Tải bản đầy đủ (.docx) (114 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ : Rèn luyện đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh trung học phổ thông ở Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (513.86 KB, 114 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của bản thân
tơi dưới sự hướng dẫn của thầy giáo - TS. Hoàng Thúc Lân, trong đó có sự kế
thừa kết quả nghiên cứu của các học giả đi trước, với những trích dẫn và sử
dụng các tài liệu trong giới hạn cho phép.
Luận văn này chưa được công bố trên các phương tiện thông tin đại
chúng cũng như khơng trùng với bất kỳ cơng trình nghiên cứu khoa học nào
đã công bố trước đây.
Hà Nội, tháng 06 năm 2015
Tác giả
Chu Thị Hiên


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tập thể các thầy
cô giáo Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Khoa Triết học đã đem lại cho
tác giả những kiến thức bổ trợ vơ cùng có ích trong năm học vừa qua.
Đặc biệt xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới thầy giáo - TS.
Hoàng Thúc Lân, người đã hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình để tác giả hồn
thành luận văn này.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Văn
thư, Giáo vụ và đồng nghiệp tại các trường THPT chuyên Hà Nội Amsterdam,THPT Trí Đức, THPT Đào Duy Từ, THPT Afred Nobel đã giúp
đỡ tác giả trong quá trình nghiên cứu, thu thập số liệu thực hiện điều tra,
phỏng vấn.
Cuối cùng tác giả xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, người thân
đã ln động viên và khuyến khích tác giả trong q trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Hà Nội, tháng 06 năm 2015
Tác giả
Chu Thị Hiên



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

HS

: Học sinh

GV

: Giáo viên

CBQL

: Cán bộ quản lý

THPT

: Trung học phổ thông

NXB

: Nhà xuất bản

ĐTNCSHCM

: Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

SGD và ĐT

: Sở Giáo dục và Đào tạo



DANH MỤC BẢNG
Bảng

Trang


MỤC LỤC
Trang


MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài

Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt
Nam dân chủ cộng hịa năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Non
sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới
đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay khơng,
chính là nhờ một phần lớn ở cơng học tập của các em”. Và đúng như vậy,
học sinh Việt Nam ln là lực lượng hùng hậu, có tiềm năng và đóng góp
quan trọng trong q trình xây dựng, phát triển đất nước. Chính vì thế trước
lúc “đi xa” Người không quên căn dặn Đảng ta: “Bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết” [42; tr. 510].
Trong nội dung bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Hồ Chí Minh
đặt lên hàng đầu vấn đề bồi dưỡng lý tưởng và ý chí cách mạng. Tuy nhiên, lý
tưởng và ý chí cách mạng chỉ có thể duy trì và phát triển trên nền tảng đạo
đức đúng đắn. Thiếu đi nền tảng này học sinh chưa trải qua dạn dày đấu tranh

sẽ khơng đủ sức vượt qua những thăng trầm, khó khăn của hồn cảnh để kiên
trì phấn đấu đến cùng cho lý tưởng.
Hơn thế nữa, hiện nay tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn
biến rất phức tạp. Nhiều nhân tố tiêu cực từng ngày, từng giờ ảnh hưởng đến
thanh niên nói chung và học sinh nói riêng. Sau gần 30 năm đổi mới chuyển
sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam
đã đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường
bên cạch những giá trị cịn có những mặt trái. Chính những mặt trái của nền
kinh tế thị trường là mảnh đất màu mỡ để những yếu tố tiêu cực nảy sinh. Mặt
trái của nền kinh tế thị trường đã can thiệp, phá vỡ nhiều nét đẹp văn hóa
truyền thống, chà đạp lên những khuôn mẫu đạo đức. Chủ nghĩa cá nhân - kẻ
thù nguy hiểm nhất của đạo đức, đạo đức cách mạng theo cách gọi của Chủ
6


tịch Hồ Chí Minh, giờ đây có cơ hội trỗi dậy và phát triển, cộng thêm sự
chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Ngoài tư tưởng,
chúng cịn đẩy mạnh tiến cơng trên các lĩnh vực văn hóa, đạo đức, lối sống
mà đối tượng chủ yếu là học sinh, sinh viên đội ngũ trí thức trong tương lai.
Tất cả những điều đó đã tác động xấu đến việc hình thành và phát triển nhân
cách của học sinh.
Nghị quyết Trung ương Khóa VIII của Đảng (1997) đã gióng lên hồi
chng báo động tồn xã hội khi một bộ phận lớn học sinh, sinh viên có
những biểu hiện suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực
dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất
nước và đây là điều đặc biệt đáng lo ngại. Trong xu thế chung của học sinh cả
nước, một bộ phận không nhỏ học sinh các trường trung học phổ thông ở Hà
Nội có những biểu hiện lệch lạc trong nhận thức và hành vi đạo đức như: xác
định động cơ học tập khơng đúng, mục đích của việc học khơng phải để nâng
cao kiến thức mà nhằm kiếm điểm cao, để so bì với bạn bè, học vì sự hối thúc

