Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

DI SẢN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.6 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

DI SẢN THỪA KẾ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN HÀNH

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:
TS. LÊ MINH HÙNG – GV TRƯỜNG ĐH LUẬT TP. HCM


Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành

NHÓM TÁC GIẢ:
TRẦN HOÀNG NAM
LÊ THỊ KHÁNH LINH

2


Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
LỜI MỞ ĐẦU
Di sản thừa kế là một phần rất quan trọng trong BLDS cũng như trong đời sống kinh
tế xã hội nước ta. Đây là yếu tố chính làm phát sinh và thực hiện các quan hệ dân sự
về thừa kế. Bài tiểu luận này nhằm mục đích nêu ra cái nhìn cơ bản về di sản thừa kế,
đồng thời cũng nhằm nêu ra những quan điểm của tác giả về loại tài sản đặc biệt này
và thực tiễn áp dụng của nó.
Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của TS. Lê Minh Hùng,
GV bộ môn Luật Dân sự, đồng thời là trưởng bộ môn Luật Dân sự trường ĐH
Luật TP. HCM đã giúp cho nhóm tác giả hoàn thành bài luận này.
Nội dung bài luận được khái quát bao gồm:
I, Khái niệm di sản thừa kế: nêu lên các khái niệm về di sản thừa kế theo


pháp luật hiện hành
II, Đặc điểm của di sản thừa kế: nêu lên những đặc điểm của di sản thừa kế
III, Đặc trưng của di sản thừa kế: phân tích những đặc điểm nổi bật của di
sản thừa kế
IV, Xác định di sản thừa kế: phân tích di sản thừa kế do người chết để lại
V, Phân loại di sản thừa kế: Những loại di sản nào có thể thừa kế, những loại
di sản đặc thù
VI, Thực tiễn về di sản thừa kế - thực tiễn áp dụng và kiến nghị giải pháp:
nêu lên thực tiễn đổi mới về chế định thừa kế, đồng thời nêu những vướng mắc dẫn
đến tranh chấp và kiến nghị giải pháp.
Bài luận này không có tham vọng đem lại một cách nhìn mới về di sản thừa kế,
tuy nhiên với những gì đã làm được, hy vọng rằng có thể đem lại cho người đọc cái
nhìn khái quát và có thể hiểu biết rõ hơn về di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam
hiện hành. Như vậy cũng coi như một chút đóng góp nhỏ cho sự học Luật vậy.
NHÓM TÁC GIẢ
3


Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1, Di sản thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn, TS. Trần Thị Huệ, NXB Tư Pháp, 2011.
2, Bộ Luật Dân sự Việt Nam 1995.
3, Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2005.
4, luận văn cử nhân Luật Di sản thừa kế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Lê
Thanh Vũ, K23, NK 1998 – 2003.
5, Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật Dân sự Việt Nam, TS. Nguyễn Ngọc Điện,
NXB Trẻ, 1999.
6, Chương 07. Thừa kế về nhà ở, Nghị Quyết 1037/2006/NQ – UBTVQH.

7, Chương II. Về thừa kế, Nghị Quyết 02/2004/NQ – HĐTP ngày 10/8/2004.
8, Một số vấn đề trong thực tiễn xét xử cách tranh chấp về thừa kế (sách tham
khảo), Tưởng Duy Lượng, NXB Chính trị - Quốc gia.

4


Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT:
BLDS – Bộ luật Dân sự Việt Nam

5


Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành

DI SẢN THỪA KẾ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

I. KHÁI NIỆM DI SẢN THỪA KẾ
1. Khái niệm về di sản
Theo Điều 634, BLDS 2005, “Di sản1 bao gồm tài sản riêng của người chết,
phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.
Ta thấy phần khái niệm di sản có đề cập về tài sản, vậy tài sản là gì?
Theo Điều 163, BLDS 2005, tài sản được quy định là “Tài sản bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.
Các loại tài sản được quy định từ Điều 174 đến Điều 181, Chương XI, BLDS
2005 bao gồm: động sản và bất động sản; hoa lợi, lợi tức; vật chính và vật phụ.. và các
quyền tài sản.
Trong đó, về quyền tài sản, đặc biệt, về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp

luật, theo Khoản 2, Điều 637, BLDS 1995 thì:

