tế, văn hoá, thể
thao, lịch sử, giáo dục... xoay quanh con người và con người lấy đó làm nguồn sống,
làm mục tiêu cho mình. Môi trường xã hội tốt thì các nhân tố cấu thành môi trường sẽ
bổ trợ cho nhau, con người sống sẽ được hưởng đầy đủ các quyền: sống, làm
việc, cống hiến, hưởng thụ. Mặt trái của môi trường xã hội là các tệ nạn xã hội.
Môi trường văn hóa - xã hội bao gồm những chuẩn mực, giá trị quan niệm, niềm
tin, truyền thống và các chuẩn mực hành vi ứng xử, giao tiếp được chấp nhận và tôn
trọng bởi một xã hội hoặc một nền văn hóa cụ thể. Sự thay đổi của các yếu tố VH - XH
một phần là hệ quả của sự tác động lâu dài của các yếu tố vĩ mô khác, do vậy nó
thường biến đổi chậm hơn so với các yếu tố khác.
1.1.2.Các thành tố của môi trường văn hóa – xã hội:
 Thứ nhất, dân số

Để sản xuất hay kinh doanh, các NQT cần phải sử dụng đến nguồn nhân lực, để
bán được hàng họ cần đến khách hàng. Để HĐCL phát triển của mỗi công ty, người ta
phải xuất phát từ cả hai yếu tố ảnh hường này. Nói một cách khác, dân số và mức gia
tăng dân số ở mỗi thị trường, ở mỗi quốc gia luôn luôn là lực lượng có ảnh hưởng rất


4
lớn đến tất cả mọi hoạt động về quản trị sản xuất và quản trị kinh doanh ở mỗi doanh
nghiệp.
Thông thường các NQT phải phân tích cơ cấu dân số trên cơ sở giới tính, tuổi
tác để phân khúc và xác định thị trường mục tiêu, phải xác định được nhu cầu thực tế
về sản phẩm hàng hoá của mình và dựa vào đó để quyết định kế hoạch sản xuất và tiêu

thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Sự dịch chuyển dân số từ vùng này sang vùng khác; từ địa phương này sang địa
phương khác cũng là những yếu tố tác động đến các hoạt động hoạch định về các chiến
lược và chính sách quản lý nguồn nhân lực, chiến lược thị trường và các chiến lược sản
xuất kinh doanh hỗ trợ khác trong vùng không gian kinh doanh hiện có. Chẳng hạn sự
di chuyển dân cư từ nông thôn ra thành thị nhanh đã làm bùng nổ các nhu cầu nhà ớ,
mở rộng đường xá, các hàng hóa tiêu dùng v.v… Chính những điều này đến lượt nó lại
buộc các nhà HĐCL và chính sách kinh doanh phải có những chủ trương và chính sách
kinh doanh cho phù hợp.
 Thứ hai, văn hóa

Văn hóa là một phạm trù phức tạp với nhiều định nghĩa khác nhau. Ở đây,
chúng ta xem VH như một hiện tượng tồn tại khách quan trong xã hội loài người. Mỗi
con người, mỗi nhà quản trị, mỗi tổ chức đều thuộc về một nền văn hóa cụ thể. Dưới
ảnh hưởng của mỗi nền VH, nhân cách, đạo đức, niềm tin, thái độ, hệ thống các giá
trị… ở mỗi người được hình thành và phát triển. Như vậy, VH quản trị nói chung và
phong cách cùng phương pháp quản trị ở mỗi doanh nghiệp nói riêng sẽ bị ảnh hưởng
trực tiếp bởi những nền văn hóa mà những NQT của họ thuộc về các nền văn hóa đó.
Qua nghiên cứu, người ta cũng thấy rằng, VH là một trong những yếu tố chủ yếu tác
động, chi phối hành vi ứng xứ của người tiêu dùng, chi phối hành vi mua hàng của
khách hàng. Thêm vào đó, tình cảm gia đình, sự hiểu biết xã hội, trình độ học vấn …
vẫn là điều xuất phát khi mua sắm hàng hóa – dịch vụ, nghĩa là chi phối việc soạn thảo
chiến lược và sách lược kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp cụ thể.


5
Trong mỗi nền văn hóa lại có các nhánh văn hóa.Ví dụ trong nền văn hóa của
người Việt Nam chúng ta thấy có nhánh văn hóa của người dân tộc thiểu số, nhánh văn
hóa của người miền Nam, nhánh VH của người miền Trung và nhánh VH của người
miền Bắc.v.v. Sự hiện diện của các nhánh văn hóa cũng có những ảnh hưởng khá sâu

sắc tới các hoạt động về quản trị trên cả ba phương diện nhà quản trị, đối tượng quản
trị và môi trường quản trị.
Thí dụ Việt Nam có 7 vùng (nhánh ) văn hóa và 25 tiểu vùng. Mỗi vùng có một
tập quán riêng, cảm nhận cái đẹp khác nhau, dẫn đến thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Đây
là một vấn đề cần lưu ý đối với các quản trị gia khi tuyển và sử dụng nhân viên cũng
như khi việc hoạch định và thực hiện các chính sách kinh doanh trong các vùng và tiểu
vùng văn hóa đó.
 Thứ ba, nghề nghíệp

Chuyên môn hóa và hợp tác hóa lao động xã hội là một qui luật tất yếu trong
quá trình phát triển của mỗi nước, mỗi khu vực và trên toàn thế giới. Ở nơi nào nền
kinh tế xã hội phát triển mạnh mẽ thì trình độ chuyên môn hóa lao động và hợp tác hóa
lao động càng cao và ngược lại. Điều này cũng có nghĩa là xã hội ngày càng phát triển
thì tính chuyên môn hóa và đa dạng hóa về nghề nghiệp ngày càng mạnh. Nghề nghiệp
khác nhau sẽ dẫn đến những đòi hỏi về phương tiện và công cụ lao động chuyên biệt
khác nhau Ngoài ra do ngành nghề khác nhau mà những nhu cầu tiêu dùng về ăn ở đi
lại vui chơi giải trí.v.v. cũng khác nhau. Để đáp ứng các nhu cầu khác nhau về nghề
nghiệp trong xã hội, các nhà quản trị ở mỗi doanh nghiệp phải tính đến toàn bộ những
ảnh hưởng của các yếu tố vừa nêu đến việc hoạch định và thực hiện các chiến lược và
sách lược kinh doanh của mình.

