Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi trong trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 27 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục lễ
giáo cho trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi trong trường Mầm Non.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực phát triển tình cảm- kỹ năng
xã hội.
3. Tên tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Nguyệt
Ngày tháng năm sinh: 22/8/1981
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Mầm Non
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường Mầm non Chí Minh.
Điện thoại: 01682777244
4. Đồng tác giả: Không.
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
6. Đơn vị áp dụng: Trường Mầm Non Chí Minh- Thị xã Chí Linh- Tỉnh
Hải Dương.
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Giáo viên có trình độ chuyên môn
Nhà trường có đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ đề tài nghiên cứu
Phối hợp với các bậc phụ huynh chặt chẽ về việc dạy trẻ ở nhà.
8.Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: tháng 9/2014 đến tháng 2/2015
HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

NGUYỄN THỊ NGUYÖT

1


TÓM TẮT SÁNG KIẾN


1. Hoàn cảnh này sinh sáng kiến
Trong thời đại ngày nay, Việt Nam đang trên đà tiến lên công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự phát triển của một thế giới hiện đại đòi hỏi mỗi
chúng ta phải nhanh nhạy, linh hoạt, sáng tạo mới bắt kịp được sự thay đổi
không ngừng của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Chính vì vậy mà
thời gian dành cho gia đình, con cái ngày càng bị thu hẹp, hạn chế hơn. Hàng
ngày trong gia đình bố mẹ, con cái ít có thời gian trò chuyện, gặp mặt nhau.
Gia đình hiện đại bây giờ họ thường phó mặc con cái cho người giúp việc ở
nhà hoặc cô giáo ở lớp. Nên họ không có thời gian giáo dục, dạy dỗ con cái cho
dù chỉ là những “lời ăn tiếng nói” gần gũi nhất đối với con trẻ như: những tiếng
chào hỏi lễ phép, đi thưa về gửi, kính trọng người lớn, sự ngăn nắp gọn gàng…
Khi nhận thấy được thực trạng lễ giáo của lớp mình còn rất nhiều hạn chế nên
ngay từ đầu năm tôi đã khảo sát trên trẻ về giáo dục lễ giáo kết quả chỉ có 24%
trẻ biết chào hỏi lễ phép, 29% trẻ có thói quen ngăn nắp gọn gàng, 26% trẻ biết
kính trọng người lớn, 21% trẻ biết cảm ơn, xin lỗi. Do thấy được những thực tế
đó tôi đã suy nghĩ và tìm tòi ra một số biện pháp nhằm giúp trẻ mẫu giáo 5 -6
tuổi trong trường mầm non có thói quen lễ giáo trong cuộc sống hàng ngày.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
+ Điều kiện: Để thực hiện tốt các biện pháp đề ra bản thân giáo viên
phải luôn tìm tòi và thực hiện nghiêm túc thời gian biểu. Phối kết hợp chặt chẽ
giữa phụ huynh và giáo viên, thông tin 2 chiều giữa gia đình và nhà trường kịp
thời để có những biện pháp giáo dục cụ thể phù hợp với tâm sinh lý của trẻ.
+ Thời gian: Để đạt được kết quả như mong đợi thời gian áp dụng sáng
kiến này ít nhất là 06 tháng và dài nhất là 02 năm.
+ Đối tượng: Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong trường Mầm non.
3. Nội dung sáng kiến
Muốn đạt được kết quả giáo dục lễ giáo cho trẻ như mong muốn thì môi
trường giáo dục xung quanh trẻ rất quan trọng. Đầu tiên đó là môi trường lớp
học của trẻ, chúng ta cần xây dựng một trường lớp lễ giáo. Đó là lớp học phải
2



luôn sạch sẽ, ngăn nắp, gọn gàng, đồ dùng đồ chơi phải sắp xếp hợp lý, luôn
được lau chùi, vệ sinh thường xuyên để tạo cho trẻ thói quen sạch sẽ, gọn gàng
ngăn nắp. Bên cạnh đó, cô giáo phải luôn là tấm gương sáng về lễ giáo cho trẻ
học tập và noi theo. Khi tiếp xúc với bạn bè đồng nghiệp, với lãnh đạo cấp trên
và kể cả với trẻ thì cô giáo phải có những cử chỉ, lời lẽ khiêm tốn, thân thiện và
tôn trọng mọi người, kể cả với trẻ. Gia đình cũng là nơi giáo dục lễ giáo rất
quan trọng chính vì vậy giáo viên phải phối kết hợp với gia đình để giáo dục lễ
giáo thường xuyên, liên tục có như vậy thì mới đạt hiệu quả cao. Cô giáo cũng
cần động viên khen ngợi, khích lệ trẻ kịp thời để trẻ hào hứng, tích cực tham
gia vào các hoạt động lễ giáo một cách tự nhiên và thường xuyên hơn. Ngoài ra
trong các hoạt động giáo dục giáo viên có thể lựa chọn những nội dung phù
hợp để tích hợp giáo dục lễ giáo nhằm đưa giáo dục lễ giáo đến với trẻ một
cách nhẹ nhàng, gần gũi hơn như trong các hoạt động học làm quen với văn
học, khám phá xã hội, giáo dục âm nhạc, thông qua các ngày hội ngày
lễ….Giáo dục lễ giáo không chỉ nằm ở trong các hoạt động học mà nó còn phải
được giáo dục ở mọi lúc mọi nơi như: giờ đón trả trẻ, giờ chơi, giờ ăn, giờ ngủ,
hoạt động ngoài trời, đi dạo đi thăm…Có như vậy thì mới rèn cho trẻ có thói
quen với giáo dục lễ giáo mọi lúc mọi nơi. Từ đó hình thành cho trẻ có thói
quen lễ giáo, để giáo dục lễ giáo ăn sâu vào trong tiềm thức trẻ một cách tự
nhiên, không gò ép.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Từ những biện pháp trên tôi nhận thấy việc giáo dục lễ giáo của lớp mình
đã đi lên một cách rõ rệt. Kết quả cuối năm học: 95% trẻ biết chào hỏi lễ phép;
95% trẻ có thói quen ngăn nắp gọn gàng, 95% trẻ biết kính trọng người lớn và
92% trẻ biết cảm ơn, xin lỗi. Đó là những kết quả mà lớp tôi đã đạt được sau
một thời gian áp dụng những biện pháp giáo dục lễ giáo mà tôi đã tìm tòi và
lồng ghép vào các hoạt động giáo dục trẻ. Kết quả đó đã đóng góp phần nào
trong việc phát triển toàn diện cho trẻ đặc biệt, là phát triển nhân cách cho trẻ

sau này.

