BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI
LÊ THU HIỀN
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG KÊ ĐƠN
THUỐC NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN
ĐA KHOA THÀNH PHỐ THÁI BÌNH
NĂM 2015
LUẬN VĂN DƢỢC SĨ CHUYÊN KHOA CẤP I
HÀ NỘI 2016
BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC DƢỢC HÀ NỘI
LÊ THU HIỀN
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG KÊ ĐƠN THUỐC
NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA
THÀNH PHỐ THÁI BÌNH NĂM 2015
LUẬN VĂN DƢỢC SĨ CHUYÊN KHOA CẤP I
CHUYÊN NGÀNH : TỔ CHỨC QUẢN LÝ DƢỢC
MÃ SỐ
: 60 72 04 12 CK
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học :
PGS.TS. Nguyễn Thị Song Hà
HÀ NỘI 2016
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp Dƣợc sỹ chuyên khoa cấp I tôi đã đƣợc
Ban Giám hiệu nhà trƣờng và các thầy cô giáo trƣờng Đại học Dƣợc Hà Nội đã
tận tình giảng dạy và giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Trƣớc hết, với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi xin trân trọng gửi tới
PGS.TS Nguyễn Thị Song Hà - Trƣởng Phòng Sau đại học Trƣờng Đại học
Dƣợc Hà Nội, Ngƣời thầy kính mến đã tận tình chỉ bảo tôi trong suốt thời gian
học tập và thực hiện đề tài. Cảm ơn Cô vì ngoài những kiến thức chuyên môn
quý báu mà Cô còn tạo điều kiện, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới toàn thể các Thầy giáo, Cô giáo Bộ
môn Quản lý và Kinh tế Dƣợc, Phòng Sau đại học trƣờng Đại học Dƣợc Hà Nội
đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban Giám hiệu, các thầy, cô
giáo trƣờng Đại học Dƣợc Hà Nội đã tận tình dạy dỗ, giúp đỡ tôi trong quá trình
học tập.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn tới Ban Giám đốc, khoa dƣợc Bệnh viện
Đa khoa Thành phố Thái Bình đã tạo điều kiện, cung cấp số liệu và đóng góp ý
kiến cho tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn cha mẹ, gia đình, những ngƣời bạn
thân, đồng nghiệp luôn luôn động viên khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập
và hoàn thành luận văn này.
Hà nội, ngày 12 tháng 01năm 2016
Ds Lê Thu Hiền
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.........................................................................
DANH MỤC BẢNG .........................................................................................
DANH MỤC HÌNH ..........................................................................................
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................... 1
CHƢƠNG I. TỔNG QUAN ............................................................................. 3
1.1. ĐƠN THUỐC VÀ TÌNH HÌNH KÊ ĐƠN, SỬ DỤNG THUỐC ............. 3
1.1.1. Đơn thuốc ................................................................................................ 3
1.1.2. Tình hình kê đơn và sử dụng thuốc trên thế giới .................................... 3
1.1.3. Nội dung của một đơn thuốc ................................................................... 4
1.1.4. Quy định về ghi đơn thuốc ...................................................................... 5
1.1.5. Các chỉ số đo lƣờng sử dụng thuốc ......................................................... 6
1.2. THỰC TRẠNG KÊ ĐƠN THUỐC TRÊN THẾ GIỚI TRONG NHỮNG
NĂM GẦN ĐÂY .............................................................................................. 6
1.3. THỰC TRẠNG KÊ ĐƠN TẠI VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN
ĐÂY ................................................................................................................... 9
1.3.1 Việc thực hiện ghi đúng - đủ về thủ tục hành chính cho bệnh nhân
ngoại trú quy chế kê đơn ................................................................................... 10
1.3.2 Thực hiện chỉ định thuốc trong kê đơn điều trị ngoại trú ........................ 11
1.4. KHÁI QUÁT VỀ BỆNH VIỆN ĐA KHOA THÀNH PHỐ THÁI BÌNH .......... 17
1.4.1 Cơ cấu tổ chức .......................................................................................... 17
1.4.2. Sơ đồ tổ chức bệnh viện .......................................................................... 18
1.4.3. Khoa Dƣợc Bệnh viện Đa khoa thành phố Thái Bình ............................ 18
CHƢƠNG II. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............... 20
2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU ................................................................... 20
2.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............................................................. 20
2.3. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU ........................................................................ 21
2.4. CỠ MẪU VÀ MẪU NGHIÊN CỨU ........................................................ 22
2.4.1. Cỡ mẫu nghiên cứu ................................................................................. 22
2.4.2. Cách lấy mẫu ........................................................................................... 22
2.5. PHƢƠNG PHÁP THU THẬP SỐ LIỆU ................................................... 23
2.6. PHÂN TÍCH VÀ XỬ LÝ SỐ LIỆU ......................................................... 23
CHƢƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...................................................... 27
3.1. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN GHI THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG KÊ
ĐƠN NGOẠI TRÚ TẠI BVĐK THÀNH PHỐ THÁI BÌNH NĂM 2015........... 27
3.1.1. Nhóm thông tin chung ............................................................................. 27
3.1.2. Nhóm thông tin về bệnh nhân ................................................................. 28
3.1.3. Thông tin về cơ sở KCB và kê đơn ......................................................... 30
3.1.4. Hƣớng dẫn sử dụng thuốc trong đơn....................................................... 32
3.2. THỰC TRẠNG VIỆC GHI CHỈ SỐ SỬ DỤNG THUỐC TRONG KÊ ĐƠN
NGOẠI TRÚ TẠI BVĐK THÀNH PHỐ THÁI BÌNH NĂM 2015 ................... ..33
3.2.1. Các chỉ số kê đơn .................................................................................... 33
3.2.2. Các chỉ số sử dụng thuốc toàn diện ........................................................ 43
CHƢƠNG IV: BÀN LUẬN............................................................................ ..47
4.1. Thực trạng thực hiện quy chế kê đơn về thủ tục hành chính cho bệnh
nhân ngoại trú tại BVĐK Thành phố Thái Bình ............................................. ..47
4.1.1. Ghi thông tin bệnh nhân và chuẩn đoán bệnh, ngày kê đơn ................... 47
