Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

[Tiểu luận cao học môn Triết học] Xây dựng triết học ngành xây dựng cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.31 KB, 49 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG …………………….

----------------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
U

Một số vấn đề triết học trong Ngành Xây dựng

Họ và tên
Mã HV
Lớp
Hướng dẫn khoa học

: …………….
:
:
:

Hà Nội, 2015


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

----------------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
U

Một số vấn đề triết học trong Ngành Xây dựng

Hà Nội, tháng 12 năm 2015


3

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................. 1
T
8
2

28T

1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1
T
8
2

28T


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 1
T
8
2

T
8
2

3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 2
T
8
2

28T

4. Cấu trúc tiểu luận .............................................................................................. 2
T
8
2

28T

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TẾ......................... 3
T
8
2

T
8

2

1. Cơ sở lý luận ..................................................................................................... 3
T
8
2

28T

2. Cơ sở thực tế...................................................................................................... 8
T
8
2

28T

CHƯƠNG II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC TRONG NGÀNH
XÂY DỰNG ............................................................................................... 18
T
8
2

28T

1. Quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu chính phủ........ 18
T
8
2

T

8
2

2. Về quản lý đầu tư và nợ đọng xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà nước,
trái phiếu chính phủ ............................................................................................. 18
T
8
2

28T

3. Tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản tại các địa phương................................ 19
T
8
2

T
8
2

4. Những rào cản và hoàn thiện cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu quả đầu tư19
T
8
2

T
8
2

5. Công tác quyết toán vốn đầu tư các dự án hoàn thành sử dụng vốn nhà nước20

T
8
2

T
8
2

6. Công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công ............................... 20
T
8
2

T
8
2

7. Về nợ đọng xây dựng cơ bản nguồn vốn đầu tư công .................................... 22
T
8
2

T
8
2

CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP TRIẾT HỌC TRONG MỘT SỐ VẤN ĐỀ
NGÀNH XÂY DỰNG ............................................................................... 23
T
8

2

28T

1. Giải pháp quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu chính
phủ ....................................................................................................................... 23
T
8
2

T
8
2

2. Giải pháp tăng cường quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản từ
nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ ................................................ 24
T
8
2

T
8
2

3. Giải pháp chủ yếu khắc phục tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản tại các địa
phương ................................................................................................................. 26
T
8
2


28T

4. Giải pháp loại bỏ những rào cản và hoàn thiện cơ chế, chính sách để nâng cao
hiệu quả đầu tư .................................................................................................... 28
T
8
2

28T

5. Giải pháp tăng cường, đẩy mạnh công tác quyết toán vốn đầu tư các dự án
hoàn thành sử dụng vốn nhà nước....................................................................... 32
T
8
2

T
8
2

6. Giải pháp tăng cường công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công35
T
8
2

T
8
2



4

7. Giải pháp tăng cường các biện pháp xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản nguồn
vốn đầu tư công ................................................................................................... 40
T
8
2

28T

KẾT LUẬN ................................................................................................ 43
T
8
2

28T

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................ 45
T
8
2

T
8
2


1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành Xây dựng là ngành sản xuất vật chất độc lập có chức năng tái sản xuất
tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân. Nó tạo nên cơ sở vật chất cho xã hội, tăng
tiềm lực kinh tế và quốc phòng của đất nước. Hơn thế nữa, đầu tư Ngành xây dựng
gắn liền với việc ứng dụng các công nghệ hiện đại do đó góp phần thúc đẩy sự phát
triển của khoa học kỹ thuật đối với các ngành sản xuất vật chất. Nó có tác động
mạnh mẽ tới hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, một bộ phận lớn
của thu nhập quốc dân nói chung và quỹ tích luỹ nói riêng với vốn đầu tư, tài trợ
của nước ngoài được sử dụng trong lĩnh vực Ngành xây dựng.
So với các ngành sản xuất khác, Ngành xây dựng có những đặc điểm kinh tế
kỹ thuật đặc trưng, được thể hiện rất rõ ở sản phẩm xây lắp và quá trình sáng tạo ra
sản phẩm của ngành.
Đặc điểm của sản phẩm xây lắp là có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, thời gian
sử dụng lâu dài, có giá trị lớn đòi hỏi các nhà xây dựng phải dự đoán trước xu
hướng tiến bộ xã hội để tránh bị lạc hậu. Phong cách kiến trúc và kiểu dáng một sản
phẩm cần phải phù hợp với văn hoá dân tộc. Trên thực tế, đã có không ít các công
trình xây dựng trở thành biểu tượng của một quốc gia như chùa Một cột ở Hà nội,
tháp Ephen ở Pari... và do đó chất lượng của các công trình xây dựng cũng phải
được đặc biệt chú ý. Nó không chỉ ảnh hưởng tới tuổi thọ của công trình và còn ảnh
hưởng tới sự an toàn cho người sử dụng.
Sản phẩm xây lắp mang tính tổng hợp phát huy tác dụng về mặt kinh tế, chính
trị, kế toán, nghệ thuật... Nó rất đa dạng nhưng lại mang tính độc lập, mỗi một công
trình được xây dựng theo một thiết kế, kỹ thuật riêng, có giá trị dự toán riêng và tại
một địa điểm nhất định, nơi sản xuất ra sản phẩm cũng đồng thời là nơi sau này khi
sản phẩm hoàn thành được đưa vào sử dụng và phát huy tác dụng. Những đặc điểm
này có tác động lớn tới giá trị sản xuất ngành xây dựng.
Xuất phát từ những lý do trên, em đã lựa chọn để nghiên cứu đề tài: Triết học
trong ngành Xây dựng cơ bản để làm rõ hơn một số vấn đề triết học trong quá
trình vận động của ngành Xây dựng. Từ đó, nhận thấy thực trạng và đưa ra giải
pháp giải quyết một số vấn đề trong ngành dưới góc nhìn của Triết học.


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận triết
học về Ngành xây dựng. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện
pháp luật ngành xây dựng và nâng cao hiệu quả thực hiện Ngành xây dựng. Với


2

mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định trên những nội
dung chủ yếu sau:
- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về Ngành xây dựng
- Đánh giá thực trạng Ngành xây dựng
- Xây dựng một số quy luật trong Ngành xây dựng
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về Ngành xây dựng và
nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách Ngành xây dựng

3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác – Lê
nin, quan điểm duy vật biện chứng và các quy luật của duy vật biện chứng. Ngoài
ra, các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng lĩnh vực của đề tài như:
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, logic, thống kê…cũng được sử dụng
trong quá trình nghiên cứu.

4. Cấu trúc tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia
thành 3 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở khoa học
Chương 2. Một số vấn đề triết học trong ngành Xây dựng
Chương 3. Giải pháp triết học trong một số vấn đề ngành xây dựng

Em xin chân thành cảm ơn thầy …………. đã nhiệt tình hướng dẫn và tạo
điều kiện cho em hoàn thành tiểu luận.
Trong quá trình hoàn thành tiểu luận, do thời gian có ít và nhận thức còn
nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ
bảo của thầy giáo hướng dẫn.
Em xin chân thành cảm ơn!