3


5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến
* Đối với phòng giáo dục:
- Thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề, tọa đàm về nội dung giáo dục lễ
giáo cho trẻ trong trường mầm non.
- Phổ biến rộng rãi nội dung giáo dục lễ giáo bằng cách đưa lên wedside, lên
hòm thư chung của phòng giáo dục để tất cả các giáo viên, bạn bè đồng nghiệp
có cơ hội học hỏi, trao đổi và đúc rút kinh nghiệm
- Tổ chức hội thảo, tọa đàm qua các buổi tập huấn hè.
* Đối với nhà trường:
- Đưa nội dung sáng kiến này vào trong các cuộc họp chuyên môn, các buổi
sinh hoạt tổ và đưa nội dung sáng kiến này lên hòm thư chung của nhà trường.
* Đối với phụ huynh:
- Tổ chức họp phụ huynh, tuyên truyên tới toàn thể phụ huynh về những biện
pháp giáo dục lễ giáo nêu trên.

PHẦN II: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
4


1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân, chịu trách nhiệm chăm sóc, giáo dục trẻ từ 0 – 6 tuổi. Đây là giai đoạn đặt
nền móng đầu tiên, quan trọng nhất của nhân cách con người. Đây là giai đoạn
phát triển rất nhanh của trẻ cả về mặt thể lực, nhận thức lẫn tình cảm và tinh
thần. Do vậy kinh nghiệm học tập của trẻ ở bậc học mầm non rất quan trọng, nó

ảnh hưởng đến tương lai của trẻ, giúp thiết lập nền tảng cho việc lĩnh hội các
kiến thức và kỹ năng, dẫn đến việc tác động vào khả năng học tập và các hành
vi của trẻ. Việc học tập và tích lũy kinh nghiệm tại trường là hết sức quan trọng
với trẻ nhỏ. Trẻ sẽ phát triển mạnh mẽ trong môi trường được tiếp xúc với
những giáo viên có nghiệp vụ sư phạm giỏi, được đảm bảo an toàn, được tôn
trọng, được chăm sóc chu đáo và được sử dụng các trang thiết bị đáp ứng nhu
cầu về thể chất và phát triển trí tuệ. Với mong muốn đàn con thân yêu của mình
phát triển một cách toàn diện cả về mặt thể chất lẫn tinh thần, phát triển đồng
bộ về tấtcả các mặt và để thực hiện được tốt mục tiêu của mình thì tôi phải linh
hoạt, chủ động lựa chọn các nội dung giáo dục phù hợp với lứa tuổi mầm non.
Việc dạy trẻ Mầm Non cũng như trồng cây non, có chăm sóc từ khi còn non trẻ
thì sau này mới cho kết quả tốt.
Sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Vì lợi ích mười năm
trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Người không chỉ quan tâm đến
việc “trồng cây” để “Ích nước lợi nhà” mà Người còn quan tâm đến việc “trồng
người”. “Trồng người”ở đây là giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện tư cách, phẩm
chất, đạo đức lễ giáo để giúp cho thế hệ trẻ hội tụ đầy đủ những yếu tố đó để
trở thành người công dân tốt, người chủ nhân tương lai của đất nước. Chính vì
vậy nghị quyết TW2 khóa VIII của đảng cộng sản Việt Nam về định hướng
chiến lược giáo dục đào tạo trong thời kì công nghiệp hóa- hiện đại hóa và đề
ra mục tiêu giáo dục Mầm Non phải chuẩn bị những gì tốt nhất, kể cả về mặt
vật chất và tinh thần một cách toàn diện. Đặc biệt là đối với trẻ 5- 6 tuổi chuẩn
bị tốt mọi điều kiện cũng như tâm thế cho trẻ bước vào lớp 1 một cách tự tin.

5


Như chúng ta đã biết, đất nước ta đang trên đà phát triển kinh tế, hội
nhập và giao lưu với nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Làm thế nào để
cho thế hệ trẻ biết chắt lọc những tinh hoa văn hóa thế giới “ Hòa nhập chứ

không hòa tan” không đánh mất bản than mình, mất đi phong tục truyền thống
về văn hóa nói chung và truyền thống lễ giáo nói chung từ ngàn xưa ông cha ta
đẻ lại. Trong thời đại này việc giáo dục lễ giáo cho trẻ là rất quan trọng đặc biệt
là trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi vì ở lứa tuổi này trẻ đã có nhận thức được phần nào
tầm quan trọng của giáo dục lễ giáo. Giáo dục lễ giáo cho trẻ ở giai đoạn 5-6
tuổi trong trường Mầm Non nó sẽ quyết định đến việc phát triển nhân cách,
phẩm chất đạo đức của mỗi đứa trẻ sau này.
Là một giáo viên mầm non trong thời cuộc du nhập nhiều nền văn hóa
khác nhau như hiện nay đòi hỏi người giáo viên phải cần có bản lĩnh nghề
nghiệp, tình yêu nghề, lòng yêu nước nồng nàn, tình yêu trẻ thiết tha có như
vậy thì mới hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Một trong những nhiệm vụ đó
là giáo dục trẻ biết giữ lại vẻ đẹp truyền thống văn hóa vốn có của cha ông ta
để lại từ ngàn xưa. Đây là một nhiệm vụ đầy khó khăn, vất vả và vô cùng cấp
bách trong các mục tiêu giáo dục con người toàn diện hiện nay. Nhận thức
được tầm quan trọng của việc giáo dục lề giáo cho trẻ 5-6 trong trường Mầm
Non. Tôi đã tích cực nghiên cứu tài liệu, đúc rút kinh nghiệm, học hỏi bạn bè
đồng nghiệp để tìm ra những giải pháp tốt nhất để giáo dục lễ giáo cho trẻ và
đây cũng chính là lí do tôi chọn và thực thi đề tài: Một số biện pháp nâng cao
chất lượng giáo dục lễ giáo cho trẻ 5-6 tuổi trong trường Mầm Non.
Tôi đã áp dụng và đem lại hiệu quả rất cao, xin được chia sẽ cùng bạn bè
đồng nghiệp.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
Lễ giáo là giáo dục con người biết được lễ nghi, phép tắc ứng xử trong
xã hội, làm cho phần con nhỏ đi, phần người lớn lên. Nếu là NGƯỜI thì trước
hết phải là lễ, nếu không có lễ thì người chỉ có phần CON. Ông cha ta đã có
câu: “Tiên học lễ, hậu học văn” điều đó muốn nói lên là trước tiên chúng ta
phải học cái lễ phép ứng xử trong xã hội, sau đó là học những lời ăn tiếng nói,
6



