Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Tiểu luận giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của công ty thương mại kỹ thuật và đầu tư PETEC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.3 KB, 46 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong điều kiền toàn cầu hoá của đời sống kinh tế thế giới hiện nay, cũng
như trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, chiến lược kinh
tế đối ngoại hướng mạnh vào xuất nhập khẩu là một mũi đột phá của sự nghiệp
công nghiệp hoá nước nhà.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động xuất nhập khẩu của
Việt Nam trong thời gian tới, cũng như trước đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện,
nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, cùng với những
kiến thức được trang bị tại nhà trường và những tìm hiểu thực tế trong đợt thực
tập cuối khoá tại Công ty Thương mại Kỹ thuật và Đầu tư PETEC – Bộ Thương
mại, em đã chọn đề tài nghiên cứu : “Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất
nhập khẩu của Công ty Thương mại Kỹ thuật và Đầu tư PETEC”.
Mục đích của đề tài này là: từ việc nghiên cứu khẳng định tầm quan trọng
của hoạt động xuất nhập khẩu đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam
nói chung và đối với sự phát triển của Công ty PETEC nói riêng, đề ra một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam
nói chung và Công ty PETEC nói riêng trong thời gian tới.
Do khuôn khổ bài viết có hạn chế, nên không tránh khỏi những sai sót, em
rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để đề tài có chất lượng cao hơn.

1


PHẦN THỨ NHẤT
VAI TRÒ CỦA XUẤT NHẬP KHẨU TRONG
HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG CỦA VIỆT NAM
I. Cơ sở lý luận của hoạt động ngoại thương
1) Khái niệm về hoạt động ngoại thương
Ngoại thương là một khâu quan trọng trong hoạt động kinh tế đối ngoại của
mỗi quốc gia. Hoạt động thương mại ra đời từ rất sớm, ban đầu chỉ là sự trao đổi
rất đơn giản dưới hình thức hàng đổi hàng giữa các thương nhân của các quốc


gia khác nhau. Điều này thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những
người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia.
Hoạt động thương mại phát triển cùng với sự phát triển của văn minh loài
người. Từ hình thức trao đổi giản đơn đã phát triển hình thành hoạt động thương
mại tinh vi so với hoạt động thương mại trong nước thì hoạt động thương mại quốc
tế không chỉ bó hẹp trong nội bộ kinh tế mà còn vượt ra khỏi biên giới quốc gia,
gắn liền với việc sử dụng đồng tiền quốc tế. Hoạt động buôn bán diễn ra bất chấp
sự bất đồng về ngôn ngữ, phong tục tập quá, văn hoá xã hội,...
Hoạt động ngoại thương có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển
của một quốc gia kinh nghiệm cho thấy chưa có một nước nào có nền kinh tế
phát triển mà lại không dựa vào hoạt động ngoại thương. Một quốc gia cũng như
một cá nhân không thể sống riêng rẽ, biệt lập mà tồn tại và phát triển. Bằng khả
năng và nguồn lực của mình chúng ta không thể có tất cả những gì thật tốt. Đó
chính là sự hạn chế về nguồn lực buộc chúng ta phải tiến hành mở cửa hội nhập
với bên ngoài.
Ngoài ra, hoạt động thương mại còn làm tăng khả năng thương mại của
một quốc gia. Chúng ta đều biết rằng, do điều kiện tự nhiên và xã hội mà mỗi
quốc gia có những lợi thế riêng về tài nguyên thiên nhiên, về nhân lực, về vốn,...

2


sự khác nhau này đã dẫn đến sự chênh lệch lớn trong chi phí sản xuất ra cùng
loại sản phẩm và đây chính là nguyên nhân dẫn đến hoạt động thương mại giữa
các nước với nhau theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Hơn thế ngoại thương
phát triển góp phần mở rộng thị trường, phát triển thị hiếu của nhân dân thông
qua việc trao đổi sản phẩm giữa các nước trên thế giới.
Qua phân tích trên ta có thể thấy, hoạt động ngoại thương là hoạt động trao
đổi, mua bán hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia, lấy tiền tệ làm môi giới
theo nguyên tắc ngang giá, được thực hiện thông qua hoạt động xuất nhập khẩu

hàng hoá và dịch vụ. Trong đó hoạt động xuất khẩu được hiểu là việc mang
những hàng hoá, dịch vụ bán ra nước ngoài để thu hút tiền hay hàng hoá về, còn
hoạt động nhập khẩu là việc mang những hàng hoá và dịch vụ mua từ nước
ngoài về được trả bằng tiền hay hàng hoá trong nước.
Hoạt động ngoại thương so với hoạt động kinh doanh buôn bán trong nước
có những điểm khác biệt sau:
Một là, hoạt động ngoại thương là hoạt động buôn bán vượt ra ngoài biên
giới quốc gia. Hàng hoá có thể di chuyển từ nước này qua nước khác nếu có nhu
cầu. Hoạt động ngoại thương chịu sự quản lý và giám sát của các đơn vị hải
quan, cửa khẩu của các quốc gia cùng tham gia kinh doanh.
Hai là, đối tượng tham gia vào hoạt động ngoại thương là những cá nhân,
tổ chức có quốc tịch khác nhau.
Ba là, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một bên hoặc cả hai bên.

