Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Sự đóng góp của hộ nông dân trong các chi tiêu công tại xã cảnh hưng, huyện tiên du, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.86 KB, 100 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Các thông
tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Người cam đoan

Nguyễn Thị Mai

i


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, ngoài sự cố gắng của bản thân,
em đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến cô giáo TS.
Nguyễn Phượng Lê, người đã hết lòng giúp đỡ em trong suốt quá trình thực
hiện đề tài và hoàn thành luận văn này.
Em xin cảm ơn tất cả các thầy, cô giáo khoa Kinh tế và PTNT - Trường
Đại học Nông Nghiệp Hà Nội đã truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm học tập và
làm việc cho em trong thời gian học tập tại trường.
Em xin trân trọng cảm ơn ông Nguyễn Văn Xuyên, Chi cục trưởng Chi
cục PTNT Bắc Ninh đã tạo điều kiện cho em xuống cơ sở điều tra và thu thập
thông tin phục vụ cho luận văn của mình. Bên cạnh đó, em xin trân trọng cảm ơn
ông Nguyễn Hữu Bảo - chủ tịch UBND xã Cảnh Hưng cùng toàn thể cán bộ
UBND xã đã nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt thời gian thực hiện đề tài này.
Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình và tất cả bạn bè đã
luôn động viên, giúp đỡ em trong quá trình học tập và thực tập của mình.
Do kinh nghiệm và trình độ còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi
những thiếu sót trong quá trình làm khoá luận này. Em rất mong nhận được sự
góp ý của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, ngày 22 tháng 05 năm 2010
Sinh viên

Nguyễn Thị Mai

ii


TÓM TẮT KHOÁ LUẬN
Quá trình CNH - HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện cho
Việt Nam có những bước phát triển đáng kể, với tốc độ tăng trưởng cao và ổn
định. So với trước đây, cuộc sống của người dân nông thôn được cải thiện
đáng kể. Tuy nhiên, nếu so với dân cư đô thị thì vẫn còn khoảng cách khá xa
và ở nông thôn thì sản xuất nông nghiệp vẫn là chủ yếu.
Cảnh Hưng là một xã thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh mà kinh tế
chủ yếu dựa vào nông nghiệp, không có ngành nghề truyền thống, việc du
nhập phát triển nghề phụ từ các địa phương khác rất hạn chế. Nhưng trong
những năm gần đây thì đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày một
nâng cao. Tuy nhiên, người dân cũng phải đóng góp nhiều khoản khác nhau
mà không phải hộ nào cũng có khả năng, đặc biệt là đối với những hộ nghèo.
Do vậy việc sử dụng hợp lý và điều chỉnh các khoản đóng góp của hộ nông
dân là biện pháp cần thiết.
Vì vậy tôi chọn xã Cảnh Hưng làm địa điểm nghiên cứu cho đề tài của
mình: “Sự đóng góp của hộ nông dân trong các chi tiêu công tại xã Cảnh
Hưng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh”. Với mục tiêu là đánh giá thực trạng
về sự đóng góp của hộ nông dân trong các chi tiêu công trên địa bàn xã Cảnh
Hưng - huyện Tiên Du - tỉnh Bắc Ninh; Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm
huy động và sử dụng hợp lý các khoản đóng góp cho phù hợp với điều kiện
kinh tế của hộ nông dân tại địa phương.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống thu thập tài

liệu trên các kênh thông tin khác nhau, phỏng vấn bằng bảng hỏi đối với các
đối tượng nghiên cứu,... Số liệu thu thập được từ điều tra, khảo sát được mã
hoá và nhập vào hệ cơ sở dữ liệu trên máy tính sử dụng phần mềm EXCEL.
Bên cạnh đó sử dụng kết hợp cả phương pháp phân tích định lượng và định
tính, phương pháp chuyên gia chuyên khảo. Thông qua các số liệu điều tra,
tính toán các chỉ tiêu liên quan đến tình hình của hộ. Từ đó, phân tích thực

iii


trạng kinh tế hộ, các khoản đóng góp của hộ. Đồng thời, chỉ ra những bất hợp
lý trong đóng góp của hộ tại địa phương. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng hệ
thống các chỉ tiêu liên quan đến lĩnh vực kinh tế để nghiên cứu thực trạng
đóng góp của hộ nông dân trong các chi tiêu công tại xã Cảnh Hưng.
Sau khi tổng hợp, so sánh và phân tích thực trạng tình hình, căn cứ vào
mục tiêu phát triển kinh tế chung, các khoản đóng góp của hộ nông dân xã
Cảnh Hưng, đề tài đã rút ra được một số nhận xét sau:
Với những tiềm năng vốn có của mình trong những năm gần đây, Cảnh
Hưng đã có những bước phát triển đáng kể và đặc biệt còn được bổ sung từ
Ngân sách cấp trên cho xây dựng trên cơ sở quy hoạch tổng thể kinh tế - xã
hội. Do thiếu vốn đầu tư nên việc khai thác và phát triển nguồn thu của xã còn
bị hạn chế. Song nhìn chung UBND xã đã tìm mọi cách khắc phục khó khăn
mọi mặt, khai thác triệt để nguồn thu, đồng thời tạo điều kiện khuyến khích
phát triển kinh tế trong nhân dân.
Ba năm qua (2007 - 2009) nguồn thu ngân sách của xã đều tăng đã góp
phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng và nâng cao mọi
mặt về đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân trong xã.
Công tác khuyến nông của xã cũng được đảm bảo hoạt động thường
xuyên với vai trò hướng dẫn nông dân trong việc áp dụng những tiến bộ kỹ thuật
mới, những giống mới vào sản xuất và chăm sóc cây trồng vật nuôi phù hợp.