nói sao cho hay, cho vừa với người nghe. Lễ phép là nét đẹp văn hóa luôn đặt
lên hàng đầu khi nói đến một ai đó. Trong xã hội ngay nay, đất nước ta đã du
nhập rất nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới nên giới trẻ không khỏi bị
ảnh hưởng từ nhiều nền văn hóa khác nhau đó. Đã có rất nhiều những câu
chuyện thương tâm về đạo đức lễ giáo xảy ra hàng ngày mà chúng ta đã nghe
qua những phương tiện thông tin đại chúng, qua các trang mạng, báo đài và
ngay ở xung quanh chúng ta.
Việc giáo dục lễ giáo cho trẻ ngay ở lứa tuổi Mầm non là thực sự cần
thiết và quan trọng. Vì “Dạy trẻ như trồng cây non” ngay ở những năm đầu đời
thì chúng ta cần hình thành nhân cách tốt cho trẻ, để khi lớn lên trẻ có những
thói quen, hành vi tốt và trở thành những người công dân tốt của xã hội, người
chủ nhân tương lai của đất nước. Như Bác Hồ đã nói: “Có tài mà không có đức
là người vô dụng. Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”.
3. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
Như chúng ta đã biết Việt Nam đang đi trên con đường hội nhập cả về
kinh tế cũng như văn hóa. Việt Nam đang du nhập với rất nhiều nền văn hóa
khác nhau trên thế giới và giới trẻ hiện nay đang dần quên đi những giá trị
truyền thống văn hóa của dân tộc. Vì một xã hội ngày một phát triển đòi hỏi
mỗi chúng ta phải nắm bắt kịp với xu thế chung của thế giới. Cuộc sống bận
rộn hơn, kéo theo đó là một hệ lụy của xã hội như con cái không được bố mẹ
quan tâm. Thời gian chủ yếu của bố mẹ là công việc. Họ luôn đi sớm về tối để
con cái cho người giúp việc, ở nhà với ông bà già hoặc họ phó mặc cho cô giáo
ở trường. Họ không có thời gian quan tâm dạy dỗ, giáo dục con cái. Chính vì
vậy, vấn đề đạo đức nói chung và vấn đề giáo dục lễ giáo nói riêng đang là một
trong tiếng chuông cảnh báo với mọi gia đình. Theo nghiên cứu mới đây nhất
của nhiều nhà Xã hội học thì 70% trẻ em hư hỏng là do thiếu sự quan tâm của
gia đình.
Việc điều tra thực trạng là một vấn đề rất quan trọng và cần thiết cho việc
nghiên cứu. Điều tra thực trạng sẽ giúp chúng ta thấy được những ưu điểm và
những tồn tại của những vần đề liên quan đến đề tài nghiên cứu. Từ đó giúp

7


người nghiên cứu định hướng được những vấn đề ta cần làm để có biện pháp cụ
thể, phù hợp với thực tế, thực hiện có hiệu quả. Chính vì vậy để thực thi đề tài
này tôi đã tiến hành điều tra thực trạng về kết quả chất lượng giáo dục lễ giáo
của trẻ đầu năm học 2014 - 2015
Kết quả thu được như sau:
Tổng
Th áng
9/2014

số
cháu

Biết chào hỏi
lễ phép
Số

Tỷ lệ

Biết gọn

Biết kính

gàng, ngăn

trọng người

nắp

Số
Tỷ lệ

lớn
Số
Tỷ lệ

Biết cảm ơn,
xin lỗi
Số

Tỷ lệ

Năm học

cháu
%
cháu
%
cháu
%
cháu
%
2014
38
9
24
11
29
10

26
8
21
Qua việc theo dõi thường xuyên việc lễ giáo của trẻ tôi nhận thấy ở lớp
-2015
tôi còn một số hạn chế như sau:
- Trẻ chưa có thói quen chào hỏi, trẻ chỉ chào hỏi khi cô giáo nhắc nhở
hay còn gọi là chào vẹt, chưa xuất phát từ trong tâm của trẻ.
- Trẻ chưa biết cách sắp đồ dùng đồ chơi đứng nơi quy định, chơi xong
thường là vứt tại chỗ, chưa cất ngăn nắp, thậm chí là đồ dùng cá nhân của trẻ
vẫn còn vứt bừa bãi, cuối giờ bố mẹ hoặc cô giáo phải đi tìm….
- Trẻ chưa biết nghe lời cô giáo hoặc bố mẹ, trẻ thường làm nũng với bố
mẹ, hay đòi hỏi, vòi vĩnh. Bố mẹ nói vẫn chưa biết nghe lời và kính trọng. Với
cô giáo đôi khi trẻ còn tỏ thái độ không hài lòng khi cô giáo nhắc nhở trẻ lúc trẻ
mắc khuyết điểm.
- Khi trẻ mắc lỗi thì trẻ chưa thực sự tự giác để nhận lỗi của mình, trẻ
thường đùn đẩy trách nhiệm, đổ lỗi cho nhau. Khi được ai đó cho quà và giúp
đỡ trẻ chưa biết nói lời cảm ơn, chỉ khi cô giáo nhắc nhở thì trẻ mới nói lời
cảm ơn.
4. CÁC BIỆN PHÁP, GIẢI PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN
4.1. Biện pháp 1: Xây dựng lớp học lễ giáo
Xây dựng lớp học lễ giáo ở đây là giáo viên tạo ra môi trường học tập,
đồ dùng đồ chơi luôn được sắp xếp ngăn nắp, gọn gàng, bố trí khoa học. Đồ
chơi của từng góc phải được sắp xếp riêng biệt tạo ra được hướng mở, mới lạ,
8


hấp dẫn và kích thích sự chú ý, tò mò của trẻ, để khi trẻ chơi xong trẻ muốn
được sắp xếp đồ dùng đồ chơi gọn gàng giống như ban đầu cô giáo sắp xếp.
Đặc biệt giáo viên có thể lồng ghép nội dung giáo dục lễ giáo vào trong các góc