2) Cơ sở của hoạt động ngoại thương
Ngày nay, hoạt động ngoại thương như là một yếu tố thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Tất cả các nước đều tham gia vào hoạt động ngoại thương và đều có
lợi. Nhưng tại sao tất cả các nước tham gia vào hoạt động ngoại thương đều có
lợi? Để xem xét vấn đề này chúng ta sẽ đi nghiên cứu các cơ sở lý luận của hoạt
động ngoại thương.
3


2.1. Lợi thế tuyệt đối của A.Smith
Theo quan điểm về lợi thế tuyệt đối của A.Smith thì một nước chỉ sản xuất
các loại hàng hoá sử dụng tốt nhất các loại tài nguyên của nước mình. Đây là cách
lý giải đơn giản nhất về nguyên nhân của hoạt động ngoại thương. Lợi thế tuyệt
đối của hoạt động ngoại thương là lợi ích thu được do sự chênh lệch về chi phí
sản xuất giữa các quốc gia sản xuất cùng một loại sản phẩm nào đó, khi đó nước
sản xuất có chi phí cao sẽ nhập khẩu sản phẩm đó từ nước có chi phí thấp hơn.

Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối với nước sản xuất sản phẩm có
chi phí thấp sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn khi bán sản phẩm trên thị trường
quốc tế. Còn đối với nước sản xuất sản phẩm có chi phí cao sẽ có được sản
phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đem lại
lợi nhuận, người ta gọi điều này là sự bù đắp được được sự yếu kém về khả năng
sản xuất trong nước. Ngày nay, đối với các nước đang phát triển việc khai thác
lợi thế tuyệt đối, vẫn còn có ý nghĩa quan trọng khi chưa có khả năng sản xuất
một số loại sản phẩm đặc biệt là tư liệu sản xuất với chi phí có thể chấp nhận
được. Nguyên nhân dẫn đến tích luỹ thấp là do các nước đang phát triển còn
phải nhập khẩu máy móc thiết bị. Vì vậy mà các khoản tiết kiệm chưa thể trở
thành vốn đầu tư. Khi tiến hành nhập khẩu những máy móc thiết bị từ các nước
phát triển, các nước đang phát triển sẽ khắc phục được những yếu kém của mình
về khả năng sản xuất tư liệu sản xuất cũng như những yếu kém về kiến thức
công nghệ.
2.2. Lợi thế tương đối của D.Ricacdo
Trong khi tiến hành hoạt động thương mại các quốc gia có thể được lợi từ
những khác biệt giữa họ bằng cách đạt tới một sự dàn xế theo đó mỗi nước sẽ
làm những gì mà xét một cách tương đối nước đó làm tốt hơn. Theo lý thuyết
này, một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc sản
xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại
quốc tế để tạo ra lợi ích.
4


Nguyên tắc cơ bản để có lợi thế tương đối chính là việc thực hiện cách
mạng hoá sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm có chi phí sản xuất tương đối
thấp hơn so với các nước khác. Lợi thế tương đối cho phép bất kỳ nước nào
cũng có thể tham gia vào thương mại quốc tế để gia tăng thu nhập.
Sau đây, chúng ta sẽ chứng minh rằng các nước sẽ đều thu được lợi từ hoạt
động thương mại bằng sự cách mạng hoá qua ví dụ sau:

Giả sử có số liệu về ngày công lao động cần thiết để sản xuất hai sản phẩm
là thép và cà phê của hai nước Việt Nam và Nhật Bản.
Sản phẩm
Thép (tấn)
Cà phê (tấn)

Chi phí sản xuất (ngày công lao động)
Việt Nam
Nhật Bản
35
20
5
4

Như vậy, nếu xét về chi phí sản xuất thì hao phí lao động của Việt Nam cao
hơn Nhật Bản trong cả hai mặt hàng. Do đó theo lợi thế tuyệt đối thì Việt Nam
không có kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nào sang Nhật Bản.
Nếu xem xét dựa theo chi phí so sánh, ta có:
Quốc gia

Việt Nam

Nhật Bản

Thép/Cà phê

7

5


Cà phê/Thép

1/7

1/5

SP so sánh

Như vậy, để sản xuất ra 1 tấn thép Việt Nam cần 7 tấn cà phê hay ngược lại
cần 1/7 tấn thép để sản xuất 1 tấn cà phê. Tương tự đối với phía Nhật Bản cần 5
tấn cà phê để sản xuất 1 tấn thép và ngược lại cần 1/5 tấn thép để sản xuất 1 tấn
cà phê. Như vậy ta thấy chi phí so sánh để sản xuất ra 1 tấn cà phê của Việt Nam
thấp hơn của Nhật Bản và chi phí để sản xuất ra 1 tấn thép của Nhật Bản thấp
hơn của Việt Nam. Do đó, Việt Nam có thể xuất khẩu cà phê sang Nhật Bản và
5


nhập khẩu thép từ Nhật Bản và ngược lại Nhật Bản có thể xuất khẩu thép sang
Việt Nam và nhập khẩu cà phê từ Việt Nam. Trong mối quan hệ buôn bán này
có 2 nước Việt Nam và Nhật Bản đều có lợi, do đó đều cùng muốn trao đổi hàng
hoá với nhau.
- Về phía Việt Nam: khi chưa có hoạt động ngoại thương người sản xuất cà
phê bán 7 tấn cà phê được 1 tấn thép, khi có ngoại thương họ chỉ cần bán 5 tấn cà
phê sang Nhật Bản là đổi được 1 tấn thép và họ còn lại 2 tấn cà phê để tiêu dùng,
kết quả là Việt Nam có thể tiêu dùng ngoài đường khả năng sản xuất.
Giả sử: tỷ lệ trao đổi là 5,5 cà phê=1 thép và Việt Nam mua 2 tấn thép.
Giá SS
7,0

S


5,5
P

5,0

Nhu cầu
thép

2

Sơ đồ 1.1
Khi có ngoại thương, điểm A phản ánh đồng thời khả năng sản xuất và khả
năng tiêu dùng của 2 loại hàng hoá là cà phê và thép là (C a , Ta). Khi có ngoại
thương Việt Nam tập trung vào sản xuất cà phê nhiều hơn, sản xuất thép ít đi
nên trên đường giới hạn khả năng sản xuất PPF, khả năng sản xuất của Việt
Nam được di chuyển từ A đến B với số lượng cà phê nhiều hơn (C b>Ca) và
à phê
lượng thép ít hơn (Tbhoạt động ngoại thương giữa Việt
Cb

B

Nam và Nhật Bản nên khả năng tiêu dùng của Việt Nam
lại nằm tại C (C b-n, Tb
C
Cb-n

+ 2) vượt ra ngoài đường khả năng sản xuất.