1 trong Từ điển Luật học:
Di sản là "Tài sản mà người đã chết để lại, bao gồm:
1. Tài sản mà người đã chết chủ sở hữu, gồm có:
a. Tài sản riêng như: tư liệu sinh hoạt (vd. Quần áo, chăn màn, giường tủ, máy thu thanh, máy thu hình, vv.); tư
liệu sản xuất, vốn sản xuất hoặc kinh doanh hợp pháp; nhà ở; tài sản được thừa kế, tặng cho; tiền mua trái
phiếu; tiền tiết kiệm gửi ngân hàng hoặc quỹ tín dụng; các thu nhập khác (vd. Tiền công lao động, tiền nhuận
bút, tiền thưởng, tiền trúng xổ số, vv.).
b. Phần tài sản của người đã chết trong khối tài sản chung với người khác (vd. Sở hữu chung một ngôi nhà, một
cơ sở sản xuất, kinh doanh, vv.).
c. Những quyền về tài sản do người chết để lại (vd. đòi nợ, đòi tài sản cho thuê hoặc cho mượn, chuộc lại tài
sản đã cầm cố, đòi bồi thường thiệt hại trong hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng,...)
2. Quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật."

6


Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
“1 - Di sản2 bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết
trong tài sản chung với người khác;
2 - Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế theo quy
định tại phần thứ Năm của Luật này”
Theo đó, ta thấy, tại Điều 637, BLDS 1995 có quy định quyền sử dụng đất là một
trong những loại di sản thừa kế. Tuy vậy, tại BLDS 2005 đã lược bớt quy định này mà
thay vào đó quy định về khái niệm tài sản tại Điều 163, BLDS 2005.
Như vậy, dù có nhiều định nghĩa khác nhau về di sản, nhưng tựu chung lại, ta có
thể khẳng định, di sản là:
- phần tài sản riêng của người chết.
- phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.

- Trong đó, tài sản ở đây bao gồm cả các quyền tài sản của người chết để lại.

2. Khái niệm di sản thừa kế
Thừa kế là việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản của người chết cho người
thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Như vậy, di sản thừa kế là những di sản mà
người chết để lại cho những người thừa kế, có thể bao gồm một phần hay toàn bộ di
sản của họ.

2

Trong Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, khái niệm di sản được định nghĩa như sau:
Di sản là "Tài sản (tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, các thu nhập hợp pháp khác) của người chết để lại, gồm:
những tài sản thuộc sở hữu của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác,
quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Người chết không những để lại các quyền về tài sản (như
quyền đòi nợ, quyền đòi bồi thường thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ...) mà còn có thể để lại cả những
nghĩa vụ về tài sản (như phải trả nợ, phải trả công lao động hoặc bồi thường thiệt hại). Tuy nhiên, người thừa
kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi DS mà mình đã nhận được. Trong trường hợp vợ hoặc chồng chết
thì một nửa tài sản chung của vợ chồng thuộc về DS của người chết (được quy định tại điều 637 Bộ luật dân
sự)".

7


Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
Chúng ta đã xác định được thế nào là di sản, tuy nhiên, không nên đồng nhất hai khái
niệm di sản và di sản thừa kế với nhau bởi lẽ: Thứ nhất, không phải tất cả di sản của
người chết đều có thể được thừa kế. Vì lý do khách quan hay theo ý chí của người
chết khi để lại di sản mà trong một số trường hợp ta có thể thấy là không có di sản
thừa kế. Thứ hai, di sản thừa kế là một phần của di sản, nằm trong di sản chứ không
phải toàn bộ di sản đó. Vì thế nếu đồng nhất hai khái niệm với nhau sẽ dẫn đến sai

lệch về mặt bản chất giữa hai khái niệm trên.