như: góc sách truyện, góc nghệ thuật, sưu tầm những tranh ảnh có nội dung
giáo dục lễ giáo cho trẻ xem tạo sự hứng thú cho trẻ bằng cách trang trí các góc
đó đẹp mắt, hấp dẫn ( Hình ảnh 1). Cô giáo có thể gần gũi, trò chuyện với trẻ
về những nội dung bức tranh đó và cùng trẻ thảo luận về những hành vi văn
minh trong bức tranh. Từ đó giúp trẻ có thói quen văn minh trong giao tiếp với
mọi người, mọi vật xung quanh. Cô giáo cần thường xuyên thay đổi những
hình ảnh mang nội dung giáo dục lễ giáo cho trẻ nhằm tạo điều kiện cho trẻ
được làm quen với nhiều nội dung lễ giáo khác nhau. Từ đó trẻ sẽ có những
hành vi văn minh, chuẩn mực của đạo đức lễ giáo. Việc lồng ghép nội dung
giáo dục lễ giáo vào các góc chơi tạo sự thích thú, phấn khởi, tự nguyện tham
gia vào các góc chơi và trẻ thường xuyên đến xem và chơi ở các góc chơi đó
hơn.
4.2. Biện pháp 2: Cô giáo luôn là tấm gương về lễ giáo
Với trẻ, cô giáo là người có ảnh hưởng lớn nhất, mọi lời nói, cử chỉ, thái
độ của cô trẻ luôn để ý và cố gắng làm theo. Chính vì vậy cô giáo phải có
những hành vi đạo đức, lời nói chuẩn mực để cho trẻ noi theo. Trong cuộc sống
hàng ngày, từ những trang phục cô giáo mặc cũng phải luôn chỉn chu, gọn
gàng, sạch sẽ, lịch sự. Đồ dùng cá nhân của cô luôn để đúng những nơi quy
định, sắp xếp khoa học. Từ những việc làm nhỏ như vậy trẻ cũng có thể làm
theo. Bên cạnh đó khi giao tiếp với bạn bè đồng nghiệp thì luôn hòa đồng, gần
gũi, thân mật, tuyệt đối không nói tục. Đối với phụ huynh thì luôn khiêm tốn
lịch sự, cởi mở. Còn đối với lãnh đạo cấp trên, giáo viên có thái độ lễ phép, tôn
trọng, lắng nghe. Đặc biệt đối với trẻ cô giáo phải thực sự là người mẹ hiền,
luôn lắng nghe, tôn trọng trẻ. Khi trẻ hỏi phải trả lời đủ câu, trả lời rõ ràng, nhẹ
nhàng, tuyệt đối không được trả lời qua loa, lấy lệ và tạo điều kiện tốt nhất để
cho trẻ có thể tham gia vào mọi hoạt động giáo dục của lớp.

9



4.3. Biện pháp 3: Lồng ghép nội dung giáo dục lễ giáo vào các tiết
học.
Đây là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để trẻ có thể nắm bắt,
tiếp thu từ đó hình thành cho trẻ thói quen, hành vi có văn hóa, có lễ giáo. Bất
cứ giờ học nào giáo viên cũng có thể lồng ghép nội dung giáo dục lễ giáo vào
trong tiết học đó.
VD1: Trong tiết học tạo hình “Vẽ chân dung cô giáo” giáo viên có thể
hỏi: Trong lớp con có mấy cô giáo? Hàng ngày cô giáo phải làm những công
việc gì? Khi hỏi về công việc của cô giáo cho trẻ kể một số công việc hàng
ngày của cô giáo từ đó nói nên sự vất vả của cô giáo. Giáo dục trẻ yêu quý,
kính trọng, biết nghe lời cô giáo, biết giúp đỡ cô giáo những việc nhỏ vừa sức
của mình. Hoặc trong giờ tạo hình “Những người thân trong gia đình” Giáo
viên có thể hỏi: Gia đình con có mấy người? Đó là những ai? Gia đình con
thuộc gia đình lớn hay gia đình nhỏ? Mọi người sống trong gia đình phải đối xử
với nhau như thế nào? GD trẻ phải biết yêu thương, kính trọng ông bà, bố mẹ,
phải biết quan tâm, chăm sóc những thành viên trong gia đình khi họ bị ốm.
Phải biết nhường nhịn em bé….
VD2: Khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, trong tiết kể chuyện:
“Ba cô gái” cô đàm thoại với trẻ: Trong truyện cô cả và cô hai là người như thế
nào? Ai là người thương mẹ nhất? Trong truyện các con nên học đức tính của
ai? Vì sao? Khi bố mẹ các con ốm các con sẽ làm gì? Từ đó giáo dục trẻ biết
yêu thương, chăm sóc người thân khi họ bị ốm. Hoặc trong tiết thơ “Bó hoa
tặng cô” thì đàm thoại với trẻ: Các bạn nhỏ đã rủ nhau đi đâu vào ngày 8/3?
Các bạn nhỏ đem hoa tặng ai? Vì sao lại tặng cô giáo? Khi tặng hoa cô giáo
con tặng bằng mấy tay? Từ đó giáo dục trẻ lòng biết ơn, kính trọng cô giáo đã
dạy dỗ mình và cũng từ đó giáo dục trẻ khi trao vật gì đó cho người lớn hơn
hoặc nhận quà từ tay người khác thì phải trao và nhận bằng hai tay và nói lời
cảm ơn.
Còn rất nhiều bài thơ, câu chuyện nói về tình cảm gia đình, tình cảm thầy
trò, tình yêu thiên nhiên và những tấm gương sáng giúp đỡ những người xung