 Thứ tư, tâm lý dân tộc

Tình cảm quê hương, tình yêu đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí ngoan cường,
tính hiếu học, lòng nhân nghĩa vị tha… luôn luôn là những yếu tố tinh thần thuộc về


6
tâm lý dân tộc. Chúng có ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến cách suy nghĩ và hành động
của mỗi nhà quản trị cũng như của mỗi con người bị quản trị, mà nó còn có ảnh hưởng

sâu sắc đến phong cách tiêu dùng, ảnh hưởng đến sự hình thành các khúc thị trường
khác nhau và chính những điều này buộc các NQT phải cân nhắc, tính toán trong các
quyết định quản trị kinh doanh của mình.
Thí dụ nước ta có 54 dân tộc, qui mô dân số mỗi dân tộc khác nhau, quan điểm
tiêu dùng của mỗi dân tộc cũng khác nhau và nhu cầu tiêu dùng cũng có những điểm
khác nhau. Tất cả những yếu tố này đòi hỏi các DN phải soạn thảo các chiến lược sản
xuất kinh doanh khác nhau cho phù hợp với tâm lý, thị hiếu của các dân tộc anh em đó.
 Thứ năm, phong cách và lối sống

Xã hội là bức tranh muôn màu do các cá thể với các phong cách và lối sống
khác nhau tạo nên. Dẫu không có hai người cùng giống nhau tuyệt đối về một phong
cách hay lối sống, nhưng nhìn chung, ở bất cứ đâu, bất cứ thời điểm nào cũng tồn tại
những phong cách và lối sống tiêu biểu cho nơi đó hay thời điểm đó. Mỗi phong cách
và lối sống lại có những đặc trưng riêng của mình về cách mỗi cá thể suy nghĩ, hành
động và thể hiện ra thế giới bên ngoài. Chính điều này đến lượt nó lại chi phối rất
mạnh đến việc hình thành những nhu cầu về chủng loại, chất lượng, số lượng, hình
dáng, mẫu mã… của hàng hóa, dịch vụ đặc trưng cho các phong cách và lối sống đó.
Như vậy muốn kinh doanh có hiệu quả, các nhà quản trị không thể không điều
chỉnh các hoạt động của mình phong cách và lối sống của xã hội đương thời và xã hội
tương lai sắp đến.
Ví dụ phong cách sống của phụ nữ phương Tây khác phụ nữ Việt Nam đã dẫn
đến sự tiêu dùng hàng hóa dịch vụ khác nhau và điều này lại buộc các nhà quản trị phải
hoạch định và thực hiện các chiến lược về hàng hóa và dịch vụ khác nhau cho hai loại
đối tượng đó.
 Thứ sáu, hôn nhân và gia đình


7
Hôn nhân và gia đình trong cuộc sống của mỗi con người có một vị trí và vai trò
hết sức quan trọng. Hôn nhân và gia đình là qui luật tất yếu và muôn thuở của xã hội

loài người. Mỗi gia đình là một tế bào của xã hội và chính điều này nói lên sự gắn bó
chặt chẽ giữa các hoạt động quản trị và các NQT với hôn nhân và gia đình của mình.
Không thể có một nhà quản trị nào yên tâm làm việc, nếu gia đình nhà mình có vấn đề
bất ổn. Không có người nhân viên nào toàn tâm toàn ý để làm việc có hiệu quả nếu
cuộc sống trong gia đình của họ không được bảo đảm v.v… Tất cả những điều này nói
lên rằng, hôn nhân và gia đình có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng và
hiệu quả của mọi người, từ giám đốc cho đến một người công nhân lao động bình
thường trong mỗi DN.
Hôn nhân và gia đình không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các
NQT ở mỗi DN mà nó cũng còn có những ảnh hưởng rất sâu sắc tới việc hình thành
nhiều loại nhu cầu trong XH như: nhà ở, ti vi, máy giặt, giường tủ, bàn ghế v.v… và
các mặt hàng khác có liên quan đến các hộ gia đình. Các NQT khi vạch ra và tổ chức
thực hiện các chiến lược và sách lược kinh doanh càng không được phép bỏ qua tác
động của những yếu tố này trong các hoạt động của mình.
Thí dụ tỉ lệ hôn nhân gia tăng sẽ có ảnh hưởng đến nhu cầu về nhà ở. Qui mô
của các hộ gia đình có ảnh hưởng đến nhu cầu về kích cỡ của các loại tivi, dung tích
của các loại tủ lạnh v.v…
 Thứ bảy, tôn giáo

Tôn giáo ra đời từ rất sớm trong lịch sử phát triển của loài người. Ngày nay có
rất nhiều loại tôn giáo trên thế giới, tuy nhiên chỉ tính số lượng các tín đồ của ba loại
tôn giáo chủ yếu là: đạo Thiên chúa, đạo Phật và đạo Hồi thì chúng ta đã thấy một con
số rất khổng lồ. Mỗi tôn giáo đều có những quan niệm, niềm tin và thái độ riêng về
cuộc sống, về cách cư xử giữa các tín đồ với nhau và với mọi người. Tôn giáo có ảnh
hưởng rất lớn tới đạo đức, tư cách, văn hóa và lối sống của không chỉ chính bản thân
của các nhà quản trị mà cả tới những cán bộ công nhân viên dưới quyền quản lý của


8
họ. Các hoạt động lãnh đạo và điều hành của các nhà quản trị không thể không tính tới

