BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CNXH :
Chủ nghĩa xã hội
DHLS :
Dạy học lịch sử
GV
:
Giáo viên
HS
:
Học sinh
KTLM :
Kiến thức liên môn
KTĐL
:
Kiến thức địa li
NXB
:
Nhà xuất bản
SGK
:
Sách giáo khoa
SGV
:
Sách giáo viên
SL
:
Số lượng
THCS :
Trung học cơ sở
XHCN :
Xã hội chủ nghĩa
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám
hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Lịch sử, Phòng sau đại học, các thầy cô giáo trong
tổ bộ môn Lý luận và Phương pháp dạy học Lịch sử trường Đại học sư phạm
Hà Nội đã tạo điều kiện, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn đặc biệt sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Thế Bình
người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình làm luận văn.
Cuối cùng tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, tới những
người thân, bạn bè đồng nghiệp cũng như bạn bè trong nhóm Lý luận và
Phương pháp dạy học Lịch sử đã tận tình giúp đỡ, cổ vũ, động viên tác giả
trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Tác giả
Đỗ Anh Dũng
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG KIẾN
THỨC ĐỊA LÍ TRONG DẠY HỌC.................................................................................14
LỊCH SỬ LỚP 6 TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ.......................................................14
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
giáo dục phải đổi mới đang là một xu thế tất yếu mang tinh toàn cầu. Nước
nào không đổi mới, hoặc cải cách giáo dục không thành công, nước đó sẽ mất
khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế và sẽ bị tụt hậu xa hơn. Nhiều quốc
gia đã và đang tiến hành cải cách để hướng tới một nền giáo dục hiện đại. Mặt
khác, việc bồi dưỡng giáo dục đạo đức, lối sống, nhân cách cho thế hệ trẻ
cùng với việc phát triển những năng lực, kỹ năng cần thiết khác để từ đó định
hướng, xác lập lại những giá trị chuẩn mực trong bối cảnh mới đối với mỗi
con người, đặc biệt là người trẻ với tư cách chủ nhân của hiện tại và tương lai
đất nước là vô cùng quan trọng và cần thiết. Vì vậy, đề án “Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế” thể hiện rõ trong kết luận số 51-KL/TW ngày 29/10/2012 Hội
nghị ban chấp hành Trung ương lần thứ sáu khóa XI.
Ngày 4-11-2013, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI Nghị quyết số 29-NQ/TW) đã nêu rõ “Đối với giáo dục phổ
thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực
công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho
học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý
tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ
năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng
tạo, tự học...”
Quan điểm chỉ đạo của Đảng đã thể hiện tinh cấp thiết phải đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục, đào tạo hướng đến phát triển tri tuệ, hình thành phẩm
chất, năng lực, kỹ năng thực hành, vận dụng trong dạy học hiện nay.
1
Bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông cung cấp cho học sinh những tri
thức về nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình phát triển của lịch
sử dân tộc và thế giới. Trên cơ sở đó, hình thành cho các em thế giới quan duy
vật biện chứng khoa học, xây dựng niềm tin vững chắc vào sự phát triển của
dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay. Đồng thời, qua dạy học
lịch sử, phải phát triển các năng lực nhận thức.
Lịch sử và Địa li là hai khoa học có mối liên hệ rất gần gũi. Ở cấp tiểu
học, các em đã làm quen với hai môn khoa học này trong “Lịch sử và Địa li
4”, “Lịch sử và Địa li 5”. Ở cấp THCS, Lịch sử và Địa li phân thành hai môn
riêng biệt nên it có sự liên hệ kiến thức với nhau. Do đó, việc sử dụng kiến
thức liên môn nói chung và KTĐL trong DHLS nói riêng là cần thiết.
Thực tế hiện nay, việc dạy và học lịch sử 6 trong nhà trường THCS
hiện nay còn những tồn tại là kiến thức các bộ môn bị rời rạc, it đề cập về yếu
tố địa li, lịch sử văn hóa, nghệ thuật, khoa học…nên chưa tạo được hiệu quả
bài học lịch sử. Một bộ phận GV trong quá trình DHLS chưa chủ động sử
dụng kiến thức liên môn vào từng giờ học. Trong đó, có sử dụng KTĐL. Vì
vậy, sự nhận thức về lịch sử còn phiến diện, sự vận dụng kiến thức của các
em còn hạn chế.
Thực tiễn dạy học đặt ra câu hỏi là: làm thế nào để HS thich học Lịch sử?
Những biện pháp sư phạm nào để sử dụng hiểu quả KTĐL trong DHLS? Để trả
lời câu hỏi này, đòi hỏi GV dạy Sử không chỉ có kiến thức vững vàng về bộ môn
Lịch sử, mà còn phải có những hiểu biết vững chắc về các bộ môn Địa lý, Văn
học, Nghệ thuật, Khoa học…để làm phong phú và hấp dẫn thêm bài giảng.
Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi chọn đề tài "Sử dụng kiến thức địa
lí trong dạy học lịch sử lớp 6 trường trung học cơ sơ” làm đề tài Luận văn
tốt nghiệp Thạc sĩ của mình.
2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề sử dụng KTLM nói chung, KTĐL nói riêng trong DHLS đã và
đang được các nhà lý luận dạy học, các nhà giáo dục lịch sử trong và ngoài
nước quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến các công trình tiêu biểu sau đây
2.1. Tài liệu nước ngoài
Nhà giáo dục N.G.Đairi trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế
nào” (NXB Giáo Dục 1973), đã viết “để có một giờ học tốt, người giáo viên
phải kết hợp được nhiều khâu khác nhau quan trọng nhất là tham khảo các
tài liệu để làm cho nội dung bài giảng phong phú, chính xác…”[16;23]. Theo
đó, tác giả nêu rõ tầm quan trọng của việc tham khảo nhiều nguồn tài liệu,
nhiều nguồn tri thức làm cho bài giảng sinh động và hấp dẫn.
Nhà giáo dục học T.A.ILina trong quyển “Giáo dục học” (NXB Giáo
dục Hà Nội, 1973) khẳng định: “Ngày nay không có một khoa học nào được
giảng dạy mà lại không sử dụng những số liệu của các khoa học tiếp cận
khác, những tài liệu, những sự kiện và những thí dụ lấy từ trong cuộc sống
hàng ngày và từ các lĩnh vực tri thức khác nhau” [23;245].Trong phần nhiệm
vụ của việc giảng dạy kĩ thuật tổng hợp tác giả cho rằng: “Việc xác lập mối
liên hệ giữa các bộ môn nhằm vạch ra cho học sinh thấy mối liên hệ qua lại
của các khoa học” [23, tr. 153]. Tác giả đã khẳng định việc kết hợp kiến thức
của những ngành khoa học khác nhau phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy một
ngành khoa học cụ thể là hết sức cần thiết. Trong đó, có việc sử dụng kiến
thức khoa học khác trong DHLS.
Tác giả N.M.Iacôplep trong “Phương pháp và kĩ thuật lên lớp trong
trường phổ thông” (Tập 1) NXB Giáo dục, 1975 đã chỉ rõ “giữ vai trò to lớn về
mặt này là hệ thống công tác liên hệ hữu cơ giữa các giáo viên các bộ môn khác
nhau- tức là mối liên hệ giữa các bộ môn ”[13; 35]. Như vậy, tác giả đã rất coi
trọng việc liên hệ giữa các bộ môn trong quá trình dạy học ở trường phổ thông.
3
Trong cuốn “Phát triển tư duy học sinh”(NXB Giáo dục, 1976), các tác
giả M.Alêcxêep, Ônhisuc đã nêu lên vai trò của nguyên tắc liên môn là “bồi
dưỡng cho học sinh các thủ thuật và phương pháp tư duy logic sẽ góp phần
thực hiện một trong nhưng yêu cầu quan trọng nhất của lí luận dạy học là
xác lập các mối liên hệ chặt chẽ giữa các bộ môn” [2; 100]. Như vậy, mục
tiêu quan trọng của mọi thủ thuật, phương pháp tư duy logic đều nhằm làm
nổi bật mối quan hệ giữa các môn học, điều này có ý nghĩa cả về kiến thức và
rèn luyện kĩ năng cho HS.
I.F. Kharlamôp trong cuốn “Phát huy tinh tich cực học tập của học sinh
như thế nào?” (NXB Giáo dục, 1979) đã nêu rõ tác dụng, ý nghĩa của việc vận
dụng kiến thức các môn học: “Việc giáo viên có khả năng tìm được mối liên
hệ giữa các vấn đề mà các nhà bác học đã nghiên cứu với điều mà các em đã
học ở nhà trường thuộc một môn học nào đó cũng gây cho học sinh niềm
hứng thú đặc biệt đối với việc học tập tài liệu mới”[25;102]. Những kiến thức
mới, phong phú thuộc nhiều ngành khoa học khác nhau vừa tạo hứng thú cho
các em trong học tập vừa nâng cao hiệu quả bài học.
Nhà giáo dục học N.U.Savin nêu rõ: “Nền học vấn phổ thông phản ánh
đầy đủ và chính xác nhất tri thức khoa học và thực tiễn của nhân loại và nó
thực sự là toàn diện. Ở đó đã kết hợp một cách hữu cơ các tri thức về tự nhiên,
xã hội và tư duy con người đã đạt được sự hài hòa giữa học vấn về nhân văn
và về tự nhiên...” (Giáo dục học – NXB Giáo dục 1983) [10;87]. Bản thân
chương trình học tập phổ thông đã có sự kết hợp hài hòa những tri thức thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhiệm vụ của người GV là khai thác và sử dụng
nguồn tri thức ấy hiệu quả.