10


quanh mà giáo viên có thể lồng ghép những nội dung giáo giục lễ giáo vào
trong đó để cho trẻ có thể thấy được những hành vi, những chuẩn mực đạo đức
và từ đó hình thành cho trẻ có thói quen về những chuẩn mực đạo đức đó.
VD3: Trong giờ Giáo dục âm nhạc, dạy hát “Em yêu cây xanh” cô giáo
hỏi trẻ: Trồng cây xanh để làm gì? Cây xanh có ích lợi như thế nào? Thông qua
đó cô giáo dục trẻ không được ngắt lá bẻ cành cây, biết chăm sóc và bảo vệ cây
xung quanh bé, để cây xanh cho ta rất nhiều lợi ích.
VD4: Đối với khám phá khoa học “Phương tiện giao thông xung quanh
bé” Cô đàm thoại với trẻ: Đây là phương tiện giao thông đường gì? Ai là người
điều khiển phương tiện giao thông này? Các con đã đi phương tiện giao thông
này bao giờ chưa? Khi ngồi trên những phương tiện giao thông này các con
phải chấp hành như thế nào? Từ đó giáo dục trẻ khi tham gia giao thông phải
biết chấp hành những quy định, luật giao thông, biết tôn trọng, yêu quý những
người điều khiển phương tiện giao thông và cho trẻ biết những hành vi văn
minh khi tham gia các phương tiện giao thông công cộng như là phải biết
nhường chỗ cho người già, phụ nữ có thai và các em nhỏ….
VD5: Trong giờ thể dục kỹ năng: Cô luôn ăn mặc trang phục gọn gàng,
yêu cầu phụ huynh học sinh cùng kết hợp với cô giáo may đồng phục thể dục
cho trẻ và giờ dạy thể dục kỹ năng thường dạy vào thứ 2 hàng tuần để cho trẻ
mặc đồng phục. Trong giờ dạy thể dục đàm thoại với trẻ: Muốn có một cơ thể
khỏe mạnh chúng ta phải làm gì? Ngoài ăn uống đủ chất ra chúng ta còn phải
làm gì nữa? Giáo dục trẻ ăn uống điều độ, nghỉ ngơi hợp lý và thường xuyên
tập thể dục để có một cơ thể khỏe mạnh và dẻo dai.
VD6: Trong giờ làm quen với chữ cái cho trẻ làm quen với chữ cái mới.
Làm quen chữ cái qua tranh giáo viên nên chọn những bức tranh mang nội
dung giáo dục lễ giáo. Ví dụ: Khi cho làm quen với chữ cái a, ă, â thì giáo viên
chọn những bức tranh: Đôi mắt, bàn tay, bàn chân. Đàm thoại với trẻ muốn cho

cơ thể sạch sẽ như vậy chúng ta phải làm gì? Giáo dục cho trẻ biết giữ gìn vệ
sinh than thể…Hoặc khi cho trẻ làm quen với chữ cái e,ê thì cho trẻ làm quen
với từ dưới tranh “ Mẹ bế bé” hỏi trẻ: Mẹ đang làm gì? Khi các con còn nhỏ mẹ
11


các con chăm sóc các con như thế nào? Nói cho trẻ biết được sự vất vả, sự yêu
thương của mẹ dành cho con cái. Giáo dục trẻ biết yêu quý, kính trọng mẹ, biết
nghe lời mẹ, cố gắng học thật giỏi để mẹ vui lòng. Qua giờ học cũng luôn nhắc
nhở ngồi ngay ngắn, chú ý tập trung nghe cô giảng bài. Sau giờ học nhắc nhở
trẻ cất đồ dùng đồ chơi đúng nơi quy định. Tạo cho trẻ thói quen ngăn nắp sau
mỗi tiết học.
4.4. Biện pháp 4: Giáo dục lễ giáo cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi
Đây là một biện pháp vô cùng quan trọng vì ở bất cứ đâu và bất kỳ nơi
nào trẻ cũng được tiếp xúc với môi trường giáo dục lễ giáo. Giáo viên có thể
lồng ghép giáo dục lễ giáo vào trong các hoạt động như hoạt động góc, hoạt
động ngoài trời, hoạt động chiều, qua các giờ đón và trả trẻ.
VD1: Trong các giờ hoạt động góc qua những lời đối thoại của trẻ với
nhau những buổi đầu cô có thể vào vai những người mua và bán hàng cho trẻ
quan sát, cô thường xuyên sử dụng những câu chào hỏi lễ phép, những lời cảm
ơn, xin lỗi và những hành động đưa- nhận bằng hai tay. Sau đó cô quan sát
những buổi chơi của trẻ, nếu trẻ chưa có những hành vi đúng thì cô kịp thời
uốn nắn cho trẻ. Để từ đó giúp cho trẻ có những thói quen hành vi văn minh
trong giao tiếp.( Hình ảnh 2)
VD2: Trong các giờ đón và trả trẻ cô giáo luôn ân cần, dịu dàng, cởi mở
đối với trẻ và phụ huynh. Trong giờ đón trẻ phải hình thành cho trẻ có thói
quen chào bố mẹ và cô giáo. Nếu như trẻ quên không chào cô khi đến lớp thì
giáo viên khéo léo xử lý tình huống đó bằng cách là cô giáo sẽ chào trẻ trước.
Còn nếu như trẻ quên không chào bố mẹ trẻ thì giáo viên cũng chào phụ huynh
để trẻ nghe thấy và làm theo. Từ đó giáo dục trẻ khi đến lớp thì phải chào bố

mẹ và cô giáo, khi về cũng phải biết chào cô giáo, chào các bạn và chào bố mẹ
( Hình ảnh 3). Từ đó hình thành cho trẻ có thói quen chào hỏi người khác và
khi chào người khác phải có thái độ lễ phép.
VD3: Trong các giờ hoạt động chiều cô giáo có thể tổ chức cho trẻ xem
những hình ảnh thật về các hành vi văn minh, lễ phép như: nhặt rác ngoài sân
trường, nhận quà bằng hai tay, nói lời cảm ơn khi được người khác cho quà,
12