4.1.2. Thông tin về cơ sở KCB và kê đơn ........................................................ 49
4.1.3. Ghi hƣớng dẫn sử dụng thuốc trong đơn ................................................ 49
4.2. Thực trạng việc ghi chỉ số sử dụng thuốc trong kê đơn ngoại trú tại
BVĐK Thành phố Thái Bình. ........................................................................... 50
4.2.1. Các chỉ số kê đơn .................................................................................... 50
4.2.2. Các chỉ số sử dụng thuốc toàn diện ......................................................... 54
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ........................................................................... 56
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 56
KIẾN NGHỊ ..................................................................................................... 57
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
Tiếng Việt
ADR
BHYT
BN
BSKB
BV
BVĐK
BYT
CXK
CT
DLS
DMT
DMTCY
DMTTY
DSĐH
DSTH
DSSĐH
GN
HDSD
KBHYT
KCB
KS
HTT
IMS
QCKĐ
TB
TCY
TPCN
TTHC
TTY
TW
VNĐ
UBND
WHO
Advers Drug Reaction (phản ứng có hại của thuốc)
Bảo hiểm Y tế
Bệnh nhân
Bác sỹ khám bệnh
Bệnh viện
Bệnh viện Đa khoa
Bộ Y tế
Cơ xƣơng khớp
Công thức
Dƣợc lâm sàng
Danh mục thuốc
Danh mục thuốc chủ yếu
Danh mục thuốc thiết yếu
Dƣợc sỹ Đại học
Trung học dƣợc
Dƣợc Sỹ sau đại học
Gây nghiện
Hƣớng dẫn sử dụng
Không bảo hiểm Y tế
Khám chữa bệnh
Kháng sinh
Hƣớng tâm thần
Information Medical Services
Quy chế kê đơn
Trung bình
Thuốc chủ yếu
Thực phẩm chức năng
Thủ tục hành chính
Thuốc thiết yếu
Trung ƣơng
Việt Nam đồng
Ủy ban nhân dân
World Health Organization (tổ chức Y tế Thế giới)
DANH MỤC BẢNG
Tên bảng
STT
Trang
2.1
Các biến số nghiên cứu
24
3.1
Tỷ lệ đơn thuốc tuân thủ nguyên tắc chung khi kê đơn
27
3.2
Tỷ lệ đơn thuốc ghi đúng đủ thông tin TTHC của bệnh nhân
28
3.3
Tỷ lệ đơn thuốc ghi đúng đủ thông tin về BSK và kê đơn
30
3.4
Các chỉ số hƣớng dẫn sử dụng thuốc trong đơn khảo sát
32
3.5
Dữ liệu chung về thuốc đƣợc kê trong một đơn thuốc
33
3.6
Các thông số về tình hình kê đơn thuốc kháng sinh
36
3.7
Thông số đánh giá về thuốc tiêm đƣợc kê trong đơn điều trị
37
3.8
Thông số về sử dụng vitamin và TPCN trong kê đơn
39
3.9
Thông số về kê đơn TTY và TCY trong khảo sát
41
3.10
Số ngày điều trị và chi phí cho kê đơn thuốc
43
3.11
Tƣơng tác thuốc và can thiệp tƣơng tác có trong đơn
45
DANH MỤC HÌNH
STT
Tên hình
Trang
1.1
Mô hình tổ chức BVĐK thành phố Thái Bình
18
2.1
Thiết kế nghiên cứu
24
3.1
Biểu đồ tỷ lệ đơn thuốc ghi TTHC đúng, đủ và chính xác
29
3.2
Biểu đồ tỷ lệ đơn thuốc ghi đúng đủ thông tin cơ sở KCB
30
3.3
Minh họa mẫu đơn bất cập trong ghi TTHC và HDSD thuốc
31
3.4
Biểu đồ tỷ lệ các chỉ số hƣớng dẫn sử dụng thuốc trong NC
32
3.5
Biểu đồ tỷ lệ đơn có thuốc gốc và tỷ lệ thuốc gốc trong hệ
thống KCB
34
3.6
Biểu đồ tỷ lệ thuốc đƣợc kê bằng tên gốc trong đơn khảo sát
34
3.7
Mẫu đơn bất cập trong ghi tên thuốc gốc
35
3.8
Biểu đồ tỷ lệ đơn thuốc có kháng sinh trong khảo sát
37
3.9
Biểu đồ lƣợng thuốc tiêm đƣợc kê trong điều trị
38
3.10
Biểu đồ tỷ lệ TPCN đƣợc kê trong đơn khảo sát chung
39
3.11
Mẫu đơn có duy nhất một thuốc là TPCN
40
3.12
Biểu đồ lƣợng TTY và TCY đƣợc kê trong đơn khảo sát
42
3.13
Minh họa mẫu đơn còn dùng thuốc không thuộc danh mục
TTY
43
3.14
Biểu đồ số ngày điều trị trung bình trong khảo sát
44
3.15
Biểu đồ tỷ lệ các tƣơng tác xảy ra có và chƣa có can thiệp
46
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khỏe là vốn quý nhất của con ngƣời, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe
nhân dân là bổn phận của chính ngƣời dân, của gia đình và xã hội, đồng thời là
trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, Chính quyền và các cơ quan Mặt trận tổ quốc,
là chƣơng trình hành động mang tính cấp thiết của mỗi Quốc gia, trong đó ngành
Y tế đóng vai trò chủ chốt.
Thuốc đƣợc xem nhƣ là phƣơng tiện cơ bản và có tính chất quyết định
trong việc bảo vệ và điều trị hữu hiệu nhiều bệnh tật, cải thiện tốt hơn việc chăm
sóc và nâng cao sức khỏe ngƣời dân. Vì vậy, kê đơn và sử dụng thuốc an toàn hợp lý là một vấn đề hết sức cần thiết và đƣợc đặt lên hàng đầu trong công tác Y
tế hiện nay.
Trong những năm qua ngành Dƣợc luôn đƣợc đổi mới, nhiều công nghệ
mới đã đƣợc ứng dụng, để tạo ra các sản phẩm thuốc có chất lƣợng, có hiệu quả
trong điều trị. Bƣớc đầu, các sản phẩm của ngành Dƣợc đã đáp ứng đƣợc nhu
cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Tuy nhiên về mặt trái, do số lƣợng và
chủng loại thuốc ngày càng phong phú nên việc quản lý sử dụng thuốc ngày
càng trở thành vấn đề bức xúc của xã hội. Việc sử dụng thuốc tràn lan không có
kiểm soát, sử dụng thuốc không đúng, không hợp lý, ngày càng gây ra nhiều hậu
quả tai hại trƣớc mắt cũng nhƣ lâu dài cho ngƣời bệnh. Bên cạnh đó, khía cạnh
tiêu cực của nền kinh tế thị trƣờng cũng tác động rất lớn đến việc kê đơn của bác
sỹ. Việc kê đơn thuốc không đúng quy chế, kê quá nhiều thuốc trong một đơn,
kê đơn với nhiều biệt dƣợc, lạm dụng kháng sinh, vitamin, thuốc tiêm, kê đơn
không phải thuốc thiết yếu mà là kê thuốc có tính thƣơng mại cao, đang có nguy
cơ phát triển và khó kiểm soát tại nhiều cơ sở điều trị. Việc kê đơn không đúng,
dẫn đến việc điều trị không hiệu quả và không an toàn, bệnh không khỏi hoặc
kéo dài, làm cho bệnh nhân lo lắng, chƣa kể đến chi phí điều trị cao [25]. Vì vậy
việc kê đơn, sử dụng thuốc an toàn, hợp lý cần phải hiểu nhƣ là cách dùng thuốc
1
thích hợp với yêu cầu điều trị, liều lƣợng thích hợp với cá thể bệnh nhân, thời
gian điều trị đúng quy định và giá cả phù hợp với cộng đồng.
Theo báo cáo của Phó tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam tính đến
hết tháng 10/2014 độ bao phủ BHYT đạt 70,3%. Tuy nhiên mới chỉ có 50% lao
động phi chính thức, 70% ngƣời cận nghèo và 30% hộ gia đình tham gia bảo
hiểm. Vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ ngƣời dân không tham gia bảo hiểm. Vấn đề
đặt ra là với ngƣời có thẻ bảo hiểm và ngƣời không có thẻ bảo hiểm khi đi khám
chữa bệnh thì có sự khác biệt gì trong việc kê đơn không, việc kê đơn thuốc cho
bệnh nhân ngoại trú, hiện nay đã thực hiện đúng theo quy chế kê đơn thuốc
trong điều trị ngoại trú chƣa? Để trả lời hai câu hỏi trên chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài “ Phân tích thực trạng kê đơn thuốc ngoại trú tại bệnh
viện Đa khoa Thành phố Thái Bình” với 2 mục tiêu sau:
1. Phân tích thực trạng việc thực hiện quy chế kê đơn về thủ tục hành
chính cho bệnh nhân điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa Thành phố Thái
Bình năm 2015.