II. ĐẶC ĐIỂM DI SẢN THỪA KẾ
Ta có thể thấy, di sản thừa kế có nhiều đặc điểm khác so với các loại tài sản khác. Qua
phần khái niệm di sản đã nêu ở trên, ta có thể khái quát đặc điểm di sản thừa kế như
sau:
1, Di sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ tài sản của người chết để lại mà chỉ bao
gồm tài sản, các quyền tài sản được xác lập dựa trên căn cứ hợp pháp mà người
chết để lại cho những người hưởng thừa kế. Nhưng nói vậy không có nghĩa người
hưởng thừa kế không chịu trách nhiệm gì về nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại mà
người hưởng thừa kế thực tế sẽ thực hiện nghĩa vụ tài sản đó chỉ trong phạm vi tài sản
thừa kế người chết để lại mà thôi.
2, Di sản do người chết để lại bao gồm cả nghĩa vụ mà người đó khi chết đi chưa
thực hiện thì chỉ được thực hiện trong phạm vi di sản thừa kế của người đó để
lại,3 vì đó là nghĩa vụ của bản thân người chết, không phải của người hưởng thừa kế từ
3

Điều 637, BLDS 2005: Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.
1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để
lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản
thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế.
3. Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

8


Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
di sản đó. Trong trường hợp nghĩa vụ tài sản phải thực hiện lớn hơn hoặc bằng khối di

sản người chết để lại, nói cách khác, sau khi sử dụng hết tài sản để thực hiện nghĩa vụ
tài sản của người chết, ta coi như người chết không để lại di sản thừa kế (không có di
sản thừa kế).
3, Những người hưởng thừa kế có quyền nhận hoặc từ chối nhận di sản của
người chết để lại4, qua đó sẽ không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để
lại, trừ trường hợp người nhận thừa kế tự nguyện.
4, Quan hệ thừa kế chỉ phát sinh khi người để lại di sản bị chết. Nói cách khác, di
sản xuất hiện khi người chủ sở hữu di sản của nó chết. Cái chết ở đây không chỉ là cái
chết về mặt sinh học mà còn có thể là cái chết về mặt pháp lý được quy định theo
pháp luật5.
5, Người hưởng thừa kế có quyền thừa kế tài sản do người chết để lại, theo di
chúc hoặc theo pháp luật. Mối liên hệ phụ thuộc giữa sở hữu và thừa kế, trong đó tài
sản được coi là di sản thừa kế khi nó thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp
pháp của người để lại di sản.

4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
4

Điều 642, BLDS 2005: Từ chối nhận di sản.
5

Điều 81, BLDS 2005: Tuyên bố một người là đã chết.
Khoản 2 Điều 82 BLDS 2005: Quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của người bị Toà án tuyên bố là đã
chết. “Quan hệ tài sản của người bị Toà án tuyên bố là đã chết được giải quyết như đối với người đã chết; tài
sản của người đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế.”

9



Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
6, Được pháp luật quy định về thời điểm mở thừa kế và địa điểm mở thừa kế. Từ
đây nhằm xác định đâu là di sản thừa kế để tiến hành phân chia di sản. Điểm này
chứng tỏ sự khác biệt với các loại tài sản thông thường trong quan hệ giao dịch dân
sự.

III. ĐẶC TRƯNG CỦA DI SẢN THỪA KẾ
Di sản thừa kế là một loại tài sản đặc biệt phát sinh trong quan hệ thừa kế, thể hiện
quyền định đoạt của người chết và quyền hưởng di sản của những người thừa kế. Tuy
nhiên, không phải tài sản nào cũng có thể trở thành di sản thừa kế. Và ngược lại,
không phải di sản nào cũng là tài sản. Vì vậy, những đặc trưng của nó sẽ giúp ta phân
biệt được sự khác nhau giữa di sản thừa kế và những loại tài sản khác.
Đầu tiên, di sản thừa kế phải là tài sản của người chết, do người đó tích lũy và có
được một cách hợp pháp (theo Điều 634, BLDS 2005).
Thứ hai, di sản đó phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế, nếu không thì sẽ coi
như người chết không để lại di sản.
Cuối cùng, tài sản đó phải là tài sản được phép lưu thông dân sự. Hay nói cách
khác, những tài sản đó phải là tài sản hợp pháp.