Tinh thần tự nguyện của các hộ trong xã ngày càng cao cũng một phần do
những năm gần đây, đời sống của người dân ngày một được nâng lên do vậy việc
huy động các khoản đóng góp tự nguyện được dễ dàng hơn trước. Tuy nhiên, việc
phải đóng góp các khoản này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người
dân địa phương, đặc biệt là các hộ còn khó khăn. Nhiều hộ nông dân không có tiền
đảm bảo cho nhu cầu sinh hoạt khác như chăm sóc sức khoẻ, chăm lo cho con cái
học hành...

iv


Thực tế điều tra cho thấy tổng giá trị đóng góp cho chi tiêu công trong
xã của các nhóm hộ không có sự khác biệt nhiều (hộ khá giàu với tổng giá trị
đóng góp là 0.446 triệu đồng/năm, hộ trung bình là 0.572 triệu đồng/năm, hộ
khó khăn là 0.273 triệu đồng/năm. BQ chung mỗi hộ đóng góp 0.491 triệu
đồng/năm) nhưng thu nhập giữa các nhóm hộ thì lại chênh lệch rất lớn (tổng
thu nhập của hộ khá giàu là 48.120 triệu đồng/năm, của hộ trung bình là
30.736 triệu đồng/năm và của hộ khó khăn là 6.542 triệu đồng/năm), cho nên
đối với hộ nghèo tại địa phương thì thật khó khăn để có thể đóng góp đầy đủ
những khoản theo qui định. Tuy nhiên, nhìn chung trình độ học vấn cũng như
sự hiểu biết của người dân ngày một nâng cao, vì thế mà ngành nghề của họ
cũng phong phú hơn.
Bên cạnh đó, có một thực tế không thể phủ nhận đó là bộ mặt chung
của toàn xã ngày càng khang trang, mọi người đều được đi trên những con
đường được đổ bê tông sạch đẹp... mà mỗi người dân trong xã đều thấy rất tự
hào khi họ cũng đã góp một phần vào những thành quả đó.
Một số đề xuất chủ yếu nhằm huy động và sử dụng hợp lý các khoản
đóng góp cho phù hợp với điều kiện kinh tế của hộ nông dân tại Cảnh Hưng
trong thời gian tới như sau:
- Để việc huy động đạt hiệu quả cao và được người dân đồng tình ủng

hộ thì các khoản đóng góp tự nguyện của các hộ nông dân phải do nhân dân
bàn bạc và quyết định trên cơ sở dân chủ, công khai, quyết định theo đa số.
Mức huy động đóng góp của nhân dân, mức miễn, giảm cho các đối tượng
chính sách xã hội do nhân dân bàn bạc và quyết định căn cứ vào thu nhập
bình quân và khả năng đóng góp của nhân dân trên địa bàn.
- UBND xã nên xác định các đối tượng cần huy động và tính toán huy
động đối với từng đối tượng có thể căn cứ vào số người trong độ tuổi lao
động, thu nhập bình quân và khả năng đóng góp của họ. Cần tăng cường sự
tham gia giám sát của người dân trong quá trình thu và sử dụng các khoản

v


đóng góp nhằm thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở và sử dụng hiệu quả
nguồn kinh phí mà trong đó có sự đóng góp của người dân.
- Cần điều chỉnh một số khoản đóng góp cho hợp lý để tránh tình trạng
một số người dân phải thắc mắc. Đồng thời tăng cường đóng góp bằng ngày
công lao động thay cho đóng góp bằng tiền, đặc biệt là đối với hộ nghèo và hộ
có lao động không có việc làm.
Tóm lại, việc huy động đóng góp của hộ nông dân xã Cảnh Hưng trong
thời gian qua đã góp phần quan trọng tạo nên các nguồn lực cho đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng nông thôn ngày càng hoàn thiện, phục vụ cho sản xuất và
nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân, đặc biệt là những hộ có
hoàn cảnh khó khăn. Bên cạnh những mặt tích cực nó cũng tồn tại một số hạn
chế là nó tác động đến đời sống kinh tế của một bộ phận nông dân, đó là
những hộ nghèo những gì họ làm ra có khi còn không đủ ăn chứ chưa nói đến
chuyện phải đóng góp các khoản này khác. Và các khoản mang tính tự
nguyện nhưng được đưa ra như hình thức bắt buộc người dân phải nộp.
Nhìn chung với nhu cầu phát triển của xã hội, đại đa số nông dân đều
mong muốn được sự quan tâm nhiều hơn nữa của Nhà nước cho khu vực

nông thôn để nâng cao mức sống cho người dân, rút ngắn khoảng cách giàu
nghèo cũng như giảm bớt được phần nào gánh nặng đóng góp, nhất là đối với
những hộ khó khăn. Đồng thời việc sử dụng hợp lý các khoản đóng góp của
người dân cũng luôn cần được quan tâm.

vi


MỤC LỤC

vii


DANH MỤC BẢNG

viii


DANH MỤC HỘP

ix


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ANQP
BQ
BVTV
CN – TTCN
CNH – HĐH
CT

CC
DT
DVNN
DVTM
ĐVT
GT
GTĐG
HĐND
HTX
HV
KĐG

Ng.đ
PTCS
SXKD
TLP
TNDN
TCĐT
Tr.đ
UBND
XHCN

An ninh quốc phòng
Bình quân
Bảo vệ thực vật
Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
Canh tác
Cơ cấu
Diện tích