2. Phân tích thực trạng việc chỉ định thuốc trong kê đơn ngoại trú cho
bệnh nhân tại Bệnh viện Đa Khoa Thành Phố năm 2015.
2
CHƢƠNG I. TỔNG QUAN
1.1. KÊ ĐƠN THUỐC VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ
1.1.1. Đơn thuốc
Khái niệm về đơn thuốc
Đơn thuốc là một “văn bản” chuyên môn mang tính chất pháp lý của
ngƣời Thầy thuốc, từ đó quy định chế độ điều trị, ăn uống, sinh hoạt cho ngƣời
bệnh và quy định chế độ pha chế, cấp phát, bán thuốc cho cán bộ dƣợc [3].
1.1.2. Kê đơn thuốc
Kê đơn thuốc là hoạt động của Bác sỹ xác định xem ngƣời bệnh cần dùng
những thuốc gì, liều dùng cùng với liệu trình điều trị phù hợp. Luật khám chữa
bệnh có hiệu lực từ ngày 01/01/2011 quy định: khi kê đơn thuốc, ngƣời thầy
thuốc phải ghi đầy đủ, rõ ràng vào đơn thuốc thông tin về thuốc, hàm lƣợng, liều
dùng, cách dùng và thời gian dùng thuốc. Việc kê đơn thuốc phải phù hợp với
chuẩn đoán bệnh, tình trạng bệnh của ngƣời bệnh. Kê đơn tốt phải đảm bảo sự
cân bằng giữa các yếu tố hợp lý, an toàn, hiệu quả, kinh tế và tôn trọng sự lựa
chọn của bệnh nhân [30]. Trên thế giới, WHO và Hội y khoa các nƣớc đã ban
hành và áp dụng “ Hƣớng dẫn kê đơn tốt”. Để thực hành kê đơn thuốc tốt, ngƣời
thầy thuốc cần phải tuân thủ quá trình thực hiện kê đơn, điều trị hợp lý gồm 6
bƣớc :
• Bƣớc 1: Xác định vấn đề bệnh lý của bệnh nhân
• Bƣớc 2: Xác định mục tiêu điều trị, muốn đạt đƣợc gì sau điều trị?
• Bƣớc 3: Xác định tính phù hợp của phƣơng pháp điều trị riêng cho bệnh nhân,
kiểm tra tính hiệu quả và an toàn
• Bƣớc 4: Bắt đầu điều trị
• Bƣớc 5: Cung cấp thông tin, hƣớng dẫn và cảnh báo
• Bƣớc 6: Theo dõi (và dừng) điều trị.
3
Kê đơn hợp lý thông qua việc kê những thuốc hiệu quả an toàn cho bệnh
nhân, không những giúp cải thiện chất lƣợng chăm sóc sức khỏe bệnh nhân tại
các cơ sở y tế mà còn góp phần giảm chi phí điều trị.
Trái lại, nếu kê đơn không hợp lý sẽ dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng.
Kê đơn không hợp lý là việc kê đơn và dùng thuốc không đúng với chỉ định của
bệnh hay trong những tình huống không cần thiết. Một ví dụ cho trƣờng hợp này
là việc bệnh nhân đƣợc sử dụng thuốc tiêm hay các thuốc mới đắt tiền, trong khi
các dạng thuốc đƣờng uống hoặc các loại thuốc thông thƣờng vẫn còn hiệu quả.
Việc kê đơn không tuân thủ các phác đồ hƣớng dẫn lâm sàng. Điển hình
cho tình huống này là việc kê đơn sử dụng kháng sinh với liều thấp, không đủ
liệu trình hay sử dụng kháng sinh cho các bệnh nhân không có dấu hiệu nhiễm
khuẩn, điều này góp phần làm tăng nguy cơ kháng thuốc.
Kê đơn thuốc không hợp lý dẫn đến hậu quả không mong muốn cả về
kinh tế lẫn sức khỏe:
» Làm giảm hiệu quả điều trị của thuốc dẫn đến kéo dài thời gian điều trị,
tăng tỷ lệ bệnh tật và tăng nguy cơ tử vong.
» Khó kiểm soát các tác dụng không mong muốn, các phản ứng phụ và
khả năng tƣơng tác giữa các thuốc dẫn đến mất an toàn trong quá trình sử dụng,
ảnh hƣởng đến sức khỏe và tính mạng của ngƣời bệnh.
» Sử dụng thuốc không hợp lý làm gia tăng tình trạng kháng thuốc, nhất là
đối với thuốc kháng sinh.
Tất cả các hậu quả nói trên, ngoài ảnh hƣởng về mặt sức khỏe đều dẫn
đến việc lãng phí nguồn lực vốn đã hạn hẹp dành cho công tác chăm sóc sức
khỏe nhân dân [26].
1.1.3. Nội dung của một đơn thuốc
Theo khuyến cáo của WHO, một đơn thuốc đầy đủ bao gồm các nội dung
sau :
4
» Tên, tuổi và địa chỉ của bệnh nhân (bệnh nhi dƣới 6 tuổi phải ghi bằng
số tháng và ghi thêm tên bố, mẹ)
» Ngày, tháng kê đơn
» Chữ ký của ngƣời kê đơn
» Tên, địa chỉ, số điện thoại của ngƣời kê đơn
» Tên gốc của thuốc, hàm lƣợng thuốc
» Dạng thuốc, tổng số thuốc
» Nhãn bao thuốc: hƣớng dẫn, cảnh báo…
1.1.4 Quy định về ghi đơn thuốc
Để tăng cƣờng sự an toàn, hiệu quả và hợp lý trong công tác kê đơn tại
các Bệnh viện trên cả nƣớc, Bộ y tế đã ban hành “ Quy chế kê đơn thuốc trong
điều trị ngoại trú” kèm theo Quyết định số 04/2008/QĐ-BYT ngày 01 tháng 02
năm 2008 của Bộ trƣởng Bộ y tế [3]. Điều 7 của Quy chế kê đơn thuốc trong
điều trị ngoại trú quy định:
(1) Kê đơn thuốc vào mẫu đơn, mẫu số quy định kèm theo Quy chế này
(2) Ghi đủ các mục in trong đơn: chữ viết rõ ràng, dễ đọc, chính xác
(3) Địa chỉ ngƣời bệnh phải ghi chính xác tới số nhà, đƣờng phố hoặc
thôn xã…
(4) Với trẻ dƣới 72 tháng tuổi: ghi số tháng tuổi và ghi tên bố hoặc mẹ
(5) Viết tên thuốc theo tên chung quốc tế (INN, generic name) hoặc nếu
ghi tên biệt dƣợc phải ghi tên chung quốc tế trong ngoặc đơn (trừ trƣờng hợp
thuốc có nhiều hoạt chất).