3

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TẾ
1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm
“Triết” theo nguyên chữ Hán có nghĩa là trí (bao gồm sự hiểu biết sâu rộng về
vũ trụ và nhân sinh), theo chữ Hy Lạp là “yêu mến sự thông thái”. Khái niệm “triết
học” có những biến đổi nhất định trong lịch sử, nhưng lúc nào cũng bao hàm: yếu
tố nhận thức (sự hiểu biết về vũ trụ, về con người và sự giải thích bằng hệ thống tư
duy) và yếu tố nhận định (đánh giá về đạo lý để con người có thái độ và hành
động).
Theo quan điểm mácxít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội;
là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại, của nhận thức và của thái
độ con người đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy.
Đặc điểm nổi bật của triết học là cách nhìn chung về thế giới, là sự nghiên cứu
thế giới xét như một chỉnh thể, cho nên tri thức triết học trước hết là những tri thức
phổ quát. Từ cách xem xét đó, triết học có vai trò giải thích bản chất, nguyên nhân
và những quy luật phát triển của thế giới; vừa có vai trò vạch ra con đường, những
phương tiện để nhận thức và cải tạo thế giới.
Triết học chỉ xuất hiện khi có hai điều kiện: Về mặt nhận thức, triết học xuất
hiện khi năng lực tư duy trừu tượng của con người đạt đến trình độ nhất định, cho

phép họ tổng kết và khái quát những tri thức riêng lẻ thành hệ thống quan niệm,
quan điểm chung. Về mặt xã hội, triết học xuất hiện khi sản xuất vật chất của loài
người phát triển đến trình độ làm nảy sinh quá trình phân công lao động trí óc và
lao động chân tay; nhưng quá trình phân công lao động này trong thực tế chỉ diễn
ra khi lịch sử nhân loại bước vào giai đoạn có phân chia giai cấp.

1.2. Vấn đề cơ bản của triết học
Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn
tại và tư duy, hay là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vấn đề này có
hai mặt:
- Mặt thứ nhất, đó là vấn đề giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước? cái nào
quyết định cái nào? Tùy theo cách giải quyết vấn đề này mà triết học chia thành hai
trào lưu chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật cho rằng bản chất của thế giới là vật chất, nên vật chất có
trước, tồn tại độc lập với ý thức và quyết định ý thức; còn ý thức là thuộc tính, là sự
phản ánh vật chất. Chủ nghĩa duy vật trải qua nhiều giai đoạn phát triển với/hình


4

thức lịch sử cơ bản: duy vật cổ đại (mộc mạc, chất phác), duy vật tầm thường thế
kỷ V-XV, duy vật cơ học máy móc thế kỷ XVII-XVIII, duy vật siêu hình thế kỷ
XIX và duy vật mác-xít (biện chứng).
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức (tinh thần) là bản chất của thế giới, nên ý
thức là cái có trước và quyết định vật chất; còn vật chất là cái có sau, là sự “biểu
hiện” của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản: duy tâm chủ quan
(coi ý thức là bản chất của thế giới, nhưng đó là ý thức của con người nằm trong
con người) và duy tâm khách quan (cũng coi ý thức là bản chất của thế giới, nhưng
đó là một thực thể tinh thần tồn tại bên ngoài con người và độc lập với con người).
Nguồn gốc của chủ nghĩa duy vật: là sự phát triển của tri thức, của khoa học;

là lợi ích và cuộc đấu tranh của các giai cấp, các lực lượng xã hội tiến bộ, cách
mạng ở mỗi giai đoạn phát triển của lich sử. Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm: là
sự tuyệt đối hóa một hình thức hay một giai đoạn của quá trình nhận thức dẫn đến
tách nhận thức và ý thức khỏi thế giới hiện thực khách quan; thông thường là lợi
ích và sự phản kháng của các giai cấp, các lực lượng bảo thủ trước tiến bộ xã hội.
- Mặt thứ hai, là vấn đề về khả năng nhận thức của con người.
Toàn bộ các nhà triết học duy vật và đa số những nhà triết học duy tâm đều
thừa nhận rằng thế giới có thể nhận thức được. Nhưng các nhà duy vật cho rằng,
nhận thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan trong bộ óc con người. Còn
các nhà duy tâm thì cho rằng, nhận thức chỉ là sự ý thức về bản chất ý thức.
Trả lời vấn đề này còn có những nhà triết học theo nguyên tắc bất khả tri
(không thể biết). Những người này xuất phát từ việc tuyệt đối hóa tính tương đối
của tri thức dẫn đến phủ nhận khả năng nhận thức của con người.
- Bên cạnh những nhà triết học nhất nguyên (duy vật và duy tâm) giải thích
thế giới từ một bản nguyên, hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có những nhà triết
học nhị nguyên luận. Nhị nguyên luận cho rằng thế giới được sinh ra từ hai bản
nguyên độc lập với nhau, bản nguyên vật chất sinh ra các hiện tượng vật chất, bản
nguyên tinh thần sinh ra các hiện tượng tinh thần. Nhị nguyên luận thể hiện lập
trường dung hòa giữa duy vật và duy tâm, đó chỉ là khuynh hướng nhỏ trong lịch
sử triết học và trong cuộc đấu tranh triết học nó càng trở nên gần với chủ nghĩa duy
tâm.

1.3. Phương pháp triết học
Phương pháp triết học là phương pháp nhận thức thế giới nói chung, là hệ
thống những nguyên tắc dùng để nghiên cứu thế giới xét như một chỉnh thể. Trong
lịch sử triết học có hai phương pháp cơ bản đối lập nhau: phương pháp siêu hình và
phương pháp biện chứng.


5


a. Phương pháp biện chứng
Thuật ngữ “siêu hình” (metaphysics), đầu tiên được Aristote dùng để chỉ bộ
phận quan trọng nhất trong hệ thống triết học của mình. Theo đó, nó được hiểu là
học thuyết về những gì vượt ra ngoài giới hạn của “kinh nghiệm”, về những đối
tượng đằng sau các sự vật hữu hình. Vì vậy, cho đến thời Phục hưng người ta vẫn
coi siêu hình học đồng nghĩa với triết học. Đến thế kỷ XVII-XVIII, sự phát triển
của khoa học tự nhiên đòi hỏi phải phân chia giới tự nhiên thành những lĩnh vực
riêng biệt để nghiên cứu. Chính cách nghiên cứu ấy đã đem lại cho các nhà khoa
học một thói quen, xét sự vật và quá trình trong trạng thái cô lập ở ngoài mối liên
hệ, vận động và phát triển của chúng. Khi cách xem xét này được các nhà duy vật
đưa vào triết học thì nó đã tạo ra phương pháp siêu hình. Như vậy, thuật ngữ
“phương pháp siêu hình” được dùng để chỉ phương pháp triết học đặc trưng cho
chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII. Phương pháp siêu hình là cách xem xét thế
giới trong sự cô lập tác biệt lẫn nhau hoặc không vận động, hoặc không phát triển,
hoặc vận động và phát triển theo chu kỳ khép kín.
b. Phương pháp siêu hình
Thuật ngữ “biện chứng” (dialectics), đầu tiên được Platon dùng để chỉ một
nghệ thuật trong tranh luận, theo đó nó được hiểu là những thủ đoạn biện bác chủ
quan. Tuy vậy ở thời cổ đại đã có những tư tưởng biện chứng khách quan (triết học
Hêraclít), nhưng vẫn còn mang tính tự phát và chưa trở thành hệ thống. Đến thế kỷ
XVIII, những tư tưởng biện chứng được phục hồi và được xây dựng thành hệ
thống, đặc biệt là ở trong các học thuyết của những nhà triết học duy tâm cổ điển
Đức. Từ lúc này những tư tưởng biện chứng mới hợp thành một phương pháp triết
học đối lập với phương pháp siêu hình. Đến giữa thế kỷ XIX, khái quát hiện thực
xã hội, tổng kết những thành quả lý luận và khoa học, Mác và Ăngghen xây dựng
lại phương pháp biện chứng trên lập trường duy vật đã sáng tạo ra phương pháp
biện chứng mácxít. Phương pháp biện chứng là cách xem xét thế giới trong mối
liên hệ phổ biến quy định ràng buộc nhau và luôn vận động và luôn phát triển.