Dịch vụ nông nghiệp
Dịch vụ thương mại
Đơn vị tính
Giá trị
Giá trị đóng góp
Hội đồng nhân dân
Hợp tác xã
Học vấn
Khoản đống góp
Lao động
Nghìn đồng
Phổ thông cơ sở
Sản xuất kinh doanh
Thuỷ lợi phí
Thu nhập doanh nghiệp
Tổ chức đoàn thể
Triệu đồng
Uỷ ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

x


PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Nước ta là một nước nông nghiệp với đại đa số người dân sống bằng
nghề nông. Quá trình CNH - HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều
kiện cho Việt Nam có những bước phát triển đáng kể, với tốc độ tăng trưởng
cao và ổn định. Sau hơn 20 năm đổi mới, nhờ những thành tựu to lớn trong
phát triển nông nghiệp và nông thôn, thu nhập của nông dân đã tăng lên gấp 2

- 3 lần. Tuy nhiên, do quá trình chuyển đổi cơ cấu còn chậm nên 78% nông
dân vẫn dựa vào nguồn thu nhập từ sản xuất nông, lâm nghiệp.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm nhiều đến sản xuất
nông nghiệp, phát triển nông thôn nhằm nâng cao đời sống của nông dân. So
với trước đây, cuộc sống của người dân nông thôn được cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên, nếu so với dân cư đô thị thì vẫn còn khoảng cách khá xa. Đến nay,
ở nông thôn sản xuất nông nghiệp vẫn còn là chủ yếu. Song chi phí sản xuất
nông nghiệp đang ở mức rất cao do giá vật tư đầu vào liên tục tăng, các khoản
đóng góp lại rất nặng đối với họ. Có một nghịch lý đã tồn tại ở nước ta là
người dân thành thị không mất tiền làm đường đi, làm hệ thống thoát nước,
xây dựng hệ thống điện...; còn dân cư nông thôn phải bỏ tiền đóng góp để làm
các công trình trên. Vì thế, giá các loại dịch vụ này ở nông thôn trở nên cao
hơn nhiều so với thành thị.
Trong công cuộc đổi mới thực hiện CNH - HĐH nông thôn, Đảng và
Nhà nước ta cần bổ sung nhiều chính sách mới nhằm xây dựng nông thôn.
Nước ta đã gia nhập WTO, phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp và thực
hiện cắt giảm các khoản đóng góp của nông dân. Đi đôi với chính sách bồi
dưỡng sức dân, tăng hộ giàu, đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, rút ngắn khoảng
cách hộ giàu và hộ nghèo, khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, khoảng
cách giữa miền núi và miền xuôi để xây dựng nông thôn mới giàu đẹp, văn

1


minh, hiện đại và công bằng xã hội. Khi gia nhập WTO các nguồn hỗ trợ trực
tiếp cho nông dân sẽ bị cắt bỏ. Do vậy, lĩnh vực sản xuất nông nghiệp bị chịu
nhiều tác động do sức cạnh tranh sản phẩm kém hơn các lĩnh vực khác. Để
giảm bớt chi phí sản xuất của người nông dân, tăng sức cạnh tranh của nông
sản, hỗ trợ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện cho nông dân có
thêm nguồn vốn để đầu tư sản xuất, nâng cao đời sống thì việc sử dụng hợp lý

và điều chỉnh các khoản đóng góp của hộ nông dân là biện pháp cần thiết.
Cảnh Hưng là một xã thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh mà kinh tế
chủ yếu dựa vào nông nghiệp, không có ngành nghề truyền thống, việc du
nhập phát triển nghề phụ từ các địa phương khác rất hạn chế. Trong những
năm gần đây, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, bộ mặt kinh tế, văn hoá
xã hội của địa phương đã được phát triển mạnh mẽ, đời sống nhân dân được
nâng lên, đã xoá được hộ đói, số hộ khá, giàu tăng lên.
Tuy nhiên, người dân cũng phải đóng góp nhiều khoản khác nhau như
cải tạo đất, BVTV, bảo vệ sản xuất... Ngoài ra, còn rất nhiều các loại quỹ
khác như hội phí, các quỹ vận động nhân đạo, từ thiện... Đối với những hộ phi
nông nghiệp và hộ kiêm thì có khả năng nhưng đối với những hộ thuần nông,
hộ có hoàn cảnh khó khăn thì vẫn là một vấn đề cần phải xem xét.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Sự đóng góp của hộ nông dân trong các chi tiêu công tại xã Cảnh Hưng,
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh”.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng về sự đóng góp của hộ nông dân trong các chi tiêu
công trên địa bàn xã Cảnh Hưng - huyện Tiên Du - tỉnh Bắc Ninh; Từ đó, đề
xuất một số giải pháp nhằm huy động và sử dụng hợp lý các khoản đóng góp
cho phù hợp với điều kiện kinh tế của hộ nông dân tại địa phương.

2


1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về các khoản đóng góp của hộ
nông dân trong chi tiêu công .
- Đánh giá thực trạng thu, nộp các khoản đóng góp của hộ nông dân
cho chi tiêu công trên địa bàn xã.

- Đề xuất những giải pháp nhằm huy động và sử dụng hợp lý các khoản
đóng góp cho chi tiêu công phù hợp với điều kiện kinh tế của hộ nông dân
trên địa bàn xã.
1.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu các khoản đóng góp của hộ nông dân trong chi tiêu công
tại xã Cảnh Hưng - huyện Tiên Du - tỉnh Bắc Ninh.
- Các tổ chức, đơn vị thu các khoản đóng góp của hộ nông dân.
1.4 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1 Phạm vi về nội dung
Tìm hiểu sự đóng góp của hộ nông dân trong các chi tiêu công, trong
đó gồm các khoản đóng góp do: UBND xã thu, Hợp tác xã thu và các tổ chức
hội, đoàn thể thu.
1.4.2 Phạm vi không gian
Tại địa bàn xã Cảnh Hưng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
1.4.3 Phạm vi về thời gian
Nghiên cứu được tiến hành từ 15/1/2010 đến 15/5/2010, bao gồm:
+ Tìm hiểu sự đóng góp của hộ nông dân trong các chi tiêu công tại xã
năm 2009.
+ Tìm hiểu công tác thu, nộp các khoản đóng góp đó trong giai đoạn
2007 – 2009.