(6) Ghi tên thuốc, hàm lƣợng, số lƣợng, liều dùng và cách dùng của mỗi
thuốc
(7) Số lƣợng thuốc gây nghiện phải viết bằng chữ, chữ đầu viết hoa
(8) Số lƣợng thuốc hƣớng tâm thần và tiền chất dùng làm thuốc viết thêm
số 0 phía trƣớc nếu số lƣợng chỉ có một chữ số
5
(9) Nếu có sửa chữa đơn phải ký, ghi rõ họ tên, ngày bên cạnh
(10) Gạch chéo phần đơn còn giấy trắng. Ký, ghi (hoặc đóng dấu) họ tên
ngƣời kê đơn.
1.1.5. Các chỉ số đo lƣờng sử dụng thuốc
Để đánh giá việc sử dụng thuốc, WHO/INRUD đã đƣa ra các chỉ số sử
dụng thuốc cho cơ sở y tế ban đầu
Các chỉ số kê đơn
» Số thuốc kê trung bình trong một đơn
» Tỷ lệ phần trăm thuốc đƣợc kê tên gốc (generic) hoặc tên chung quốc tế
(INN)
» Tỷ lệ phần trăm đơn kê có kháng sinh
» Tỷ lệ phần trăm đơn kê có thuốc tiêm
» Tỷ lệ phần trăm đơn kê có vitamin
» Tỷ lệ phần trăm thuốc đƣợc kê đơn có trong danh mục thuốc thiết yếu
do Bộ y tế ban hành.
1.2. THỰC TRẠNG KÊ ĐƠN THUỐC TRÊN THẾ GIỚI TRONG
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Trong những năm gần đây, nhu cầu thuốc trên thị trƣờng thế giới có sự
gia tăng mạnh mẽ do sự phát triển của dân số thế giới và sự gia tăng tuổi thọ,
nhu cầu dùng thuốc nhiều, dùng các loại thuốc có tỷ trọng chất xám cao, nên
thƣờng rất đắt. Trong việc sử dụng thuốc tồn tại hai vấn đề lớn, đó là sự tiêu thụ
thuốc chƣa đồng đều giữa các nƣớc phát triển và đang phát triển [23]. Tại Goa
(Ấn Độ) khi tiến hành nghiên cứu ngƣời ta nhận thấy: Với 990 đơn thuốc khảo
sát, thì có tới hơn một phần ba, trong tổng số đơn thuốc, thông tin xác định bác
sỹ điều trị là không rõ ràng. Hơn một nửa các đơn thuốc, không ghi đầy đủ các
thông tin về bệnh nhân (tình trạng bệnh, địa chỉ, tên tuổi...) Theo một nghiên
cứu đánh giá, việc kê đơn thuốc tại bệnh viện Dessie Referral ở Dessie,
Ethiopia: với 362 đơn thuốc khảo sát, số thuốc trung bình trên một đơn thuốc là
6
1,8, phù hợp với tiêu chuẩn của WHO (1,6-1,8). Tỷ lệ % thuốc nằm trong danh
mục thuốc thiết yếu của quốc gia (DEL) là 91,7% thấp hơn so với giá trị lý
tƣởng của WHO là 100%. Tỷ lệ % thuốc đƣợc kê theo generic là 93,9%, thấp
hơn so với giá trị tiêu chuẩn của WHO là 100%. Tỷ lệ % đơn có kê kháng sinh
là 52,8%, cao hơn so với giá trị khuyến cáo của WHO (20,0% - 26,8%). Tỷ lệ %
đơn thuốc có kê vitamin là 31% cao hơn so với giá trị khuyến cáo của WHO
(13,4- 24,1%). Các kháng sinh đƣợc kê đơn nhiều nhất là Amoxicillin (22,2%)
và Ampicillin (21,3%). Qua các chỉ số nghiên cứu cho thấy có độ chênh lệch lớn
giữa thực hành với khuyến cáo của WHO. Vì vậy, sự cần thiết phải có một
chƣơng trình giáo dục y tế để hợp lý việc kê đơn [27].
Thị trƣờng dƣợc phẩm các nƣớc khối ASEAN có một số đặc điểm chung
là thuốc generic chiếm thị phần bình quân khoảng 40%, trong đó Singapore thấp
nhất là 9%, Việt Nam cao nhất 70%, theo đánh giá của IMS. Có thể thấy rằng
trong các nƣớc ASEAN, thuốc generic chiếm một tỷ trọng đáng kể. Thuốc
generic là một thị trƣờng tiềm năng, đồng thời là một giải pháp lựa chọn, để
ngƣời dân các nƣớc đang phát triển có khả năng tiếp cận với thuốc thiết yếu theo
chính sách của Tổ chức Y tế Thế giới WHO [22].
Ở nhiều nƣớc đang phát triển, ngƣời ta đã thống kê số thuốc đƣợc bán ra
cao hơn rất nhiều so với số lƣợng bệnh tật cần điều trị. Kết quả phân tích cho
thấy, có khoảng 45% bệnh nhân trên toàn cầu có sử dụng kháng sinh khi ốm
đau, đặc biệt tỷ lệ này lên tới trên 70% ở một số nƣớc nhƣ Indonesia, Ấn Độ,
Pakistan. Nghiên cứu về việc kê đơn tại một bệnh viện thực hành ở Thái Lan
Udomthavomusuk cho thấy, có tới 52,3% dùng kháng sinh không đúng và
không cần thiết. Việc sử dụng kháng sinh dự phòng ngoại khoa cũng có tỷ lệ
không hợp lý cao (79,7%) [26]. Tình trạng kê đơn quá nhiều thuốc, lạm dụng
kháng sinh, thuốc tiêm, vitamin đƣợc nhắc đến ở rất nhiều nghiên cứu khác
nhau. Để khắc phục tình trạng này, nhiều nƣớc đã thực thi một danh mục thuốc
hạn chế và xây dựng phác đồ chuẩn để hƣớng dẫn việc sử dụng thuốc hợp lý
7
nhƣng những cố gắng này chỉ làm giảm đƣợc việc tiêu thụ thuốc mà không cải
thiện đƣợc đáng kể chất lƣợng của việc kê đơn [29].
Nghiên cứu về việc điều trị các chứng bệnh thông thƣờng nhƣ ho, cảm
lạnh, ỉa chảy cho trẻ em ở Philippine cho thấy, có tới 80% các trƣờng hợp đƣợc
cha mẹ tự điều trị và hầu hết các trƣờng hợp là không đúng, không cần. Nhóm
thuốc hạ sốt, giảm đau cũng đƣợc dùng nhiều nhất và đặc biệt là các thuốc cầm
ỉa chảy, các kháng sinh cũng đƣợc dùng rộng rãi, lãng phí và nguy hiểm. Một
nghiên cứu khác cho thấy ngay tại thủ đô Manila (Philippine), việc mua kháng
sinh không có đơn của thầy thuốc chiếm tới 66%, trong đó có cả những trƣờng
hợp mua kháng sinh để “dự phòng” bệnh tật [26].
Một nghiên cứu tại cộng đồng Mexico thì có 64,4% bệnh nhân sử dụng
kháng sinh sai liều và 53,1% bệnh nhân chỉ sử dụng trong khoảng một thời gian
ngắn thì ngừng (có sự giám sát của Bác sỹ) và tỷ lệ này còn cao hơn (82,6% và
95,6%) khi không có sự giám sát của Bác sỹ. Về thời gian sử dụng kháng sinh
thì có tới 22% số ngƣời sử dụng kháng sinh 1 ngày, 19% sử dụng 2 ngày, 21%
sử dụng 3 ngày, 11% sử dụng 4 ngày, 14% sử dụng 5 ngày và còn lại là sử dụng
trên 5 ngày [28].