Khi trình bày về sự phát triển của khoa học lịch sử N.A. Erôphêep đã
đề cập đến nhiều vấn đề lịch sử xã hội, văn hóa, tư tưởng, triết học và nhiều
lĩnh vực chuyên môn của khoa học lân cận - “họ hàng” với khoa học lịch
4
sử.Trong cuốn “Lịch sử là gì”(NXB Giáo dục 1981) ông khẳng định: “Không
có một bộ môn khoa học nào có thể phát triển một cách đơn độc”[21;147].
Tác giả nêu rõ mối quan hệ giữa lịch sử với các khoa học nghiên cứu xã hội
khác nhau, như xã hội học, dân tộc học, tâm li xã hội…rất chặt chẽ. “Sở dĩ
các ngành khoa học này xích gần nhau vì chúng cùng nghiên cứu một đối
tượng như nhau” [21;147].
Cùng quan điểm đó, Theo Mitchell R.D tiêu chi để đánh giá một “giáo
viên hiệu quả” là “khả năng để ứng dụng và kết hợp các kiến thức hoặc các
kĩ năng khác nhau đối với một nhóm học sinh nhất định trong một bối cảnh
nhất định”(The American School Broad – 1998)[66, 27].
Nuthall. G trong “Elementary School journal” (1999) đã nêu: “các câu
chuyện thì hết sức đa dạng về các thông tin bổ trợ và có mối liên hệ với trải
nghiệm cá nhân, đồng thời được tích hợp và gắn kết với nhau bằng một cấu
trúc quen thuộc”[68; 337]. Theo đó, sử dụng các thông tin bổ trợ cũng là một
biện pháp truyền đạt kiến thức mới.
Bàn về những phẩm chất của người giáo viên hiệu quả, Molnar. A,
Smith.P cho rằng: “Người giáo viên hiệu quả tận dụng sự liên quan lẫn nhau
giữa các môn học trong cả khung chương trình và sự sáp nhập nhiều môn
học khác vào thực hành giảng dạy”[67; 165](Education Evaluation and
Policy Analysis – 1999). Cũng nói về vấn đề này, James H. Stronge trong
cuốn “Những phẩm chất của người giáo viên hiệu quả” (NXB Giáo dục
2011), do Lê Văn Canh dịch đã nhận định: “Giảng dạy là nơi gặp gỡ của
nhiều ngành học phức hợp và liên quan đến việc tương tác với nhiều học sinh
đa dạng và phức hợp”[53; 93].
Trong cuốn “Nghệ thuật và khoa học dạy học”( NXB Giáo dục 2011)
của tác giả Robert J. Marzano do GS. TS. Nguyễn Hữu Châu dịch, đã khẳng
định “Trong thực tế, không có một chiến thuật dạy học riêng lẻ nào đáp ứng
5
được yêu cầu của việc xử lí tích cực kiến thức trong quá trình trải nghiệm với
kiến thức trọng tâm mới” [38; 47]. Trong một tác phẩm khác cộng tác với J.
Pickering và E. Pollock, J. Marzano đã đề xuất “trong một đơn vị bài học,
giáo viên có thể đưa ra nhiều chi tiết cho học sinh học trong đó có liên quan
đến sự kiện, tiến trình, cảnh huống…”[39; 164](Các phương pháp dạy học
hiệu quả - NXB Giáo dục 2011). Theo những nhận định nêu trên, việc sử
dụng nhiều nguồn kiến thức, kết hợp nhiều phương pháp là cách thức đưa dạy
học trở thành một nghệ thuật dạy học.
Như vậy, các công trình nghiên cứu kể trên đều đề cập và khẳng định vai
trò, ý nghĩa, tác dụng của việc sử dụng kiến thức của môn học khác nhau trong
dạy học nói chung, DHLS nói riêng. Một số ý kiến cho rằng việc vận dụng
sáng tạo nguồn kiến thức lĩnh vực khác trong bài học lịch sử là tiêu chi đánh
giá GV. Những quan điểm này có sự tương đồng với nhiều nhà nghiên cứu
trong nước ta.
2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Về vấn đề sử dụng kiến thức của các môn học khác trong DHLS đã
được các nhà giáo dục học, tâm lý học, giáo dục lịch sử Việt Nam quan tâm
nghiên cứu và đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Dưới đây là một số công
trình tiêu biểu:
Trước hết, là nguồn tài liệu tâm lý học và giáo dục học
Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt trong cuốn “Giáo dục học”( NXB Giáo
dục 1987) nêu một cách khái quát nhất và tương đối đầy đủ về vai trò, ý
nghĩa của việc sử dụng kiến thức liên môn: “Tiềm năng giáo dục thế giới
quan cho học sinh đặc biệt được khai thác trong mối liên hệ giữa các môn
học. Các mối liên hệ giữa các môn học, phản ánh bản chất biện chứng của
nhận thức khoa học, giúp xem xét một sự vật hay một hiện tượng từ nhiều
quan điểm khác nhau”.[42;123]. Như vậy, khi GV sử dụng kiến thức môn
6
học khác trong dạy học, phân tich để HS thấy được mối liên hệ giữa các
môn học chinh là đang thực hiện nhiệm vụ giáo dục, bồi dưỡng tư duy biện
chứng và rèn luyện khả năng phân tich cho HS.