3


PHẦN 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
CỦA ĐỀ TÀI
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1 Khái niệm về chi tiêu công
Chi tiêu công là việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực khu vực công
nhằm bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc

nhất định. [3]
Quá trình phân bổ chính là việc quyết định và giao dự toán chi cho đơn
vị thuộc khu vực công. Quá trình sử dụng được thực hiện dưới hình thức dùng
tiền trong phạm vi dự toán để mua các yếu tố mang tính chất hàng hoá, dịch
vụ, chuyển giao hoặc trả nợ, nhằm thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
Trong bối cảnh hiện đại, những phân tích lý luận và thực tiễn đều chỉ ra
rằng, muốn phân bổ một cách có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế thị
trường thì phải có cơ chế Nhà nước can thiệp vào thị trường. Trong đó, sự can
thiệp của Nhà nước cần được giới hạn ở mức vừa đủ để bù đắp vào chỗ thiếu
hụt, khiếm khuyết của thị trường. Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế
trong chừng mực cho phép, là một tất yếu khách quan và chi tiêu công là công
cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện sự can thiệp này. Nghĩa là vừa phải
dùng “ bàn tay vô hình” của thị trường và “bàn tay hữu hình” của Nhà nước
để có thể vỗ tay điều khiển một cách nhịp nhàng cho xã hội phát triển trong
nền kinh tế thị trường. Chi tiêu công có vai trò quan trọng trong việc thu hút
vốn đầu tư xã hội (của tư nhân trong, ngoài nước); giúp Nhà nước điều chỉnh
chu kỳ kinh tế theo hướng tích cực; góp phần phân phối lại thu nhập, nhằm thực
hiện công bằng xã hội. [3]
Căn cứ vào chức năng quản lý của Nhà nước, chi tiêu công bao gồm
các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo
đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và

4


các khoản chi khác. Căn cứ vào tính chất kinh tế, chi tiêu công gồm các khoản
chi thường xuyên để duy trì hoạt động của các cơ quan, đơn vị khu vực công; chi
đầu tư phát triển (xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, đầu tư,
hỗ trợ cho các doanh nghiệp cần có sự tham gia của Nhà nước, dự trữ nhà
nước,...); chi khác (trả nợ gốc tiền vay, viện trợ,...). [3]

2.1.2 Đặc điểm của chi tiêu công
Cùng với thuế, chi tiêu công là một trong những công cụ chủ yếu của
hoạt động tài chính quốc gia, với hai chức năng chủ yếu: chức năng xã hội và
chức năng kinh tế. Theo quan điểm của trường phái Keynes, chi tiêu công bảo
đảm sự hài hòa xã hội nhất định đồng thời đóng vai trò ổn định nền kinh tế.
Theo cách hiểu chung nhất, chi tiêu công là tập hợp các khoản chi nhằm bảo
đảm cho nhà nước hoạt động và thực hiện các chức năng của mình về quản lý
kinh tế, xã hội. [1]
Chi tiêu công trước hết phụ thuộc vào phạm vi của các hoạt động công
hay của các cơ quan hành chính công. Thông thường, phạm vi của các cơ
quan hành chính công bao gồm: cơ quan hành chính công trung ương có vai
trò, thẩm quyền ở cấp quốc gia, tức là chính phủ và các cơ quan khác thuộc
bộ máy hành chính trung ương, đơn vị sự nghiệp công; cơ quan hành chính
công địa phương (chính quyền địa phương, đơn vị sự nghiệp công địa
phương). Chi tiêu công và khu vực công là hai khái niệm khác nhau. Các
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) không thuộc phạm vi khái niệm chi tiêu
công, ngay cả khi toàn bộ vốn của các doanh nghiệp này thuộc về nhà nước.
Chi tiêu công cũng không bao gồm các khoản chi của các tổ chức, cá nhân
được nhà nước cấp vốn hoạt động, tuy nhiên đây là các khoản chi thuộc đối
tượng kiểm toán của kiểm toán nhà nước. Mặt khác, trong chi tiêu công cần
phân biệt nhiều loại chi khác nhau. Nếu phân loại về mặt kinh tế, chi tiêu
công bao gồm: chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển (chi vốn), chi khác (hỗ
trợ, viện trợ...). [1]

5


Đồng thời với quá trình phát triển kinh tế, các chức năng, nhiệm vụ của
nhà nước phải thực hiện ngày càng gia tăng nhanh chóng. Do vậy, chi tiêu
công của nhà nước có xu hướng tăng liên tục và có hai đặc điểm chính:

+ Thứ nhất, sự tăng chi diễn ra ngày càng nhanh và mạnh;
+ Thứ hai, bắt đầu xuất hiện các hiệu ứng ngưỡng: việc tăng chi diễn
ra theo từng đợt đột biến nối tiếp nhau. Tuy nhiên, tốc độ tăng chi tiêu công
khác nhau giữa các quốc gia, phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế - xã hội, mức độ
can thiệp của nhà nước và mức độ xã hội hóa rủi ro. [1]
Dù còn tồn tại sự khác biệt về thể chế chính trị ở các quốc gia trên thế
giới, trong thực tế luôn có hai lĩnh vực mà chi tiêu công hướng đến. Việt Nam
không phải là ngoại lệ. Khu vực thứ nhất là chi tiêu công phục vụ trực tiếp
cho phát triển kinh tế. Những khoản chi chúng ta vẫn thường gọi là chi phát
triển kinh tế. Chúng bao gồm nhiều khoản mục khác nhau và tất cả chúng đều
có liên quan trực tiếp đến việc thiết lập một nền tảng tốt hơn cho phát triển
kinh tế. Loại chi tiêu công này được mong đợi là góp phần nâng cao sản
lượng của nền kinh tế. Các khoản chi tiêu này được biết đến như là các khoản
chi cho đầu tư và phát triển. Một số những khoản chi tiêu này là chi tiêu cho
nông lâm nghiệp và phát triển nông thôn, giao thông vận tải và thông tin,
thương mại và công nghiệp, năng lượng, và một số khoản chi khác. [4]

6


Bảng 2.1: Tổng hợp chi tiêu công của Việt Nam

Năm

Đầu tư
GDP (tỉ Tổng chi
Tiêu dùng Giáo dục
Dịch vụ
phát triển
Y tế (%)

đồng) tiêu (%)
(%)
(%)
công (%)
(%)

1992

110.535

23,40

1,36

4,53

1,36

1,00

2,18

1993

136.571

28,60

2,19


5,71

2,12

1,24

2,34

1994

170.258

27,40

1,88

5,59

2,18

1,12

2,29

1995

228.840

24,10


1,75

5,60

2,06

1,05

2,49

1996

258.609

23,60

1,54

5,40

2,02

1,03

2,35

1997

313.624


24,80

1,44

5,53

2,30

0,96

2,27

1998

361.016

21,90

1,33

4,86

2,14

0,86

1,86

1999


399.942

22,40

1,21

4,51

2,02

0,78

1,71

2000

444.139

25,50

1,26

4,81

2,49

0,86

1,46


2001

484.492

25,40

1,27

4,53

2,38

0,81

1,33

Nguồn: Báo cáo của IMF, Niên giám thống kê tài chính quốc tế năm 1996, 1998, 2000,
2002 của IMF và tổng hợp của tác giả.

Bên cạnh các khoản chi vào đầu tư và phát triển, lĩnh vực thứ hai mà
chi tiêu công hướng đến là khoản chi nhằm mục đích cải thiện và nâng cao
đời sống của người dân trong nền kinh tế. Loại chi tiêu này được xem là chi
tiêu dùng mặc dù nó cũng đóng góp vào việc tăng trưởng kinh tế thông qua
việc nâng cao năng suất của lực lượng lao động trong xã hội. Vì vậy, loại chi
tiêu này được gọi là chi đầu tư vốn con người (hay chi tiêu dùng). Điều quan
trọng cần lưu ý những khoản chi như thế này phản ảnh một trong những mục
tiêu chính của phát triển kinh tế cho bất kỳ quốc gia nào trên toàn thế giới bởi
vì, dù bất kỳ lý do gì, kết quả đạt được từ việc phát triển kinh tế phải mang

7



đến lợi ích cho toàn thể nhân dân. Một số khoản chi tiêu biểu là chi cho giáo
dục, sức khỏe, những dịch vụ công như luật lệ và trật tự xã hội, trợ cấp và
nhiều khoản chi khác.
Những số liệu của bảng trên cho thấy trong cả giai đoạn nghiên cứu
(1992 – 2001), Việt Nam đã chi tiêu dùng cao hơn so với chi đầu tư phát
triển. Điều này được hiểu là do Việt Nam vẫn là quốc gia đang phát triển, vì
vậy Chính phủ vẫn đang xem những khoản chi tiêu dùng là ưu tiên nhằm đáp
ứng những nhu cầu cần thiết và cấp bách của người dân trong quá trình phát
triển nền kinh tế. [4]
2.1.3 Vai trò đóng góp của dân cho chi tiêu công
Cùng với sự tiến bộ của nền kinh tế toàn cầu và khu vực, chi tiêu công
ngày càng có vai trò quan trọng trong thực hiện điều tiết vĩ mô của nhà nước.
Với các quốc gia, việc gia tăng chi ngân sách nhà nước qua các năm là điều
không thể tránh khỏi và trên một số phương diện, điều này chấp nhận được.
Trong hoàn cảnh của Việt Nam, với những kỳ vọng về sự phát triển kinh tế
trong tương lai là có cơ sở, chắc chắn sẽ có sự gia tăng trong tổng chi tiêu
ngân sách nhà nước trong tương lai. [4]
Chi tiêu công đóng vai trò quyết định hết sức quan trọng đó là đảm bảo
hoạt động cho bộ máy Nhà nước, cung cấp cho xã hội hàng hóa công cộng thuần
tuý hành chính pháp lý, dịch vụ thực thi pháp luật, an ninh trật tự. Đồng thời nhà
nước sử dụng chi tiêu công để quản lý xã hội và thực hiện những chiến lược ưu
tiên nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, xóa đói giảm nghèo, điều tiết lạm phát,
giải quyết những vấn đề bất cập về sự chênh lệch cơ cấu kinh tế và phát triển
giữa các vùng, địa phương. [3]
Có thể nói, sự đóng góp của người dân có vai trò quan trọng trong các
chi tiêu công; cụ thể là trong quá trình tái phân phối thu nhập, duy trì bộ máy
quản lý, cung cấp các hàng hoá công cộng, huy động các nguồn lực của các tổ
chức trong xã hội.