IV. XÁC ĐỊNH DI SẢN THỪA KẾ
Như đã trình bày ở phần trên, thì di sản thừa kế được định nghĩa bao gồm:
-

Tài sản riêng của người chết
Phần tài sản của người đó trong tài sản chung với người khác.
Các quyền và nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại.

1, Tài sản riêng của người chết
Theo như Di sản thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận
và thực tiễn, TS.Trần Thị Huệ (phần III, Xác định di sản thừa kế, mục 1, Tài sản

riêng của người chết, tr.157) cho rằng, tài sản riêng của người chết bao gồm:

10


Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
-

Thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất,không
hạn chế về số lượng và giá trị (trừ những tài sản pháp luật quy định không thể thuộc

-

sở hữu tư nhân).
Tài sản riêng của vợ hoặc chồng được xác định căn cứ vào các quy định của pháp luật
hôn nhân và gia đình (Điều 32, Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2000).
2, Phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác

-

Trong trường hợp nhiều người được thừa kế, được tặng cho một tài sản hay nhiều
người cùng nhau góp vốn để cùng sản xuất kinh doanh ,... được xác định là sở hữu
chung đối với tài sản. Khi một người trong các chủ sở hữu đó đối với tài sản chung
này chết, thì phần tài sản của người đó trong tài sản chung này được coi là di sản thừa

-

kế.
Việc xác định phần của người chết trong tài sản chung với người khác dựa vào tỉ lệ
phần trăm góp vốn, vào sự thỏa thuận giữa các chủ thể,... cũng như hoa lợi, lợi tức thu


-

được từ việc khai thác công dụng tài sản.
Đối với tài sản chung hợp nhất của vợ chồng thì không phân định được phần cụ thể

-

giữa vợ và chồng.
Trong trường hợp một bên chết trước thì việc phân chia tài sản chung căn cứ vào các
quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Tài sản chung của vợ chồng được xác

-

định dựa vào Khoản 1, Điều 27, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Pháp luật quy định vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu,
sử dụng định đọat tài sản chung (Khoản 1, Điều 28, Luật hôn nhân và gia đình năm

-

2000).
Do vậy, về nguyên tắc khi một bên vợ hoặc chồng chết trước thì một nửa tài sản sẽ
được xác định là di sản để chia theo pháp luật về thừa kế (trừ trường hợp xác định
được công sức đóng góp của vợ hoặc chồngvào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản

-

chung của vợ chồng)
Đối với tài sản chung giữa cha mẹ và các con tùy thuộc vào sự đóng góp cụ thể của
các thành viên để xác định.

3, Các quyền và nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại

-

Đối với các quyền tài sản do người chết để lại, Bộ luật dân sự quy định những người

-

thừa kế có các quyền tài sản do người chết để lại kể từ thời điểm mở thừa kế.
Quyền tài sản do người chết để lại đó là các quyền dân sự phát sinh từ quan hệ hợp
đồng dân sự hoặc được bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà trước thời điểm mở
11


Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
thừa kế họ đã tham gia vào quan hệ này : quyền đòi nợ theo hợp đồng vay tài
-

sản,quyền yêu cầu bồi thường...
Đối với những quyền tài sản mà gắn liền với nhân thân của người chết chấm dứt kể từ
thời điểm mở thừa kế (tiền được cấp dưỡng, được trợ cấp).
Bên cạnh việc hưởng quyền tài sản pháp luật quy định người hưởng thừa kế có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản như nghĩa
vụ trả nợ, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại,...
Trong trường hợp di sản chưa chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được
người quản lý thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế. Nếu di sản đã được
chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản tương ứng với phần tài sản mà
mình đã nhận.
Theo Điều 683, BLDS 2005, “Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên
quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây:

1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng;
2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu;
3. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ;
4. Tiền công lao động;
5. Tiền bồi thường thiệt hại;
6. Thuế và các khoản nợ khác đối với Nhà nước;
7. Tiền phạt;
8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác;
9. Chi phí cho việc bảo quản di sản;
10. Các chi phí khác.”
Như vậy, theo Điều 683, BLDS 2005 thì di sản do người chết để lại phải được
dùng trước tiên để thanh toán các nghĩa vụ tài sản và các chi phí liên quan của người
đó. Điều này sẽ dẫn đến trường hợp khối di sản của người chết để lại sẽ bằng với tổng
các chi phí thanh toán hay các khoản nợ của người đó, nghĩa là không còn di sản để
chia thừa kế.
12


Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
Theo đó, phần tài sản của người chết để lại sau khi đã được sử dụng để
thanh toán các nghĩa vụ tài sản của người đó sẽ được coi là phần di sản được chia
cho những người thừa kế. Và phần di sản này có thể được chia theo di chúc6 hoặc
chia theo pháp luật7, hoặc có thể chia theo cả 2 hình thức trên tùy thuộc vào ý chí của
người chết để lại di sản.
V. PHÂN LOẠI DI SẢN THỪA KẾ
Tuy vậy, di sản thừa kế không chỉ bao gồm những phần đã nói ở trên mà còn những
thành phần khác, cụ thể như sau:
-

Phần di sản dành cho việc thờ cúng8.

Phần di sản dành cho di tặng.
Phần di sản dành cho người hưởng di sản không phụ thuộc nội dung di chúc.
6

Điều 684, BLDS 2005. Phân chia di sản theo di chúc.
7

Điều 685, BLDS 2005. Phân chia di sản theo pháp luật.
8

Điều 670, BLDS 2005 quy định:
“1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó
không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc
thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người
thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để
thờ cúng. Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người
thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng. Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã
chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người
thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2.Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì
không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.”

13


Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
-

Phần di sản chia thừa kế.
Những thành phần trên cùng với phần di sản mà những người thừa kế nhận được như

đã trình bày ở trên tạo thành khối di sản thừa kế do người chết để lại. Việc xác định
đúng những thành phần khác nhau trong khối di sản này là vô cùng quan trọng và cần
thiết, làm cơ sở nền tảng cho các bước tiếp theo trong quy trình chia di sản thừa kế.
Phần lớn các tranh chấp về di sản thừa kế hiện nay là do nhiều yếu tố, trong đó việc
xác định chưa chuẩn xác các loại di sản là yếu tố quan trọng dẫn đến các tranh chấp
nói trên. Vì thế, để góp phần hạn chế thực trạng đó, việc nhận biết các thành phần của
di sản thừa kế là vô cùng cần thiết, chúng bao gồm:
a, Phần di sản dành cho thừa cúng
Có thể nói, đây là phần di sản đặc biệt và độc đáo trong hệ thống Luật Dân sự
của nước ta bởi chế định về thờ cúng, trong các bộ luật dân sự ở nước ngoài hầu như
không hề đề cập đến. Theo Điều 670, BLDS 2005 quy định về di sản dành cho thờ
cúng đã quy định về việc phần di sản này không dùng để được chia thừa kế mà được
sử dụng vào mục đích thờ cúng hương hỏa tổ tiên, phục vụ mục đích tinh thần và thể
hiện truyền thống của dân tộc ta. Dựa theo quy định tại Điều 670, BLDS 2005, phần
di sản này được xác định dựa theo di chúc của người chết để lại và có quy định về
người quản lý di sản thờ cúng. Trong trường hợp nghĩa vụ tài sản của người chết để
lại bằng hoặc lớn hơn toàn bộ di sản người đó để lại thì phần di sản này cũng sẽ phải
được dùng để chi trả cho những nghĩa vụ đó.
b, Phần di sản dành cho di tặng
Được quy định tại Điều 671, BLDS 2005, tương tự phần di sản dành cho thừa
cúng, phần di sản dành cho di tặng không dùng để chia thừa kế, đồng thời người được
nhận di tặng cũng sẽ không chịu trách nhiệm trả nghĩa vụ tài sản do người chết để lại,
trừ trường hợp nghĩa vụ tài sản của người chết để lại bằng hoặc lớn hơn toàn bộ di sản
người đó để lại thì phần di sản này cũng sẽ phải được dùng để chi trả cho những nghĩa
vụ đó. Tuy nhiên có một số nhầm lẫn trong việc xác định phần di tặng là di sản thừa
kế, đặc biệt trong trường hợp người được di tặng là người thừa kế di sản, thì có thể
nói, phần di sản dành cho di tặng không phải di sản thừa kế, đồng thời người nhận di