A

Ca

Tb Tb+2 Ta

6

Thép


Sơ đồ 1.2
Cũng tương tự như vậy ta có lợi ích của Nhật Bản thu được trong quan hệ
với Việt Nam như sau:
Giá SS

Thép

1/5

T’b

1/5,5

T’b-2

1/7

T’a

11

Nhu cầu
cà phê

Sơ đồ 2.1

B’

C’
A’

C’b C’b+11 C’a

Sơ đồ 2.2

Như vậy nhờ có ngoại thương mà khả năng tiêu dùng của Nhật Bản cũng
vượt qua đường giới hạn khả năng sản xuất tại điểm C’ (Tb-2, Cb+n).
Qua phân tích ở trên ta đã giải thích được phần nào cơ sở của việc hình
thành các hoạt động ngoại thương. Mô hình của Ricacdo tập trung vào năng suất
lao động tương đối là công cụ hữu ích để lý giải sự ra đời của hoạt động ngoại
thương.

3) Cơ sở ngoại thương của Việt Nam
Luật Thương mại Việt Nam (có hiệu lực từ ngày 1/1/1998) đã khẳng định:
Nhà nước thống nhất quản lý về ngoại thương, có chính sách mở rộng giao lưu
hàng hoá với nước ngoài trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng,
cùng có lợi theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá khuyến khích các thành
phần kinh tế sản xuất hàng xuất khẩu và tham gia xuất khẩu theo quy định của
pháp luật, có chính sách ưu đãi để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo các mặt hàng xuất


7


phê


khẩu có sức cạnh tranh, tăng xuất khẩu dịch vụ thương mại, hạn chế nhập khẩu
những mặt hàng trong nước đã sản xuất được và có khả năng đáp ứng yêu cầu,
bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước.
Về cơ bản chính sách ngoại thương hiện nay của chúng ta đang thực hiện là
chính sách hướng ngoại tổng hợp, tức là tận dụng lợi thế so sánh để sản xuất sản
phẩm xuất khẩu đồng thời khuyến khích sản xuất các sản phẩm để thoả mãn nhu
cầu trong nước và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên để tạo nguồn
tích luỹ cho đất nước.
Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII tháng 6-96 đã nêu: “Đẩy mạnh
xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại.
Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nâng sức cạnh tranh của hàng xuất
khẩu trên thị trường. Giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản
phẩm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu. Tăng nhanh xuất khẩu dịch vụ,
nâng cao tỷ trọng phần giá trị gia tăng trong giá trị hàng xuất khẩu. Giảm dần
nhập siêu, ưu tiên việc nhập khẩu để phát triển sản xuất phục vụ xuất khẩu, hạn
chế nhập khẩu hàng tiêu dùng chưa thiết yếu. Có chính sách bảo hộ hợp lý sản
xuất trong nước. Như vậy hoạt động xuất khẩu được coi là yếu tố quyết định của
hoạt động ngoại thương, là nhân quan trọng trong kinh tế đối ngoại.
Nội dung chính sách xuất khẩu của nước ta bao gồm những điểm sau đây:
- Một là, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, đáp ứng các nhu cầu
xuất khẩu hàng hoá cần thiết cho nền kinh tế quốc dân. Thông qua nhật khẩu
tranh thủ thiết bị kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến của các nước trên thế giới
nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực trong nước.

- Hai là, phấn đầu tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, mở rộng quy mô xuất
khẩu, đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu, đa phương hoá thị trường xuất khẩu.
Nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, thu hẹp chênh lệch giữa xuất khẩu
và nhập khẩu.

8


- Ba là, khuyến khích tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh
doanh thuộc các thành phần kinh tế phát triển sản xuất sản phẩm hướng về xuất
khẩu.
- Bốn là, xoá bỏ bao cấp và bù lỗ trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải hoạt động có hiệu quả, đồng thời
phải thực hiện trách nhiệm xã hội do pháp luật quy định. Khi phục vụ lợi ích
chung, trường hợp doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bị thua lỗ Nhà nước
phải có chính sách hỗ trợ thích đáng.
- Năm là, cơ cấu xuất khẩu và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu phải phù hợp với
điều kiện thị trường cạnh tranh. Đây là yếu tố quyết định để tăng kim ngạch xuất
khẩu vừa tăng nhanh xuất khẩu vừa chú trọng mở rộng các dịch vụ thu ngoại tệ
tăng tỷ trọng các sản phẩm có chứa hàm lượng kỹ thuật cao và sản phẩm chế
biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô là những phương hướng cơ bản để nâng
cao hiệu quả xuất khẩu.
- Sáu là, cơ cấu mặt hàng phải theo hướng đa dạng hoá phát huy tiềm năng
của nền nông nghiệp nhiệt đới, phát huy được các lợi thế về lao động, con người,
tạo ra những mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao nhờ tính độc đáo và giá thành
thấp.

II. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa đối với
nền kinh tế
1) Khái niệm về hoạt động xuất nhập khẩu

Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Xuất
nhập khẩu không chỉ là những hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các
quan hệ mua bán trong thương mại có tổ chức nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất
hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định và từng bước nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Do đó, cùng với những lợi ích kinh tế đem lại khá
cao thì hoạt động xuất nhập khẩu cũng rất dễ dẫn đến những hiệu quả khó lường
9


hết vì nó phải đối mặt với toàn bộ các hệ thống kinh tế của các nước cùng tham gia
xuất nhập khẩu mà các hệ thống này có đặc điểm không giống nhau và rất khó có
thể khống chế được.
Xuất khẩu, đó là hoạt động bán những sản phẩm sản xuất trong nước ra
nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, tăng tích luỹ cho ngân sách Nhà nước, phát triển
sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống cho nhân dân.
Nhập khẩu, đó là hoạt động mua những sản phẩm của nước ngoài về trong
nước, nhằm làm đa dạng hóa sản phẩm của thị trường nội địa, làm tăng sức cạnh
tranh của hàng hóa trong và ngoài nước.
Hoạt động xuất nhập khẩu phức tạp hơn rất nhiều so với việc mua bán một
sản phẩm nào đó trong thị trường nội địa, vì hoạt động này diễn ra trong một thị
trường vô cùng rộng lớn, đồng tiền thanh toán có ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận
chuyển ra ngoài phạm vi quốc gia. Các quốc gia khi tham gia vào hoạt động
buôn bán, giao dịch quốc tế đều phải tuân thủ theo các thông lệ quốc tế.

2) Vai trò của xuất nhập khẩu hàng hoá đối với nền kinh tế
Hoạt động xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng
trưởng và phát triển của bất kỳ một quốc gia nào. Hoạt động xuất nhập khẩu
mang lại nguồn tài chính rất lớn cho đất nước. Chúng ta có thể tóm gọn lại vai
trò của xuất nhập khẩu đối với sự tăng trưởng và phát triển của một quốc gia qua
những điểm sau đây:

- Thông qua việc xuất khẩu các mặt hàng có thế mạnh chúng ta sẽ có khả
năng phát huy được lợi thế so sánh, sử dụng tối đa và hiệu quả các nguồn lực có
điều kiện trao đổi kinh nghiệm cũng như tiếp cận được với các thành tựu khoa
học công nghệ tiên tiến trên thế giới. Đây chính là vấn đề mấu chốt của công
nghiệp hoá hiện đại hoá. Áp dụng công nghệ tiên tiến hiện đại trong các ngành
chế tạo và chế biến hàng xuất khẩu sẽ tạo được những sản phẩm có chất lượng
cao mang tính cạnh tranh trên thị trường thế giới. Khi đó sẽ có một nguồn lực

10


công nghiệp mới cho phép tăng số lượng, chất lượng sản phẩm, đồng thời tiết
kiệm được chi phí lao động của xã hội.
- Tạo việc làm tăng thu nhập cho người lao động, từ đó kết hợp hài hoà
giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội, góp phần tạo ra những
biến chuyển tốt để giải quyết những vấn đề còn bức xúc trong xã hội.
- Tăng thu ngoại tệ tạo nguồn vốn cho đất nước và cả cho nhập khẩu phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đồng thời cải thiện cán cân
thanh toán, cán cân thương mại, tăng dự trữ ngoại tệ cho ngân sách Nhà nước và
qua đó tăng khả năng nhập khẩu nguyên liệu, máy móc thiết bị tiên tiến thay thế
dần cho những thiết bị lạc hậu còn đang sử dụng, để phục vụ cho sự nghiệp phát
triển kinh tế của đất nước.
- Xuất nhập khẩu tất yếu dẫn đến cạnh tranh. Nhờ có cạnh tranh thúc đẩy
doanh nghiệp cải tiến công nghệ để có khả năng sản xuất những sản phẩm, dịch
vụ có chất lượng cao, tạo ra năng lực sản xuất mới. Vì vậy, các chủ thể tham gia
xuất khẩu cần phải tăng cường theo dõi kiểm soát chặt chẽ lẫn nhau để không bị
yếu thế trong cạnh tranh.
- Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, nâng cao uy tín và vị
thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Khi hoạt động xuất nhập khẩu xuất
phát từ nhu cầu thị trường thế giới nó sẽ đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển thể hiện ở một số điểm sau:
+ Tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ làm cho sản xuất phát triển và
ổn định.
+ Mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất góp phần nâng cao
năng lực sản xuất trong nước.
+ Tạo điều kiện cho các ngành có cơ hội phát triển đồng thời kéo theo các
ngành liên quan phát triển theo.
+ Thông qua xuất nhập khẩu, Việt Nam có thể tham gia vào thị trường cạnh
11


tranh thế giới. Do vậy các doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới và hoàn thiện cơ cấu
sản phẩm để thích nghi với các yêu cầu đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường thế
giới.
+ Tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật hiện đại.