Thuốc là “con dao hai lƣỡi” và có thể gây ra những phản ứng có hại
(Advers Drug Reaction - ADR) ở nhiều mức độ, thậm chí tử vong kể cả dùng
đúng liều, đúng quy định. Điều trị và phòng bệnh có sử dụng nhiều thuốc thì tần
suất ADR tăng lên theo cấp số nhân với số lƣợng thuốc có trong 1 lần điều trị.
Tại Mỹ, một đánh giá trên nghiên cứu của Lazarou cho thấy năm 2004 có 2,2
triệu phản ứng có hại (ADR) của thuốc đã xảy ra ở những ngƣời đang điều trị
trong bệnh viện là khoảng 6,7% và gây ra 106.000 ca tử vong [24].
Tình hình quảng cáo thuốc cũng đáng lo ngại. Tìm hiểu 183 quảng cáo
thuốc ở 11 nƣớc khu vực châu Âu, với các thuốc không phải kê đơn, ngƣời ta
chỉ thấy có 3 quảng cáo đảm bảo đủ các yêu cầu theo quy định của liên minh
châu Âu và các tiêu chuẩn về đạo đức của Tổ chức y tế thế giới, 91 quảng cáo
không chỉ dẫn cụ thể cách dùng, 53 quảng cáo mang tính y tế cho các sản phẩm
8
không đƣợc đăng ký là thuốc, 53 quảng cáo không ghi tên gốc (chỉ ghi biệt
dƣợc).... Đặc biệt, khoảng không gian dành cho tranh hay các bức hình minh họa
thƣờng lớn hơn nhiều so với lời ghi hƣớng dẫn [26].
1.3. THỰC TRẠNG KÊ ĐƠN THUỐC TẠI VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM GẦN ĐÂY
Nền kinh tế phát triển, sức khỏe và chất lƣợng cuộc sống của ngƣời dân
đang ngày càng đƣợc cải thiện, nhu cầu về chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng và
kéo theo tăng nhu cầu sử dụng thuốc.
Mô hình bệnh tật của nƣớc ta hiện nay đang thay đổi với gánh nặng bệnh
tật kép của các bệnh nhiễm trùng và các bệnh của một nƣớc công nghiệp hóa
nhƣ tim mạch, béo phì, tiểu đƣờng, ung thƣ..... Khi ngành công nghiệp dƣợc
ngày càng phát triển, bệnh tật nguy hiểm xuất hiện ngày càng nhiều thì càng đòi
hỏi Thầy thuốc có đủ trình độ chuyên môn và Y đức để đảm bảo lựa chọn, kê
đơn và hƣớng dẫn sử dụng thuốc một cách hợp lý, đặc biệt phải có sự tƣơng tác
phối hợp giữa Bác sỹ - Dƣợc sỹ và Bệnh nhân. Dƣợc sỹ, ngƣời thực hiện việc
cấp phát, bán thuốc và pha chế thuốc, hƣớng dẫn và giải thích dùng thuốc cho
bệnh nhân. Bệnh nhân, ngƣời tuân thủ phác đồ điều trị, đặc biệt phác đồ điều trị
có can thiệp thuốc mà Bác sĩ chỉ định, việc tuân thủ điều trị hay không tuân thủ
quyết định rất lớn đến sự thành công của liệu trình điều trị, việc tuân thủ của
bệnh nhân mang lại hiệu quả điều trị nhƣng cũng phần lớn đƣợc quyết định bởi
Thầy thuốc (Bác sỹ).
Nhƣ vậy, Thầy thuốc khám bệnh và kê đơn mang tính chất quyết định
trong việc dùng thuốc an toàn - hợp lý và hoàn toàn chịu trách nhiệm trƣớc pháp
luật về việc đơn thuốc mình kê ra nếu Dƣợc sỹ và Bệnh nhân thực hiện đúng y
lệnh mà lại ảnh hƣởng đến tính mạng bệnh nhân. Trong điều trị, Thầy thuốc
không phải là ngƣời đứng ngoài lề trong việc sử dụng thuốc an toàn - hợp lý.
Ngƣời Bác sỹ phải tuyệt đối tuân thủ quy chế kê đơn do Bộ Y tế mỗi Quốc gia
đã quy định [3].
9
1.3.1. Việc thực hiện ghi đúng – đủ về thủ tục hành chính cho bệnh nhân
ngoại trú quy chế kê đơn
Thông tin của bệnh nhân dù không tác động trực tiếp đến việc sử dụng
thuốc trong đơn nhƣng là một yếu tố rất quan trọng, qua thông tin thủ tục hành
chính trên bệnh nhân có định hƣớng lựa chọn thuốc, lựa chọn liều dùng, cách
dùng, có định hƣớng theo dõi và quản lý sử dụng thuốc… Vì vậy, cần phải
thông tin đến ngƣời bệnh nhƣ các thông tin về thuốc và thông tin điều trị sau kê
đơn, bao gồm hƣớng dẫn bệnh nhân tuân thủ điều trị tại nhà, thông báo thu hồi
thuốc có vấn đề về chất lƣợng...
Chƣa có thống kê hệ thống việc không tuân thủ ghi đầy đủ các thông tin
thủ tục hành chính cho bệnh nhân và ảnh hƣởng của việc ghi không đủ một cách
chính xác và thuyết phục, các kết quả nghiên cứu mới mang tính chất thống kê.
Kết quả nghiên cứu tại bệnh viện Nhân dân 115 cho thấy, các đơn thuốc
có sai sót thông tin bệnh nhân về họ tên, tuổi, giới, địa chỉ là 98%, một số
nghiên cứu khác về hoạt động bảo đảm cung ứng thuốc chữa bệnh tại Phòng
quân y – Bộ tổng tham mƣu – Cơ quan Bộ quốc phòng… cũng cho thấy có bất
cập trong vấn đề này.
Việc áp dụng quy trình kê đơn điện tử chƣa đƣợc áp dụng rộng rãi mà mới
chỉ phổ cập ở một vài bệnh viện lớn. Đa số các bệnh viện trên cả nƣớc vẫn kê
đơn viết tay. Một nghiên cứu của Trƣờng Đại học Dƣợc Hà Nội cho thấy, kê
đơn điện tử đƣợc xem nhƣ một biện pháp can thiệp có hiệu quả để làm giảm một
cách có ý nghĩa số lƣợng đơn kê có sai sót cả về thủ tục hành chính và chuyên
môn. Tại các bệnh viện công lập Việt nam, khu vực điều trị ngoại trú luôn gặp
áp lực bệnh nhân đông, thời gian khám, kê đơn và tƣ vấn dùng thuốc của bác sỹ
bị rút ngắn làm gia tăng khả năng xảy ra sai sót kê đơn, nhất là khi đơn thuốc
đƣợc ghi bằng tay [23].
Theo kết quả khảo sát tại bệnh viện Phổi Trung ƣơng năm 2009, do chƣa
ứng dụng phần mềm trong kê đơn trên máy tính nên tỷ lệ thực hiện theo quy chế
về ghi các thông tin về bệnh nhân và thông tin về thuốc chƣa cao. Có 35% đơn
10
khảo sát ghi rõ, đầy đủ các thông tin về bệnh nhân nhƣ số nhà, đƣờng phố hoặc
thôn xã, 100% ghi đầy đủ họ tên bệnh nhân, chuẩn đoán cho bệnh nhân nhƣng
còn viết tắt nhiều.