14



Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
tặng không nhất thiết phải là người thừa kế, hay nói cách khác, không cần phải là
người thừa kế (Ví dụ: bạn bè, ân nhân... của người chết..)
c, Phần di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
Được quy định tại Điều 669, BLDS 2005, đây là phần thừa kế dành cho những
người không thuộc nội dung di chúc của người chết, và những người này, dựa trên
một số tiêu chí đã được quy định tại Điều 669, BLDS 2005, được pháp luật bảo vệ.
Những người được hưởng di sản này sẽ được nhận suất thừa kế bằng hai phần ba suất
thừa kế của 01 người thừa kế theo pháp luật trong trường hợp di sản phân chia theo
pháp luật, trừ trường hợp đã được ghi trong di chúc của người chết hoặc từ chối nhận
di sản hoặc không có quyền hưởng di sản theo quy định của pháp luật (Khoản 1, Điều
643, BLDS 2005).
Trong trường hợp có di chúc do người chết để lại, thì phần thừa kế dành cho
những người sẽ được tính dựa trên giả định chia di sản do người chết để lại cho những
người thừa kế theo pháp luật, người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc sẽ
được hưởng hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật.
d, Phần di sản chia thừa kế
Về phần di sản chia thừa kế, có thể nói đây là phần di sản có thể nói là nhận
được sự quan tâm hàng đầu của những người thừa kế, bởi đây là phần di sản của
người chết mà họ được thụ hưởng (theo di chúc hoặc theo pháp luật). Đây là phần di
sản mà sau khi thanh toán xong tất cả nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại thì
những người thừa kế có quyền thụ hưởng.
Ở đây, trong trường hợp có di chúc hợp pháp do người chết để lại thì sẽ tiến
hành phân chia di sản dựa theo nội dung của di chúc, phần di sản dùng để phân chia
này chính là di sản chia thừa kế (sau khi thực hiện hoàn tất các nghĩa vụ về tài sản của
người chết để lại).
Trong trường hợp không có di chúc để lại hoặc di chúc không đúng theo quy định của
pháp luật thì sẽ tiến hành phân chia di sản theo quy định của pháp luật.
VI. THỰC TIỄN VỀ DI SẢN THỪA KẾ - THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN

NGHỊ GIẢI PHÁP
15


Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
Từ sau khi nước nhà hoàn toàn độc lập, với sự phát triển và hoàn thiện của hệ
thống pháp luật Việt Nam, có thể nói, chế định về thừa kế ở nước ta đã và đang từng
bước được cải thiện phù hợp hơn với đời sống xã hội tại nước ta. Điều đó được thể
hiện ở những điều sau:
Thứ nhất, tại BLDS 2005 đã có sự thay đổi về quy định khái niệm di sản khi
không còn quy định về quyền sử dụng đất như trong BLDS 1995. Tuy vậy, như đã
trình bày ở phần I, khái niệm di sản, điều này không có nghĩa Nhà nước không công
nhận quyền sử dụng đất là di sản mà thực chất đã được tinh gọn hơn, đồng thời không
làm thay đổi về khái niệm di sản, thể hiện sự tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp của nước
ta
Thứ hai, việc quy định di sản không ai thừa hưởng thì thuộc về Nhà nước được
quy định tại Điều 647, BLDS 1995 đã được bổ sung thêm tại Điều 644, BLDS 2005
về việc nghĩa vụ tài sản do người chết để lại khi không có ai thừa hưởng, khi Nhà
nước tiếp nhận thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại đó. Điều
này không làm thay đổi những quy định về việc Nhà nước nhận di sản không ai thừa
kế, mà còn thể hiện sự bảo vệ chính đáng cho những chủ thể có quyền và nghĩa vụ
liên quan.
Thứ ba, về việc có quyền từ chối nhận di sản được quy định tại Điều 645,
BLDS 1995 đã được bổ sung thêm tại Khoản 3, Điều 642, BLDS 2005 về việc “sau 06
tháng mà không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế”. Sự sửa
đổi bổ sung này không làm thay đổi tinh thần của điều luật nhưng đã làm rõ hơn về
quyền từ chối di sản.