1.4. Quy luật trong triết học.
1.4.1. Khái niệm
Khái niệm “quy luật” là sản phẩm của tư duy khoa học phản ánh sự liên hệ
của các sự vật và tính chỉnh thể của chúng. V.I.Lênin viết: “Khái niệm quy luật là
một trong những giai đoạn của sự nhận thức của con người về tính thống nhất và về
liên hệ, về sự phụ thuộc lẫn nhau và tính chỉnh thể của quá trình thế giới”.
Với tư cách là cái tồn tại ngay trong hiện thực, quy luật là mối liên hệ bản
chất, tất nhiên, phổ biến, và lặp lại giữa các sự vật, hiện tượng, giữa các đối tượng,


6

giữa các nhân tố tạo thành đối tượng, giữa các thuộc tính của các sự vật cũng như
giữa các thuộc tính của cùng một sự vật hiện tượng.
Trong quá trình phát triển của tư duy triết học luôn diễn ra cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm về quy luật.
Trong các hệ thống triết học duy vật phương Đông và Hy Lạp cổ đại, quy luật
được hiểu là một trật tự khách quan, là con đường phát triển tự nhiên, vốn có của
mọi sự vật. Ngược lại, các nhà triết học duy tâm phủ nhận sự tồn tại khách quan
của quy luật. Chẳng hạn, Platôn cho rằng các tư tưởng đang tồn tại là quy luật đối
với các sự vật, vì các sự vật chỉ là hình ảnh của tư tưởng.
Đối với chủ nghĩa duy tâm khách quan, quy luật được giải thích như là sự thể
hiện của “ lý trí thế giới”. “Lý trí thế giới”, theo các nhà duy tâm khách quan, là
quy luật của tự nhiên và xã hội.
Tuy nhiên, trong số những nhà triết học duy tâm khách quan cũng có một số
người có đóng góp rất quý giá trong quan niệm về quy luật. Chẳng hạn, theo
Hêghen, quy luật là cái bền vững, cái ổn định, cái đồng nhất trong toàn bộ hiện
tượng, là sự phản ánh “cái yên tĩnh” của hiện tượng; quy luật không phải là cái bên
ngoài đối với hiện tượng mà là cái vốn có trong hiện tượng, quy luật là mối quan hệ
căn bản của hiện tượng, .v.v..

Các nhà thực chứng mới cho rằng, nhận thức khoa học không phải là việc đưa
lại tri thức về các quy luật khách quan, mà là sự hình thành một trật tự nhất định
giữa các hiện tượng, trật tự này dường như không phụ thuộc vào tự nhiên mà phụ
thuộc vào những nguyên tắc có tính ước lệ do chủ thể chọn trước. Do đó, theo họ,
quy luật chỉ là sản phẩm của sự nhất trí giữa các nhà khoa học.
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng mọi quy luật đều mang tính khách
quan. Các quy luật được phản ánh trong các khoa học không phải là sự sáng tạo
thuần tuý của tư tưởng. Những quy luật do khoa học phát hiện ra chính là sự phản
ánh những quy luật hiện thực của thế giới khách quan và của tư duy.
1.4.2. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
a. Quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất và ngược lại
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó
mà không phải cái khác.
Chất của các sự vật là do những thuộc tính vốn có của sự vật kết hợp một cách
hữu cơ với nhau tạo thành, bản thân mỗi sự vật có muôn vàn thuộc tính, mỗi thuộc


7

tính của sự vật cũng có một phức hợp những đặc trưng về chất của mình, khiến cho
mỗi thuộc tính lại trở thành một chất.
Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật biểu
thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật
cũng như của các thuộc tính của nó.
Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng chỉ là tương đối, phụ thuộc vào mối
quan hệ xác định. Nghĩa là có cái trong mối quan hệ này là chất, nhưng trong mối
quan hệ khác nó lại là lượng và ngược lại. Do vậy, cần tránh quan điểm siêu hình
tuyệt đối hoá gianh giới giữa chất và lượng. Xác định chất và lượng phải căn cứ

vào từng mối quan hệ cụ thể.
- Chất và lượng thống nhất với nhau
- Lượng thay đổi dần dần dẫn đến sự thay đổi về chất.
- Sự thay đổi về chất tác động trở lại đối với sự thay đổi về lượng
- Các hình thức của bước nhảy
Từ những điều trình bày trên có thể rút ra nội dung cơ bản của quy luật
chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại như sau: bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự
thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về
chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự
thay đổi của lượng.
b. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập ( hay còn gọi là quy luật
mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng. V.I.Lênin viết "có thể định nghĩa vắn
tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là
nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải
thích và một sự phát triển thêm”.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên những thành tựu khoa học và thực tiễn
đã tìm thấy nguồn gốc của sự vận động và phát triển ở mâu thuẫn, ở sự đấu tranh
giữa các khuynh hướng, các mặt đối lập tồn tại trong các sự vật và hiện tượng.
Nguyên nhân chính và cuối cùng của mọi sự vật là tác động lẫn nhau. Chính
sự tác động qua lại đó tạo thành nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Sự tác
động qua lại, sự đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu những
thay đổi của các mặt đang tác động qua lại cũng như của sự vật nói chung, nó là
nguồn gốc vận động và phát triển, là xung lực của sự sống.


8

Sự vận động và sự phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định

và tính thay đổi. Do vậy, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát
triển.
c. Quy luật phủ định của phủ định
Quá trình vận động và phát triển của sự vật là quá trình thực hiện sự phủ định
biện chứng. Thông qua sự phủ định biện biện chứng sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra
đời. Nhưng sự vận động và phát triển của sự vật vẫn tiếp tục, đến một lúc nào đó sự
vật mới đó lại bị phủ định bởi một sự vật mới khác.
Như vậy, với tư cách là kết quả của “phủ định lần thứ nhất”, sự vật mới ra đời
đã chứa đựng trong bản thân mình xu hướng dẫn tới những lần phủ định tiếp theo
để một sự vật mới hơn ra đời, sự vật mới ra đời sau có lặp lại một số đặc trưng cơ
bản của cái ban đầu, nhưng trên cơ sở cao hơn. Đến đây sự vật đã hoàn thành một
quá trình phủ định của phủ định, hoàn thành một chu kỳ phát triển
Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng, như trên
là sự thống nhất giữa loại bỏ, giữ lại (kế thừa) và bổ xung những nhân tố tích cực
mới. Do đó, sự phát triển thông qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo xu
hướng tiến lên không ngừng.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển do mâu thuẫn trong
bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hoá
giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định thứ nhất được thực hiện một
cách căn bản sẽ làm cho sự vật cũ sẽ chuyển thành cái đối lập của mình. Lần phủ
định tiếp theo dẫn đến ra đời một sự vật mới mang nhiều đặc trưng đối lập với cái
được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó được bổ xung nhiều nhân tố mới. Như
vậy, sau hai lần phủ định, về hình thức sẽ trở lại cái xuất phát, song, thực chất,
không phải giống nguyên như cũ, mà dường như lắp lại cái cũ, nhưng trên cơ sở
cao hơn.