ảnh hưởng của yếu tố tôn giáo trong nhận thức, ứng xử, chấp hành và thực thi các
quyết định của những người dưới quyền. Không chỉ có vậy chúng ta còn thấy rằng, tâm
lý của người tiêu dùng cũng không nằm ngoài những ảnh hưởng rất sâu sắc của tôn
giáo. Ngày rằm người dân theo đạo Phật ăn chay, tránh việc sát sinh và mua nhiều loại
đồ thơ cúng, người dân theo đạo Hồi kiêng ăn và sử dụng những thứ hàng hóa từ lợn
và thịt lợn, người dân theo đạo Thiên chúa mua sắm rất nhiều loại hàng hóa để tổ chức
ngày lễ Giáng sinh v.v…
Tất cả những điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc hoạch định và thực hiện các
chủ trương chính sách kinh doanh của các nhà quản trị. Những ai nhanh nhạy, hiểu biết
sâu sắc về tôn giáo thì đều có thể tìm ra những cơ hội trong các hoạt động quản trị kinh
doanh của mình.
1.1.3.Vai trò của môi trường văn hóa – xã hội trong kinh doanh du lịch.
 Thứ nhất, môi trường xã hội :
Trên toàn cầu, hiện nay, hằng năm có tới 800 triệu người đi du lịch. Con số này
sẽ hơn 1 tỉ vào năm 2010 và đạt 1,6 tỉ vào năm 2020. 60% dòng khách DL hiện nay là
có mục đích tìm hiểu nền văn hóa khác lạ. Cho nên sản phẩm quan trọng của du lịch là
du lịch văn hóa. Sức hấp dẫn du khách là bản sắc văn hóa, cách ứng xử văn hóa của
điểm đến và trình độ văn hóa của những nhà tổ chức du lịch chuyên nghiệp. Không có
sản phẩm du lịch nào không mang nội dung, không thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc.
Không một di sản thiên nhiên nào không mang dấu ấn di sản VH dân tộc.
Hoạt động DL liên quan trực tiếp phục vụ con người, đó là những người có thời
gian nhàn rỗi, có tiền, có nguyện vọng và sở thích để tìm hiểu, mở mang nhận thức
nhằm tái hồi sức khoẻ và cân bằng lại về tâm sinh lý. C.Mark đã từng định nghĩa: “ Xã
hội là tổng hòa các mối quan hệ giữa con người và con người”. Chính vì vậy, hoạt
động DL muốn phát triển tốt phải giải quyết hài hoà các mối quan hệ này.


9
Điểm cốt lõi của hoạt động du lịch đó chính là điểm hoặc địa phương đón tiếp
và phục vụ khách du lịch đến tham quan và nghỉ dưỡng. Tại đây, một xã hội thu nhỏ

với những quan hệ giữa những con người có nhận thức khác nhau, có trình độ nghề
nghiệp khác nhau, có phong tục tập quán, tính cách và thói quen, nếp sống khác
nhau..v.v, làm sao những vấn đề khác nhau này được tổng hợp lại vì mục tiêu chung là
phát triển du lịch bền vững.
Để phát triển du lịch bền vững, chúng ta không chỉ quan tâm đến môi trường tự
nhiên mà cần đặc biệt quan tâm đến môi trường xã hội. Mọi việc xấu - tốt , tích cực và
tiêu cực đều do con người quyết định. Khi ý thức xã hội của con người được nâng cao
thì môi trường xã hội sẽ tốt đẹp, điều này hoàn toàn đúng khi cộng đồng dân cư tại các
điểm du lịch nhận thức rõ vai trò và lợi ích của du lịch đối với cuộc sống của họ.
 Thứ hai, môi trường văn hóa :
Bản sắc văn hoá của một quốc gia, một địa phương là nền tảng cho việc tạo ra
những sản phẩm biểu trưng có sức hấp dẫn đối với khách du lịch. Rõ ràng không thể
tạo nên những sản phẩm du lịch biểu trưng của Việt Nam bằng việc sao chép, vay
mượn từ hình mẫu các sản phẩm du lịch của Băngcốc, Bắc Kinh hay Malayxia mà phải
từ những giá trị VH đặc trưng của Việt Nam. Bởi lẽ, VH là nền tảng của XH, thể hiện
tầm cao và chiều sâu của sự phát triển dân tộc.Việc tạo những sản phẩm du lịch có tính
biểu trưng cho nền VH quốc gia có một vai trò quan trọng trong việc xác định hình ảnh
của quốc gia đó và của ngành DL.
Văn hoá là nguồn tài nguyên độc đáo của du lịch, là nguồn nguyên liệu để hình
thành lên hoạt động du lịch. Nguồn nguyên liệu văn hoá có hai loại cơ bản:
 VH vật thể là những sáng tạo của con người tồn tại, hiện hữu trong không gian
mà có thể cảm nhận bằng thị giác, xúc giác, chẳng hạn những di tích lịch sử văn hoá,
những mặt hàng thủ công, các công cụ trong sinh hạt, sản xuất, các món ăn dân tộc…
 VH phi vật thể như lễ hội, các loại hình nghệ thuật, cách ứng xử, giao tiếp…
Theo quan niệm của ngành du lịch, người ta xếp các thành tố văn hoá vào tài nguyên


10
nhân văn (đối lập với tài nguyên tự nhiên như biển, sông hồ, núi rừng, hang động…)
cụ thể là: Các di tích lịch sử - văn hoá; hàng lưu niệm mang tính đặc thù dân tộc; ẩm

thực; lễ hội; các trò chơi giải trí; phong tục, tập quán, cách ứng xử, giao tiếp; tín
ngưỡng, tôn giáo; văn học - nghệ thuật.
Vì vậy mà VH là điều kiện và môi trường để cho du lịch phát sinh và phát triển.
Cùng với tài nguyên tự nhiên, tài nguyên VH là một trong những điều kiện đặc trưng
cho việc phát triển DL của một quốc gia, một vùng, một địa phương. Giá trị của những
di sản VH: di tích lịch sử, các công trình kiến trúc, các hình thức nghệ thuật, các tập
quán, lễ hội, ngành nghề truyền thống… cùng với các thành tựu kinh tế, chính trị, xã
hội, các cơ sở văn hoá nghệ thuật, các bảo tàng… là những đối tượng cho du khách
khám phá, thưởng thức, cho du lịch khai thác và sử dụng. Sự khai thác và thu lợi nhuận
từ tài nguyên, việc xây dựng các khu điểm DL đều phản ánh trí tuệ và sức sáng tạo của
loài người. Chính những tài nguyên này không chỉ tạo ra môi trường và điều kiện cho
du lịch phát sinh và phát triển mà còn quyết định quy mô, thể loại, chất lượng và hiệu
quả của hoạt động DL của một quốc gia, một vùng, một địa phương.
1.2. Tác động của toàn cầu hóa đến môi trường văn hóa-xã hội trong kinh doanh
du lịch.
Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan không thể đảo ngược được. Thế giới
càng ngày càng trở lên nhỏ bé và mong manh. Chiến tranh, ô nhiễm môi trường, khai
thác cạn kiệt nguồn tài nguyên, biến đổi khí hậu, chủ nghĩa khủng bố và tội phạm có tổ
chức,… tất cả những vấn đề ấy diễn ra trong phạm vi toàn cầu, không một nước nào có
thể đứng ngoài để tự mình giải quyết được. DL là ngành hoạt động đặc biệt nhạy cảm
với các vấn đề trên. Toàn cầu hóa du lịch đem đến những lợi ích to lớn: quốc gia nào
gia nhập quá trình này thì sẽ trở nên thịnh vượng và văn minh, quốc gia nào quay lưng
lại với nó thì nghèo đói và lạc hậu.
DL làm cho các tệ nạn mại dâm, tội phạm và cờ bạc gia tăng. Nạn nghiện hút,
mại dâm, trộm cướp không phải do du lịch đẻ ra, trước khi du lịch phát triển nó đã tồn