của bố mẹ… Hiện tượng học sinh bỏ học không lý do, đi muộn, trốn tiết, quay
cóp trong giờ kiểm tra, thi cử… đã trở nên quá phổ biến; rồi học sinh thờ ơ
với các vấn đề chính trị, các hoạt động xã hội, còn mơ hồ về lý tưởng cách
mạng, ham chơi, đua địi chạy theo lối sống thực dụng, bng thả, xa rời đạo
đức truyền thống, tiếp thu lối sống phương Tây không chọn lọc, quá coi
thường giá trị vật chất, xem thường giá trị tinh thần, có hành vi vi phạm pháp
luật, sa vào các tệ nạn xã hội… trong khi đó, u cầu và địi hỏi của sự nghiệp
đổi mới tồn diện, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, các thế hệ học sinh đã, đang và sẽ gánh vác
những trọng trách to lớn nhưng vơ cùng khó khăn, phức tạp. Chính vì thế, tại
Đại hội IX Đảng ta lại nhấn mạnh: “Đối với thế hệ trẻ, chăm lo giáo dục, bồi
dưỡng đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống,
7


văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng và
sức sáng tạo, phát huy vai trị xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc” [19; tr. 126].
Như vậy, trước yêu cầu khách quan và cấp bách của công cuộc đổi mới,
việc rèn luyện đạo đức cho học sinh là một nội dung quan trọng hàng đầu
trong việc rèn luyện nhân cách tuổi trẻ, là sự chuẩn bị cực kỳ hệ trọng giúp
cho học sinh bước vào sự nghiệp lập thân, lập nghiệp.
Với những lý do trên tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Rèn luyện đạo đức Hồ
Chí Minh cho học sinh trung học phổ thông ở Hà Nội hiện nay” làm luận văn
thạc sỹ Triết học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Tưởng tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và việc rèn luyện đạo đức Hồ Chí
Minh cho thế hệ trẻ nói chung, học sinh THPT ở Hà Nội nói riêng ln là vấn
đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Vì vậy đã có nhiều cá nhân, tập thể
tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề này.

* Một là, nghiên cứu về đạo đức Hồ Chí Minh
Trong thơng báo Khoa học số 2, (1985) với để tài “Chủ tịch Hồ Chí
Minh với việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ”. Tác giả Nguyễn
Cảnh Minh đã nêu lên vai trò của đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh và
việc vận dụng những tư tưởng đó vào việc giáo dục thế hệ trẻ. Đây là một bài
có giá trị to lớn trong cơng tác giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói
riêng cho thế hệ trẻ hiện nay.
Trong Nghiên cứu khoa học số 2, tr 1 - 2, (1980) với đề tài “Ra sức
vận dụng những lời dạy của Hồ Chí Minh trong cơng tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho thế hệ trẻ”. Nội dung của nghiên cứu khoa học chủ yếu tập
trung vào những lời dạy của Hồ Chí Minh - đó là những lời khun, lời nhắn
nhủ tuy ngắn gọn, đơn giản nhưng vô cùng sâu sắc và ý nghĩa. Đó là những

8


thơng điệp mà Hồ Chí Minh mong muốn có được ở thế hệ trẻ. Từ đó mong
muốn thế hệ trẻ ra sức học tập và làm việc chăm chỉ, có đạo đức.
Tác giả Trung Miên với đề tài “Lời của Bác là lời của đất nước”, Nxb
Văn hóa Dân tộc, (2009). Trong cuốn sách này tác giả đã sưu tầm những câu
chuyện, những lời nói của Bác Hồ về đạo đức, đạo đức cách mạng, về lối
sống, lề lối làm việc… qua đó tác giả đã khái quát thành những điều mà
chúng ta cần phải ghi nhớ về đạo đức, đạo đức cách mạng, lý tưởng sống…
Trần Đăng Sinh, Nguyễn Thị Thọ (đồng chủ biên), (2008) với đề tài
“Giáo trình Đạo đức học”, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội. Trong cuốn sách
này nhóm tác giả đã trình bày tồn bộ nội dung một cách có hệ thống về phạm
trù đạo đức: quá trình ra đời, hình thành, các giai đoạn phát triển; đạo đức
mác xít và đạo đức của Hồ Chí Minh… trong đó có một phần nói về đạo đức
Hồ Chí Minh, về ý nghĩa và vai trị của đạo đức Hồ Chí Minh đối với đời
sống xã hội.

Trong Luận án Tiến sĩ với đề tài “Vai trò của đạo đức đối với sự hình
thành nhân cách cách mạng Việt Nam trong điều kiện đởi mới hiện nay”, Học
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (2001). Tác giả Lê Thị Thủy đã nhận
định rõ vai trò của đạo đức chung và đạo đức cách mạng nói riêng đối với q
trình giáo dục nhân cách cho những nhóm đối tượng cụ thể ứng với điều kiện
thực tế của nền kinh tế thị trường hiện nay.
Tác giả Trần Quy Nhơn với đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh và việc bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, (2004). Trong quá trình nghiên cứu tác
giả đã đưa ra những nội dung về tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh từ đó
khái nên tầm quan trọng của những nội dung đó đối với việc bồi dưỡng đạo
đức cho thế hệ sau - tức là thế hệ trẻ.
* Hai là, nghiên cứu về thế hệ trẻ, sinh viên, học sinh
Trong Luận án Tiến sĩ với đề tài “Giáo dục đạo đức với việc hình
thành và phát triển nhân cách sinh viên trong giai đoạn hiện nay”, Học viện
9


Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, (1999). Tác giả Trần Sĩ Phán đã nêu lên vai
trò của việc giáo dục đạo đức đối với sinh viên nói riêng và thế hệ trẻ nói
chung, từ đó nêu ra những giải pháp quan trọng, thiết thực cho công tác giáo
dục đạo đức của sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
Trong Luận án Tiến sĩ Tâm lí học với đề tài “Ảnh hưởng của truyền
thống gia đình đến định hướng giá trị của lứa tuổi thanh niên”, Đại học Sư
phạm Hà Nội, (1997), tác giả Cần Hữu Hải đã đề cập đến khía cạnh những
truyền thống lâu đời của gia đình và sự ảnh hưởng đến thế hệ trẻ. Tác giả đã
phân tích cả hai khía cạnh tích cực và hạn chế của truyền thống gia đình đến
việc định hướng giá trị sống cho thế hệ trẻ.
Trong Luận án tiến sĩ giáo dục học với đề tài “Giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh trung học phổ thông thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp”, (2010), tác giả Phan Thanh Vân đã trình bày việc lồng ghép giáo dục kĩ

năng sống cho học sinh trung học phổ thông qua các hoạt động ngoài giờ lên
lớp theo những chủ đề khác nhau. Ở đây tác giả đã nêu ra những nội dung,
biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trung học phổ thông qua việc
lồng ghép với những nội dung của mơn học thơng qua đó giúp học sinh rèn
luyện được những kĩ năng sống trong sáng, lành mạnh.
Trong Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học giáo dục mầm non với đề tài
“Văn hóa gia đình và sự hình thành phát triển nhân cách trẻ em, Nxb Đại học
Sư phạm Hà Nội, (1997), tác giả Võ Thị Kim Cúc đề cập đến sự ảnh hưởng
của văn hóa gia đình nói chung đến việc hình thành và phát triển nhân cách
của trẻ, đề tài này mang tính phổ quát rộng, bao gồm tất cả những văn hóa
thuộc gia đình.
Nhóm sinh viên Nguyễn Thị Thúy Hằng, Chu Thị Hiên, Vũ Thị
Đượng, Nguyễn Thị Linh với đề tài “Vai trò của gia đình trong việc giáo dục
đạo đức cho thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay”, (2009), đã tập trung làm rõ vai
10


trị của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ, từ đó đề ra những giải pháp
nhằm nâng cao hơn nữa vai trị của gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho
thế hệ trẻ.
Tác giả Dương Tự Đam với đề tài “Gia đình trẻ và việc thi hành nhân
cách thanh niên”, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, (2007), đã đề cập đến thế nào là
gia đình trẻ, và trong đó việc giáo dục đạo đức cho thanh niên nói riêng và
việc thi hành vấn đề nhân cách của thanh niên là như thế nào, từ đó có những
giải pháp cụ thể để giáo dục, hoàn thiện nhân cách của thanh niên trong gia
đình trẻ đó.
Tác giả Dương Tự Đam với đề tài “Tuổi trẻ Việt Nam với chủ nghĩa
yêu nước trong lịch sử dân tộc”, Nxb Thanh Niên, (2008), đã trình bày một
cách khái quát về phạm trù chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đặc biệt, tác giả
nhấn mạnh chủ nghĩa yêu nước của thanh niên trong lịch sử dân tộc. Đó là sự

tiếp nối và phát triển của chủ nghĩa yêu nước, là sự biểu hiện trong tình cảm
và thể hiện bằng hành động xung phong ra chiến trường của thanh niên. Tác
giả đã dẫn ra những nhân vật thanh niên yêu nước điển hình trong lịch sử đấu
tranh giành lại độc lập dân tộc.
Ngồi ra cịn nhiều đề tài khác nữa nghiên cứu về vấn đề đạo đức cũng
như việc giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh. Với những kết quả đã đạt
được về lí luận cũng như thực tiễn, hầu hết các tác giả đều thừa nhận việc làm
đó mới chỉ là kết quả ban đầu, mới chỉ là phát hiện những vấn đề. Cịn trên
những khía cạnh cụ thể cần có sự đầu tư hơn nữa để nghiên cứu một cách
tổng thể, khoa học.
Xuất phát từ những mục đích nghiên cứu khác nhau, mỗi cá nhân, tập
thể nghiên cứu khoa học đã tìm hiểu, nghiên cứu những khía cạnh khác nhau
về vấn đề thế hệ trẻ và việc giáo dục thế hệ trẻ trong đó có giáo dục đạo đức.
Mặc dù có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, song việc nghiên
11


cứu hệ thống vấn đề rèn luyện đạo đức Hồ Chí Minh cho HS THPT ở Hà Nội
hiện nay là cần thiết. Tác giả mong muốn làm rõ thêm cơ sở khoa học của
vấn đề rèn luyện đạo đức Hồ Chí Minh cho HS THPT ở Hà Nội hiện nay,
đồng thời góp phần khẳng định tính ứng dụng của đề tài trong thực tế rèn
luyện đạo đức cho học sinh.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc rèn
luyện đạo đức Hồ Chí Minh cho HS THPT ở Hà Nội hiện nay, trên cơ sở đó
đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng rèn luyện đạo đức Hồ Chí
Minh cho HS THPT ở Hà Nội trong thời gian tới.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Đạo đức Hồ Chí Minh và việc rèn luyện đạo đức Hồ Chí Minh cho học

sinh THPT ở hà Nội hiện nay.
3.3.Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho học
sinh trung học phổ thông ở Hà Nội hiện nay. Quá trình thực nghiệm được thực
hiện ở một số trường ở Hà Nội (THPT chuyên Hà Nội - Amstredam, THPT Trí
Đức, THPT Afred Nobel, THPT Đào Duy Từ) từ năm 1986 đến nay.
4. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
* Những luận điểm cơ bản:
- Đạo đức Hồ Chí Minh ln giữ vai trị quan trọng trong cơng tác giáo
dục và rèn luyện đạo đức cho học sinh nói chung và học sinh trung học phổ
thơng ở Hà Nội nói riêng.
- Rèn luyện đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở Hà Nội là một
sự cần thiết trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay.