8


Các khoản đóng góp của nông dân trong mọi thời đại nó đều mang ý
nghĩa, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc đặc biệt là trong phát triển
kinh tế tại địa phương. Sự đóng góp của nông dân đã hỗ trợ đáng kể cho đầu
tư sản xuất nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện ngân sách nhà nước còn
thấp, nhu cầu đầu tư lớn. Ngân sách các cấp chỉ hỗ trợ một phần nhỏ để
khuyến khích nhân dân đóng góp đầu tư cho phát triển sản xuất và xây dựng
hạ tầng nông thôn giàu đẹp. Góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn, cơ bản
đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu về sản xuất và đời sống của người dân
trên địa bàn; cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được cải thiện đáng kể,
các lĩnh vực y tế giáo dục đã thay đổi cả về lượng và chất. Cụ thể:
- Thuế: có vai trò vô cùng to lớn trong việc quản lý nền kinh tế cũng
như tạo nguồn thu cho nhà nước.
+ Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, Nhà nước ngày càng phải đảm
nhận nhiều nhiệm vụ hơn trước. Khi nhiệm vụ, vai trò của Nhà nước gia tăng
thì tất yếu nhu cầu chi tiêu của Nhà nước cũng gia tăng. Phương thức cơ bản
để huy động nguồn tài chính cho Ngân sách Nhà nước là thuế. Tuy nhiên, để
tăng nguồn thu từ thuế đòi hỏi nền kinh tế phải phát triển và hoạt động có
hiệu quả cao. Nếu nền kinh tế hoạt động không hiệu quả thì việc tăng thu từ
thuế chính là một gánh nặng đối với nền kinh tế.
+ Thuế là công cụ để thu hút vốn đầu tư, cơ cấu đầu tư, góp phần hình
thành cơ cấu kinh tế mới hợp lý hơn. Để kích thích tăng trưởng kinh tế, biện
pháp thường được quan tâm là thực hiện các ưu đãi về thuế thông qua các quy
định về thuế suất, miễn giảm thuế. Điều đó tác động trực tiếp đến lợi ích kinh
tế, điều chỉnh việc bỏ vốn kinh doanh của các nhà đầu tư, từ đó góp phần hình
thành cơ cấu kinh tế hiện đại, hiệu quả hơn cho nền kinh tế.
+ Thuế có vai trò trong việc kiểm kê, kiểm soát, quản lý, hướng dẫn và

phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông hàng hoá đối với tất cả các thành phần
kinh tế theo định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước, góp phần tích

9


cực vào việc điều chỉnh các cân đối lớn trong nền kinh tế như cung và cầu,
tiền và hàng, tích luỹ và tiêu dùng...
+ Thuế còn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết thu nhập, đảm bảo
công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành phần kinh tế,
giữa các tầng lớp dân cư.
Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế và
giữa các tầng lớp dân cư. Sự bình đẳng, công bằng được thể hiện thông qua
chính sách động viên như nhau (thuế suất) giữa các tổ chức và các cá nhân
thuộc mọi thành phần kinh tế cùng hoạt động trong một lĩnh vực. Sự công
bằng trong thuế có nghĩa là người có thu nhập cao phải đóng thuế nhiều hơn
người có thu nhập thấp. Thông qua thuế chuyển bớt một phần thu nhập của
các tầng lớp giàu có sang tầng lớp những người nghèo thông qua các chính
sách xã hội, áp dụng mức thuế suất khác nhau đối với những khoản thuế đành
vào người tiêu dùng. Đối với những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu hoăch
những mặt hàng mà cả người giàu và người nghèo đều cần đến thì thuế suất
thấp có lợi cho người nghèo cao hơn người giàu. Ngược lại, đối với những
mặt hàng xa xỉ và các loại dịch vụ đặc biệt, thuế suất cao sẽ góp phần phân
phối lại thu nhập của một bộ phận người giàu.
- Phí: có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động của tổ chức, nó
phát huy nội lực tạo điều kiện cho các tổ chức đó thực hiện được mục đích
của mình và thực hiện mục tiêu của xã hội.
- Lệ phí: cũng có vai trò bù đắp chi phí hoạt động mà người nộp là
người được hưởng lợi trực tiếp.
- Các Khoản đóng góp khác: có vai trò hình thành và củng cố hoạt động

của các tổ chức, các đơn vị.
2.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.2.1 Tình hình đóng góp của hộ nông dân ở một số địa phương

10


Đóng góp của các hộ nông dân ở khu vực nông nghiệp – nông thôn
diễn ra ở hầu hết các địa phương trong cả nước và cụ thể các khoản đóng góp
và giá đóng góp của mỗi hộ ở mỗi nơi mỗi khác. Trong thực tế hiện nay, số
lượng các khoản phí và lệ phí mà nông dân phải nộp còn nhiều so với thu
nhập thực tế của họ.
2.2.1.1 Tình hình đóng góp của nông dân Miền Bắc
Đồng Bằng Sông Hồng: Có 26 khoản đóng góp chính thức, với mức
thu từ: 350.000 – 500.000 đồng/ hộ/ năm. Trong đó có 15 khoản do xã và tổ
chức đoàn thể thu, 11 khoản phí dịch vụ do HTX thu. [17]
Trung du miền núi phía Bắc: Có khoảng 28 khoản đóng góp chính thức
với mức thu từ: 250.000 – 450.000 đồng/ hộ/ năm. Trong đó, có 18 khoản do
xã và các tổ chức đoàn thể thu, 10 khoản phí dịch vụ do HTX thu. [17]
Nhìn chung ở các vùng khác nhau thì người nông dân phải nộp số
khoản đóng góp không giống nhau nên mức đóng góp cũng khác nhau. Ví dụ
tại Hải Dương, tổng số khoản đóng góp của nông dân từ 12 - 19 khoản/hộ.
Một số đại diện tỉnh Hải Dương nhận xét: "Thu nhập chủ yếu của người nông
dân chủ yếu trông chờ vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, thu nhập quá thấp
so với mặt bằng chung của xã hội, khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và
nông thôn ngày càng xa. Trong khi đó, đóng góp của người nông dân lại
nhiều, bình quân mỗi hộ đóng góp từ 450.000 – 850.000 đồng là không phù
hợp" (PV Báo mới.com).
2.2.1.2 Tình hình đóng góp của nông dân miền Trung
Duyên Hải Nam Trung Bộ: Có 28 khoản đóng góp chính thức với mức