Đặng Thành Hưng trong cuốn “Dạy học hiện đại - li luận, biện pháp, kĩ
thuật” (NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội 2002), cho rằng: “Trong khoa học
giáo dục còn có những bộ môn, chuyên ngành, liên môn lấy những liên hệ
qua lại làm đối tượng”.[24;15]. Tác giả đã đề cập đến một khả năng khác của
vấn đề sử dụng KTLM trong dạy học. Một chuyên ngành nghiên cứu sâu sắc
hơn, cụ thể hơn về những mối liên hệ qua lại giữa các ngành khoa học sẽ là
đóng góp lớn cho giáo dục học hiện nay.
Tác giả Đoàn Huy Oánh trong tác phẩm “Tâm lý sư phạm” (NXB Đại
học Quốc Gia Tp Hồ Chi Minh, 2005) đã nhấn mạnh: ngày nay, các nhà tâm
lý giáo dục nhận định rằng, GV cần có khả năng hiểu biết nhiều phương diện
kiến thức. Như vậy theo đánh giá của một nhà tâm li học, KTLM có vai trò
lớn trong giáo dục đạo đức tư tưởng HS. Đồng thời, để thực hiện nhiệm vụ
giáo dục, GV phải am hiểu nhiều lĩnh vực để ứng dụng vào bài giảng, làm cho
giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn HS.
Tài liệu giáo dục lịch sử
Trong cuốn Sơ thảo phương pháp dạy học lịch sử cấp 2,3 của tác giả:
Lê Khắc Nhãn, Hoàng Triều, Hoàng Trọng Hanh (1961); Phương pháp dạy
học lịch sử tập 1, tác giả: Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị (1976); Phương
pháp dạy học lịch sử, tác giả Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị (1980); Phương
pháp dạy học lịch sử, tác giả: Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị
Côi năm 1990 đều đề cập đến vấn đề dạy học liên môn ở mức độ khác nhau.
Đặc biệt, trong giáo trình “phương pháp dạy học lịch sử” tập 1 do GS. TS
Phan Ngọc Liên (chủ biên), PGS.TS Trịnh Đình Tùng, GS.TS Nguyễn Thị
Côi, (NXB Đại học sư phạm 2010) khẳng định: Dạy học liên môn là một
trong những nguyên tắc quan trọng của dạy học ở trường phổ thông nói
7
chung, môn lịch sử nói riêng. Đối với bộ môn Lịch sử, mà chức năng cung
cấp những kiến thức cơ bản về quá trình phát triển của xã hội loài người (và
dân tộc), việc nắm vững các sự kiện lịch sử liên quan chặt chẽ với việc hiểu
biết tri thức về môn khoa học xã hội và nhân văn (văn học, giáo dục công
dân, triết học, địa lí) và cả về khoa học tự nhiên (những kiến thức về sự
phát triển khoa học - kĩ thuật. [12, tr. 259].
Như vậy, trong DHLS, sử dụng kiến thức liên môn nói chung và KTĐL
nói riêng có vị tri quan trọng.
Sách chuyên khảo
Nói về vai trò của các loại tài liệu trong bài giảng lịch sử, tác giả Trần
Viết Thụ trong cuốn “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử”
(NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2009) khẳng định: “Nguồn tài liệu mà giáo
viên đưa vào bài giảng phong phú đa dạng không chỉ làm sâu sắc nội dung
sách giáo khoa, mà còn mở rộng hiểu biết của học sinh về kiến thức văn hóa
nói chung như khảo cổ học, triết học, văn học, nghệ thuật, địa lí…”[7; 111].
Điều này chứng tỏ, nếu GV khai thác tốt nguồn KTLM không chỉ khắc sâu nội
dung lịch sử, mà còn bổ sung cho HS kiến thức về những lĩnh vực khác, các em
thấy được mối liên hệ giữa các nguồn kiến thức, làm cho nhận thức của HS
phong phú hơn.
Trong cuốn “Phương pháp luận sử học” (NXB Đại học Sư phạm Hà
Nội, 2011), GS Phan Ngọc Liên đã phân tich những điểm chung và những
điểm khác nhau giữa khoa học lịch sử và khoa học tự nhiên. Trong đó, tác giả
nêu lên điểm chung đó là đối tượng nghiên cứu đều là thực tại xã hội và
những quy luật chung. Đây là những gợi ý quan trọng trong việc sử dụng kiến
thức của những khoa học khác nhau trong dạy học lịch sử.