12


PHẦN THỨ HAI
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA
CÔNG TY THƯƠNG MẠI KỸ THUẬT VÀ ĐẦU TƯ PETEC
I. Giới thiệu tóm lược về Công ty PETEC
Cách đây hơn 10năm vào tháng 10/1994, cùng với chủ trương sắp xếp lại
việc quản lý kinh doanh dầu thô của Nhà nước, Công ty xuất nhập khẩu Thiết bị
Kỹ thuật Dầu khí (PETECHIM) trực thuộc Bộ Thương Mại đã được tách ra
thành hai công ty riêng biệt. Bộ phận chuyên kinh doanh về lĩnh vực Dầu khí
được chuyển giao cho Công ty Dầu mỏ và khí đốt Việt Nam (Petro Vietnam)
quản lý và công ty mới cấu thành từ bộ phận này có tên gọi là công ty xuất nhập
khẩu Dầu khí (PETECHIM). Bộ phận còn lại được điều chỉnh về cơ cấu và chức

năng, đồng thời đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh dưới tên mới là Công ty
Thương mại kỹ thuật và đầu tư (PETEC). Vậy là tuy Công ty PETEC chỉ mới
được thành lập cách đây hơn 10 năm song quá trình hình thành và phát triển
Công ty đã trải qua 25 năm trong đó có 13 năm gắn bó với những bước thăng
trầm của công ty PETECHIM. Vì thế, sẽ thật thiếu sót khi tìm hiểu về Công ty
PETEC mà không đề cập đôi nét về Công ty PETECHIM tiền thân.
Khi mới thành lập vào ngày 12/10/1981, Công ty xuất nhập khẩu Thiết bị
Kỹ thuật Dầu khí (PETECHIM) vỏn vẹn chỉ có một vài cán bộ chủ chốt được
điều động từ Tổng Công ty xuất nhập khẩu Thiết bị toàn bộ (TECHNO
IMPORT) ở Miền Bắc, không có trụ sở và không có một phương tiện làm việc.
Nhiệm vụ của Công ty được giao là nhập khẩu uỷ thác Thiết bị kỹ thuật, máy
móc, vật tư phục vụ cho hoạt động của Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí Việt-Xô
(Vietsopetro). Không chịu bó tay, cán bộ nhân viên của Công ty đã từng bước
khắc phục khó khăn, năng động sáng tạo để gây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật
hoàn thành nhiệm vụ.

13


Khi Liên doanh Vietsopetro đi vào khai thác những tấn dầu thô đầu tiên
vào năm 1986, do PETECHIM có một đội ngũ cán bộ tài giỏi, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cao, Công ty đã được giao thêm chức năng mới này, Công ty có
điều kiện mở rộng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của mình sang lĩnh vực
xăng dầu, hiện nay là lĩnh vực kinh doanh chủ chốt của Công ty PETEC. Được
Bộ Thương mại cho phép, bắt đầu từ năm 1987, Công ty PETECHIM có thêm
chức năng nhập khẩu xăng dầu từ Liên Xô phục vụ nhu cầu trong nước. Vào
những năm 1991-1992, khi Liên Xô tan rã, việc cung ứng toàn bộ xăng dầu cho
nền Kinh tế quốc dân và tiêu dùng của nước ta gặp khó khăn lớn. Trước tình
hình đó, Công ty đã chủ động kiến nghị Nhà nước nhập xăng dầu từ các nước
khác và dần chuyển hoạt động nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu theo cơ chế

thị trường, ổn định giá cả và góp phần bảo đảm cung cấp xăng dầu cho sản xuất
và sinh hoạt của Xã hội kể cả khi xảy ra chiến tranh vùng Vịnh. Được Nhà nước
chấp thuận phương án đó, tình hình cung ứng xăng dầu ở Việt Nam dần dần trở
lại bình thường. Đây quả là một đóng góp lớn của Công ty đối với đất nước,
đồng thời khẳng định sự năng động và hiệu quả của các cán bộ điều hành Công
ty, những con người luôn biết thích ứng và tìm ra giải pháp hữu hiệu trong mọi
tình huống.
Do tình hình thay đổi, đến tháng 9/1994, theo Quyết định của Chính Phủ,
Công ty PETECHIM đã bàn giao toàn bộ chức năng nhập khẩu ủy thác thiết bị
dầu khí và xuất khẩu ủy thác dầu thô cùng với đội ngũ cán bộ nghiệp vụ kỹ sư
làm công tác xuất nhập khẩu dầu khí và cả tên gọi của đơn vị cho Tổng Công ty
dầu mỏ và khí đốt Việt Nam (Petro Vietnam). Phần còn lại được đổi tên thành
Công ty Thương mại Kỹ thuật và đầu tư (PETEC) thuộc quyền quản lý của Bộ
Thương mại với chức năng và nhiệm vụ: nhập khẩu và cung ứng xăng dầu, thiết
bị máy móc và nguyên vật liệu khác; xuất khẩu bao gồm cả hoạt động thu mua
và chế biến các hàng nông sản như gạo, cà phê và các sản phẩm khác; liên
doanh, liên kết với các đơn vị trong và ngoài nước.

14


Mặc dù có thay đổi trong khâu sản xuất kinh doanh và cán bộ do đổi mới
chức năng nhiệm vụ, Công ty PETEC mới thành lập đã bằng mọi cách thích ứng
với cơ chế mới và tạo đà phát triển ở tầm cao hơn. Cho đến nay, Công ty đã hình
thành được một mạng lưới cung ứng xăng dầu tại các tỉnh từ Nam ra Bắc, mở
các chi nhánh tại Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu, Long
An, Cần Thơ; thành lập Xí nghiệp xăng dầu Cát Lái, xây dựng các hệ thống
cảng và kho dầu tại TP Hồ Chí Minh, kho dầu Đà Nẵng, kho cảng xăng dầu An
Hải (Hải Phòng), duy trì việc tái xuất xăng dầu sang Campuchia.
Ngoài kinh doanh xăng dầu, Công ty còn xuất khẩu cà phê, tổ chức xí