thu từ 400.000 – 700.000 đồng/ hộ/ năm. Trong đó có 19 khoản do xã và các
tổ chức đoàn thể thu, 9 khoản phí dịch vụ do HTX thu. [17]
Bắc Trung Bộ: Có 24 khoản đóng góp chính thức với mức thu từ:
500.000 – 800.000 đồng/ hộ/ năm. Trong đó có 14 khoản do xã và các tổ chức
đoàn thể thu, 10 khoản phí dịch vụ do HTX thu. [17]

11


Ở tỉnh Thanh Hoá: Qua khảo sát, các xã trong tỉnh đang thực hiện 29
khoản thu. Riêng năm 2008, tổng số tiền cấp xã thu được 104 tỷ 583 triệu
đồng, gồm: Thu đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng 90 tỷ 120 triệu đồng chiếm
86%; thu đóng góp quỹ xã hội, từ thiện 3 tỷ 530 triệu đồng, chiếm 3% tổng
thu đóng góp tại xã. Nguyên tắc thu đóng góp của dân phải trên tinh thần dân
chủ, tự nguyện nhưng nhiều khoản thu thực chất là bắt buộc thực hiện. Nhiều
địa phương huy động đóng góp xây dựng hạ tầng không theo dự án mà ấn
định mức thu hằng năm, tạo quỹ chung để UBND xã điều hành. Một số địa
phương giao chỉ tiêu các quỹ xã hội, từ thiện tới từng hộ, quản lý qua ngân
sách là không đúng chức năng quy định về quản lý ngân sách xã. Nhiều loại
quỹ, phí đặt ra từ nhiều năm trước không còn phù hợp cơ chế hiện hành,
không có trong danh mục được cấp có thẩm quyền ban hành, nhưng các địa
phương vẫn thu của dân. Quá trình tổ chức thực hiện còn mất dân chủ, áp đặt,
không ít địa phương thực hiện cưỡng chế thu qua việc khấu trừ vào tiền chính
sách bảo trợ xã hội hoặc bắt buộc phải đóng góp các khoản còn nợ chính
quyền mới xác nhận các thủ tục hành chính gây bức xúc, phản ứng gay gắt
trong dân sinh. Kết quả kiểm tra cho thấy, có tới 17 khoản thu do cấp xã ban
hành không đúng thẩm quyền, hoặc thu cả những khoản cấp có thẩm quyền
đã bãi bỏ. Ngoài ra, các thôn hiện tại đang thực thu 11 khoản đóng góp với
tổng số thu 19 tỷ 034 triệu đồng. Tỉnh chỉ đạo UBND các xã, phường, thị trấn
bãi bỏ ngay các khoản đóng góp của nhân dân không đúng quy định, dừng

ngay việc huy động đóng góp các loại quỹ đã được bãi bỏ, miễn giảm như
quỹ lao động công ích, quỹ phòng, chống bão lụt, quỹ dân nuôi, quỹ kiến thiết
xã hội, quỹ tu bổ trường lớp, quỹ an ninh tự quản, quỹ đắp đất dự trữ, quỹ văn
hóa xã hội, quỹ quản trang, quỹ chỉ đạo sản xuất, quỹ phòng bệnh gia súc,
tiêm phòng thú y, quỹ dịch vụ bảo nông, quỹ bảo vệ đồng điền, hỗ trợ lương
giáo viên mầm non... Chỉ có ngành tài chính là đơn vị tham mưu cho cấp có
thẩm quyền ban hành các khoản thu, quản lý nguồn thu. Yêu cầu các địa

12


phương thực hiện nghiêm nguyên tắc "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra" trong quản lý, sử dụng các khoản thu đóng góp của nhân dân (PV Báo
mới.com).
2.2.1.3 Tình hình đóng góp của nông dân miền Nam
Đồng Bằng Sông Cửu Long: Có 25 khoản đóng góp chính thức với
mức thu từ: 300.000 – 700.000 đồng/ hộ/ năm. Trong đó có 13 khoản do xã
và tổ chức đoàn thể. [17]
Tây Nguyên: Có 17 khoản đóng góp chính thức với mức thu từ:
400.000 – 600.000 đồng/ hộ/ năm. Trong đó có 10 khoản do xã và các tổ
chức đoàn thể thu, 7 khoản phí dịch vụ do HTX thu. [17]
Đông Nam Bộ: Có 22 khoản đóng góp chính thức với mức thu từ:
350.000 – 550.000 đồng/ hộ/ năm. Trong đó có 13 khoản do xã và các tổ
chức đoàn thể thu, 9 khoản phí dịch vụ do HTX thu. [17]
Tại tỉnh Hà Tĩnh: Theo ông Nguyễn Văn Cầm, chủ tịch UBND xã Gia
Phố, huyện Hương Khê, Tỉnh Hà Tĩnh. Hiện nay, bà con nông dân trên địa
bàn xã Gia Phố phải đóng góp cả thảy 26 khoản: Trong đó, có 7 khoản dịch
vụ do HTX thu, 8 khoản do các tổ chức đoàn thể thu như: Hội phụ nữ, Đoàn
thanh niên, hội Khuyến học... 8 khoản do xã thu và 3 khoản do thôn thu. Như
vậy, bình quân mỗi hộ đóng góp 800.000 đồng/ năm. Mặc dù, Hương Khê có

tỷ lệ hộ nghèo 19%, thấp hơn mức trung bình toàn quốc (25%) nhưng mức
thu này trở thành gánh nặng thực sự đối với bàn con.
Cũng thuộc khu vực miền trung, Xã Hưng Lam, Huyện Hưng Nguyên,
Tỉnh Nghệ An đạt mức thu "kỷ lục" trong cả nước với mức đóng góp tới 2
triệu đồng/ hộ/ năm. [18]
Qua các số liệu trên cho thấy mức thu không đồng nhất giữa các vùng
miền trong cả nước và tỷ lệ nghịch với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của
các vùng. Những vùng kinh tế khó khăn, thu nhập của người dân thấp (Bắc