Tuy vậy, vẫn có những khó khăn nhất định trong thực tiễn áp dụng pháp luật tại
nước ta. Tranh chấp về di sản thừa kế được coi là một trong những tranh chấp có tính

chất vô cùng phức tạp. Trên thực tế, “việc xác định di sản thừa kế gặp rất nhiều khó

16


Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
khăn và có không ít vướng mắc”9. Các tranh chấp về di sản thừa kế thường tập trung
vào các vấn đề sau:
-

Tranh chấp trong việc xác định di sản dành cho thờ cúng:
Tranh chấp về quyền sử dụng đất
Tranh chấp về phần tài sản được tặng cho
Tranh chấp do hiểu sai nội dung di chúc, xác định không đúng thời điểm di

-

chúc có hiệu lực
Tranh chấp giữa những người thừa kế với người quản lý di sản về thù lao quản
lý di sản

a, Tranh chấp trong việc xác định di sản thờ cúng
Dạng tranh chấp về di sản thờ cúng chủ yếu về người quản lý di sản thờ cúng,
nghĩa vụ của người quản lý di sản thờ cúng đó, liệu người quản lý phần di sản này có
quyền sở hữu đối với phần di sản mình nhận được nhằm phục vụ mục đích thờ cúng
hay không.. Trong BLDS 2005 hiện nay, ta chỉ quy định về phần di sản dành cho thờ
cúng tại Điều 670 mà chưa có những quy định cụ thể hơn để giải quyết những vướng
mắc có thể phát sinh dẫn đến tranh chấp của những người thừa kế đối với người quản
lý di sản cũng như việc xử lý người quản lý di sản thờ cúng vào mục đích khác.
Kiến nghị: nhằm đảm bảo quyền lợi cho những chủ thể liên quan, đặc biệt là

những người thừa kế, trước hết nên xác định rõ tỷ lệ phần di sản được chia thừa kế
dùng vào công việc thờ cúng, đồng thời phải có một thỏa thuận văn bản ghi rõ những
nội dung về quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản thờ cúng nhằm đảm bảo
người này thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, tránh những tranh chấp về sau.
b, Tranh chấp về quyền sử dụng đất
Tranh chấp này chủ yếu là do những sơ sót của bản thân người chết khi còn
sống trong việc đăng ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hay do có sự lấn chiếm
9

Theo Di sản thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, TS. Trần Thị
Huệ, NXB Quốc Gia, tr.296

17


Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
do vô ý hay cố ý sang đất của người khác, hay do chiếm hữu ngay tình.. nên dẫn đến
tranh chấp với các chủ thể liên quan. Ngoài ra, còn là sự tranh chấp giữa những người
thừa kế trong gia đình về quyền sử dụng đất.
Kiến nghị: về vấn đề này, theo quan điểm của tác giả, cần có sự thỏa thuận
giữa các bên nhằm đảm bảo lợi ích liên quan, đồng thời những cơ quan có thẩm quyền
cần mềm dẻo linh hoạt khi áp dụng những quy định trong Luật Đất đai trong những
trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất trước thời Giải phóng..
c, Tranh chấp về tài sản được tặng cho
Phần di sản tặng cho thường xảy ra tranh chấp giữa những người thừa kế và
người được di sản tặng cho với nhiều lý do khác nhau (mối quan hệ với người tặng
cho..), hoặc trong chính những người thừa kế trong trường hợp một trong những
người thừa kế được tặng cho.
Kiến nghị: trong trường hợp này, cần xác định rõ tài sản tặng cho được tiến
hành tặng cho theo ý chí định đoạt của người chết nên không thể có sự tranh giành từ