11
tại với các mức độ khác nhau, nhưng không ai phủ nhận rằng hoạt động du lịch làm
cho tệ nạn mại dâm gia tăng đáng kể. Ngày nay không phải đã hết các du khách có nhu

cầu tìm của lạ nơi đến du lịch. Vẫn còn đó những kẻ cò mồi, muốn làm giàu bằng cách
bóc lột trên thân xác phụ nữ. Vì vậy du lịch là môi trường tốt để kẻ ham hưởng lạc và
kẻ trục lợi gặp nhau. Ví dụ: Công nghệ tình dục ở Thái Lan, dẫn đến có rất nhiều “du
khách tình dục” phương Tây đổ vào khu vực Châu Á- Thái Bình Dương…
Ngoài ra, tình hình trấn lột, trộm cướp của khách DL ngày càng gia tăng do hầu
hết các đối tượng phạm tội đều cho rằng khi đi du lịch là lúc du khách mang theo nhiều
tài sản có giá trị.
DL có thể làm thay đổi hành vi tiêu dùng của người dân mỗi quốc gia. Đồng
thời, tính đa dạng VH đang bị ảnh hưởng khi cộng đồng địa phương có những điều
chỉnh văn hóa bản địa riêng của mình để đáp ứng thị hiếu theo nhu cầu của khách và
điều này còn thường dẫn tới sự điểu chỉnh về tinh thần "phục vụ".
DL có tác động vừa khuyến khích vừa kìm hãm các loại hình nghệ thuật cổ
truyền của mỗi quốc gia. Trong một số trường hợp, nghệ thuật này được phục chế để
bán cho du khách, làm cho nền văn hóa bị giả mạo. DL cũng có một phần làm “đình trệ
VH”.


12

CHƯƠNG 2. NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA
ĐẾN MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA – XÃ HỘI TRONG KINH
DOANH DU LỊCH TẠI VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về môi trường văn hóa – xã hội Việt Nam
2.1.1.Các khái niệm
Trên cơ sở nghiên cứu và chứng kiến sự phát triển của đời sống văn hóa - xã hội
đất nước những năm gần đây, chúng tôi xin cố gắng gợi mở một cái nhìn tổng thể về
môi trường VH – XH ở nước ta hiện nay. Ở bình diện chung nhất, chúng tôi cho rằng,
trong bối cảnh toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, chưa bao giờ môi
trường văn hóa ở Việt Nam lại phong phú, phức tạp và có nhiều tiềm ẩn như hiện nay.
Đó là hệ thống những hiện tượng và quan hệ VH - XH đa dạng, đa chiều và năng

động, đủ để nuôi dưỡng mọi ý tưởng tốt đẹp, khích lệ mọi lợi thế trong phát kiến, sáng
tạo, nhưng cũng đủ thách thức và cám dỗ khiến cho bất cứ cá nhân, gia đình, cộng
đồng nào cũng cũng phải cảnh giác trước nguy cơ lạc lối hoặc sai lầm.
2.1.2 Các thành tố của môi trường văn hóa – xã hội Việt Nam
 Thứ nhất, dân số
Quy mô dân số: Theo Tổng cục thống kê, dân số Việt Nam đến 1/4/2013 ước
tính là 89,5 triệu người (tăng 952.131 người so với 1/4/2012). Vào tháng 11/2013 dân
số Việt Nam đã đạt 90 triệu người, là nước đông dân thứ 3 ở ASEAN (sau Inđônêxia
và Philippin) và thứ 8 trong khu vực châu Á và 13 trên thế giới.
Đây là tiềm năng to lớn về nguồn lực con người để phát triển kinh tế - xã hội đất
nước. Dân số thành thị của Việt Nam là 28,9 triệu người, chiếm 32,3%; dân số nông
thôn là 60,6 triệu người, chiếm 67,7%. Với 20,4 triệu người, ĐB sông Hồng là vùng có
quy mô dân số lớn nhất, chiếm 22,8%, tiếp đến là Bắc Trung Bộ và DH miền Trung
(19,3 triệu người) chiếm 21,5%, Tây Nguyên là vùng có số dân ít nhất (5,5 triệu người)
chỉ chiếm 6,1% dân số cả nước.


13
Bảng 2.1. Quy mô dân số chia theo giới tính, thành thị/ nông thôn và vùng
kinh tế – xã hội, 01/ 04/ 2013.
(Đơn vị tính: Người)
Vùng kinh tế – xã

Tổng sô

Nam

89479014

44263618 45215396 28859282


60619732

11483630

5723897

9525006

20399235

10098830 10300405 6336606

14062629

19265831

9539077

9726754

5101441

14164390

Tây Nguyên

5455477

2792593


2662884

1569890

3885587

Đông Nam Bộ

15433635

7446031

7987604

9455011

5978624

ĐB sông Cửu Long

17441233

866319

8778043

4437737

13003496


hội
Toàn quốc
Trung du và miền
núi Bắc Bộ
ĐB sông Hồng
Bắc Trung Bộ và
DH Miền Trung



5759706

Thành thị

1958597

Nông thôn

(Nguồn: Tổng cục Thống kê. Điều tra biến động DS-KHHGĐ 2013)
Tỷ lệ tăng dân số. Thời kỳ 1999-2009, tỷ lệ tăng dân số bình quân năm là
1,2%/năm, giảm 0,5%/năm so với 10 năm trước và là tỷ lệ tăng thấp nhất trong 50 năm
qua. Thời kỳ 2011-2013, tốc độ gia tăng dân số bình quân năm tuy đã giảm nhưng vẫn
ở mức cao là 1,05%. Với quy mô dân số lớn, đà tăng dân số cao, dân số nước ta sẽ còn
tiếp tục tăng đến giữa thế kỷ XXI với hơn 100 triệu người và sẽ vào nhóm 10 nước có
dân số lớn thứ nhất thế giới. Sau 10 năm, tỷ suất sinh đã giảm mạnh từ 2,3 con xuống
dưới mức sinh thay thế (2 con/phụ nữ). Tỷ lệ tăng dân số ở Đông Nam Bộ là cao nhất
với 3,2%/năm. Tây Nguyên là vùng có tỷ lệ nhập cư rất cao, dân số tăng nhanh với tỷ
lệ bình quân 2,3%/năm. Dân số ở thành thị chiếm khoảng 32,3% tổng dân số cả nước,
tăng bình quân 3,4%/năm.