Các tạp chí chuyên ngành
Bên cạnh các cuốn giáo trình và sách chuyên khảo, nhiều bài viết trên
các tạp chi cũng đề cập tới nội dung sử dụng KTLM. Nguyễn Quang Vinh có
8
bài “Dạy học các môn học theo quan điểm liên môn (tạp chi Nghiên cứu Giáo
dục số 10/1986). Bài “Mấy biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục qua một bài
học lịch sử” của PGS Trịnh Đình Tùng (Tạp chi Nghiên cứu Giáo dục số 5
-1988). Trần Văn Cường - “Vận dụng nguyên tắc liên môn trong DHLS ở
trường THPT” (tạp chi Nghiên cứu Giáo dục số 7/1997). Trong bài “Vận
dụng nguyên tắc liên môn khi dạy học các vấn đề văn hóa trong SGK Lịch
Sử” (Tạp chi “Nghiên cứu Giáo dục” số 12 – 1997), tác giả Trần Viết Thụ đã
đi sâu nghiên cứu việc vận dụng kiến thức các môn học khác vào dạy các nội
dung văn hóa của môn lịch sử, Trần Đức Minh “Vận dụng quan điểm liên
môn - một yếu tố nâng cao tinh tich cực học tập của HS” (trên tạp chi Nghiên
cứu Giáo dục số 4/1999)…
Ngoài ra, vấn đề trên cũng được một số luận văn cao học, khóa luận tốt
nghiệp của sinh viên đề cập tới như: Trần Viết Thụ với luận án “ Giảng dạy
những nội dung văn hóa trong khóa trình lịch sử dân tộc ở trường PTTH”, đề
cập đến những phương pháp giảng dạy nội dung văn hóa, trong đó sử dụng
KTLM là một biện pháp hiệu quả. Luận văn của Nguyễn Thị Nhung “Sử
dụng KTLM để gây hứng thú học tập HS từ năm 1930 đến năm 1945 ở
trường THPT (chương trình chuẩn) khai thác KTLM nhằm gây hứng thú và
phát huy tinh tich cực của HS. Phạm Văn Thiện “Sử dụng kiến thức Văn học,
Địa lí, Chính trị trong giờ học lịch sử ở trường PTTH theo nguyên tắc liên
môn”, luận văn thạc sĩ khoa lịch sử, 1989.
Trong các hội thảo năm 2012: “Hội thảo khoa học quốc gia về dạy học
Lịch sử ở trường phổ thông Việt Nam” diễn ra vào những ngày tháng Tám
lịch sử tại thành phố Đà Nẵng nhằm triển khai Nghị quyết Đại hội XI về đổi
mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam, chuẩn bị xây dựng chương
trình và sách giáo khoa (SGK) môn Lịch sử ở phổ thông sau năm 2015 đã thu
hút đông đảo các nhà giáo, nhà nghiên cứu lịch sử trên khắp mọi miền của Tổ
quốc tham dự. Trong đó, TS. Nguyễn Anh Dũng và nhóm nghiên cứu đã
9
đưa ra đề xuất: Ở cấp THCS, nội dung lịch sử là một lĩnh vực trong môn
Khoa học xã hội. Môn học này tich hợp các kiến thức thuộc lĩnh vực: Lịch
sử, Địa lý và một số vấn đề xã hội khác. Lĩnh vực Lịch sử và Địa lý vẫn
được trình bày theo yêu cầu của lĩnh vực đó. Tuy nhiên, cấu trúc của từng
lĩnh vực được xây dựng sao cho có thể hỗ trợ tốt nhất cho các lĩnh vực
khác và sau mỗi học kỳ tạo nên 2 đến 3 chủ đề liên kết giữa các lĩnh vực
với nhau.
Cấu trúc nội dung lịch sử được xây dựng trên cơ sở tich hợp nội
dung lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam. Yêu cầu đặt ra đối với HS khi
học Lịch sử cao hơn ở Tiểu học. Trên cơ sở hiểu biết những sự kiện lịch sử
cơ bản nhất cần nhận thức được mối liên hệ giữa các sự kiện, con người,
địa danh lịch sử… đối với cuộc sống hiện nay. HS cần phải hiểu và lý giải
được những ngày lễ lớn của dân tộc, công lao của những nhân vật lịch sử
đối với đất nước …
Như vậy, những tài liệu kể trên đã chứng tỏ tinh phổ biến của vấn đề sử
dụng KTLM trong dạy học. Các tác giả đều khẳng định vai trò, ý nghĩa của
việc kết hợp KTLM nói chung, KTĐL nói riêng trong dạy học và DHLS.
Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, nội dung nghiên cứu làm sáng tỏ bản
chất, ý nghĩa, biện pháp dạy học liên môn, sử dụng kiến thức địa li. Việc làm
đó góp phần phát huy tinh tich cực, chủ động của HS trong quá trình học tập bộ
môn Lịch sử.
Tuy nhiên, chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu việc sử
dụng KTĐL trong DHLS lớp 6 trường THCS. Kết quả nghiên cứu của các
nhà khoa học đã nêu ở trên là nguồn tài liệu quý báu về lý luận cũng như các
biện pháp sử dụng kiến thức liên môn, kiến thức địa li giúp chúng tôi đi vào
nghiên cứu đề tài “sử dụng kiến thức địa li trong dạy học lịch sử lớp 6 trường
trung học cơ sở”.