Nghiên cứu tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc năm 2011 về việc thực
hiện kê đơn điện tử mở ra nhiều triển vọng, giảm đƣợc nhiều sai sót, 100% đơn
thuốc khảo sát đã ghi đúng, đầy đủ, các thông tin về họ tên, bệnh nhân, chuẩn
đoán bệnh song vẫn còn một số đơn chƣa ghi tuổi bệnh nhân và thiếu chữ ký của
Bác sỹ kê đơn, 13,7% số đơn thuốc chƣa ghi rõ thời điểm dùng và cách dùng
thuốc, 29,5% số đơn chƣa ghi đầy đủ địa chỉ bệnh nhân chính xác đến số nhà
đƣờng phố hoặc thôn xã [11]
1.3.2. Thực hiện chỉ định thuốc trong kê đơn điều trị ngoại trú
Có rất nhiều nghiên cứu thống kê và đánh giá về tình hình kê đơn và sử
dụng thuốc trong đó đặc biệt đánh giá chiều sâu của vấn đề chỉ định thuốc tại
các bệnh viện tuyến tỉnh và có tác động tích cực cải thiện hiệu quả tính an toàn,
hiệu quả và cả vấn đề kinh tế trong hoạt động điều trị có can thiệp thuốc.
Điều tra về tình hình sử dụng kháng sinh ở một số địa phƣơng do Ban tƣ
vấn kháng sinh – Bộ y tế tiến hành. Tỷ lệ đơn thuốc ngoại trú có kê kháng sinh
của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc là 59,5% nội trú là 61,8% [19]
Bên cạnh đó, kết quả khảo sát của Cục Quản lý khám chữa bệnh bộ Y tế
tại một số bệnh viện năm 2009 cho thấy: Mỗi bệnh nhân trong một đợt điều trị
đã sử dụng từ 0 – 10 thuốc, trung bình là 3,63 ± 1,45 thuốc. Nhóm bệnh nhân
không có BHYT có số lƣợng thuốc trung bình trong một đợt điều trị là 4,00 ±
2,00 thuốc/đợt, tăng hơn so với nhóm bệnh nhân có BHYT (3,63 ± 2,1
thuốc/đợt) [5].
Theo một số nghiên cứu tại bệnh viện Nhân dân 115 năm 2009, số thuốc
trung bình trong một đơn điều trị ngoại trú là 3,62 thuốc, trong đó số thuốc
không thiết yếu đƣợc sử dụng là 1,5 thuốc/đơn, chiếm 41,46% tổng số thuốc
trung bình của một đơn thuốc [21].
11
Một số nghiên cứu về kê đơn và sử dụng thuốc tại một số bệnh viện nhƣ
Bệnh viện trung ƣơng Quân đội 108 năm 2010, bệnh viện Tim mạch Hà Nội
năm 2010 và bệnh viện Đa khoa Vĩnh Phúc năm 2011, số thuốc trung bình một
đơn thuốc từ 4,2 - 4,4 thuốc [8], [11], [14].
Một nghiên cứu khác về tình hình kê đơn ngoại trú của Bệnh viện Bạch
Mai năm 2011 cũng cho tỷ lệ tƣơng tự với số thuốc trung bình trong 1 đơn là 4,7
(với đơn không BHYT) và 4,2 (với đơn có BHYT). Trong đó, số đơn có từ 6 10 thuốc chiếm tỷ lệ là 32,7% (với đơn không BHYT) và 25,3% (với đơn có
BHYT), có đơn không có BHYT sử dụng từ 11 – 15 thuốc, chiếm tỷ lệ 4,8%
[17].
Nghiên cứu về tình hình kê đơn thuốc ở một số phòng khám chữa bệnh ở
4 quận Hà Nội, số thuốc trung bình trong một đơn thuốc có 4,38, số đơn thuốc
có kháng sinh là 71,72%. Trong đó đơn thuốc có 1 loại kháng sinh là 50,7% và
có 41,42% số thuốc đƣợc kê trong danh mục thuốc thiết yếu [1].
Nghiên cứu về hoạt động bảo đảm cung ứng thuốc chữa bệnh tại Phòng
quân y – Bộ tổng tham mƣu – Cơ quan Bộ quốc phòng cũng cho thấy, số thuốc
trung bình trong một đơn ở khu vực ngoại trú là 3,9%, khu vực nội trú là 5,3%,
số đơn thuốc kê chƣa đúng thuốc là 21,3%, số đơn thuốc kê chƣa đúng liều là
7%, thuốc an thần chiếm 35% [10].
Nhiều đơn thuốc kê dài tới 9 - 10 thuốc, có thuốc hoạt chất trùng nhau
nhƣng tên biệt dƣợc khác nhau cũng đƣợc kê cùng. Thuốc kháng sinh mới, loại
tác dụng mạnh cũng đƣợc kê cả cho trẻ em và nhiều ngƣời bệnh khác mà không
cần phải thử kháng sinh đồ [13].
Các kết quả nghiên cứu tại bệnh viện Nhân dân 115 cho thấy, các đơn có
sai sót về cách ghi tên thuốc là 40,4%, các đơn thiếu thời điểm dùng thuốc
chiếm tỷ lệ 54%, trong đó nhiều nhóm thuốc thiếu thời điểm dùng thuốc chiếm
tỷ lệ cao, nhóm ức chế bơm proton là 90,9%, rối loạn lipid là 86,1%, nhóm ức
chế tiểu đƣờng là 58,7%, nhóm chống viêm không steroid là 46,1%. Việc kê đơn
12
thuốc tại khoa khám bệnh Bệnh viện nhân dân 115 cũng còn nhiều bất cập [21].
Để cải thiện bất cập này, quy trình kê đơn điện tử đang dần đƣợc ứng dụng.
Tại Hà Nội, điều tra ở 37 điểm bán thuốc của 4 quận và 5 huyện thấy số
ngƣời đi mua kháng sinh chiếm 27% tổng số ngƣời đi mua thuốc. Số ngƣời tự
quyết định đi mua thuốc chiếm tỷ lệ cao, ngay cả với các kháng sinh cũng chỉ có
19% là đơn của bác sỹ. Một vấn đề đáng quan tâm nữa là thời gian sử dụng
kháng sinh nghiên cứu của Trần Kim Tấn tại cộng đồng cho thấy 86,21% ngƣời
sử dụng kháng sinh dùng thuốc kháng sinh dƣới 5 ngày. Thời gian sử dụng
kháng sinh trung bình là 3,95 ngày/đợt. Phần lớn ngƣời dân sử dụng kháng sinh
khi mắc bệnh, và ngừng sử dụng khi các triệu chứng thuyên giảm chứ không
tuân thủ đầy đủ liệu trình điều trị của Thầy thuốc [16]. Nhƣ vậy, rất khó đảm
bảo việc bệnh nhân nhiễm trùng ra viện sẽ tiếp tục dùng kháng sinh theo đúng y
lệnh của bác sỹ.