được người khác giúp đỡ và nói lời xin lỗi khi mắc khuyết điểm. Có thể tổ chức
thực hành những tình huống đó vào các hoạt động chiều. Từ đó sẽ khắc sâu cho
trẻ những hành vi văn minh.
VD4. Trong các giờ hoạt động ngoài trời cô thường xuyên tổ chức cho
trẻ nhặt lá rụng ngoài sân trường, dọn vệ sinh sân trường. Sau khi dọn xong cho
trẻ nhìn lại và cảm nhận vẻ đẹp của sân trường. Từ đó giáo dục cho trẻ biết vứt
rác vào thùng, biết được sự lao động vất vả của các cô bác lao công khi quét
dọn sân trường.(Hình ảnh 4)
VD5: Tổ chức cho trẻ đi dạo đi thăm như: thăm quan những di tích lịch
sử, nghĩa trang liệt sỹ, ủy ban nhân dân, trường tiểu học...
Thực tế trường tôi hàng năm đã tổ chức cho trẻ đi thăm quan những danh lam
thắng cảnh, những di tích lịch sử ở địa phương, nghĩa trang liệt sỹ từ đó nói cho
trẻ biết được những vẻ đẹp của danh lam, ý nghĩa của những di tích mà trẻ
tham quan. Giáo dục trẻ biết giữ gìn vẻ đẹp của danh lam thắng cảnh đó, tình
yêu quê hương đất nước, lòng thành kính, biết ơn đối với cha ông và các anh
hùng liệt sỹ đã hy sinh cho dân tộc. Từ đó khơi dậy lòng tự hào về dân tộc, đất
nước của mình. Giáo dục trẻ chăm ngoan học giỏi để đền đáp công ơn những
người đã có công xây dựng, bảo vệ đất nước. (Hình ảnh 5)
VD6: Tổ chức cho trẻ tham gia vào những buổi lao động của những
người nông dân như những buổi gặt lúa, phơi thóc… để trẻ thấy được sự vất vả
của các bác nông dân khi làm lên hạt thóc hạt gạo. Sau đó giáo dục trẻ lòng yêu

quý kính trọng các bác nông dân và giáo dục trẻ khi ăn phải ăn hết xuất, ăn gọn
gàng, không được làm rơi vãi cơm.
4.5. Biện pháp 5: Phối kết hợp chặt chẽ với bậc phụ huynh về giáo
dục lễ giáo.
Giáo viên có thể trao đổi với phụ huynh qua các buổi họp phụ huynh đầu
năm, qua các giờ đón trả trẻ. Đề nghị phụ huynh nói lên những đặc điểm tâm
sinh lý của trẻ để giáo viên có thể nắm bắt được đặc điểm riêng của từng em, có
như vậy cô giáo mới có những biện pháp tích cực, phù hợp với từng em. Bên
cạnh đó giáo viên cũng mạnh dạn trao đổi với phụ huynh về tầm quan trọng của
13


lễ giáo đối với trẻ. Nhất là trong thời đại ngày nay, nhiều nền văn hóa và các
trò chơi hiện đại du nhập vào nước ta đã ảnh hưởng đến tâm sinh lý của trẻ rất
nhiều, dẫn đến những hành vi đạo đức lệch chuẩn trong xã hội. Đồng thời, cũng
cần trao đổi với phụ huynh là không nên nuông chiều con quá vì trẻ bây giờ rất
nhạy bén. Nếu như trẻ đòi hỏi được lần này lần sau trẻ sẽ lại tiếp tục đòi hỏi.
Phụ huynh cần giải thích và nói cho trẻ hiểu cái gì là tốt, cái gì là không tốt, cái
gì là đúng, cái gì là sai. Để từ đó trẻ nhận ra được những hành vi của mình là
chưa đúng, chưa ngoan. Giáo viên cũng đề nghị phụ huynh cần phối hợp chặt
chẽ với cô giáo trong việc giáo dục con em mình ở nhà để cô giáo sẽ có biện
pháp uốn nắm kịp thời.
Giáo viên lên kế hoạch học tập ở lớp, các hoạt động ngoài trời, các buổi
dã ngoại cũng như các buổi thực hành, rèn luyện giáo dục lễ giáo cho trẻ. Kế
hoạch này sẽ dán ở một vị trí mà phụ huynh dễ quan sát nhất như ở bảng biểu ở
ngoài cửa để từ đó phụ huynh sẽ nắm bắt được và cùng cô có những biện pháp
giáo dục phù hợp, hiệu quả nhất.
Ngoài ra giáo viên cũng đề nghị các bậc phụ huynh khi biết được nội
dung giáo dục ở lớp thì khi trẻ về gia đình, phụ huynh cũng phải có trách nhiệm
giáo dục cùng cô giáo. Có như vậy thì mới hình thành được những thói quen

hành vi văn minh, đạo đức lễ giáo cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Từ đó mọi hành vi
văn minh, đạo đức lễ giáo sẽ ăn sâu vào trong nhận thức của trẻ.
4.6. Biện pháp 6: Giáo dục lễ giáo qua việc tổ chức các ngày hội ngày
lễ.
Giáo viên tổ chức các ngày lễ lớn, truyền thống của dân tộc sao cho tất
cả trẻ trong lớp đều được tham gia. Qua đó giáo dục trẻ lòng tự hào dân tộc. Cô
cung cấp cho trẻ biết những ý nghĩa của những ngày lễ lớn đó như ngày: 20/11;
ngày 22/12; ngày 8/3, ngày tết cổ truyền của dân tộc….Từ đó hình thành cho
trẻ lòng tự hào dân tộc, tôn trọng, kính yêu đối với những người lớn tuổi.
Khuyến khích trẻ tích cực học tập, phấn đấu trở thành những người con có ích
cho xã hội sau này.

14


Ví dụ 1: Tổ chức ngày 20/11 hoặc ngày 8/3 cô giáo có thể tổ chức cho trẻ thi
hát về cô giáo hoặc về mẹ, về bà. Từ việc thi hát đó giúp trẻ nhớ tên các bài hát,
thuốc lời bài hát về cô giáo, về mẹ và cả về bà. Sau đó trò chuyện cùng trẻ về
ngày lễ đó, giúp trẻ hiểu thêm về công việc của cô giáo, của mẹ, cũng như của
bà. Giáo dục trẻ biết yêu quý, kính trọng, nghe lời người lớn và cố gắng học
giỏi để cho ông bà, bố mẹ và cô giáo vui lòng.
Ví dụ 2: Tổ chức ngày 22/12 cho trẻ được tham dự. Có thể mời một bác thương
binh về lớp học cùng trò chuyện với trẻ. Cung cấp cho trẻ biết để có cuộc sống
thanh bình như ngày hôm nay các bác thương binh, các anh hùng liệt sỹ đã để
lại một phần máu thịt của mình nơi chiến trường. Giáo dục cho trẻ biết yêu quê
hương đất nước, lòng biết ơn đối với các anh hung liệt sỹ, các bác thương
binh….và giáo dục trẻ học cố gắng giỏi để trở thành những người con ngoan,
trò giỏi sau này.
4.7. Biện pháp 7: Giáo dục lễ giáo bằng việc động viên, khích lệ trẻ kịp thời
Trẻ ở lứa tuổi mầm non rất thích được khen ngơi, thích được cô giáo