12


- Việc rèn luyện đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở Hà Nội
luôn được đề cao và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả thì sẽ góp phần vào sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
* Đóng góp mới của luận văn:
Về mặt lý luận: kết quả của đề tài nhằm khẳng định hơn ý nghĩa, vai trị
nội dung đạo đức nói chung, đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng và việc vận dụng
những quan điểm đó vào sự nghiệp giáo dục, rèn luyện đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông ở Hà Nội hiện nay.
Về mặt thực tiễn: đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu và giảng dạy môn: Giáo dục cơng dân, Đạo đức học, Giáo dục
ngồi giờ lên lớp, tham mưu cho Bộ, Sở, Phòng giáo dục về sự cần thiết phải
rèn luyện đạo đức Hồ Chí Minh cho HS THPT ở Hà Nội hiện nay…
5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp logic
và lịch sử, phương pháp so sánh và hệ thống; phương pháp thực nghiệm sư
phạm, phương pháp điều tra khảo sát, phỏng vấn.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được bố cục gồm 2 chương, 7 tiết.

13


Chương 1
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀ VAI TRỊ
CỦA NĨ ĐỐI VỚI VIỆC RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY
1.1. Đạo đức và đạo đức Hồ Chí Minh
1.1.1. Đạo đức
Quan hệ xã hội là quan hệ đặc trưng của con người. Hệ thống các quan
hệ rất đa dạng và phức tạp, bao gồm quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa
cá nhân với xã hội. Trong cuộc sống, các cá nhân cần phải điều chỉnh hành vi
của mình cho phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng thông qua các chuẩn
mực xã hội. Một cá nhân biết tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với
lợi ích chung của xã hội, của người khác được coi là người có đạo đức.
Ngược lại, một cá nhân chỉ biết đến lợi ích của mình, bất chấp lợi ích của
người khác, của xã hội sẽ bị coi là người thiếu đạo đức.
Như vậy, đạo đức là một hiện tượng xã hội - là một hình thái ý thức đặc
biệt phản ánh các mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ thực tế cuộc sống con
người, của xã hội loài người hướng tới chân, thiện, mỹ. Trong đời sống của
mỗi người, quy luật xã hội tất yếu đòi hỏi họ phải tự ý thức được ý nghĩa,
mục đích, hành vi, hoạt động của mình trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Những hành vi, hoạt động đó bao giờ cũng bị chi phối bởi các mối quan hệ
giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng, với xã hội, cho phép tới một
giới hạn nhất định của cộng đồng, của dân tộc… nhằm đảm bảo quyền lợi cho
tất cả các thành viên vươn lên một cách tích cực, tự giác, tạo thành động lực
phát triển của xã hội. Đó chính là những quy tắc, chuẩn mực trong hành vi,
hoạt động đòi hỏi mỗi cá nhân phải tự giác thực hiện. Dựa vào đó ta có thể
đánh giá được hành vi của con người có đạo đức hay phi đạo đức.
14


Tuy nhiên, từ trước đến nay đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về
khái niệm đạo đức. Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người
Trung Quốc cổ đại xuất hiện sớm, trong đó những quan niệm của họ về đạo
và đức được thể hiện khá rõ nét. Đạo đức là một trong những phạm trù quan
trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường, là
đường đi, về sau khái niệm này được vận dụng trong triết học để chỉ con
đường của tự nhiên. Đạo cịn có nghĩa là đường sống của con người trong xã
hội. Có thể nói khái niệm đạo đức lần đầu tiên xuất hiện trong Kim văn đời
nhà Chu và từ đó trở đi được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức
dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức tính là biểu hiện của
đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc, luân lí. Như vậy, đạo dức theo quan niệm của
người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc
sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Ở phương Tây, vấn đề đạo đức từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà tư tưởng. Cho đến nay, người ta vẫn coi Xôcrát (469-399 TCN) là người
đầu tiên đặt nền móng cho khoa học đạo đức học. Còn Arixtốt (384 – 322
TCN) đã viết bộ sách Đạo đức học với 10 cuốn, trong đó ơng đặc biệt quan
tâm đến phẩm hạnh con người. Nội dung của phẩm hạnh chính là chỗ biết
định hướng đúng, biết làm việc thiện. Ơng nói: chúng ta bàn về đạo đức
khơng phải để biết đức hạnh là gì mà là để trở thành con người có đức hạnh.

Đạo đức là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con
người tự giác điều chỉnh hành của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng
đồng, của xã hội.
Từ khái niệm trên ta có thể thấy rằng đạo đức được hình thành một
cách tự nhiên trong xã hội, trong sự giao tiếp mối quan hệ giữa người với
người. Và sự điều chỉnh hành vi con người của phạm trù đạo đức rất khác so
với các phạm trù khác như pháp luật, phong tục, tập quán. Sự điều chỉnh hành
15