2. Cơ sở thực tế
2.1. Khái niệm về Ngành Xây dựng
Ngành Xây dựng (bao gồm cả kiến trúc) vừa là một hoạt động sản xuất, lại
vừa là một hoạt động nghệ thuật, nên quá trình phát triển của nó vừa chịu ảnh

hưởng của phương thức sản xuất, lại vừa chịu ảnh hưởng của nhân tố thuộc kiến
trúc thượng tầng của một hình thái xã hội nhất định.
Khái niệm Ngành xây dựng thường được diễn giải qua khái niệm Xây dựng
cơ bản:


9

- Hoại động đầu tư cơ bản: là hoạt động bỏ vốn để tạo ra các tài sản cố định
đưa vào hoại động trong các lĩnh vục kinh tế, xã hội nhằm thu được các lợi ích
khác nhau. Về tổng thể thì hoạt động đầu tư nào cũng cần phải có tài sản cố định.
Để có được tài sản cổ định, chủ đầu tư có thể thực hiện bằng nhiều cách: xây dựng
mới, mua sắm, đi thuê…
- Đầu tư xây dựng cơ bản: là hoạt động đầu tư thực hiện bằng cách tiến hành
xây dựng mà tài sản cố định, bao gồm các hoạt động đầu tư vào lĩnh vực xây dựng
cơ bản (khảo sát thiết kế, tư vấn xây dựng, thi công xây lắp công trình, sản xuất và
cung ứng thiết bị vật tư xây dựng) nhằm thực hiện xây dựng các công trình.
- Xây dựng cơ bản: là các hoại động cụ thể để tạo ra sản phẩm là những công
trình xây dựng có quy mô, trình độ kỹ thuật và năng lực sản xuất hoặc năng lực
phục vụ nhất định. Xây dựng cơ bản là quá trình đổi mới tái sản xuất giản đơn và
mở rộng các tài sản cố định của các ngành sẩn xuất vật chất cũng như phi sản xuất
vật chất nhằm tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Xây dựng cơ
bản được thực hiện dưới các phương thức: xây dựng mới, xây dựng lai, khôi phụ,
mở rộng và nâng cấp tài sản cố định.
- Ở góc độ của triết học,
Quá trình xây dựng cơ bản là quá trình hoạt động để chuyển vốn dầu tư dưới
dạng tiền tệ sang tài sản phục vụ cho mục đích đầu tư.

2.2. Vai trò của ngành Ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân
Ở nước ta Ngành xây dựng là ngành sản xuất vật chất lớn nhất của nền kinh tế

quốc dân. liên quan đến nhiều lĩnh vực trong xã hội. Hàng/xây dựng cơ bản tiêu tốn
lượng vốn ngân sách và vốn đầu tư khác với tỷ lệ cao (giai đoạn 15/đổi mới 1985 –
2000 vốn đầu tư xây dựng cơ bản chiếm khoảng 25% – 26% GDP hàng năm). Xây
dựng cơ bản giữ vai trò quan trọng trọng sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Bởi vì:
• Xây dựng cơ bản nhằm đảm bảo và không ngừng nâng cao năng lực sản
xuất, nâng lực phục vụ cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Tất
cả các ngành kinh tế khác chỉ có thể phát triển được đều nhờ có xây dựng cơ bản,
thực hiện xây dựng mới nâng cấp các công trình về quy mô, đổi mới về cống nghệ
và kỹ thuật dể nâng cao năng xuất và hiệu quả sản xuất.
• Xây dựng cơ bản nhằm đảm bảo mối quan hộ tỷ lệ, cân đối, hợp lý sức sản
xuất cho sự phát triển kinh tế giữa các ngành, các khu vực, các vùng kinh tế trong
từng giai đoạn xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước. Tạo điều kiện xoá bỏ
dần sự cách biệt giữa thành thị, nông thôn, miền ngược, miền xuôi. Nâng cao trình
độ mọi mặt cho đồng bào các dân tộc.


10

• Xây dựng cơ bản tạo điều kiện để nâng cao chất lượng, hiệu quả của các
hoạt động xã hội, dân sinh quốc phòng thông qua việc đầu tư xây dựng các công
trình xã hội, dịch vụ cơ sớ hạ tầng ngày càng đạt trình độ cao. Góp phần nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người dân trong xã hội.
• Xây dựng cơ bản đóng góp đáng kể lợi nhuận cho nền kinh tế quốc dân.
Hàng/ngành Xây dựng đóng góp cho ngân sách nhà nước hàng nghìn tỷ đồng. Giải
quyết công ăn việc làm cho một lực lượng lớn lao động trong đó đa phần là cán bộ
công nhân viên ngành Xây dựng.
Tóm lại Ngành xây dựng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Nó quyết định quy mô và trình độ kỹ thuật của xã hội của đất nước nói chung và sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá trong giai đoạn hiện nay nói riêng.


2.3. Những đặc điểm kinh tế – kỹ thuật của sản phẩm xây dựng
1.2.1. Khái niệm về sản phẩm xây dựng
Sản phẩm đầu tư xây dựng là các công trình xây dựng đã hoàn thành (bao
gồm cả việc lắp đặt thiết bị công nghệ ở bên trong). Sản phẩm xây dựng là kết tinh
của các thành quả khoa học – công nghệ và tổ chức sản xuất của toàn xã hội ở một
thời kỳ nhất định. Nó là một sản phẩm có tính chất liên ngành, trong đó những lực
lượng tham gia chế tạo sản phẩm chủ yếu: các chủ đầu tư; các doanh nghiệp nhận
thầu xây lắp; các doanh nghiệp tư vấn xây dựng; các doanh nghiệp sản xuất thiết bị
công nghệ, vật tư thiết bị xây dựng; các doanh nghiệp cung ứng; các tổ chức dịch
vụ ngân hàng và tài chính; các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan. Do vậy chi
phí để cấu thành nên sản phẩm xây dựng rất khó xác định và khó chính xác.
Sản phẩm xây dựng của các doanh nghiệp xây dựng chỉ bao gồm phần kiến
tạo các kết cấu xây dựng làm chức năng bao che, nâng đỡ và phần dùng để lắp đặt
các máy móc thiết bị của công trình xây dựng để đưa chúng vào hoạt động.
Tuỳ theo hình thức đấu thầu mà sản phẩm xây dựng của các doanh nghiệp xây
dựng được phân ra hai trường hợp:
– Doanh nghiệp xây dựng chỉ nhận thầu xây lắp thì sản phẩm của doanh
nghiệp xây dựng đem chào hàng khi tranh thầu xây dựng chỉ là các giải pháp công
nghệ và chức xây dựng công trình đang được đấu thầu.
– Doanh nghiệp xây dựng áp đụng hình thức chìa khoá trao tay thì sản phẩm
của tổng thầu xây dựng bao gồm cả phần giải pháp công nghệ, tổ chức xây dựng
công trình và phần thiết kế kiến trúc, kết cấu công trình xây dựng (mặc dù phần này
tổ chức tổng thầu xây dựng có thể đi thuê tổ chức tư vấn thiết kế thực hiện, nhưng
người chủ trì vẫn là tổ chức tổng thầu xây dựng).