14
Tỷ số giới tính khi sinh. Tỷ số giới tính khi sinh ở mức gần 114 bé trai/100 bé
gái năm 2013 so với năm 1999 là 107 bé trai/100 bé gái. Điều này cho thấy một xu
hướng gia tăng Tỷ số giới tính khi sinh ở nước ta. Sự gia tăng bất thường về tỷ số giới
tính khi sinh của Việt Nam trong những năm gần đây đang là mối quan tâm hàng đầu
của các nhà lập chính sách, các cơ quan truyền thông đại chúng, và các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước. Mất cân bằng giới tính khi sinh dẫn đến tình trạng thừa nam thiếu
nữ trong tương lai, không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống của cá nhân, gia đình, dòng tộc
mà còn ảnh hưởng tiêu cực đối với dân tộc và sự phát triển bền vững của đất nước.
Việc lựa chọn giới tính trước sinh phản ánh tình trạng bất bình đẳng giới sâu sắc. Các
nghiên cứu của quốc tế và Việt Nam cũng đã chỉ ra các hệ lụy trong tương lai của tình
trạng mất cân bằng giới tính hiện nay. Trước thực trạng đáng ngại nêu trên, chính phủ
Việt Nam rất quan tâm đến vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh. Lựa chọn giới tính
trước sinh là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh. Đây
là một hành vi phạm pháp theo quy định của Pháp lệnh Dân số.
Tuổi thọ bình quân chung. Theo kết quả điều tra năm 2013, tuổi thọ trung bình
của nam giới là 70,5 tuổi, của nữ giới là 75,8 tuổi. Tuổi thọ trung bình chung của cả hai
giới là 73,1 tuổi so với năm 2009 là 72,8 tuổi. Tuổi thọ cao và tăng thể hiện chất lượng
cuộc sống của người dân đang được nâng cao. Cơ cấu dân số Việt Nam đang ở giai
đoạn cơ cấu dân số vàng tức là có nhiều người trong tuổi lao động. Đó là tiềm năng to
lớn về nguồn lực lao động để phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Phân bố dân số. Với mật độ dân số 270 người/km2 vào năm 2013, Việt Nam là
một trong những nước có mật độ dân số cao trong khu vực cũng như trên thế giới. Mật
độ dân số Việt Nam đứng thứ 40 trên thế giới, đứng thứ 16 ở Châu Á và đứng thứ ba ở
khu vực Đông Nam Á, chỉ sau Singapore (7.971 người/km2) và Philippines (321
người/km2). Theo Liên Hợp Quốc, để cuộc sống thuận lợi, bình quân trên 1 km2 chỉ
nên có từ 35-40 người. Như vậy, ở Việt Nam mật độ dân số gấp hơn 6 lần mức trên.
Mật độ dân số Việt Nam không đều ở các vùng: tập trung đông ở khu vực đồng

bằng và thưa thớt hơn ở khu vực miền núi. Mật độ dân số của vùng Đồng bằng sông


15
Hồng cao nhất nước, đạt 968 người/km2, tiếp theo là vùng Đông Nam Bộ, với mật độ
654 người/km2. Hai vùng này tập trung tới 40% dân số cả nước nhưng chỉ chiếm
13,5% diện tích lãnh thổ. Tây Nguyên là vùng có mật độ dân số thấp nhất cả nước (100
người/km2). Sự phân bố không đồng đều chủ yếu là do trình độ phát triển khác nhau
giữa các vùng. ĐB sông Hồng và Đông Nam Bộ là hai vùng kinh tế phát triển nhất, tập
trung nhiều khu công nghiệp lớn, và thu hút hàng nghìn lao động từ các vùng khác đến,
dẫn đến mật độ dân số cao. Ngược lại, hai vùng Trung du và miền núi phía Bắc và Tây
Nguyên là hai khu vực miền núi, kinh tế kém phát triển nên mật độ dân số thấp.
Tỷ trọng dân số thành thị, nông thôn. Tỷ trọng dân số thành thị, nông thôn là
một trong những chỉ tiêu quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Năm 2013, dân
số thành thị là 28,9 triệu người, chiếm 32,3%; dân số nông thôn là 60,6 triệu người,
chiếm 67,7%. Dân số thành thị có xu hướng tăng nhanh và tập trung nhiều nhất ở Thủ
đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các thành phố trực thuộc trung ương... Việc phát
triển đô thị ngoài việc xây dựng hạ tầng cơ sở, phải kèm theo việc xây dựng mạng lưới
an sinh xã hội, lối sống văn hóa đô thị, chăm sóc đến con người…
Chất lượng dân số Việt Nam: Chỉ số phát triển con người (HDI) là một chỉ tiêu
tổng thông qua các tiêu chí thu thập bình quân đầu người, trình độ văn hóa, tuổi thọ
bình quân của người dân. Việt Nam xếp hạng thứ 121 trong 187 quốc gia và lãnh thổ
về sự phát triển con người - thứ hạng này được đánh giá ở mức trung bình trên thế giới.
Chỉ số HDI của Việt Nam đang giảm chậm từ khoảng 1,7% trước năm 2000 xuống còn
khoảng 0,96% trong những năm gần đây (UNDP, 2013). Tỷ lệ này thấp so với nhiều
nước khu vực và thế giới. Đây là một thách thức to lớn đối với sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
Chất lượng dân số về thể chất của người Việt Nam còn thấp. Hiện nay, có 1,5%
dân số Việt Nam bị thiểu năng về thể lực và trí tuệ. Trong đó, số trẻ mới sinh bị dị tật
bẩm sinh do di truyền khoảng 1,5-3%. Số lượng người bị tàn tật, khuyết tật trong cả

nước khoảng 5,3 triệu người (chiếm 6,3% dân số)[1]. Trong khi đó, hàng năm vẫn
chưa ngăn chặn được tình trạng gia tăng số người mới bị tàn tật, khuyết tật do tai nạn


16
giao thông, tai nạn lao động…Vấn đề này ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh xã hội, y
tế. Tầm vóc, thể lực cân nặng, sức bền của người Việt Nam đã có nhiều bước tiến lớn
tuy nhiên so với nhiều nước trong khu vực còn hạn chế. Thanh niên Việt Nam đa số
thấp, nhẹ cân và yếu về thể lực.