vi của pháp luật là sự điều chỉnh hành vi mang tính bắt buộc, cưỡng chế. Đó
là sự điều chỉnh thông qua những yêu cầu tối thiểu, được quy định bằng các
văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước, buộc các cá nhân và tổ chức phải
tuân theo để đảm bảo lợi ích chung cho xã hội. Trong khi đó, sự điều chỉnh
hành vi của đạo đức lại mang tính tự nguyện và thường là những yêu cầu cao
của xã hội đối với con người. Trong thực tế, có những trường hợp hành vi của
cá nhân tuy không vi phạm pháp luật nhưng có thể vẫn bị phê phán về mặt
đạo đức. Vậy nên mới có câu nói: “pháp luật là đạo đức tối thiểu, đạo đức là
pháp luật tối đa của con người”.
Thực tế cuộc sống chứng minh rằng, cùng với sự vận động và phát triển
của lịch sử xã hội, các quy tắc, chuẩn mực của đạo đức cũng biến đổi theo.
Lịch sử nhân loại đã từng tồn tại nhiều nền đạo đức xã hội khác nhau và các
nền đạo đức này luôn bị chi phối bởi quan điểm và lợi ích của giai cấp thống
trị. Chẳng hạn, trong chế độ phong kiến, “trung” là trung thành một cách vô
điều kiện với vua, vua bảo thần chết là thần phải chết, thần không chết thần
bất trung. Ngày nay, “trung” có nghĩa là trung thành với lợi ích của đất nước,
của nhân dân.
Vai trò của đạo đức được thể hiện:
Thứ nhất, đối với cá nhân: đạo đức giúp hoàn thiện nhân cách con
người. Đạo đức giúp cá nhân có ý thức và năng lực sống thiện, sống có ích,

thêm tình yêu đối với gia đình, đồng bào, Tổ quốc và rộng hơn là toàn nhân
loại. Một cá nhân mà thiếu đạo đức thì mọi phẩm chất, năng lực khác sẽ
khơng cịn ý nghĩa.
Thứ hai, đối với gia đình: đạo đức là nền tảng hạnh phúc gia đình, tạo
ra sự ổn định và phát triển vững chắc của gia đình. Đạo đức là nhân tố khơng
thể thiếu của một gia đình hạnh phúc. Sự tan vỡ của một số gia đình hiện nay
thường có ngun nhân từ việc vi phạm nghiêm trọng các quy tắc, chuẩn mực
16


đức như con cái không nghe lời ông bà, cha mẹ; các thành viên trong gia đình
khơng tơn trọng lẫn nhau; vợ chồng không chung thủy…
Thứ 3, đối với xã hội: nếu ví xã hội là một cơ thể sống, thì đạo đức có thể
coi là sức khỏe của cơ thể sống ấy. Một xã hội trong đó các quy tắc, chuẩn mực
đạo đức được tôn trọng và luôn luôn được củng cố, phát triển thì xã hội đó có thể
phát triển bền vững. Ngược lại, trong một môi trường xã hội mà các chuẩn mực
đạo đức bị xem nhẹ, khơng được tơn trọng thì nơi ấy dễ xảy ra sự mất ổn định,
thậm chí cịn có thể dẫn đến sự đổ vỡ nhiều mặt trong đời sống xã hội.
Như vậy, đạo đức là một phạm trù thuộc hình thái ý thức xã hội phản
ánh tồn tại xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội giữa con người với con
người trên cơ sở kinh tế. Sự phát triển của đạo đức xã hội từ thấp đến cao như
những nấc thang giá trị về sự văn minh của con người trên cơ sở phát triển
của sức sản xuất vật chất và thông qua sự đấu tranh, gạn lọc, kế thừa mà nội
dung đạo đức ngày càng tiến bộ, phong phú và hồn thiện hơn.
1.1.2. Đạo đức Hồ Chí Minh
1.1.2.1.Điều kiện, tiền đề cho sự ra đời tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
* Đạo đức Hồ Chí Minh bị quy định bởi điều kiện kinh tế - xã hội
Việt Nam
Vào những năm cuối của thể kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Việt Nam là nước
thuộc địa nửa phong kiến, đời sống nhân dân lầm than, cực khổ dưới sự áp

bức bóc lột, đơ hộ của bọn chúa đất và thực dân xâm lược.
Về chính trị: tình hình chính trị rối ren, khắc nghiệt, sự chèn ép khắt
khe của bọn địa chủ phong kiến, sự áp bức, bóc lột tàn khốc của thực dân
khiến cho đời sống của nhân dân thời điểm đó trở nên ngột ngạt. Khát khao tự
do, khát khao sống của con người bị đè bẹp, bị vùi dập dường như khơng lối
thốt. Trong xã hội chia ra nhiều giai tầng khác nhau, từ đó nảy sinh nhiều
mâu thuẫn, tiêu biểu nhất là: mâu thuẫn giữa địa chủ phong kiến và nông dân,

17


giữa đế quốc và nông dân, thực dân và công nhân, giữa địa chủ phong kiến và
thực dân… đặc điểm của các giai cấp trong xã hội Việt Nam có sự chuyển
biến mạnh mẽ, đồng thời xuất hiện giai cấp mới. Cụ thể sau:
Giai cấp địa chủ phong kiến: Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm
chiếm nước ta một số bộ phận thuộc giai cấp địa chủ đã đầu hàng, làm tay sai
cho thực dân Pháp, số lượng ngày càng đơng, địa vị kinh tế và chính trị được
tăng cường - dựa vào đế quốc ra sức tước đoạt ruộng đất của nơng dân và
ngày càng giàu có. Do chính sách cai trị của thực dân, giai cấp địa chủ phong
kiến thành chỗ dựa cho Pháp, được Pháp trọng dụng, nâng đỡ và nắm các
chức dịch làng xã.
Giai cấp nông dân: Số lượng đông đảo nhất ở vùng nông thôn, cuộc
sống của họ vốn cơ cực trăm bề, nay dưới tác động của cuộc khai thác của
bọn thực dân lại càng điêu đứng hơn, họ bị tước đoạt ruộng đất, phải chịu
hàng trăm thứ thuế và các khoản phụ thu của các chức dịch trong làng, xã. Do
vậy, giai cấp nơng dân thời kì này có nhiều xáo trộn, nhiều nông dân bị phá
sản đã ở lại nông thôn làm tá điền cho địa chủ, đi làm phu cho các đồn điền
Pháp, ra thành thị kiếm ăn - cắt tóc, kéo xe, đi ở ..., một số ít làm công ở nhà
máy, hầm mỏ của tư bản Pháp ở Việt Nam. Do vậy, họ căm ghét chế độ thực
dân, phong kiến cộng với ý thức dân tộc sâu sắc, nông dân sẵn sàng hưởng