11

Công trình xây dựng là sản phẩm của công nghệ xây lắp được tạo thành bằng

vật liệu xây dựng, thiết bị công nghệ và lao động, gắn liền với đất (bao gồm cả
khoảng không, mặt nước, mặt biển và thềm lục địa). Công trình xây dựng bao gồm
một hạng mục hay nhiều hạng mục công trình nằm trong dây chuyển công nghệ
đồng bộ, hoàn chỉnh (có tính đến việc hợp tác sản xuất) để sản xuất ra sản phẩm
nêu trong dự án dầu tư.
Vì các công trình xây dạng thường rất lớn và phải xây dựng trong nhiều năm,
nên để phù hợp với yêu cầu của công việc thanh quyết toán và cáp vốn người ta
phân ra thành sản phẩm xây dựng trung gian và sản phẩm xây dựng cuối cùng. Sản
phẩm xây dựng trung gian có thể là các gói công việc xây dựng, các giai đoạn hay
các đợt xây dựng đã hoàn thành và bàn giao thanh toán. Sản phẩm xây dựng cuối
cùng là các công trình xây dựng hay hạng mục công trình xây dựng đã hoàn thành
và bàn giao đưa vào sử dụng. Trường hợp này sản phẩm xây dựng của các doanh
nghiệp xây dạng chỉ tính đến phần mà họ vừa sáng tạo ra.
1.2.2. Những đặc điểm của sản phẩm xây dựng tác động tới kinh tế xây dựng
Ngành Xây dựng có những đặc thù nếu được xem xét riêng thì cũng có ở các
ngành khác, nhưng khi kết hợp chúng lại thì chỉ xuất hiện trong ngành Xây dựng,
vì thế cần được nghiên cứu riêng. Các đặc thù ở đây chia làm bốn nhóm: bản chất
tự nhiên của sản phẩm; cơ cấu của ngành cùng với tổ chức quá trình xây dựng;
những nhân tố quyết định nhu cầu; phương thức xác định giá cả. Những đặc điểm
sản phẩm xây dựng có ảnh hướng lớn đến phương thức tổ chức sản xuất và quản lý
kinh tế trong ngành Xây dựng, làm cho việc thi công xây lắp công trình xây dựng
có nhiều điểm khác biệt so với việc thi công các sản phẩm của các ngành khác. Sản
phẩm xây dựng với tư cách là các công trình xây dựng hoàn chỉnh thường có đặc
điểm như sau:
1. Sản phẩm mang nhiều tính cá biệt, đa dạng về công dụng, cấu tạo và cả
về phương pháp chế tạo. Sản phẩm mang tính đơn chiếc vì phụ thuộc vào đơn đặt
hàng và giá cả của chủ đầu tư (người mua), điều kiện địa lý, địa chất công trình nơi
xây dựng.
2. Sản phẩm là những công trình được xây dựng và sử dụng tại chỗ. Vốn đầu
tư xây dựng lớn, thời gian kiến tạo và thời gian sử dụng lâu dài. Do đó, khi tiến

hành xây dựng phảihú ý ngay từ khi lập dự án để chọn địa điểm xây dựng, khảo sát
thiết kế và tổ chức thi công xáy lắp công trình sao cho hợp lý, tránh phá đi làm lại,
hoặc sửa chữa gây thiệt hại vỏn đầu tư và giảm tuổi thọ công trình.
3. Sản phẩm thường có kích thước lớn, trọng lượng lớn. Số lượng, chủng loại
vật tư, thiết bị xe máy thi công và lao động phục vụ cho mỗi công trình cũng rất


12

khác nhau, lại luôn thay đổi theo tiến độ thi công. Bởi vậy giá thành sản phẩm rất
phức tạp thường xuyên thay đổi theo từng khu vực, từng thời kỳ.
4. Sản phẩm có liên quan đến nhiều ngành cả về phương diện cung cấp các
yếu tố đầu vào, thiết kế và chế tạo sản phẩm, cả về phương diện sử dụng công trình.
5. Sản phẩm xây dựng liên quan nhiều đến cảnh quan và môi trường tự nhiên,
do đó liên quan nhiều đến lợi ích của cộng đồng, nhất là đến dân cư của địa phương
nơi đặt công trình.
6. Sản phẩm mang tính tổng hợp về kỹ thuật, kinh tế, xã hội, văn hoá – nghệ
thuật và quốc phòng. Sản phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của nhân tố thượng tầng kiến
trúc, mang bản sắc truyền thống dân tộc, thói quen tập quán sinh hoạt… Có thể nói
sản phẩm xây dựng phản ánh trình độ kinh tế khoa học – kỹ thuật và văn hoá trong
từng giai đoạn phát triển của một đất nưóc.
1.2.3. Những đặc điểm của sản xuất xây dựng tác động tới kinh tế xây dựng
Xuất phát từ tính chất và đặc điểm của sản phẩm xây dựng ta có thể rút ra một
số đặc điểm kinh tế – kỹ thuật chủ yếu của sản xuất xây dựng như sau:
1. Sản xuất thiếu tính Ổn định, có tính lưu động cao theo lãnh thổ
Đặc điểm này kéo theo một loạt các tác động gây bất lợi về kinh tế:
Thiết kế có thể thay đổi theo yêu cầu của chủ đầu tư về công năng hoặc trình
độ kỹ thuật, các vật liệu, ngoài ra thiết kế có thể thay đổi cho phù hợp với thực tế 1
công trường xây dựng phát sinh.
Các phương án công nghệ và tổ chức xây dựng phải luôn luôn biến đổi phù

hợp vói thời gian và địa điểm xây dựng. Do đó gây khó khăn cho việc tổ chức sản
xuất, cải thiện điều kiện làm việc và làm nảy sinh nhiều chi phí cho khâu di chuyển
lực lượng sản xuất cũng như cho công trình tạm phục vụ thi công.
Tính lưu động của sản xuất đòi hỏi phải chú ý tăng cường tính cơ động linh
hoạt và gọn nhẹ của các phương án tổ chức xây dựng, tăng cường điều hành tác
nghiệp, lựa chọn vùng hoạt động hợp lý, lợi dụng tối đa các lực lượng và tiềm năng
sản xuất tại chỗ. Địa điểm xây dựng công trình luôn thay đổi nên phương pháp tổ
chức sản xuất và biện pháp kỹ thuật cũng luôn thay đổi cho phù hợp với mỗi công
trình xây dựng do vậy vốn lưu động phải lớn, đồng thời giá thành công trình sẽ thay
đổi theo.
Đòi hỏi cần phải phát triển rộng khắp và điều hoà trên lãnh thổ các loại hình
dịch vụ sản xuất về cúng cấp, giá cả vật tư và thiết bị cho xây dụng, về giá cho thuê
máy móc xây dựng.
2. Thời gian xây dựng cồng trình dài, chi phí sản xuất lớn


13

Thời gian xây dựng dài làm cho vồn đầu tư xây dựng của chủ đầu tư và vốn
sản xuất của tổ chức xây dựng thường bị ứ đọng lâu tại cổng trình gây những thiệt
hại lớn do 1 đọng vốn gây ra. Những biện pháp khắc phục mức độ ảnh hưởng này
là: công tác tổ chức quản lý sản xuất của doanh nghiệp phải chặt chẽ, hợp lý. Phải
luôn tìm cách lựa chọn trình tự thi công hợp lý cho từng công trình và phối hợp thi
công nhiều công trình để đảm bảo có những khối lượng công tác gối đầu hợp lý, tạo
nên những nguồn vốn huy dộng cho những công trình trọng điểm.
Việc phân chia các giai đoạn thi công ở từng công trình, nhằm tạo ra khả năng
sử dụng và điều phối hợp lý nâng lực sản xuất của đơn vị. Thanh toán từng phần
khối lượng công tác xây lắp thực hiện và bàn giao đưa vào sử dụng từng hạng mục
công trình.
Các tổ chức xây dựng dễ gặp phải các rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian và thời

tiết, chịu ảnh hường của sự biến động giá cả. Vì vậy tổ chức và quản lý sản xuất tốt,
nhằm đẩy mạnh tiến độ thi công, sớm đưa công trình vào sử dụng là biện pháp
quan trong đế hạn chế các tác đổng ngẫu nhiên xuất hiện theo thời gian như thiên
tai. biến đông giá cả. phá hoại của kẻ xấu.
3. Quá trình sản xuất mang tính tổng hợp, cơ cấu sản xuất phức tạp các công
việc xen kẽ và ảnh hưởng lẩn nhau
Quá trình sản xuất xây dựng thường có nhiéu đơn vị tham gia xây lắp một
cổng Irình.
Do đó công tác tổ chức quản lý trên công trường rất phức tạp, thiếu ổn định,
nhiều khó khăn khi phối hợp hoạt động của các nhóm lao động làm các công việc
khác nhau trên cùng một mặt trận công tác. Vì vậy cần phải coi trọng công tác thiết
kế tổ chức thi công, đặc biệt là phải phối hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa các lực
lượng tham gia xây dựng theo thời gian và không gian. Phải coi trọng công tác điều
độ thi công, có tinh thần và trình độ tổ chức phối hợp cao giữa đơn vị tham gia xây
dựng công trình.
4. Sản xuất xảy dựng nói chung thực hiện ở ngoài trài nên chịu ảnh hưởng
nhiếu của điều kiện thiên nhiên tới các hoạt động lao động gây lãng phí về kinh
tế để hạn chế những tác động trên
Đặc điểm này làm cho các doanh nghiệp xây lắp khó lường hết được trước
những khó khăn phát sinh do diều kiện thời tiết khí hậu, từ đó ảnh hưởng tới hiệu
quả của lao động như quá trình sản xuất có thể bị gián đoạn do mưa, bão hoặc có
những rủi ro bất ngờ cho sản xuất. Ngoài ra sản xuất xây dựng là lao động nặng
nhọc, làm việc trên cao. độ mất an toàn lao động cao. Các biện pháp có thế làm
giảm mức độ ảnh hưởng của yếu tố này là:


14

– Khi lập kế hoạch xây dựng phải đặc biệt chú ý đến yếu tố thời tiết và mùa
màng trong năm, có các biện pháp tranh thủ mùa khô và tránh mùa mưa bão.

kết cấu láp ghép chế tạo sẵn một cách hợp lý, nâng cao trình độ cơ giới hoá
xây đựng để giảm thời gian thi công ở hiện trường;
– Phải đảm bảo độ bền chắc và độ tin cậy của các thiết bị, máy móc xây dựng;
– Phải chú ý cải thiện điều kiện lao động cho người lao động;
– Phải quan tăm phát triển phương pháp xây dựng trong điều kiện khí hậu
nhiệt đới tìm ra các biện pháp thi công hợp lý, phối hợp các công việc thi công
trong nhà và ngoài trời. Kịp thời điều chỉnh tiến độ thi công bằng các phương pháp
kỹ thuật hiên đại trong quản lý.
5. Sản phẩm của Ngành xây dựng thường sản xuất theo phương pháp đơn
chiếc, thi công công trình thường theo đơn đặt hàng của chủ đầu tư
Đặc điểm này gây nên một số tác động đến quá trình sản xuất xây dựng đổng
thời tác động trực tiếp tới giá cả của sản phẩm như:
– Sản xuất xây dựng của các tổ chức xây dựng có tính bị động và rủi ro cao vì
nó phụ thuộc vào kết quả đấu thầu.
– Việc thống nhất hoá, điển hình hoá các mẫu sản phẩm và công nghệ chế tạo
sản phẩm xây dựng gặp nhiẻu khó khăn, vì cùng một loại công trình xây dựng,
nhưng nếu được xây dựng ở các địa điểm khác nhau và các thời điểm khác nhau,
chúng sẽ cố cấu tạo và công nghệ chế tạo khác nhau.
– Không thể xác định thống nhất giá cả cho một đơn vị sản phẩm cuối cùng,
giá cả của chúng phải được xác định trước khi chế tạo trong hợp đồng giao nhận
thẩu hoặc dấu thầu. Do đó doanh nghiệp xây dựng phải thực sự coi trọng công tác
ký hợp đổng, tìm hiểu kỹ đặc điểm và yêu cầu kỹ thuật, đặc điểm kinh tế xã hội của
địa phương: để có các biện pháp kỹ thuật, quản lý hợp lý nhằm đảm bảo chất
lượng, thời hạn và hiệu quả kinh tế cao.
Ngoài những đặc điểm gây nên những bất lợi kể trên thì những đặc điểm
mang tính thuận lợi tạo sự hấp dẫn trong sản xuất xây dựng đó là các nhà thầu được
biết trước: thị trường tiêu thụ, yêu cầu chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng,
thu nhập tính trước và được chủ đầu tư (người mua) tạm ứng vốn sản xuất theo tiến
độ thi công.
Ngoài ra, ở Việt Nam có những đặc điểm xuất phát từ hoàn cảnh kinh tế xã

hội, đã tác động không nhỏ tới công tác tổ chức sản xuất trong toàn Ngành xây
dựng. Lực lượng xà) dựng ở nước ta rất đông đảo, đa dạng các loại hình tổ chức và
hoạt động, song còn phân tán manh mún, chưa tập trung thành những doanh nghiệp


15

có quy mô lớn, trình độ trang bị máy móc thiết bị tiên tiến còn rất hạn chế. Đội ngũ
công nhân lành nghể thiếu nhiều. Do đó khả năng đáp ứng yêu cầu của công cuộc
công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước còn thấp, khả năng canh tranh với các tập
đoàn xây dựng quốc tế để thắng thầu các công trình có quy mô lớn, kỹ thuật phức
tạp còn hạn chế. Biện pháp hữu hiệu là thành lập hiệp hội các nhà thầu nhằm tăng
khả năng canh tranh đối với các nhà thầu quốc tế.

2.4. Đặc điểm hoạt động kinh doanh xây lắp
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất công
nghiệp nhằm tạo ra cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân. Thông thường, công
tác Ngành xây dựng do các đơn vị xây lắp nhận thầu tiến hành. Ngành sản xuất có
các đặc điểm sau:
Quá trình từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành công trình bàn giao và đưa
vào sử dụng thường kéo dài. Nó phụ thuộc quy mô và tính chất phức tạp về kỹ
thuật của từng công trình. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi
giai đoạn thi công lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc chủ yếu
diễn ra ngoài trời chịu tác dộng rất lớn của các nhân tố môi trường xấu như mưa,
nắng, lũ, lụt... đòi hỏi các nhà xây dựng phải giám sát chặt chẽ những biến động
này để hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng xấu của nó.
Sản phẩm xây lắp là các công trình, vật kiến trúc… Có quy mô lớn, kết cấu
phức tạp, mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất dài…. Do vậy, việc tổ chức quản
lý hạch toán nhất thiết phải có các dự toán thiết kế, thi công.
Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận với chủ

đầu tư từ trước, do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm thể hiện không rõ.
Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất, còn các điều kiện sản xuất phải di
chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm.
Tổ chức sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp ở nước ta hiện nay phổ biến
theo phương thức "khoán gọn" các công trình, hạng mục công trình, khối lượng
hoặc công việc cho các đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp (đội, xí nghiệp…). Trong
giá khoán gọn, không chỉ có tiền lương mà còn có đủ các chi phí về vật liệu, công
cụ, dụng cụ thi công, chi phí chung của bộ phận nhận khoán.
Những đặc điểm hoạt động kinh doanh, đặc điểm sản phẩm, đặc điểm tổ chức
sản xuất và quản lý ngành nói trên phần nào chi phối công tác kế toán trong các
doanh nghiệp xây lắp, dẫn đến những khác biệt nhất định. Tuy nhiên về cơ bản, kế
toán các phần hành cụ thể (TSCĐ, vật liệu, công cụ, chi phí nhân công…) trong
doanh nghiệp xây lắp cũng tương tự như doanh nghiệp công nghiệp.