tuyên dương hay thưởng quà. Vì vậy việc động viên khích lệ trẻ đúng lúc, đúng
chỗ, kịp thời sẽ giúp trẻ hào hứng, tích cực làm những việc tốt và mong muốn
được làm những việc tốt.
Trong giờ bình cờ cuối ngày, cho trẻ tự nhận xét là hôm nay mình đã
ngoan chưa, trong lớp bạn nào hôm nay ngoan và bạn nào chưa ngoan, vì sao?
Động viên để cho trẻ tự giác nhận lỗi, tạo điều kiện cho trẻ sửa sai khuyết điểm
của mình bằng cách sẽ cho trẻ đọc thơ, múa hát và có thể là tặng những món
quà nhỏ để khuyến khích động viên trẻ cố gắng hơn, không tái phạm nữa, để
được nhận quà nhiều hơn. Ngoài ra, giáo viên phải luôn dành thời gian để gần
gũi trẻ, cùng trò chuyện với trẻ, tìm những câu nói hài hước, hóm hỉnh, những
món quà bất ngờ để động viên khích lệ trẻ kịp thời. Điều đó sẽ tạo cho trẻ một
động lực luôn muốn được làm việc tốt, có ý nghĩa.
5. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Sau thời gian thực hiện các biện pháp trên đến nay tôi nhận thấy kết quả đạt
được như sau:
15


Năm học

Tổng

2014-2015 số cháu

Biết chào hỏi
lễ phép

Biết gọn

Biết kính


gàng, ngăn

trọng người

nắp
Số
Tỷ lệ

lớn
Số
Tỷ lệ

Số

Tỷ lệ
%
24

cháu
11

%
29

cháu
10

95


36

95

36

Tháng

38

cháu
9

9/2014
Tháng 2/

38

36

Biết cảm ơn,
xin lỗi
Số

Tỷ lệ

%
26

cháu

8

%
21

95

35

92

2015
Nhìn vào bảng so sánh trên ta thấy kết quả đầu năm học so với cuối năm
học đã được nâng nên rõ rệt.
+ Các cháu đã có thói quen chào hỏi ở mọi lúc mọi nơi, các cháu chào từ
trong tâm của mình chứ không phải chào vẹt, hoặc cô giáo nhắc mới chào.
+ Các cháu được đi dạo đi thăm các danh lam thắng cảnh, di tích lịch
sử… từ đó trẻ đã có tình yêu đất nước, lòng biết ơn, sự kính trọng đối với cha
ông, những anh hùng liệt sỹ. Biết quý trọng những gì mà trẻ đang có, biết giữ
gìn cảnh quang môi trường của những danh lam thắng cảnh, gìn giữ giá trị văn
hóa tinh thần của di tích lịch sử, có ý thức giữ gìn môi trường xung quanh
mình.
+ Trẻ đã có thói quen trong việc sắp xếp đồ chơi ngăn nắp, gọn gàng vào
đúng vị trí sau khi chơi và cứ đến cuối tuần là trẻ biết lau chùi đồ chơi và sắp
xếp đồ dùng đồ chơi cùng cô giáo.
+ Thông qua các buổi nêu gương cuối ngày, cuối tuần thì trẻ cũng biết tự
nhận lỗi khi mắc khuyết điểm. Trẻ đã biết cảm ơn khi nhận được sự giúp đỡ từ
ai đó. Khi nhận quà thì trẻ đã biết nhận bằng hai tay và nói lời cảm ơn khi được
nhận quà.
+ Trẻ đã biết sắp xếp những đồ dùng cá nhân của tmình đúng vị trí quy

định. Mỗi khi đến lớp trẻ đã biết để đồ dùng cá nhân của mình vào tủ cá nhân,
không để lung tung, mỗi khi chiều đến bố mẹ đón cô giáo cũng như bố mẹ
không phải tìm đồ dùng cá nhân cho trẻ.

16


+ Thông qua việc tổ chức các ngày ngày hội ngày lễ cho trẻ. Trẻ đã biết
được ý nghĩa của những ngày lễ đó. Trẻ đã biết yêu quý, kính trọng ông bà, bố
mẹ và cô giáo. Đặc biệt trẻ đã biết được sự vất vả của mọi người đối với mình.
Từ đó trẻ đã biết nghe lời ông bà, bố mẹ, cô giáo.
+ Trẻ biết nghe lời cô giáo hơn, trong các giờ học trẻ rất tập trung chú ý
nghe cô giáo dạy và tích cực tham gia vào các hoạt động học ở trong lớp học.
Đồ dùng sách vở của trẻ luôn được trẻ giữ gìn rất gọn gàng, ngăn nắp.
+ Được sự ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh: Hầu hết phụ huynh
đã tham gia nhiệt tình vào việc giáo dục lễ giáo cho trẻ ở nhà. Đến nay trẻ lớp
tôi đã biết nghe lời người lớn, không nũng nịu, vòi vĩnh với bố mẹ. Ở nhà trẻ
cũng biết quan tâm chăm sóc những người thân trong gia đình khi họ bị ốm,
biết giúp đỡ ông bà, bố mẹ những việc nhỏ vừa sức với trẻ.
- Từ thực tế giảng dạy, từ kết quả đã đạt được tôi rút ra một số bài học
kinh nghiệm sau:
+ Muốn trẻ có những thói quen hành vi văn hóa, lễ giáo thì trước tiên cô
giáo phải là người gương mẫu trong mọi hành động, lời nói.
+ Để có kết quả cao, trẻ hứng thú thì người giáo viên phải chịu khó tìm
tòi, sáng tạo, có tinh thần trách nhiệm trong công việc.
+ Tạo ra môi trường lễ giáo phong phú để thu hút trẻ tham gia.
+ Tích cực làm đồ dùng đồ chơi đẹp, sinh động, hấp dẫn và thường
xuyên thay đổi và bổ sung những nội dung lễ giáo vào trong các góc chơi và
xung quanh trẻ.
+ Kết hợp với giờ bình cờ, nêu gương nhằm động viên khích lệ trẻ kịp

thời để trẻ khác noi theo.
+ Thường xuyên chú ý giáo dục lễ giáo trẻ ở mọi lúc mọi nơi, không
những ở trong các tiết học mà kể cả giờ ăn, giờ ngủ, cũng như giờ chơi của trẻ.
+ Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh để cùng giáo dục trẻ ở
khi trẻ ở nhà.