những người thừa kế. Trong trường hợp người chết bị lừa dối hay do nhầm lẫn, cần có
sự chứng minh cho điều đó và tiến hành theo quy định của pháp luật.
d, Tranh chấp do hiểu sai nội dung di chúc, xác định không đúng thời điểm di
chúc có hiệu lực
Thời điểm di chúc có hiệu lực theo quy định tại Khoản 1, Điều 667, BLDS
2005 là vào thời điểm mở thừa kế. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm mà người chết
để lại di sản. Tuy vậy, trong một số trường hợp đặc biệt, như mất tích hoặc không có
ai bên cạnh người đó lúc chết để chứng thực.. nên việc xác định thời điểm mở thừa kế
dễ dẫn đến những nhầm lẫn. Không chỉ thế, có thể còn có trường hợp cố ý làm sai
lệch thời điểm mở thừa kế nhằm trục lợi từ những người thừa kế hoặc các chủ thể liên
quan. Ngoài ra, việc không hiểu hoặc cố ý không hiểu đúng nội dung di chúc cũng dẫn
đến tranh chấp giữa những người thừa kế với nhau.
Kiến nghị: về việc xác định thời điểm di chúc có hiệu lực, trong trường hợp
không xác định được thì có thể dựa vào quyết định của Tòa án căn cứ theo Điều 81,
BLDS 2005 về việc Tuyên bố một người là đã chết. Ngoài ra, về việc hiểu sai nội
18


Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
dung của di chúc, những người thừa kế có thể tiến hành họp mặt thỏa thuận với nhau
để thống nhất về việc hiểu rõ nội dung di chúc. Trong trường hợp không thể thỏa
thuận thì hay không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì coi như không có di
chúc và việc chia di sản được áp dụng theo quy định về thừa kế theo pháp luật, tuy
nhiên, nếu chỉ có một phần nội dung không giải thích được mà không ảnh hưởng đến
các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực
(theo Điều 673, BLDS 2005).
e, Tranh chấp giữa những người thừa kế với người quản lý di sản
Tranh chấp giữa những người thừa kế với người quản lý di sản thường là về thù
lao cho người quản lý di sản, hoặc tính hợp pháp của người được giao nghĩa vụ quản
lý di sản. Mặt khác, tranh chấp có thể là về việc người quản lý di sản trên thực tế là

người chiếm hữu di sản của người chết từ khi người đó còn sống, và khi chết thì vẫn
không có ý định thực hiện nghĩa vụ của mình theo Điều 639, BLDS 2005.
Kiến nghị: giữa những người thừa kế cần có sự thỏa thuận về công việc và thù
lao với người quản lý di sản trong quá trình quản lý di sản người chết để lại, đồng thời
có sự chứng thực rõ về các di sản mà người quản lý di sản được giao quản lý nhằm
tránh những tranh chấp về sau.

19


Di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành
KẾT LUẬN

Di sản thừa kế, với vai trò quan trọng của nó đã hình thành nên những quan hệ dân sự
về thừa kế. Qua bài luận, ta có thể thấy, di sản thừa kế có những đặc điểm rất riêng
biệt và đặc trưng, khác biệt so với các loại tài sản khác, khi nào thì di sản xuất hiện,
khi nào thì hình thành nên những quan hệ về thừa kế. Đồng thời, dựa vào tính chất của
loại tài sản đặc biệt này, có thể xác định và phân loại đúng các loại di sản dành cho
thờ cúng, di tặng hay dùng để chia cho những người thừa kế, qua đó góp phần làm rõ
việc phân loại và xác định di sản thừa kế - vốn là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp của
những chủ thể liên quan.
Tác giả đã nêu ra những thực tiễn về di sản thừa kế, những điểm mạnh, điểm đổi mới
trong chế định về di sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành. Đồng thời, đã
nêu ra những vướng mắc và tranh chấp chủ yếu liên quan đến di sản thừa kế. Trên cơ
sở đó, đề ra kiến nghị giải pháp cho những tranh chấp nói trên.
Một lần nữa, xin chân thành cảm ơn TS. Lê Minh Hùng, GV bộ môn Luật Dân sự,
trưởng bộ môn Luật Dân sự trường ĐH Luật TP. HCM đã giúp cho nhóm tác giả
hoàn thành bài luận này.

20




×