16

2.5. Phát huy vai trò của ngành xây dựng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Xây dựng cơ bản nói chung, ngành xây dựng nói riêng giữ một vai trò quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân, là một trong những lĩnh vực sản xuất vật chất lớn
của nền kinh tế quốc dân, cùng các ngành sản xuất khác, trước hết là ngành công
nghiệp chế tạo và ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, nhiệm vụ của ngành xây
dựng là trực tiếp thực hiện và hoàn thành khâu cuối cùng của quá trình hình thành
tài sản cố định cho toàn bộ các lĩnh vực sản xuất của nền kinh tế quốc dân và các
lĩnh vực phi sản xuất khác.
Đối với tỉnh ta, ngay từ đầu những/60 của thế kỷ trước, lúc mới thành lập Ty
Kiến trúc - Thủy lợi, lãnh đạo tỉnh đã chú trọng xây dựng và phát triển ngành xây
dựng để trở thành một trong những đơn vị chủ lực chuyên ngành xây dựng cơ sở
vật chất kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc. Tuy còn non trẻ, song ngành xây dựng Cao Bằng đã tự thiết kế, thi

công xây dựng nhiều công trình, tạo cơ sở vật chất ban đầu phục vụ làm việc của
các cơ quan, bệnh viện trong tỉnh; tiếp đến thực hiện xây dựng các nhà máy, xí
nghiệp sản xuất, phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Đặc biệt trong giai đoạn từ hơn 10/trở lại đây, ngành xây dựng Cao Bằng từ
công tác quy hoạch, đến thiết kế, thi công đã có bước phát triển đáng kể cả về chất
và lượng, góp phần quan trọng vào việc hình thành rõ nét các đô thị tại các thị trấn,
thị xã; các công trình hiện đại, quy mô dần dần mọc lên thay thế những công trình
cũ, lạc hậu, xuống cấp không còn phù hợp, không đáp ứng yêu cầu sử dụng và xu
thế phát triển; diện mạo các đô thị, trị trấn, thị xã được đổi thay nhanh chóng, thị xã
Cao Bằng trở thành thành phố - đô thị loại III trực thuộc tỉnh; bộ mặt nông thôn có
nhiều đổi mới, khang trang, hạ tầng cơ sở được đầu tư ngày càng đồng bộ, đời sống
vật chất và tinh thần nhân dân địa phương được nâng cao.
Ngày nay, cùng với phát triển của thế giới và xu hướng hội nhập kinh tế Quốc
tế, đất nước ta đang đổi mới và bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa; vừa
xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, vừa phát triển nên kinh tế đất nước, ngành xây
dựng Cao Bằng cần phấn đấu nhiều hơn nữa để đạt trình độ chung của cả nước.
Trước hết chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực của ngành xây dựng đảm bảo
cả về số lượng (quy mô), cơ cấu và chất lượng. Thường xuyên củng cố bộ máy tổ
chức của ngành, đầu tư đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để có thể đảm nhận các
nhiệm vụ ngày càng đòi hỏi hàm lượng tri thức cao, đáp ứng yêu cầu công nghệ
mới, tiên tiến, hiện đại.
Để bảo đảm chất lượng, hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng, nhất là đầu tư
phát triển đô thị, công tác quy hoạch phải đi trước một bước. Ngành xây dựng cần
chú trọng nâng cao nhận thức và tầm nhìn về quy hoạch xây dựng, tiếp tục đổi mới


17

về nội dung, phương pháp và đẩy nhanh tiến độ lập quy hoạch xây dựng. Phát triển
không gian đô thị theo hướng hiện đại đảm bảo hài hòa bản chất của địa phương,

dân tộc và gắn liền với ứng phó biến đổi khí hậu; từng bước hình thành hệ thống đô
thị phù hợp trên địa bàn với kết cấu hạ tầng đồng bộ, đảm bảo sự phát triển hài hòa
với phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và xã hội với mục tiêu cuối cùng là đời
sống cư dân đô thị phải khá giả hơn, sống tiện nghi và hạnh phúc hơn.
Chú trọng công tác quản lý quy hoạch phù hợp với chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội, từng bước hoàn chỉnh hệ thống hạ tầng đô thị để đảm bảo cho sự phát
triển bền vững và ổn định. Nâng cao chất lượng xây dựng quy hoạch, rà soát quy
hoạch hiện có, bổ sung cập nhật quy hoạch, tiến hành quy hoạch phân khu, quy
hoạch chi tiết cho đầy đủ. Sớm hoàn thành điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng
thành phố Cao Bằng và thực hiện xây dựng đồng bộ, hiện đại cơ sở hạ tầng và các
công trình kiến trúc tại khu đô thị mới Đề Thám, cải tạo, nâng cấp đô thị đối với
khu đô thị tại phường Hợp Giang hiện nay; hoàn thành điều chỉnh bổ sung quy
hoạch khu kinh tế cửa khẩu Tà Lùng, Phục Hòa, Trà Lĩnh, Sóc Giang… và triển
khai thực hiện, tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Trong đó, có việc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, kiểm soát tốt quá trình đô
thị hóa; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư; triệt để thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, thất thoát, tiêu cực, tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây
dựng. Đồng thời, tăng cường công tác quản lý xây dựng theo quy hoạch, kiểm soát
sự phát triển của các đô thị theo quy hoạch được duyệt, kiểm soát bảo đảm yêu cầu
phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị nhằm từng bước giải quyết dứt điểm
những vấn đề đang rất bức xúc. Quan tâm đến nâng cao chất lượng công trình, an
toàn của công trình xây dựng. Nâng cao chất lượng quy hoạch xây dựng nông thôn
mới, tập trung quy hoạch các thị tứ và xây dựng về cơ bản hạ tầng kỹ thuật, văn
hoá xã hội và dịch vụ. Hình thành các tụ điểm mang tính đô thị ở nông thôn, tạo
môi trường để vùng nông thôn phát triển.


18


CHƯƠNG II.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC TRONG NGÀNH XÂY DỰNG
1. Quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu chính phủ
Trong thời gian qua, việc huy động và sử dụng vốn ngân sách nhà nước và
vốn trái phiếu Chính phủ đã có đóng góp quan trọng vào việc đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo môi trường thuận lợi góp phần thúc đẩy sản xuất
phát triển, xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, do phân
cấp quá rộng lại thiếu các biện pháp quản lý đồng bộ dẫn tới tình trạng phê duyệt
quá nhiều dự án vượt khả năng cân đối vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu
Chính phủ, thời gian thi công kéo dài, kế hoạch đầu tư bị cắt khúc ra từng năm,
hiệu quả đầu tư kém, gây phân tán và lãng phí nguồn lực của Nhà nước. Trong khi
đó, thời gian tới vốn ngân sách nhà nước rất hạn hẹp, vốn trái phiếu Chính phủ
không thể phát hành tăng thêm so với/2011 để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm
phát, giảm dần bội chi ngân sách nhà nước, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, dư
nợ công ở mức cho phép.
Căn cứ Kết luận tại Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XI), đi đôi với việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày
24/02/2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh
tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tổ chức triển khai các giải pháp tổng thể về tái cơ
cấu đầu tư trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư công.
Thủ tướng Chính phủ cần yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực
thuộc Chính phủ, các cơ quan khác ở Trung ương, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước (sau đây
gọi tắt là các Bộ, ngành, địa phương) triển khai thực hiện một số nguyên tắc và giải
pháp tăng cường quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính
phủ.

2. Về quản lý đầu tư và nợ đọng xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà
nước, trái phiếu chính phủ
Về quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà

nước, trái phiếu chính phủ các cấp các ngành đã có nhiều cố gắng trong việc chấn
chỉnh lại công tác quản lý, cơ cấu lại đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu
Chính phủ theo hướng tập trung hiệu quả, giảm dần tình trạng nợ đọng trong xây
dựng cơ bản. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng phê duyệt nhiều dự án quá khả năng
cân đối vốn, dẫn đến phân bổ vốn dàn trải, kéo dài thời gian thi công, gây lãng phí
thất thoát,... Nợ đọng xây dựng cơ bản chưa được xử lý triệt để.