Thuốc kháng sinh đang đƣợc lựa chọn nhƣ một giải pháp phổ biến, WHO
vẫn khuyến cáo việc kê đơn kháng sinh là đáng lo ngại trên toàn cầu, tới mức
trung bình 30 – 60% bệnh nhân đƣợc kê đơn thuốc kháng sinh và tỷ lệ này cao
gấp đôi so với nhu cầu lâm sàng. Tại Bệnh viện Bạch Mai, tỷ lệ sử dụng kết hợp
kháng sinh trong điều trị ngoại trú là tƣơng đối phổ biến (45,9% đối với đơn
không BHYT và 37,67% đối với đơn BHYT), chủ yếu là kết hợp 2 kháng sinh
[17]. Kết quả nghiên cứu tại bệnh viện Đà Nẵng có 36,5% đơn ngoại trú có kê
kháng sinh, tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc là 59,5% [12]. Việc kê đơn
kháng sinh không dựa vào kháng sinh đồ, đã tạo ra thói quen kê đơn dùng thuốc
kháng sinh phổ rộng hay phối hợp nhiều kháng sinh cho 1 bệnh nhân. Thực tế
cho thấy, có đến 34,5% bệnh nhân nhiễm trùng sử dụng nhiều hơn 1 loại kháng
sinh trong 1 đợt điều trị [12]. Các nghiên cứu tại bệnh viện TW Quân đội 108
năm 2010 và bệnh viện Nhân dân 115 từ cuối năm 2007 đến đầu năm 2008 cũng
cho tỷ lệ khá tƣơng đồng, với 26,5 – 28% đơn có kháng sinh [14], [21].
Vitamin cũng là hoạt chất thƣờng đƣợc các bác sỹ kê đơn. Theo nghiên
cứu tại Bệnh viện Tim mạch Hà Nội, số đơn có kê Vitamin chiếm tỷ lệ 35%
13
tổng số đơn [12]. Qua nghiên cứu của Phạm Trí Dũng tại 10 tỉnh/thành phố nhận
thấy nhu cầu sử dụng Vitamin ở cộng đồng là rất lớn, dao động từ 45,9% 74,9% trong số ngƣời dùng thuốc đƣợc chọn ngẫu nhiên hiện có sử dụng
Vitamin, và 50,9% những ngƣời mua thuốc đƣợc chọn ngẫu nhiên đã mua
Vitamin. Các Vitamin đƣợc kê nhiều nhất là vitamin C (46,6%), vitamin B1
(18,7%), vitamin kết hợp (multivitamin) là 17,3%. Vitamin luôn có sẵn ở các
điểm bán thuốc, tại một điểm bán lẻ thuốc trung bình chế phẩm vitamin chiếm
13,4% tổng danh mục thuốc bán lẻ và ngƣời thầy thuốc luôn kê đơn thuốc có
vitamin nhƣ là thuốc bổ trợ. Nghiên cứu tại 10 tỉnh/thành phố này cũng cho thấy
có tới 66,1% số đơn thuốc đƣợc khảo sát có chế phẩm vitamin. Nhƣ vậy cả 3
yếu tố là ngƣời tiêu dùng, ngƣời cung ứng, ngƣời kê đơn đang làm cho nhu cầu
sử dụng vitamin ngày càng tăng. Cần thiết phải truyền thông cho cộng đồng hiểu
về vai trò quan trọng của việc sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, hiệu quả nói chung
và vitamin nói riêng để góp phần làm giảm xu hƣớng lạm dụng vitamin hiện nay
[6].
Về sử dụng thuốc tiêm, kết quả nghiên cứu tại bệnh viện Bạch Mai cho
thấy tỷ lệ sử dụng thuốc tiêm trong điều trị ngoại trú là 10,7% thấp hơn nhiều so
với tỷ lệ điều trị nội trú (84%). Một số viện và khoa lâm sàng trong bệnh viện
còn sử dụng thuốc tiêm với tỷ lệ khá cao (Khoa CXK: 27,7%, Khoa TYC:
17,6%). Cần lƣu ý, việc sử dụng thuốc tiêm luôn đi kèm những rủi ro nghiêm
trọng [17].
Sự gia tăng của bệnh tật kéo theo một loạt các vấn đề về chỉ định thuốc.
Năm 2005 Bộ y tế tổ chức hội nghị đánh giá thực hiện chỉ thị 05/2004/CT-BYT
về việc chấn chỉnh công tác cung ứng, sử dụng thuốc trong Bệnh viện cũng đã
cho thấy việc kê quá nhiều thuốc cho ngƣời bệnh dẫn đến nhiều tƣơng tác thuốc
trong điều trị. Tại bệnh viện Thống Nhất có nhiều đơn kê từ 14 đến 16 thuốc
một ngày cho một bệnh nhân [2].
Tƣơng tác thuốc trong đơn cũng là yếu tố cần phải bàn đến trong việc sử
dụng thuốc an toàn – hợp lý. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu tại bệnh
14
viện Nội Tiết Trung Ƣơng có tới 34% số đơn có tƣơng tác thuốc, kết quả này
cho thấy cứ khoảng 3 đơn khảo sát thì có 1 đơn có tƣơng tác thuốc, trong đó chủ
yếu là các tƣơng tác thuốc ở mức độ trung bình (82,6%). Có 6,8% tƣơng tác
thuốc là tƣơng tác ở mức độ nặng, có thể gây nguy hiểm tới tính mạng ngƣời
bệnh nếu sử dụng các thuốc này cùng nhau. Thực trạng này cho thấy công tác
kiểm tra tƣơng tác thuốc trong đơn ít đƣợc thực hiện tại hầu hết các bệnh viện do
yếu kém của công tác dƣợc lâm sàng và bác sỹ, dƣợc sỹ thì không đƣợc cập
nhật các thông tin mới về sử dụng thuốc và không đủ thời gian để kiểm tra
tƣơng tác thuốc qua phần mềm đƣợc trang bị tại bệnh viện [19].
Bên cạnh đó, hiện tƣợng các bác sỹ kê đơn thuốc theo tên biệt dƣợc đang
diễn ra phổ biến. Tỷ lệ thuốc đƣợc kê theo tên gốc thấp, ở bệnh viện Phụ Sản
trung ƣơng là 4,42% [12]; ở Bệnh viện Xanh Pôn là 12,5% [7]. Kê thuốc kháng
sinh bằng tên gốc Cefuroxime hàm lƣợng 500mg, loại của nội chỉ có giá 4.500
đồng/viên, còn nếu kê bằng biệt dƣợc Zinnat hàm lƣợng 500mg của ngoại, giá
của nó lên đến 25.000 đồng/viên [19]. Tình hình lạm dụng tên thuốc biệt dƣợc
theo quảng cáo trong các đơn thuốc kê cho bệnh nhân hiện nay đang là vấn nạn
không chỉ riêng ở nƣớc ta [15].
Trong khi thị trƣờng thuốc phát triển nhanh chóng, mang tính “ đột biến”
khó kiểm soát gây khó cho sự theo kịp về nhận thức của cả thầy thuốc, ngƣời
bán thuốc và ngƣời bệnh thì việc quảng cáo thuốc cũng chƣa đƣợc quản lý tốt.