10
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình sử dụng KTĐL trong
DHLS lớp 6 trường THCS.
3.2 Phạm vi của đề tài
Do điều kiện thời gian hạn chế và trình độ bản thân có hạn nên đề tài
không đi sâu tìm hiểu tất cả KTĐL có liên quan tới môn Lịch sử, mà chỉ
tập trung vào một số KTĐL gắn với nội dung lịch sử lớp 6 trường THCS.
Các biện pháp sư phạm đề xuất sử dụng KTĐL vận dụng trong các bài nội
khóa trên lớp .
- Phạm vi điều tra thực tiễn: Tiến hành điều tra một số tỉnh ở miền Bắc
(Hà Nội, Nam Định, Thái Bình, Lào Cai).
- Phạm vi thực nghiệm sư phạm: tiến hành thực nghiệm sư phạm 1 bài
ở trường THCS trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
4.1 Mục đích của đề tài
Trên cơ sở tìm hiểu li luận và thực tiễn của việc sử dụng KTLM trong
DHLS, luận văn:
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng kiến thức địa li trong
dạy học môn lịch sử ở trường THCS.
- Đề tài xác định nội dung và đề xuất một số biện pháp sử dụng kiến
thức địa li trong dạy học lịch sử 6 trường THCS theo nhằm nâng cao hiệu
quả bài học.
4.2 Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đich trên, đề tài đi vào giải quyết các nhiệm vụ cụ
thể:
- Tìm hiểu chương trình môn học để tìm hiểu cơ sở lý luận của đề tài.
11
- Tìm hiểu sách giáo khoa Lịch sử 6 trường THCS để xác định nội dung
kiến thức lịch sử cần thiết phải sử dụng KTĐL.
- Khảo sát tình hình thực tiễn ở trường THCS về quan niệm và việc sử
dụng KTĐL trong DHLS lớp 6 trường THCS và phân tich kết quả điều tra, rút
ra các kết luận khái quát.
- Đề xuất các biện pháp sư pháp sử dụng KTĐL trong DHLS lớp 6
trường THCS.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở tại trường THCS để chứng minh
tinh khả thi của những biện pháp đã đề ra, từ đó rút ra kết luận khoa học việc
sử dụng KTĐL trong DHLS lớp 6 trường THCS.
5. Cơ sơ phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chi Minh về nhận thức, giáo dục và quan điểm, đường lối
của Đảng ta về giáo dục nói chung, dạy học lịch sử nói riêng.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
+ Nghiên cứu các tài liệu: Tâm li học, Giáo dục học, các tài liệu giáo
dục khác, tài liệu lịch sử, phương pháp DHLS, chương trình SGK lớp 6 và các
tài liệu có liên quan khác.
+ Điều tra cơ bản: tiến hành quan sát, điều tra bằng phiếu điều tra đối
với GV và HS.
+ Thực nghiệm sư phạm bài 27: Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm
938. Địa bàn thực nghiệm: trường THCS Phương Mai, quận Đống Đa, Hà Nội
+ Sử dụng phương pháp toán học thống kê trên cơ sở so sánh các giá
trị thu được giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để đánh giá hiệu quả của
những biện pháp dạy học mà đề tài đưa ra.
6. Giả thuyết khoa học
12
Nếu vận dụng có hiệu quả những biện pháp sư phạm được đề xuất
trong luận văn, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương sẽ góp phần nâng
cao hiệu quả việc DHLS lớp 6 trường THCS.
7. Đóng góp của đề tài
- Kết quả nghiên cứu góp phần khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử
dụng KTĐL trong DHLS lớp 6 trường THCS.
- Phác hoạ được bức tranh thực trạng về việc sử dụng KTĐL trong
DHLS lớp 6 trường THCS hiện nay.
- Xác định nội dung cần sử dụng KTĐL trong DHLS lớp 6 trường
THCS.
- Đề xuất một số biện pháp trong việc sử dụng KTĐL trong DHLS lớp
6 trường THCS.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Đề tài góp phần làm phong phú thêm li luận về phương pháp dạy học
lịch sử nói chung và biện pháp sử dụng kiến thức địa li trong dạy học lịch sử
ở trường THCS nói riêng nhằm gây hứng thú học tập và nâng cao hiệu quả
bài học lịch sử.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp bản thân và đồng nghiệp vận
dụng vào dạy học lịch sử ở trường phổ thông để nâng cao hiệu quả dạy học
bộ môn.
9. Cấu trúc
Ngoài phần Mở đầu, Nội dung, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ
lục. Phần nội dung đề tài được chia làm hai chương chinh:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng kiến thức địa
lí trong dạy học lịch sử lớp 6 trường THCS
Chương 2: Một số biện pháp sử dụng kiến thức địa lí trong dạy học
lịch sử lớp 6 trường THCS
13
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA VIỆC SỬ DỤNG KIẾN THỨC ĐỊA LÍ TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ LỚP 6 TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1 Cơ sơ lý luận
1.1.1 Một số khái niệm
Kiến thức
Trong đời sống cũng như trong khoa học, chúng ta thường xuyên nhắc
đến thuật ngữ kiến thức, chinh vì mức độ phổ biến của thuật ngữ này nên
cũng có nhiều quan niệm khác nhau.