19

Thực trạng trên đã và đang ảnh hưởng xấu đến an toàn nợ công và tăng trưởng
kinh tế bền vững. Trong/2013 và các/tới, tình hình thu ngân sách nhà nước dự báo
tiếp tục khó khăn, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ
khó có thể đáp ứng được nhu cầu đầu tư để hoàn thành các dự án dở dang của các
bộ, ngành, địa phương.
Để bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, nâng cao hiệu quả đầu tư nguồn vốn
ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở
Trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
Chủ tịch Hội đồng thành viên các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước tiếp tục
chỉ đạo và triển khai thực hiện nghiêm các quy định tại Chỉ thị số 1792/CT-TTg
ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn
ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ, Chỉ thị số 27/CT-TTg ngày
10/10/2012 về những giải pháp chủ yếu khắc phục tình trạng nợ đọng xây dựng cơ
bản tại các địa phương; đồng thời, tập trung triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải
pháp

3. Tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản tại các địa phương
Thời gian qua, do nhiều nguyên nhân khác nhau tình trạng nợ đọng xây dựng
cơ bản tại các địa phương diễn ra khá phổ biến và ở mức độ khá nghiêm trọng, gây

ra các hậu quả như: Công trình thi công dở dang, kéo dài, hiệu quả đầu tư kém; chủ
đầu tư không có nguồn vốn để thanh toán cho giá trị khối lượng thực hiện; nhiều
doanh nghiệp xây dựng, nhà thầu nợ lương công nhân, chiếm dụng vốn của nhau,
không ít doanh nghiệp giải thể và phá sản; góp phần làm cho nợ xấu của ngân hàng
tăng lên,... Thực trạng trên đã và đang ảnh hưởng xấu đến an ninh tài chính, an toàn
nợ công và tăng trưởng kinh tế bền vững.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương nhận thức đúng tác
động bất lợi do nợ đọng xây dựng cơ bản gây ra, tập trung triển khai thực hiện một
số nhiệm vụ, giải pháp để xử lý, khắc phục tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản tại
các địa phương

4. Những rào cản và hoàn thiện cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu quả
đầu tư
Trong những/qua, hoạt động đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư đã đạt nhiều
kết quả quan trọng, thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu, nâng cao trình độ khoa học công
nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo ra
năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội đã đề ra. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư thời gian qua hiệu quả chưa


20

cao, chưa tạo được động lực cần thiết thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh
tế vĩ mô; trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do một số rào cản xuất phát từ thể chế
kinh tế, tổ chức hệ thống và quản lý kinh tế, các yếu tố đầu vào của sản xuất và tổ
chức bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư đã làm ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu
quả đầu tư.
Tập trung rà soát loại bỏ những thủ tục, quy định đang làm phức tạp, khó
khăn, cản trở đối với yêu cầu và đòi hỏi của việc tăng cường thu hút và sử dụng
hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế là nhiệm vụ đang đặt ra đối với

nước ta hiện nay. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
trực thuộc Chính phủ, các cơ quan khác ở Trung ương, Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, theo
chức năng nhiệm vụ được giao, một mặt tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc,
quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các cơ chế, chính sách, giải pháp liên quan đến lĩnh
vực đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư, mặt khác phải chủ động rà soát loại bỏ
những quy định không còn phù hợp hoặc đang cản trở đến việc thu hút, sử dụng
hiệu quả các nguồn lực đầu tư của đất nước; đồng thời tập trung thực hiện một số
giải pháp

5. Công tác quyết toán vốn đầu tư các dự án hoàn thành sử dụng vốn nhà
nước
Những/gần đây, công tác quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành đã có tiến
bộ và từng bước đi vào nề nếp. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm quy định về quyết
toán vẫn còn xảy ra ở nhiều dự án (năm 2012 vẫn còn trên 15.000 dự án, chiếm
25,6%/tổng số dự án hoàn thành đã đưa vào sử dụng, chậm nộp báo cáo quyết toán,
chậm phê duyệt quyết toán theo quy định), gây ảnh hưởng đến việc quản lý vốn đầu
tư của Nhà nước, gây nợ đọng xây dựng cơ bản kéo dài, không tất toán được tài
khoản của dự án, không hạch toán tăng tài sản kịp thời cũng như việc theo dõi,
quản lý tài sản sau đầu tư.
Để xử lý triệt để các vi phạm trong công tác quyết toán vốn đầu tư các dự án
hoàn thành sử dụng vốn Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị các Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Thủ trưởng
cơ quan Trung ương của các đoàn thể, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, Chủ tịch Hội đồng thành viên các Tập đoàn kinh tế,
các Tổng công ty thực hiện ngay một số nhiệm vụ, giải pháp

6. Công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công
Thời gian qua, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, Nghị quyết của
Quốc hội, các quy định của Luật Quản lý nợ công, Chính phủ thực hiện thống nhất



21

quản lý nhà nước về nợ công trên cơ sở phân công nhiệm vụ đối với các Bộ, ngành
và địa phương.
Nợ công là nguồn vốn cần thiết và rất quan trọng để bổ sung cho đầu tư phát
triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Rất nhiều công trình kết cấu hạ tầng
về giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục, điện, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường,...
đã được hoàn thành, phát huy hiệu quả và nhiều chương trình, dự án đang được
triển khai, góp phần thu hút vốn đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất, tạo thêm việc
làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, tăng
cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo
vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, nâng cao trình độ khoa học, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý và đảm bảo an sinh xã hội, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Công tác quản lý nợ có chuyển biến, dần tiếp cận gần hơn với thông lệ tốt trên
thế giới. Cơ cấu nợ Chính phủ đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần
tỷ trọng vay nợ trong nước, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia. Chủ động trả nợ
đầy đủ, đúng hạn các nghĩa vụ trả nợ theo cam kết. Tăng cường công khai, minh
bạch thông tin, số liệu về nợ công.
Tuy nhiên, nợ công đang tăng nhanh, dự kiến đến cuối/2015 sẽ sát giới hạn
Quốc hội phê duyệt. Cơ cấu nợ chưa thực sự bền vững, việc sử dụng các khoản vay
ngắn hạn cho đầu tư dài hạn làm phát sinh rủi ro tái cấp vốn và tạo ra áp lực trả nợ
lớn trong ngắn hạn. Chi phí huy động vốn vẫn còn cao. Một số dự án đầu tư sử
dụng vốn vay kém hiệu quả, không trả được nợ, phải tái cơ cấu tài chính hoặc
chuyển sang cơ chế nhà nước đầu tư vốn, làm tăng nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của
Chính phủ. Sử dụng vốn vay còn dàn trải, nhiều dự án chậm tiến độ, có dự án hoàn
thành nhưng không đạt được mục tiêu đề ra. Việc điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư
so với phê duyệt ban đầu, bổ sung hợp đồng diễn ra khá phổ biến dẫn đến phải tăng
vay nợ, gây áp lực gia tăng nợ công.

Nguyên nhân chủ yếu của tồn tại, hạn chế trên là do: Áp lực tăng vay nợ cho
đầu tư phát triển rất lớn thúc đẩy gia tăng nợ công. Thị trường vốn trong nước chưa
phát triển nên phải huy động vốn ngắn hạn. Việc huy động, phân bổ sử dụng vốn
vay chủ yếu mới căn cứ vào đề xuất của các Bộ, ngành và địa phương, chưa đặt
trong mối quan hệ chặt chẽ và cân đối với nguồn vốn đầu tư khác, chưa bám sát
vào các hạn mức nợ đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và xác định mức vay
phù hợp với khả năng trả nợ, chưa gắn trách nhiệm với người quyết định vay và
người sử dụng có hiệu quả vốn vay. Năng lực của một số chủ dự án còn hạn chế,
chưa thực hiện tốt các khâu chuẩn bị đầu tư, thẩm định, phê duyệt, lựa chọn nhà
thầu, ký kết các hợp đồng xây lắp, mua sắm trang thiết bị và dịch vụ tư vấn, công


×