Theo kết quả nghiên cứu của Đào Văn Phan và cộng sự, hầu hết (90%) các trình
dƣợc viên không hề đƣợc biết đến tiêu chuẩn đạo đức trong quảng cáo, thông tin
giúp thầy thuốc kê đơn các thuốc mới chủ yếu do các trình dƣợc viên hoặc
quảng cáo trên các tạp chí, tờ rơi cung cấp. Các thông tin đƣợc quảng cáo này
còn nhiều thiếu sót, nhƣng thầy thuốc hầu nhƣ không đƣợc tiếp nhận thêm các
thông tin khác chính thống hơn nhƣ từ Bộ y tế hay các trƣờng đại học, các viện
nghiên cứu [17]. Hiện tƣợng bác sỹ kê toa thuốc để hƣởng hoa hồng của các
công ty dƣợc phẩm đã dẫn tới tình trạng lạm dụng thuốc, chủ yếu là thuốc kháng
sinh, vitamin…
15
Kết quả nghiên cứu tại bệnh viện nội tiết Trung ƣơng cho thấy xu hƣớng
kê đơn trong đơn bảo hiểm ngoại trú và không bảo hiểm ngoại trú khá khác
nhau. Trong kê đơn thuốc bảo hiểm, tỷ lệ kê thuốc ngoại (47,5%) thấp hơn kê
thuốc nội (52,5%). Ngƣợc lại trong đơn không bảo hiểm, tỷ lệ thuốc ngoại đƣợc
kê (62,3%) lại cao hơn nhiều so với thuốc nội (37,7%). Khi tỷ lệ thuốc ngoại
đƣợc kê trong đơn cao, đồng nghĩa với việc chi phí trong đơn thuốc đó tăng lên
[19]. Điều này có thể lý giải mặc dù tốc độ tăng trƣởng ngành Dƣợc khá cao,
trung bình 18,8%/năm trong giai đoạn 5 năm 2009 – 2013 nhƣng một sự thật mà
ngành Dƣợc Việt Nam không thể phủ nhận là tỷ lệ nhập khẩu dƣợc phẩm đang
còn quá cao, chiếm đến 60% tổng nhu cầu của ngƣời tiêu dùng nội địa. Trong
khi đó, dù cung cấp đƣợc 50% nhu cầu nhƣng thị trƣờng nội địa chỉ đáp lại 38%,
các doanh nghiệp trong nƣớc chuyển sang hƣớng xuất khẩu. Tuy nhiên, kim
ngạch xuất khẩu còn quá thấp, do sản phẩm của doanh nghiệp nội địa mới chỉ là
những công thức thuốc thông thƣờng mà nguồn cung trên thị trƣờng quốc tế vẫn
đang rất dồi dào, cộng với việc 90% nguyên liệu phải nhập khẩu, khiến mặt
hàng của Việt Nam thiếu tính cạnh tranh [4]. Và một nguyên nhân nữa là do tâm
lý của ngƣời Việt Nam, bao gồm cả bác sỹ, dƣợc sỹ và bệnh nhân vẫn ƣa
chuộng hàng ngoại. Thống kê chính thức cho thấy, các bác sỹ Việt Nam chỉ kê
20 – 30% thuốc nội trên tổng số các thuốc cần kê cho bệnh nhân. Trong tiềm
thức của ngƣời Việt, thuốc đắt là thuốc tốt mà hiển nhiên rằng, thuốc nhập khẩu
vẫn đắt hơn thuốc nội. Vì vậy, thuốc nội vẫn đang bị lép vế ở thị trƣờng nội địa
do những quan niệm sai lầm này.
Việc áp dụng quy trình kê đơn điện tử chƣa đƣợc áp dụng rộng rãi gây
việc quản lý về thông tin chỉ định và thông tin sử dụng thuốc hoàn thiện bị ảnh
hƣởng nhiều [23].
Kết quả khảo sát tại bệnh viện Phổi Trung ƣơng năm 2009, do chƣa ứng
dụng phần mềm trong kê đơn trên máy tính có 62% số đơn ghi tên thuốc theo
tên hoạt chất, 83% số đơn ghi đầy đủ hàm lƣợng, nồng độ, số lƣợng thuốc, 99%
số đơn ghi đầy đủ hƣớng dẫn sử dụng trong đơn, 100% số đơn ghi đầy đủ liều
16
dùng, 95% số đơn ghi thời điểm dùng thuốc [9]. Một nghiên cứu khác ở bệnh
viện Tim mạch Hà Nội năm 2010 cũng cho kết quả khá tƣơng đồng với 43,5%
số đơn ghi rõ ràng, đầy đủ địa chỉ bệnh nhân chính xác đến số nhà, đƣờng phố
hoặc thôn xã, 100% đơn ghi đầy đủ họ tên bệnh nhân, 100% số đơn ghi đầy đủ
chuẩn đoán bệnh nhƣng viết tắt khá nhiều, 95% số đơn ghi liều dùng, thời gian
dùng nhƣng đa số chƣa có hƣớng dẫn cụ thể [8]. Một nghiên cứu can thiệp tại
bệnh viện nhân dân 115 cho thấy, việc áp dụng kê đơn điện tử đã cải thiện rõ rệt
chất lƣợng kê đơn thuốc tại khoa khám bệnh. Số đơn ghi thiếu thông tin về bệnh
nhân đã giảm từ 98% xuống 33,6%, các thông tin về họ, tên, tuổi, giới tính giảm
từ 96,25% đến không còn (0%). Các sai sót về ghi địa chỉ, tên hoạt chất và tên
thuốc đã đƣợc hạn chế tối đa (0%) khi áp dụng kê đơn điện tử, tỷ lệ ghi thiếu
thông tin về thời điểm dùng thuốc giảm từ 54% xuống còn 33,5% [21].
Nghiên cứu tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc năm 2011 về việc thực
hiện kê đơn điện tử cũng làm giảm đƣợc nhiều sai sót, 100% đơn thuốc khảo sát
đã ghi đúng, đầy đủ hàm lƣợng, nồng độ, số lƣợng, liều dùng mỗi thuốc… [11].
1.4. KHÁI QUÁT VỀ BỆNH VIỆN ĐA KHOA THÀNH PHỐ THÁI BÌNH
1.4.1. Cơ cấu tổ chức
Bệnh viện Đa khoa Thành phố Thái Bình là đơn vị sự nghiệp y tế công
lập, trực thuộc Sở y tế Thái Bình, là cơ sở khám chữa bệnh và điều trị cho ngƣời
bệnh, nhân dân trên địa bàn Thành phố Thái Bình. Trƣớc năm 2006 là trung tâm
y tế Thị xã, từ tháng 12 năm 2006 thực hiện quyết định số 16/QĐ-UBND ngày
13/3/2006 của UBND tỉnh Thái Bình về việc sắp xếp lại tổ chức ngành y tế theo
thông tƣ liên tịch số 11/2005/TTLB-BYT-BNV ngày 12/5/2005 của Bộ y tế và
Bộ Nội vụ, Bệnh viện Đa khoa Thành phố đƣợc tách ra từ Trung tâm y tế Thành
phố. Bệnh viện có 17 khoa phòng với 09 khoa lâm sàng, 04 khoa cận lâm sàng
và 04 phòng chức năng. Tổng số giƣờng thực kê của Bệnh viện là 234 giƣờng.
Nhà thuốc Bệnh Viện Đa Khoa Thành Phố là nguồn cung ứng thuốc cho các đối
tƣợng là bệnh nhân tự nguyện, ngoại trú đến khám điều trị tại Bệnh Viện và
nhân dân trong tỉnh. Đƣợc thành lập từ năm 1996, đƣợc sự liên doanh liên kết
17