Theo các nhà sinh li học, kiến thức là một dạng nhất định của những
mối liên hệ tạm thời, được tạo trên vỏ các bán cầu đại não do ảnh hưởng của
những kich thich bên ngoài và hoạt động tư duy tich cực của chủ thể nhận
thức. Như vậy, kiến thức chỉ tồn tại “tạm thời”, nếu không thường xuyên
“nhắc lại” kiến thức sẽ bị xóa mờ và bị thay thế bởi kiến thức khác trên các vỏ
bán cầu đại não.
Các nhà giáo dục học cho rằng: “kiến thức là hệ thống những khái
niệm, phạm trù, những quy tắc, lí thuyết của từng môn học mà học sinh cần
phải học tập, nắm vững. Kết quả học tập môn học được đánh giá bằng khả
năng nhận thức của học sinh với số lượng và chất lượng của kiến thức
đó”[66; 84-85]. Như vậy, kiến thức không chỉ là mục tiêu HS cần phải đạt
được trong quá trình học tập, mà còn là tiêu chi đánh giá kết quả học tập của
HS thông qua hoạt động kiểm tra.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “kiến thức là những điều hiểu biết do
tìm hiểu, học tập mà có” [52; 635].
Như vậy, tùy vào cách tiếp cận mà mỗi ngành khoa học sẽ có quan
niệm khác nhau về thuật ngữ “kiến thức”, nhưng điểm chung của các quan
14
niệm trên đều coi “kiến thức” là kết quả của quá trình nhận thức. Kiến thức
chinh là một loại công cụ giúp con người tác động, chinh phục tự nhiên, cải
tạo tự nhiên và xã hội. Đồng thời, trong quá trình đó con người cũng không
ngừng trau dồi, bổ sung làm phong phú vốn kiến thức của mình. Tóm lại, có
thể hiểu “kiến thức” là những hiểu biết về tự nhiên, xã hội mà con người có
được do tìm hiểu hoặc do được giáo dục.
Kiến thức lịch sử
Kiến thức lịch sử là sự hiểu biết của con người về quá trình phát triển
hợp qui luật của xã hội loài người từ lúc hình thành đến nay. Tri thức về lịch
sử đầu tiên của con người chưa phải là kiến thức khoa học, mà “mà chỉ là
những hiểu biết, quan niệm sơ khai về LS, có nhiều yếu tố thần bi trong các
câu chuyện dân gian, truyền thuyết của các dân tộc” [76;tr.17]. Khoa học lịch
sử ra đời và phát triển trên cơ sở các tri thức lịch sử, làm cho tri thức lịch sử
trở nên chinh xác, đạt đến trình độ khái quát hóa và tiếp cận chân li. Khi đó,
kiến thức lịch sử trở thành khoa học lịch sử. Như vậy, kiến thức lịch sử sự
hiểu biết về lịch sử ra đời cùng với sự xuất hiện con người, là cơ sở của khoa
học lịch sử.
Kiến thức lịch sử là sự phản ánh quá trình phát sinh, phát triển khách
quan của tự nhiên và xã hội diễn ra theo trình tự thời gian, thông qua tìm hiểu,
học tập mà con người tich lũy được. Kiến thức lịch sử cũng như kiến thức nói
chung có ý nghĩa rất lớn trong cuộc sống của con người. Nắm vững kiến thức
lịch sử là tiền đề để hiểu hiện tại một cách đúng đắn và khoa học từ đó có sự
định hướng chinh xác cho sự phát triển trong tương lai. Kiến thức lịch sử
nghiên cứu những con người, sự kiện có thật, vì vậy nó có tác dụng lớn trong
việc giáo dục tư tưởng, tình cảm và hình thành thế giới quan khoa học. Qua
đó, có thể khẳng định kiến thức lịch sử không chỉ là phương tiện để con người
nhận thức tự nhiên và xã hội mà còn là công cụ để cải tạo nó, trình độ nhận
15
thức của con người càng cao thì kiến thức lịch sử càng phong phú, đa dạng.
Như vậy, kiến thức lịch sử là sự phản ánh mọi mặt đời sống xã hội, là
kết quả của việc nghiên cứu khoa học lịch sử được sử dụng vào nhận thức và
hoạt động xã hội, giúp con người hiểu một cách đầy đủ về quá trình phát triển
của lịch sử loài người.
Kiến thức địa lí
Thuật ngữ địa li học bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp Geographo, có nghĩa là sự
mô tả đất, lẽ dĩ nhiên đất ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là cả một vùng đất.