 Thứ hai. văn hóa
Văn hóa Việt Nam được hiểu và trình bày dưới các quan niệm khác nhau:
 Quan niệm thứ nhất: đó là đồng nhất văn hóa Việt Nam với VH của người Việt,
trình bày lịch sử VH Việt Nam chỉ như là lịch sử văn minh của người Việt.
 Quan niệm thứ hai: VH Việt Nam là toàn bộ văn hóa các dân tộc Việt Nam cư
trú trên mảnh đất Việt Nam, chỉ có văn hóa từng tộc người, không có VH dân tộc/ quốc
gia.
 Quan niệm thứ ba: Văn hóa Việt Nam là cộng đồng văn hóa dân tộc/ quốc gia,
đây là nền VH dân tộc thống nhất trên cơ sở đa dạng sắc thái văn hóa tộc người.
Khái niệm dân tộc/ quốc gia chỉ một quốc gia có chủ quyền, trong đó phần lớn
công dân gắn bó với nhau bởi những yếu tố tạo nên một dân tộc. Quan niệm thứ ba này
hiện nay đang là quan niệm chiếm số đông bởi các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý
trong lĩnh vực văn hóa Việt Nam, vì vậy nội dung về VH Việt Nam sẽ được trình bày
theo quan niệm thứ ba, văn hóa Việt Nam theo hướng VH dân tộc
Văn hóa Việt Nam dưới quan niệm là văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa
sắc thái văn hóa tộc người được thể hiện ở ba đặc trưng chính:
Đặc trưng thứ nhất: Việt Nam có một nền văn hóa phong phú và đa dạng trên
tất cả các khía cạnh, người Việt cùng cộng đồng 54 dân tộc có những phong tục đúng
đắn, tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ hội nhiều ý nghĩa sinh hoạt cộng đồng, những niềm
tin bền vững trong tín ngưỡng, sự khoan dung trong tư tưởng giáo lý khác nhau của tôn



17
giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ trong giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ, từ truyền thống đến
hiện đại của văn học, nghệ thuật.
Đặc trưng thứ hai: Sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân bố dân
tộc, dân cư đã tạo ra những vùng văn hoá có những nét đặc trưng riêng tại Việt Nam.
Từ cái nôi của văn hóa Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng của người Việt chủ đạo với
nền văn hóa Kinh Kỳ, văn hóa làng xã và văn minh lúa nước, đến những sắc thái văn
hóa các dân tộc miền núi tại Tây bắc và Đông bắc. Từ các vùng đất biên viễn của Việt
Nam thời dựng nước ở Bắc Trung bộ đến sự pha trộn với văn hóa Chăm Pa của người
Chăm ởNam Trung Bộ. Từ những vùng đất mới ở Nam Bộ với sự kết hợp văn hóa các
tộc người Hoa, người Khmer đến sự đa dạng trong văn hóa và tộc người ở Tây
Nguyên.
Đặc trưng thứ ba: Với một lịch sử có từ hàng nghìn năm của người Việt cùng
với những hội tụ về sau của các dân tộc khác, từ văn hóa bản địa của người Việt cổ từ
thời Hồng Bàng đến những ảnh hưởng từ bên ngoài trong hàng nghìn năm nay. Với
những ảnh hưởng từ xa xưa của Trung Quốc và Đông Nam Á đến những ảnh hưởng
của Pháp từ thế kỷ 19, phương Tây trong thế kỷ 20 và toàn cầu hóa từ thế kỷ 21. Việt
Nam đã có những thay đổi về văn hóa theo các thời kỳ lịch sử, có những khía cạnh mất
đi nhưng cũng có những khía cạnh văn hóa khác bổ sung vào nền văn hóa Việt Nam
hiện đại.
Một số yếu tố thường được coi là đặc trưng của văn hóa Việt Nam khi nhìn
nhận từ bên ngoài bao gồm tôn kính tổ tiên, tôn trọng các giá trị cộng đồng và gia đình,
thủ công mỹ nghệ, lao động cần cù và hiếu học. Phương Tây cũng cho rằng những biểu
tượng quan trọng trong văn hóa Việt Nam bao gồm rồng, rùa, hoa sen và tre.
Như vậy, có thể nói văn hoá là nguồn tài nguyên độc đáo của DL. Nếu muốn
phát triển du lịch cần phải có một môi trường du lịch tốt (bao gồm cả môi trường tự
nhiên và môi trường nhân văn - hai yếu tố này không tách rời)



18
Đặc biêt, ở Việt Nam lại có những lợi thế so sánh trong phát triển DL đến với
các vùng dân tộc ít người. Lợi thế đó được thể hiện trong sự bảo lưu những nét sơ khai
của văn hoá các dân tộc, trong lối sống, tập tục, trong thói quen canh tác hay trong kiến
trúc, trang phục, trong sinh hoạt văn hoá nghệ thuật và nghề thủ công truyền thống.
Đặc biệt những nét văn hoá đó lại được hoà quện với không gian sinh thái tự nhiên
tuyệt đẹp, trong lành có sức cuốn hút du khách. Ngoài ra, nét hấp dẫn của các nền văn
hoá các dân tộc ít người Việt Nam chính là đa dạng trong sự thống nhất của nền văn
hoá dân tộc. Như vậy, đầu tư để phát triển loại hình DL tới các vùng dân tộc thiểu số
chính là tạo nên một loại hình du lịch văn hoá độc đáo, đặc sắc của Việt Nam.
Quốc gia nào cũng có hệ thống các đô thị nhưng khi khách đến thủ đô Hà Nội
chắc chắn sẽ thấy thích thú, thậm chí bất ngờ, khi đến đây, đến với đô thị, lại gặp
những “làng” cổ truyền dân dã. Đặc biệt nữa, là những nghề vừa hiếm lạ lại vừa lâu đời
cổ kính với “công nghệ” và “quy trình công nghệ” cùng những sản phẩm đặc biệt của
nó - chính là sức mạnh và sức hút quý báu cho du lịch/du khách.
Các sản phẩm về thổ cẩm của phụ nữ các dân tộc miền núi đã làm cho khách du
lịch phải thán phục. Mỗi họa tiết trên váy áo là cả một công trình nghệ thuật được thêu
dệt trên trang phục. Giờ đây, hàng thổ cẩm của đồng bào Mông, Thái, Dao… Sa Pa,
Bắc Hà, Si Ma Cai, Mường Khương… đã trở thành quà lưu niệm quen thuộc của khách
du lịch trong nước cũng như người nước ngoài khi đến đây. Để có được một sản vật
hoàn mỹ như vậy là sự kết tinh của những bàn tay tài hoa, khéo léo; sự lao động miệt
mài và khổ công được những người ông, bà, mẹ truyền dạy từ bao đời tiếp nối!
Trong lĩnh vực kiến trúc, những ngôi nhà mái chảy chất lợp ngói nung hoặc gỗ ván,
dựa theo sườn núi vẫn thu hút được sự quan tâm của du khách.
Bản sắc VH của một quốc gia, một địa phương là nền tảng cho việc tạo ra
những sản phẩm biểu trưng có sức hấp dẫn đối với khách DL. Rõ ràng không thể tạo
nên những sản phẩm du lịch biểu trưng của Việt Nam bằng việc sao chép, vay mượn từ
hình mẫu các sản phẩm du lịch của Băng Cốc, Bắc Kinh hay Malayxia mà phải từ