nghiệp thu mua chế biến gạo tại Thốt Nốt (Cần Thơ) và Long An, đầu tư vốn
vào Ngân hàng, Bảo hiểm, vận tải khách hàng, liên kết kinh tế với ngành dâu
tằm, đồng thời ứng vốn nhập khẩu ủy thác bông cho các nhà máy dệt, nhập khẩu
một số máy móc thiết bị và phụ tùng cho các ngành khác.
Do những thành tích đã đạt được trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
Công ty đã được Chính Phủ và Bộ Thương mại tặng nhiềi bằng khen, thư khen
có giá trị (cờ thưởng luân lưu dẫn đầu thi đua ngành Thương mại, huân chương
lao động hạng hai, và vinh dự hơn được Chính Phủ trao tặng đơn vị anh hùng
năm 2000 trong thời kỳ đổi mới). 25năm trôi qua với bao thăng trầm, PETEC đã
đứng vững và từng bước vươn lên chứng tỏ mình, góp phần vào việc khẳng định
vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước trong cơ chế thị trường.
Tóm lược về Công ty PETEC
- Công ty Thương mại Kỹ thuật và đầu tư PETEC xuất thân từ Công ty
xuất nhập khẩu dầu khí (PETECHIM) là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc
Bộ Thương mại được thành lập theo quyết định số 1180-TM-TCCP 23/9/1994
của Bộ trưởng Bộ Thương mại.
- Tháng 10/1994 Công ty chính thức đi vào hoạt động với những chức
năng cụ thể như: nhập khẩu xăng dầu, máy móc thiết bị, bông, sắt thép, phân

15


bón... phục vụ sản xuất; tái xuất xăng dầu, dầu nhờn và xuất khẩu hàng nông
sản: gạo, cà phê, tiêu... chuyển hẳn hoạt động kinh doanh sang cơ chế thị trường.
- PETEC là một pháp nhân tự chủ về tài chính, thực hiện hạch toán kinh
tế độc lập, có tài khỏan tiền Việt Nam và ngoại tệ tại các Ngân hàng ở Việt Nam
và có con dấu theo qui định của Nhà nước.
- Tên gọi: Công ty Thương mại Kỹ thuật và đầu tư.
- Tên giao dịch quốc tế: PETEC Trading and investment corporation.
- Trụ sở chính: 194 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Quận3, Thành phố Hồ Chí

Minh.
- Các chi nhánh, xí nghiệp trực thuộc Công ty:
1. Chi nhánh Hà Nội: tại 26 Tăng Bạt Hổ, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
2. Chi nhánh Hải Phòng: tại phường An Hải, quận An Hải, Hải Phong.
3. Chi nhánh Đà Nẵng: tại 12 Lê Thánh Tôn, TP Đà Nẵng.
4. Chi nhánh Lâm Đồng: tại thị xã Đinh Lạc, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.
5. Chi nhánh Cần Thơ: tại xã Hới Thuận, huyện Thốt Nốt, tỉnh Cần Thơ.
6. Chi nhánh Long An : tại thị trấn Bến Lức, huyệnn Bến Lức, tỉnh Long An.
7. Chi nhánh Vũng Tầu : tại 70 Võ Thị Sáu, T.P Vũng Tàu.
8. Chi nhánh Mat-cơ-va (Công ty PETEC con).
9. Xí nghiệp xăng dầu Cát Lái T.P Hồ Chí Minh.
10. Xí nghiệp An Hải, Hải Phòng
11. Xí nghiệp thu mua chế biến cà phê Di Linh.
12. Xí nghiệp thu mua chế biến nông sản Phú Định.
13. Xí nghiệp thu mua chế biến nông sản Thố Nốt, Cần Thơ.
14. Xí nghiệp thu mua chế biến nông sản Long An.

16


15. Kho xăng dầu Đà Nẵng.
16. Kho nông sản Phạm Thế Hiển.

II. Tình hình hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty PETEC
1) Tình hình chung
Trong bối cảnh chung của nền kinh tế Việt Nam đang phát triển năng động
theo cơ chế thị trường trong khuôn khổ định hướng Xã hội chủ nghĩa, Công ty
Petec đã và đang tận dụng mọi lợi thế có được đồng thời kết nối với những nỗ
lực không ngừng để trụ vững và phát triển đều đặn từ khi thành lập đến nay. Tuy
nhiên để đạt được mục tiêu kinh doanh đề ra là cả một khó khăn bởi vì tình hình

kinh doanh trên thực tế phụ thuộc vào hai yếu tố: thời cơ và thị trường. Sự năng
động, khả năng chuyển đổi linh hoạt trong kinh doanh và uy tín trong quan hệ
với khách hàng của Công ty đã thấy rõ ràng Công ty luôn từng bước khắc phục
những khó khăn khách quan lẫn chủ quan và thể hiện sự tiến bộ và vị trí của
mình trong kinh doanh.
* Nguồn cung ứng hàng hóa của Công ty Petec:
- Mặt hàng nhập khẩu chính (sản phẩm xăng dầu)
Nhập khẩu xăng dầu để phân phối cho thị trường trong nước, cân bằng
cung cầu là một nhiệm vụ chủ yếu của Công ty được Bộ giao. Chính vì lẽ đó,
kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này luôn chiếm tỷ trọng lớn so với những mặt
hàng còn lại có tính chất sự vụ khi Nhà nước giao từng đợt (như thiết bị, máy
móc phục vụ cho ngành dầu khí, điện lực, nông nghiệp...). Do tính chất quan
trọng như vậy nên Công ty luôn giữ gìn mối quan hệ với các nhà cung ứng quen
thuộc của mình. Những nhà cung ứng đó chủ yếu từ Nhật Bản, Singapore. Đây
là hai trong số những nhà cung ứng lớn.
- Các nhà cung ứng nội địa