17


6. ĐIỀU KIỆN ĐỂ SÁNG KIẾN ĐƯỢC NHÂN RỘNG
+ Về nhân lực:
- Tham mưu với ban giam hiệu nhà trưởng tổ chức các chuyên đề về giáo
dục lễ giáo.
- Đưa những sáng kiến này nên hộp thư chung của trường, của phòng
giáo dục để cho toàn thể giáo viên trong ngành được biết và áp dụng sáng kiến.
- Tổ chức các hội thi và các buổi họp phụ huynh để tuyên truyền sâu
rộng các biện pháp giáo dục lễ giáo đối với trẻ.
+ Về cơ sở vật chất, trang thiết bị:
- Mỗi lớp học phải trang bị bộ loa, máy vi tính và kết nối mạng internet.
Phải chuẩn bị đầy đủ đồ dùng đồ chơi cho mỗi tiết học. Đồ dùng đồ chơi ở các
góc phải phong phú, phù hợp với từng chủ đề.

18


PHẦN III
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN CHUNG
Qua việc nghiên cứu và thực thi đề tài tôi nhận thấy nâng cao chất lượng
giáo dục lễ giáo cho trẻ 5- 6 tuổi là một vấn đề rất quan trọng và cần thiết trong

trường mầm non. Nó là một trong những nội dung tạo tiền đề cho việc phát
triển nhân cách cho trẻ sau này. Việc giáo dục lễ giáo cho trẻ trong trường
Mầm non không chỉ hình thành những thói quen, hành vi văn minh trong giao
tiếp, có lối sống lành mạnh mà còn giúp hình thành một nhân cách tốt cho trẻ.
Đặc biệt giáo dục lễ giáo giúp cho lòng tự hào về dân tộc, tình yêu đất nước,
lòng biết ơn sâu sắc đối với ông cha ta đã anh dũng hi sinh để bảo vệ tổ quốc và
sự yêu quý và kính trọng đối với ông bà, bố mẹ, thầy cô giáo và những người
lớn.
Khi giáo dục lễ giáo cho trẻ cô giáo cần chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý
của trẻ, cô giáo luôn là một tấm gương sáng trong giáo dục lễ giáo, cần phối kết
hợp chặt chẽ với phụ huynh để có những biện pháp giáo dục kịp thời. Bên cạnh
đó giáo viên cần lựa chọn những nội dung lễ giáo phù hợp để tích hợp vào
trong các môn học từ đó trẻ sẽ biết được nhiều hình thức, nội dung lễ giáo khác
nhau hơn. Giáo dục lễ giáo cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi rất quan trọng vì khi trẻ
được làm quen ở mọi lúc mọi thì sẽ hình thành được những thói quen hành vi
văn hóa, lễ giáo.
Sau một thời gian tuy không dài áp dụng những biện pháp đó đa số trẻ
lớp tôi phụ trách đã có những tiến bộ vượt bậc về giáo dục lễ giáo. Trẻ đã biết
chào hỏi mọi người ở mọ lúc mọi nơi, biết sắp xếp đồ dùng cá nhân, đồ chơi
của lớp gọn gàng, sạch sẽ, đúng nơi quy định. Trẻ biết khi nào nói lời cảm ơn,
khi nào nói lời xin lỗi, tự giác nhận lỗi khi có khuyết điểm, biết trao vật gì đó
cho người lớn, nhận quà bằng hai tay. Đặc biệt trẻ đã biết yêu quê hương đất
nước, lòng tự hào về dân tộc, biết nghe lời người lớn, kính trọng, yêu quý cô
giáo, yêu quý ông bà, bố mẹ.
19


2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Khi nghiên cứu và áp dụng đề tài này vào giảng dạy tôi xin mạnh dạn đề
xuất một số ý kiến sau:

2.1. Đối với phòng giáo dục:
Thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề, tọa đàm, các buổi giao lưu để
cho giáo viên học hỏi kinh nghiệm về giáo dục lễ giáo lẫn nhau. Vì đây là một
trong những nội dung còn ít được quan tâm, chú ý đến.
Đồng thời cung cấp nhiều tài liệu, tập san, chuyên san, các tạp chí giáo
dục mầm non để giáo viên có điều kiện nghiên cứu và vận dụng vào thực tế
giảng dạy.
2.2. Đối với nhà trường:
Luôn quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học được
tốt hơn.
Tạo điều kiện trong việc làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ, sắp xếp tạo điều
kiện cho giáo viên được dự giờ lẫn nhau để trao đổi học tập kinh nghiệm.
Tạo điều kiện về mặt thời gian cũng như kinh phí cho giáo viên đi học
tập các trường bạn về trang trí nhóm lớp, nội dung giáo dục lễ giáo của trường
bạn để giáo viên có thêm kinh nghiệm và biện pháp giáo dục trẻ hiệu quả hơn.
2.3. Đối với phụ huynh:
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình trong quá trình
giáo dục lễ giáo cho trẻ ở lớp cũng như ở nhà.
Trên đây là một số những biện pháp: Nâng cao chất lượng giáo dục lễ
giáo cho trẻ 5- 6 tuổi trong trường Mầm non. Tôi rất mong nhận được sự quan
tâm của hội đồng khoa học các cấp, của bạn bè đồng nghiệp tham khảo và đóng
góp ý kiến.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

20


DANH MỤC, PHỤ LỤC VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. DANH MỤC
THỨ TỰ

Phần I

Phần III

NỘI DUNG
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
I. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
2.Cơ sở khoa học lý luận
3. Thực trạng của vấn đề
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
5. Kết quả đạt được
6. Những điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

TRANG
1
2-4
5-6
6-7
7-8
8-15
15-17
18

1. Kết luận

19

2.Kiến nghị


20

2. TÀI LIỆU THAM KHẢO
2.1. Sách hướng dẫn chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
2.2. Chương trình giáo dục mầm non của bộ giáo dục và đào tạo
2.3. Tuyển tập truyện thơ, trò chơi, bài hát, câu đố cho trẻ mẫu giáo lớn
2.4. Tài liệu tập huấn chuyên đề giáo dục lễ giáo cho trẻ mầm non
2.5. Luật giáo dục và điều lệ trường mầm non, tập san mầm non, báo việt và
một số tài liệu có liên quan.
3. Danh mục viết tắt:
+ VD: ví dụ

HÌNH ẢNH MINH HỌA

21


22


( Hình ảnh 1)

23


Hình ảnh 2
24



Hình ảnh 3

25


×