13


Trung Bộ và Tây Nguyên) thì mức đóng góp lại cao hơn các vùng thuận lợi
(đồng bằng sông Hồng, trung du miền núi phía Bắc).

2.2.1.4 Đánh giá chung về tình hình đóng góp của người dân cho chi tiêu công
Qua trên cho thấy mức thu không đồng nhất giữa các vùng miền trong cả
nước và tỷ lệ nghịch với điều kiện phát triển kinh tế xã hội. Trong báo cáo của
Bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp và PTNT Cao Đức Phát ngày 9/7/2007 về các
khoản đóng góp của nông dân và một số chính sách giảm bớt các khoản đóng
góp của nông dân, những vùng kinh tế khó khăn, thu nhập của người nông dân
thấp như vùng Tây Bắc, Đông Bắc, phía tây các tỉnh Duyên Hải miền Trung thì
mức đóng góp có xu hướng cao hơn các vùng thuận lợi như vùng đồng bằng
sông Hồng. Trong các tỉnh đồng bằng sông Hồng thì Hà Nội, Hải Dương, Hưng
Yên lại có mức đóng góp thấp hơn các tỉnh khác. [18]
Theo đánh giá của Uỷ ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội, Chính phủ
vẫn chưa bao quát hết những khoản phát sinh từ phí và lệ phí không còn phù hợp
với cơ chế thị trường. Bà Trương Thị Mai, Chủ nhiệm Uỷ ban các vấn đề xã hội
của Quốc hội nhận xét: “Do ngân sách hạn hẹp, Nhà nước không thể hoàn toàn
lo nổi tất cả các vấn đề, vì vậy người dân phải tham gia đóng góp cùng với Nhà

nước. Tuy nhiên, người dân tham gia mức độ nào, Nhà nước tham gia mức độ
nào, thì phải công khai, minh bạch. Trong thực tế điều này còn nhập nhằng.
Hàng năm kinh phí dành cho giáo dục vẫn tăng, song hiệu quả ra sao, người dân
đóng góp như thế nào thì chưa được làm rõ. Trong hoạch định các chính sách
sắp tới, cần thiết phải làm rõ phần nào của Nhà nước lo, phần nào của người dân
tham gia. Chính sách cũng phải phân chia theo các vùng, miền khác nhau. Làm
rõ những vấn đề đó thì người dân mới thấy được sự đóng góp của mình cùng với
Nhà nước là hữu ích”. [20]
Bà Nguyễn Thị Siêm, phó Ban kinh tế (Trung ương Hội Nông dân Việt
Nam) nêu một nghịch lý, đó là các tỉnh nằm trong vùng nghèo thì nông dân càng

14


có mức đóng góp càng cao. Nghĩa là mức đóng góp tỷ lệ thuận với tỉ lệ hộ
nghèo. [18]
Chẳng hạn, Lai Châu là tỉnh có tỉ lệ hộ nghèo lớn nhất nước( hơn 48%),
nhưng đóng góp lên tới 995.000 đ/hộ (cao nhất vùng Tây Bắc và cao hơn 24%
mức đóng góp bình quân cả nước).
Hay tỉnh Nghệ An nằm trong vùng Bắc Trung Bộ có tỷ lệ nghèo đứng thứ
hai toàn quốc (27,5%), nhưng mức đóng góp mỗi hộ cũng cao nhất vùng (1,14
triệu đồng, cao hơn bình quân cả nước 42%). [19]
Giành vị trí số một, mức đóng góp cao hơn bình quân cả nước hơn 60%
là Ninh thuận và Phú Yên, dù nằm trong vùng duyên hải Nam Trung Bộ có tỉ
lệ nghèo nhất vùng, với mức đóng góp từ 1 triệu - 1,4 triệu đồng/hộ/năm. [19]
Nhiều ý kiến cho rằng, thực tế này tạo sự không công bằng trong xã
hội, giữa nông thôn và thành thị, giữa người giàu và người nghèo. Ngay tại
khu vực nông thôn, với mức đóng góp tương tự nhau, người giàu được sử
dụng nhiều hơn người nghèo. Ví như, đóng góp xây dựng đường điện nông
thôn thì người nghèo chủ yếu dùng cho thắp sáng, không có các phương tiên

ti vi, tủ lạnh... như người giàu. [19]
2.2.2 Một số chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về các khoản
đóng góp của hộ nông dân
Từ trước đến nay nông nghiệp, nông thôn, nông dân luôn là một vấn đề
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đã được nêu trong nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ 10. Vấn đề về các khoản đóng góp của người nông dân cũng rất
được quan tâm. Trong các loại phí, khoản thu, cần phải phân biệt rõ khoản
nào nên duy trì, khoản nào cần phải bỏ. Cán bộ ngành chức năng đã hoàn
thiện phương án miễn giảm các khoản đóng góp bất hợp lý trình chính phủ
thông qua vào cuối năm 2007.

15


×