17


Với 2xí nghiệp chuyên thu mua và chế biến cà phê ở Phú Định và Di Linh
(Lâm Đồng), Công ty Petec đã tổ chức một mạng lưới đi thu mua trực tiếp tại
các hộ trồng cà phê để chế biến và chờ cơ hội thuận lợi bán ra thị trường, mặt
khác vẫn thường xuyên liên lạc với các khách hàng truyền thống để tận dụng
khả năng cung ứng của họ. Ngoài cà phê, Petec còn có những khách hàng cung
cấp các loại hàng hóa dịch vụ khác như: chè, hạt tiêu và một số hàng hóa khác
như: quati điện, giày dép, mỳ ăn liền, cao su.. Tất cả các loại hàng hóa trên
không nằm ngoài mục đích đẩy nhanh kim ngạch xuất khẩu. Điều đó chứng tỏ
các loại hàng hóa trên của Công ty quả là không nhỏ và các nhà cung ứng cho
Petec rất phong phú, nhiều thành phần.

* Tình hình bán hàng của Công ty (sản phẩm xăng dầu)
Doanh số bán hàng của Công ty tương đối lớn, góp phần bình ổn thị trường
hàng hóa trong những năm qua. Mạng lưới khách hàng của Công ty được trải
khắp từ Bắc tới Nam và phát triển đáng kể về số lượng từ 143 khách hàng năm
2001 và đến nay đã lên đến khoảng 300 khách hàng.
Các khách hàng của Công ty tập trung chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, việc
phát triển mạng lưới ra miền Bắc, nhất là miền Trung còn ít. Chủ yếu là khách
hàng công nghiệp lớn (đó là các nhà máy điện, các xí nghiệp sản xuất có công
suất cao).
Sau đó đến khách hàng bán buôn, đó là các tổng đại lý, các công ty chất
đốt, vật tư, thương nghiệp tỉnh, thị trường phía Nam luôn chiếm tỷ trọng lớn.
Trung bình chiếm >80%. Tổng sản lượng/năm Công ty đang chú trọng phát triển
ra phía Bắc. Tới đây Công ty cần phát triển ra thị trường miền Trung hơn nữa để
đáp ứng nhu cầu của Công ty. Việc phát triển mạng lưới trải khắp đất nước là
một việc làm cần thiết không những góp phần cân bằng trạng thái cung cầu của
xã hội mà còn là một trong những công cụ thâm nhập thị trường rất quan trọng.
Hi vọng rằng Công ty Petec sẽ thành công hơn nữa trong việc phát triển mạng
lưới khách hàng, giữ vững thị phần trong cơ chế kinh doanh khó khăn hiện nay.
18


2) Các hoạt động kinh doanh chủ yếu của Công ty PETEC
Trong bối cảnh chung của nền kinh tế Việt Nam đang phát triển năng động
theo cơ chế thị trường trong khuôn khổ định hướng Xã hội chủ nghĩa, Công ty
Petec đã và đang tận dụng mọi lợi thế có được đồng thời kết nối với những nỗ
lực không ngừng để trụ vững và phát triển đều đặn từ khi thành lập đến nay. Tuy
nhiên để đạt được mục tiêu kinh doanh đề ra là cả một khó khăn bởi vì tình hình
kinh doanh trên thực tế phụ thuộc vào hai yếu tố: thời cơ và thị trường. Sự năng
động, khả năng chuyển đổi linh hoạt trong kinh doanh và uy tín trong quan hệ
với khách hàng của Công ty đã thấy rõ ràng Công ty luôn từng bước khắc phục

những khó khăn khách quan lẫn chủ quan và thể hiện sự tiến bộ và vị trí của
mình trong kinh doanh.

19


Bảng 1: Tổng hợp xuất nhập khẩu
Đơn vị tính: 1000 USD

2004
Chỉ tiêu

Trị giá

2005
Tỷ lệ
%

Trị giá

2006
Tỷ lệ
%

Trị giá

So sánh
Tỷ lệ
%


2005/2004
Trị giá

Tỷ lệ
%

2006/2005
Trị giá

Tỷ lệ
%

Kim ngạch nhập khẩu

133.103

77,87

166.253

79,18

271.450

88,04

33.150

24,91


105.197

63,28

Kim ngạch xuất khẩu

37.823

22,13

43.722

28,82

36.860

11,96

5.899

15,60

-6.862

-15,69

Tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu

170.926


100

209.975

100

308.310

100

39.049

22,85

98.335

46,83

20


Bảng 2: Xuất khẩu theo cơ cấu mặt hàng

Đơn vị tính: 1000 USD
Chỉ tiêu
1. Cà phê
2. Gạo
3. Xăng dầu tái xuất
4. Hạt tiêu

5. Cao su
6. Thực phẩm chế biến
7. Các hàng hoá khác
Tổng kim ngạch xuất khẩu

2004
Số lượng (tấn)
17.786
126.869
-

Trị giá
21.585
16.177
61
37.823

2005
Số lượng (tấn)
14.001
2.400
129.406
48
5.936
4.188

21

Trị giá
17.313

562
18.717
216
3.411
3.168
335
43.722

2006
Số lượng (tấn)
14.990
70.703
1.338
4.732

Trị giá
10.315
17.606
5.336
3.145
458
35.860


Bảng 3: Nhập khẩu theo cơ cấu mặt hàng
Đơn vị tính: 1000 USD
2004

ST
T


Chỉ tiêu

SL(tấn)

2005

Trị giá

SL(tấn)

2006

Trị giá

SL(tấn)