ứng, tham gia cuộc đấu tranh do bất kì cá nhân, tổ chức, tầng lớp nào đề
xướng để có thể giúp họ giành được độc lập, tự do và ấm no.
Tầng lớp tư sản: Là các nhà thầu khốn, chủ xí nghiệp, xưởng thủ
cơng, chủ hãng bn bán ... bị chính quyền thực dân kìm hãm, tư bản Pháp
chèn ép. Do bị lệ thuộc, yếu ớt về kinh tế nên chỉ muốn có thay đổi nhỏ để
tiếp tục kinh doanh. Họ chưa dám tỏ thái độ hưởng ứng, tham gia các cuộc
vận động giải phóng dân tộc. Cuộc sống tuy khổ cực nhưng dễ chịu hơn nông
dân, công nhân. Cũng như nông dân, giai cấp tư sản có ý thức dân tộc nên hào
hứng tham gia các cuộc vận động cứu nước.
18


Giai cấp công nhân: ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp, họ phần lớn xuất thân từ nông dân. Công nhân chủ yếu làm việc ở đồn điền,
hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp, lương thấp nên đời sống khổ cực. Do bị thực dân
phong kiến bóc lột tàn bạo nên giai cấp cơng nhân có tinh thần đấu tranh mạnh
mẽ, quyết liệt chống bọn chủ để cải thiện điều kiện làm việc và đời sống.
Về kinh tế: Việt Nam vốn là nước có nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa
nước lạc hậu, sa sút, mất mùa triền miên. Cơng nghiệp đình đốn, lạc hậu,
khơng có khả năng cạnh tranh với sự đàn áp của thực dân Pháp. Cịn thương
nghiệp hầu như khơng phát triển, thực dân Pháp độc chiếm thị trường nguyên
liệu và thu thuế (hàng hoá Pháp nhập vào Việt Nam chỉ đánh thuế rất nhẹ,
trong khi hàng hóa của các nước khác nhập vào thì rất cao, có khi đến 120%);
ở Việt Nam chúng đặc biệt đánh thuế rất nặng các loại mặt hàng như: thuế
muối, thuế rượu, thuế thuốc phiện… Đối với giao thông vận tải, thực dân
Pháp mở mang đường sá, cầu cống, bến cảng ... để phục vụ cho công cuộc
khai thác tài nguyên của nước ta và để dễ bề hành quân đàn áp các cuộc nổi
dậy của nhân dân Việt Nam.
Chính những chính sách khắt khe ngặt nghèo đó của thực dân khiến
cho người dân Việt Nam cơ cực, lầm than, thiếu ăn, thiếu mặc kéo dài. Quyền

lợi của nhân dân ngày càng bị thu hẹp, dân tộc Việt Nam bị mất quyền tự do,
mất tính chủ quyền dân tộc và trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Về văn hóa- xã hội: trong thời gian này văn hóa cũng có nhiều biến đổi.
Nền văn hóa truyền thống, bản địa có sự du nhập, tiếp biến những nền văn
hóa mới. Trong đó ảnh hưởng lớn nhất phải kể đến đó là Phật giáo từ Ấn Độ,
Đạo giáo và Nho giáo từ Trung Quốc. Chính điều đó phần nào làm cho lễ
giáo phong kiến đã khắt khe nay lại càng trở nên khắt khe hơn trong xã hội.
Tính gia trưởng, đặc quyền của người đàn ơng trong gia đình khiến cho người
phụ nữ phải chấp nhận cuộc sống “an phận thủ thường”.
19


Trước sự áp bức bóc lột đó nhân dân Việt Nam đã liên tiếp nổi dậy
chống lại ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất dưới ngọn cờ của nhiều nhà
yêu nước nối tiếp nhau như: phong trào đấu tranh do Nguyễn Trung Trực lãnh
đạo (1861 - 1868) ở Nam Bộ đến khởi nghĩa Hương Khê (do Phan Đình
Phùng ở Bắc trung bộ), khởi nghĩa Bãi Sậy ở đồng bằng sông Hồng, khởi
nghĩa nông dân Yên Thế (1883 - 1919) ở vùng núi phía Bắc, các sĩ phu yêu
nước dưới ngọn cờ Cần Vương (1885 - 1896), phong trào Đông Du (1904 1908), Đông Kinh Nghĩa Thục đầu thế kỉ XX do các sĩ phu yêu nước có tư
tưởng cải cách theo hướng dân chủ tư sản của Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh… Tuy nhiên, do khơng có đường lối, chính sách đúng đắn nên hầu hết
các cuộc đấu tranh đó cuối cùng đều thất bại. Nhưng qua đó phần nào đã đem
lại niềm tin cho nhân dân, đã khơi gợi lên tinh thần yêu nước cho dân tộc Việt
Nam, đồng thời các cuộc khởi nghĩa đó đã thể hiện ý chí quật cường của dân
tộc ta, thể hiện tinh thần yêu nước, yêu dân của dân tộc Việt Nam.
Đứng trước tình cảnh nước mất nhà tan, đời sống nhân dân cơ cực. Hồ
Chí Minh, lúc đó tên là Nguyễn Văn Ba đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu
nước. Dù biết bao phong ba bão táp, biết bao nguy hiểm gian trn nhưng
Người ln quyết tâm vì sự nghiệp cao cả, vì dân tộc Việt Nam. Người nói
“Tơi tuyệt nhiên không ham muốn công danh, phú quý chút nào… Tơi chỉ có