19
những giá trị VH đặc trưng của Việt Nam. Bởi lẽ VH là nền tảng của XH, thể hiện tầm
cao và chiều sâu của sự phát triển dân tộc.Việc tạo những sản phẩm du lịch có tính biểu
trưng cho nền văn hoá quốc gia có một vai trò quan trọng trong việc xác định hình ảnh
của quốc gia đó và của ngành DL.
Sức hấp dẫn du khách là bản sắc văn hóa, cách ứng xử văn hóa của điểm đến
và trình độ văn hóa của những nhà tổ chức du lịch chuyên nghiệp. Không có sản
phẩm du lịch nào không mang nội dung, không thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc.
Không một di sản thiên nhiên nào không mang dấu ấn di sản văn hóa dân tộc. Ngay
việc bảo tồn, giữ gìn, trân trọng thiên nhiên đến độ cả nhân loại suy tôn một địa danh
là di sản thiên nhiên thế giới cũng đã là một sự suy tôn giá trị văn hóa, cách ứng xử
văn hóa đối với thiên nhiên của một dân tộc.

Biểu đồ 2.1. Tốc dộ tăng trưởng khách quốc tế theo tháng trong năm 2015 so với
cùng kỳ năm 2014
(Đvt: %)


20

Biểu đồ 2.2. Lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong những năm qua
(Đvt: người)

Theo số liệu của Tổng cục thống kê, cả nước năm 2012 đã đón tiếp hơn 6,6 triệu
lượt khách quốc tế, tăng 9,5% so với năm 2011. Đây là con số lớn nhất từ trước đến
nay củaViệt Nam. Nhờ vậy, tổng thu từ hoạt động DL năm 2012 đạt 160.000 tỷ đồng,
tăng trên 23% so với năm trước.
Biểu đồ 2.3. Mục đích khách quốc tế khi đến Việt Nam



21

Khách quốc tế tìm đến Việt Nam với mục đích chủ yếu là đi du lịch. Ngoài ra
còn có một số mục đích khác như đi công tác, thăm thân nhân,…
Biểu đồ 2.4. Uớc tính lượng khách du lịch đến việt nam

Trung Quốc vẫn là quốc gia số 1 về lượng người đến Việt Nam trong năm 2012.
Tuy nhiên, nếu so sánh với năm 2011, lượng khách Trung Quốc gần như không tăng
thêm. Quốc gia có lượng khách đến Việt Nam tăng đột biến trong năm qua đó là Hàn
Quốc (tăng 30%). Hàn Quốc cũng là quốc gia xếp vị trí thứ hai trong số những quốc


22
gia có đông người đến Việt Nam nhất. Một quốc gia khác cũng có lượng khách tăng
đột biến đó là Liên Bang Nga với số khách đến Việt Nam đã tăng tới 70% trong năm
2012. Ngoài ra, một số thị trường trọng điểm như Anh, Pháp lại có chiều hướng giảm.
 Thứ ba, nghề nghíệp
 Những thách thức
Đối mặt với khó khăn do sự không đồng đều chất lượng:
Ở bối cảnhtoàn cầu hóa ngành du lịch Việt Nam đã phải vất vả cạnh tranh với các
điểm đến trên toàn cầu trong việc thu hút du khách. Các điểm đến du lịch như ở:
Malaysia, Thái Lan, Singapore, Indonesia… được đầu tư nhiều kinh phí, nhân viên có
tay nghề lao động với trình độ chuyên môn cao, luôn đổi mới về sản phẩm và nâng cao
thương hiệu du lịch. Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn do sự không đồng đều
về chất lượng nguồn nhân lực du lịch, chất lượng dịch vụ du lịch, năng lực kinh doanh
du lịch, “Nếu không chuẩn bị tốt, khai thác tốt thì doanh nghiệp Việt Nam không chỉ
mất thị trường khách du lịch trong khu vực mà thị trường khách nội địa cũng khó giữ
vững”.
Năng suất lao động thấp và tay nghề kém:

Chất lượng lao động là yếu tố quyết định sự thành bại trong cạnh tranh quốc tế
nói chung và cạnh tranh du lịch nói riêng. Thời gian gần đây, Việt Nam gặp nhiều bất
lợi trong cạnh tranh du lịch do lao động du lịch Việt Nam có chất lượng thấp. Việc
nâng cao tay nghề lao động du lịch Việt Nam đang là đòi hỏi cấp thiết. Chất lượng lao
động chỉ có thể được nâng cao thông qua chương trình giáo dục, đào tạo có chủ trương
đúng đắn, nhất quán, trong đó đào tạo nghề du lịch là một cấu thành quan trọng. Chính
vì vậy, đào tạo dạy nghề, bồi dưỡng du lịch cần phải phát triển nhanh cả về qui mô lẫn
chất lượng.
Mất khách do hạn chế về tầm nhìn quản lý du lịch:


23
Cán bộ hạn chế tầm nhìn, thiếu kỹ năng điều hành và quản lý du lịch dẫn đến việc
triển khai chưa hiệu quả trong hoạt động du lịch. Tình trạng mất vệ sinh, mất an ninh
trật tự tại các điểm du lịch vẫn thường xuyên xảy ra. Việc ô nhiễm do quá tải, do khai
thác quá mức tài nguyên du lịch hoặc sử dụng sai mục đích, bị tàn phá dẫn đến tiêu cực
bành trướng ở một số địa phương đã làm môi trường du lịch bị ảnh hưởng nghiêm
trọng. Điều hành, quản lý tại điểm du lịch chưa được coi trọng, còn bất cập. Hiện
tượng xây dựng thủy điện tràn lan tại các địa phương cũng tác động không nhỏ đến
phát triển du lịch.
Thách thức của việc toàn cầu hóa và yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế:
Năng lực cạnh tranh Việt Nam bị tụt hạng, năng suất lao động thấp so với khu
vực và thế giới, điều đó đã làm nền kinh tế Việt Nam bỏ lỡ không ít lợi thế cạnh tranh
trong hội nhập quốc tế. Xúc tiến quảng bá du lịch và xây dựng sản phẩm du lịch còn
đơn điệu chưa có sắc thái riêng. Sản phẩm du lịch Việt Nam chậm đổi mới, thiếu đặc
sắc, ít sáng tạo và còn trùng lặp giữa các vùng miền. Giá trị gia tăng trong sản phẩm du
lịch thấp, thiếu đồng bộ và thiếu liên kết trong phát triển sản phẩm. Đầu tư du lịch từ
chính phủ còn khiêm tốn, chưa tạo được hiệu ứng kích cầu du lịch Việt Nam tại các thị
trường mục tiêu.
Tự do di chuyển lao động – thế cạnh tranh mới trong toàn cầu hóa:

Tự do di chuyển lao động trong toàn cầu hóa cũng là một thách thức đáng suy
nghĩ. Đối với các chính phủ, phải chú trọng tự do di chuyển lao động, bảo đảm sự cam
kết và thỏa thuận về thương mại quốc tế, khuyến khích trao đổi điển hình tốt và chia sẻ
thông tin giữa các đối tác. Điều này có thể dẫn tới chi phí giảm; sức cạnh tranh gia
tăng; khả năng xâm nhập thị trường cao và dòng chảy thương mại đòi hỏi tự do
hơn. Tất cả nhằm giải quyết sự mất cân bằng cung và cầu về việc làm du lịch trong
nước và thiết lập cơ chế cho sự tự do dịch chuyển lao động du lịch lành nghề, được
chứng nhận trong toàn cầu hóa.
 Những cơ hội


24
Tiềm năng, cơ hội việc làm cho người lao động sẽ nhiều hơn
Bảng2.2. Dự báo chỉ tiêu phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2011 -2030
(Đvt: lượt)
Các chỉ tiêu

2010

Khách quốc tế

5.049.855 7.500.000

10.500.000 14.000.000 18.000.000

Khách nội địa

28.000.000 37.000.000

45.500.000 58.000.000 71.000.000


4,8

10,3

18,5

26,6

35,2

6,0

7,0

7,3

7,5

620.000

870.000

1.050.000 1.400.000

2.958.000

3.570.000 4.760.000

Tổng thu từ du lịch

(tỷ USD)

2015

2020

2025

2030

Tỷ trọng tổng thu du
lịch trong tổng GDP5,8
toàn quốc %
Lao động trực tiếp
trong ngành du lịch

478.065

Lao động du lịch và
liên quan (trực tiếp1.625.421 2.108.000
và gián tiếp)
(Nguồn: Viện NCPT Du lịch)

Toàn cầu hóa giúp cho việc hợp tác giáo dục đào tạo là lĩnh vực còn nhiều trao
đổi, cải thiện vì trình độ giáo dục đại học giữa các quốc gia còn chênh lệch và việc
công nhận tín chỉ giữa các trường đại học có thể được xem xét công nhận lẫn nhau, tạo
điều kiện tìm được việc làm ngoài phạm vi nước mình với mức lương hợp lý, hấp dẫn
hơn.
Cơ hội hội nhập sâu rộng



25
Hội nhập toàn cầu hóa là xu thế tất yếu. Xu thế này sẽ tạo ra thị trường lao động
toàn cầu, công dân toàn cầu và thanh niên toàn cầu. Để thanh niên tự tin hội nhập toàn
cầu hóa, bên cạnh các hoạt động hỗ trợ từ các đơn vị tổ chức, từng cá nhân sinh viên
phải không ngừng tự học, rèn luyện, tự tu dưỡng, tự chịu trách nhiệm để trang bị cho
mình kỹ năng, kỹ luật, có tác phong của lao động chất lượng cao.
 Thứ tư, tâm lý dân tộc
Ở Việt Nam có tới 80% dân số làm nông nghiệp. Người nông dân sống phụ
thuộc vào thiên nhiên rất nhiều. Chính vì thế, người nông dân dễ trở nên rụt rè, thụ
động nhưng họ đã tích luỹ được những kinh nghiệm hết sức phong phú trong sản xuất.
Đó là hệ thống tri thức thu được bằng con đường kinh nghiệm chủ quan, cảm tính.
Trong quan hệ ứng xử giữa con người với nhau từ gia đình đến làng xóm đều
theo nguyên tắc trọng tình (duy tình). Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau là một
môi trường thuận lợi để người nông dân tạo ra một cuộc sống hoà thuận trên cơ sở lấy
tình nghĩa làm đầu: Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình (tục ngữ). Lối sống trọng
tình cảm sẽ tất yếu đẩy cái "lý" (luật pháp) xuống hàng thứ hai.
Lối sống trọng tình đã dẫn đến cách ứng xử hết sức linh hoạt và thích ứng nhanh
với điều kiện hoàn cảnh cụ thể: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài, Đi với bụt mặc áo cà sa/
Đi với ma mặc áo giấy (tục ngữ). Với nhu cầu sống hòa thuận trên cơ sở cái gốc là tình
cảm giữa con người với nhau trong làng xóm càng làm cho lối sống linh hoạt trở nên
đậm nét và chính là cơ sở tâm lý hiếu hòa trong các mối quan hệ xã hội dựa trên sự tôn
trọng và cư xử bình đẳng với nhau. Do vậy, người nông dân hết sức coi trọng tập thể,
cộng đồng, làm việc gì cũng phải tính đến tập thể. Lối sống linh hoạt, trọng tình, dân
chủ là những đặc điểm tích cực, nhưng mặt trái của nó là đặc điểm tâm lý áp đặt, tuỳ
tiện, tâm lý "hòa cả làng", coi thường phép nước (pháp luật): "Phép vua thua lệ làng",
"Đưa nhau đến trước cửa quan, bên ngoài là lý bên trong là tình”.
Cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên. Do vậy, người nông dân phải
dựa vào nhau để chống chọi lại với thiên tai. Hơn nữa, nền nông nghiệp lúa nước lại



×