So sánh

Trị giá

2005/2004
Trị giá

Tỷ lệ

2006/2005
Trị giá

Tỷ lệ


1

DO

516.733

62.950

530.518

76.947

523.558

137.67

13.997

22,24

60.723

78,92

2

FO

222.536


18.795

228.416

24.566

181.251

30.28

5.771

30,70

5.714

23,26

3

Xăng

229.580

34.373

238.683

46.373


258.718

72.47

12.000

35,96

26.097

56,28

4

KO

117.669

16.985

91.995

18.67

105.989

31.03

1.382


8,14

12.663

68,94

∑ kim ngạch NK

1.086.51
8

133.10
3

1.089.61 166.253 1.069.516
1

271.45

33.150

24,91 105.197

38,75

22


Với dung lượng có hạn, chuyên đề này em chỉ phân tích một số hoạt động

chủ yếu chứ không đi sâu phân tích tất cả mọi lĩnh vực mà công ty hoạt động.
Qua 3biểu phân tích dữ liệu tình hình xuất nhập khẩu trong 3năm 20042006 của Công ty PETEC, chúng ta thấy xu hướng vận động của Công ty trong
quá trình xuất nhập khẩu hàng hóa một cách rõ rệt. Tổng kim ngạch xuất nhập
gia tăng đáng kể, cụ thể: so với năm 2004 thì tổng kim ngạch năm 2005 tăng
22,85% và năm 2006 so với 2005 là 46,83%. Với mức kim ngạch xuất nhập
khẩu hàng năm khá lớn (trung bình khoảng 230triệu USD). Công ty đã giữ vững
được sự tăng trưởng so với lúc ban đầu. Nhìn chung hiệu quả của Công ty
PETEC có tiến triển tốt và đem lại hiệu quả nhất định.
Đi vào chi tiết, chúng ta thấy tình hình xuất nhập khẩu của Công ty năm
2004 và 2005 có dấu hiệu khả quan. Nếu như năm 2004, tỷ lệ xuất khẩu chỉ
22,13% trên tổng kim ngạch xuất nhập khẩu thì năm 2005 là 28,82% trên tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu. Do cơ chế xuất nhập khẩu mới, công ty tập trung
nhập khẩu xăng dầu đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội, vì thế mà tình hình nhập
khẩu giảm sút so với 2005 thì giảm 6.802.000USD giảm 15,69%. Điều này cũng
dễ lý giải tại sao lại như vậy? Bởi mặt hàng xuất khẩu của công ty chủ yếu là
nông sản, hang thủ công mỹ nghệ, do vậy giá xuất không cao. Trong đó kim
ngạch nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn. Năm 2004 là 77,87%, năm 2005 là 79,18%
và năm 2006 là 88,04%. Nếu so sánh 2005/2004, tỷ lệ nhập khẩu tăng 24,91%
thì đến năm 2006/2005 tỷ lệ đó tăng 63,28%, bởi vì hàng nhập khẩu bao gồm
các sản phẩm xăng dầu có giá trị caom năm 2006 giá xăng dầu cao hơn nhiều so
với năm 2005 tại biểu 3. Năm 2006 sản lượng nhập 1.069.516 tấn ít hơn 2005 là
20.095 tấn nhưng trị giá lại tăng 105.197.000USD. Tỷ trọng nhập khẩu luôn
chiếm 80% trong hoạt động xuất nhập khẩu công ty. Để tăng tỷ trọng xuất khẩu
năm 2004, công ty đã đề ra một kế hoạch cụ thể là tổng kim ngạch xuất khẩu lên
đến 55triệu USD tăng 22,083% so với 2006.
23


* Nguồn cung ứng hàng hóa của Công ty Petec:
- Mặt hàng nhập khẩu chính (sản phẩm xăng dầu)

Nhập khẩu xăng dầu để phân phối cho thị trường trong nước, cân bằng
cung cầu là một nhiệm vụ chủ yếu của Công ty được Bộ giao. Chính vì lẽ đó,
kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này luôn chiếm tỷ trọng lớn so với những mặt
hàng còn lại có tính chất sự vụ khi Nhà nước giao từng đợt (như thiết bị, máy
móc phục vụ cho ngành dầu khí, điện lực, nông nghiệp...). Do tính chất quan
trọng như vậy nên Công ty luôn giữ gìn mối quan hệ với các nhà cung ứng quen
thuộc của mình. Những nhà cung ứng đó chủ yếu từ Nhật Bản, Singapore. Đây
là hai trong số những nhà cung ứng lớn.

24


Bảng 4: Các nhà cung ứng sản phẩm xăng dầu
Đơn vị tính: 1000 USD
2004
Nhà cung ứng (phân theo
thị trường)

Sản lượng
tấn

Trị giá
USD

2005
Tỷ lệ
%

Sản lượng
tấn


Trị giá
USD

2006
Tỷ lệ
%

Sản lượng
tấn

Trị giá
USD

Tỷ lệ
%

1. Singapore

665.011

78.404

61,21

605.554

89.486

55,57


641.938

162.071

60,02

2. Nhật

309.396

38.065

28,48

365.180

52.330

33,51

220.535

60.983

20,62

3. Thái Lan

63.725


9.633

5,87

59.134

11.173

5,43

87.351

20.460

8,17

4. Trung Quốc

19.409

2.623

1,77

29.889

6.590

2,74


95.492

20.227

8,93

5. Các nhà cung ứng khác

28.977

4.378

2,67

29.924

6.674

2,75

24.200

5.709

2,26

1.086.518

133.103


100

1.089.611

166.253

100

1.069.516

271.450

100

Tổng cộng

25


×