một ham muốn, ham muốn tuột bậc là làm sao cho nước nhà được độc lập,
dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành” [53; tr. 7].
* Đạo đức Hồ Chí Minh bị quy định bởi truyền thống dân tộc Việt Nam
Văn hóa Hồ Chí Minh nói chung, đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng, đã
được kết tinh từ những gì tinh túy nhất của văn hóa Việt Nam. Truyền thống
đạo đức dân tộc là mạch chủ đạo, chi phối suy nghĩ hành động, đạo lý làm
người của người Việt Nam. Nó trở thành chuẩn mực để xác định, nhận biết
20


điều tốt, điều xấu, điều thiện, điều ác, điều phải, điều trái… của con người. Vì
thế, truyền thống đó trở thành một triết lý xã hội, một hình thức giáo dục đạo
đức sâu sắc. Dân tộc Việt Nam trong mấy nghìn năm dựng và giữ nước đã
xây dựng, tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, sâu sắc, phong phú, bền
vững với những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, quý báu.
Trong đó nổi bật nhất là chủ nghĩa u nước và lịng nhân ái. Hồ Chí
Minh đã viết những dịng đầy tâm huyết: “Dân ta có một lịng nồng nàn u
nước. Đó là một truyền thống q báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc
bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi nổi, kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh
mẽ, to lớn. Nó lướt qua mọi nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước” [58; tr. 171]. Yêu nước gắn liền với thương dân là đạo
lý truyền thống của dân tộc. Đạo lý này đã được Hồ Chí Minh kế thừa và phát
huy. Trước cảnh nước mất, người dân lầm than nơ lệ, Hồ Chí Minh đã quyết tâm
đi tìm đường cứu nước và trở thành nhà ái quốc vĩ đại với “một sự ham muốn tột
bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Khi nước
nhà giành được độc lập, đứng trên Lễ đài đọc Tuyên ngôn Độc lập, Người đã ân
cần, thân thiết hỏi quốc dân đồng bào: “Tơi nói đồng bào nghe rõ không?”. Yêu
nước, thương dân đã thành điều tâm niệm thiêng liêng nằm sâu trong tâm thức

và tâm của nhà cách mạng - nhà văn hóa lớn Hồ Chí Minh.
Tiếp đó là tình đồn kết, nhân nghĩa, tương thân tương ái. Dù già hay
trẻ, dù trai hay gái, giàu hay nghèo, miền xuôi hay miền ngược… bất kể là ai,
cứ là Việt Nam thì đều biết và hiểu đạo lý cao quý đó. Đạo lý “lá lành đùm lá
rách” đã ăn sâu vào trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam. Truyền
thống đó cũng là sức mạnh của toàn dân tộc để đánh bại mọi kẻ thù, mọi áp
bức bóc lột, gơng xiềng, và mỗi ai, nhất là những nhà lãnh đạo cách mạng đều
coi trọng tinh thần đoàn kết của nhân dân, của dân tộc. Nếu khơng có sức
21


mạnh đó thì sao người lãnh đạo hồn thành nhiệm vụ, thì sao dân tộc ta có thể
đánh bại kẻ thù, xây dựng đất nước trong mọi thời kỳ và tốt đẹp như ngày
hôm nay. Chẳng vậy mà ông cha ta luôn nhắc câu:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
(ca dao tục ngữ Việt Nam).
Hay Chủ tịch Hồ Chí Minh có câu:
Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống lạc quan, yêu đời, tin tưởng ở tương
lai. Vì đó, trong mn vàn khó khăn, gian khổ người dân Việt Nam vẫn luôn
động viên nhau, giúp đỡ nhau để vượt qua. Hơn thế nữa, điều đó cũng được
người dân đưa vào ca dao tục ngữ, thành những câu châm ngơn để khích lệ,
động viên nhau. Chẳng hạn: “Thuận vợ thuận chồng, tát biển đông cũng
cạn”, “có cơng mài sắt có này nên kim”, “có sức người sỏi đá cũng thành
cơm”, “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”... Cũng chính nhờ có truyền
thống này mà dân tộc ta có một niềm tin vững chắc của sức mạnh nội sinh, tin
vào sự chiến thắng của chân lí, của chính nghĩa.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng

tạo. Truyền thống này được thể hiện trong quá trình lao động sản xuất và
chiến đấu chống giặc ngoại xâm, trong mọi công việc họ ln có những sáng
tạo mới, ln có tinh thần học hỏi, tiếp thu những điều mới lạ từ người thân,
từ bạn bè, đồng chí và cả tinh hoa văn hóa nhân loại.
* Đạo đức Hồ Chí Minh bị quy định bởi chủ nghĩa Mác - Lênin và
tinh hoa văn hóa nhân loại
Sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc chủ nghĩa Mác - Lênin

22


Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội IX
của Đ ảng đã nêu rõ: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả
của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ
thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hố nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh
của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân,
xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phịng toàn dân,
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hố,
khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo
đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vô tư; về chăm lo bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán
bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân
dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta".
Có thể nói chủ nghĩa Mác - Lênin là nhân tố ảnh hưởng và tác động
quyết định đến quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đó là cơ sở hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của Hồ
Chí Minh, nhờ đó mà Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã có bước phát triển
về chất từ một người yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, tìm ra
con đường cứu nước đúng đắn. Chính trên cơ sở của lý luận Mác - Lênin đã
giúp Người tiếp thu và chuyển hoá những nhân tố tích cực, những giá trị và
tinh hoa văn hoá của dân tộc và của nhân loại để tạo nên tư tưởng của mình
phù hợp với xu thế vận động của lịch sử. Vì vậy, trong quá trình hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Mác-Lênin có vai trị to lớn, là cơ sở, nguồn
gốc chủ yếu nhất.
23


Chính bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định trong cuốn
sách Đường Kách Mệnh được viết năm 1927 cuốn sách vỡ lòng cho chiến sĩ
cách mạng đầu tiên của Việt Nam: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là
chủ nghĩa Mác - Lênin” [54; tr. 268].
Điều quan trọng là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin như thế nào? Đây là một vấn đề quan trọng và cũng đã có rất nhiều giải
đáp khác nhau. Có quan điểm cho rằng Hồ Chí Minh ‘bê” nguyên chủ nghĩa
Mác – Lênin vào Việt Nam mà khơng có sự sáng tạo gì cả; có quan điểm lại
cho rằng đó là sự bắt trước, dập khn, máy móc… đó tồn là những quan
điểm sai lầm. Thực sự vấn đề Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng ra sao chủ
nghĩa Mác - Lênin đã được thực tế cuộc sống chứng minh, nếu như ai đọc
những cuốn sách mà Người viết, nghe những lời mà Người nói, nhìn những
việc Người làm thì sẽ có cách nhìn nhận, đánh giá khác ngay thơi.
Hồ Chí Minh tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin với một tinh thần vừa sâu
sắc, vừa sáng tạo. Sâu sắc vì đã nắm được tinh thần của Mác, Ăngghen, Lênin
về bản chất và tính tất yếu của những cái gọi là chính nghĩa, hợp khách quan
và thực tiễn. Người đã tiếp thu một cách đầy chon lọc và sáng tạo Chủ nghĩa
Mác – Lênin về tất cả các lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đến

giáo dục, đạo đức, tơn giáo, thẩm mỹ…. nhưng trong đó phải nhấn mạnh và
kể đến sự vận dụng của người về đạo đức Mácxít - đó là một hệ thống đạo
đức mới, đạo đức hướng tới sự chân - thiện - mỹ của con người.
Đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã khám phá ra kho tàng
đạo đức Macxit, đó là thứ đạo đức đích thực, cốt lõi là giải phóng dân tộc;
giải phóng giai cấp; giải phóng con người, xã hội mang lại sự tự do, ấm no,
bình đẳng, hạnh phúc thật sự cho con người, vì sự tiến bộ, phát triển xã hội,
đưa nhân loại từ chỗ bị tha hóa đến vương quốc tự do, vương quốc đích thực
và chủ nghĩa nhân đạo đích thực.
24


Hồ Chí Minh cịn thấy được ở C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin là
những tấm gương đạo đức sáng ngời, họ khơng chỉ là những lãnh tụ thiên tài
về chính trị mà còn là những lãnh tụ giản dị, khiêm tốn, coi khinh xa hoa, yêu
lao động… là hiện thân của tình an hem bốn bể.
Hồ Chí Minh chỉ rõ đạo đức cũ và đạo đức macxit đối lập nhau. Đạo đức
macxit là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó khơng phải vì danh vọng cá nhân mà
vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, nhân loại; nó địi hỏi phải phá tan xiềng
xích nơlệ, xây dựng một xã hội bình đẳng, tốt đẹp cho con người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng vơ sản, mang bản
chất cách mạng và khoa học, đậm đà bản sắc dân tộc, kết hợp giữa tinh hoa
nhân loại và dân tộc; là một hệ thống mở phát triển cùng với thực tiễn Việt
Nam, góp phần tạo dựng bộ mặt văn hóa Việt Nam, là vũ khí tinh thần trong
công cuộc xây dựng đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội.
Đạo đức Hồ Chí Minh là sự tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Đạo đức Hồ Chí Minh được hình thành trong cái nơi văn hóa dân tộc,
nhất là trong quá trình Người tìm đường cứu nước và lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Quá trình này nằm trong bối cảnh văn hóa Việt Nam có sự giao
lưu và tiếp biến mạnh mẽ với tinh hoa văn hóa nhân loại, “Có thể nói văn hóa

Hồ Chí Minh đã được hình thành từ q trình Hồ Chí Minh, với tư cách là
chủ thể văn hóa, tiếp nhận tinh hoa văn hóa dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn
hóa nhân loại”. Văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh là sự thống nhất hữu cơ,
không thể tách rời giữa tư tưởng đạo đức và thực tiễn đời sống đạo đức của
Người, là hiện thân sinh động, chân thực, cảm động về trí tuệ - tình cảm - tâm
hồn - lối sống và nhân cách Hồ Chí Minh - con người Việt Nam đẹp nhất, là
bản sắc độc đáo của văn hóa đạo đức dân tộc gắn liền với tầm cao tư tưởng
đạo đức của thời đại cách mạng và tiếp biến được những tinh hoa văn hóa đạo
đức của nhân loại.
25


×