Từ thời cổ đại và tiếp nối hàng chục thế kỷ, địa li đã được hình thành
và phát triển như một môn khoa học mô tả, được quan niệm như một loại từ
điển bách khoa về tự nhiên, dân cư, kinh tế, xã hội và các tài nguyên của một
vùng, một nước hay cả một khu vực rộng lớn. Bốn lĩnh vực truyền thống
nghiên cứu về địa li là phân tich không gian của tự nhiên và các hiện tượng
con người (như các nghiên cứu về phân bố), nghiên cứu khu vực, nghiên cứu
về mối quan hệ con người và nghiên cứu về khoa học Trái Đất. Địa li hiện đại
mang tinh liên ngành bao gồm tất cả những hiểu biết trước đây về Trái Đất và
tất cả những mối quan hệ phức tạp giữa con người và tự nhiên. Địa li được
gọi là “ngành học về thế giới” và gồm cả tự nhiên và xã hội.
Như vậy, Địa li là một hệ thống các khoa học tự nhiên và xã hội nghiên
cứu các thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên, các thể tổng hợp sản xuất theo lãnh
thổ và các thành phần của chúng. KTĐL là những hiểu biết về những qui luật
phát sinh và phát triển của môi trường địa li (gồm các địa quyển và tác động
của xã hội loài người) cùng các đặc tinh của các mối quan hệ giữa các hệ
thống tự nhiên và hệ thống kinh tế -xã hội.
Kiến thức liên môn
Kiến thức liên môn là những kiến thức giao thoa giữa các môn học,
những kiến thức ở những môn học khác nhau nhưng cùng đề cập đến một vấn
16
đề. Do đó, trong bất kì môn học nào cũng có thể sử dụng KTLM vì mọi mặt
của đời sống đều có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Sử dụng KTLM
trong dạy học có ba mức độ: ở mức độ thấp, GV nhắc lại tài liệu, sự kiện, kĩ
năng các môn có liên quan, cao hơn đòi hỏi HS nhớ lại và vận dụng kiến thức
đã học của các môn học khác và cao nhất đòi hỏi HS phải độc lập giải quyết
các bài tập nhận thức bằng vốn kiến thức đã biết.
Như vậy, mức độ sử dụng KTLM càng cao thì nó càng gần với khái
niệm “tich hợp”. Để hiểu rõ hơn về nguyên tắc liên môn cũng như vấn đề sử
dụng KTLM trong dạy học nói chung và trong DHLS nói riêng chúng ta cần
có sự phân biệt rõ ràng giữa “liên môn” và “tich hợp”.
Từ những năm 60 của thế kỉ XX, người ta đã đưa vào giáo dục ý tưởng
tich hợp (inte’gration (tiếng Pháp), integration (tiếng Anh) trong việc xây
dựng chương trình dạy học. Tich hợp là một khái niệm của li thuyết hệ thống,
“nó chỉ trạng thái liên kết các phần tử riêng rẽ thành cái toàn thể, cũng như
quá trình dẫn đến trạng thái này”[17;308]. Trong khoa học giáo dục, tich hợp
thể hiện ở việc liên kết các môn học có mối quan hệ với nhau, ở từng mức độ
cụ thể sẽ cho kết quả là việc ra đời những môn học mới hoặc chỉ dừng lại ở
việc “liên môn”.
Kiến thức liên môn trong DHLS
Chức năng của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông là cung cấp cho HS
những tri thức về sự phát sinh, phát triển của mọi mặt đời sống xã hội loài
người. Vì vậy, kiến thức lịch sử có liên quan chặt chẽ đến kiến thức của các
ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Trong quá trình giảng dạy, GV
lịch sử phải tìm ra những khái niệm, những nội dung từ những môn học khác
có thể sử dụng làm nổi bật kiến thức lịch sử HS cần lĩnh hội.
Đối với HS, KTLM giúp các em nhận thức sự phát triển của xã hội một
cách liên tục, thống nhất, hiểu được tinh toàn diện của lịch sử. Điều này khắc
17
phục tình trạng rời rạc, tản mạn trong kiến thức của HS. Biết được mối liên hệ
kiến thức giữa các môn học, tinh hệ thống giữa các tri thức lịch sử, giúp HS
có khả năng phân tich các sự kiện, tìm ra bản chất, quy luật chi phối sự phát
triển của lịch sử.
Để sử dụng KTLM vào DHLS đạt hiệu quả cao, người GV không chỉ
nắm vững kiến thức lịch sử, mà còn phải nắm vững nội dung, chương trình
các môn học được giảng dạy trong trường phổ thông có liên quan đến môn
Lịch sử, trước hết chinh là những môn học “gần gũi” với Lịch sử như: Văn
học, Địa li, Giáo dục công dân…Học sinh có vai trò chủ động, tich cực trong
việc học tập vì khi học lịch sử theo phương pháp này HS phải huy động
những kiến thức đã học để hiểu sâu, toàn diện một sự kiện. Đồng thời, HS
được ôn tập, củng cố, tổng hợp các kiến thức ở mức cao hơn và biết vận dụng
thông minh kiến thức.
Sử dụng kiến thức địa lí trong dạy học môn lịch sử
Khoa học địa li có mối liên hệ đặc biệt với khoa học lịch sử, vì nghiên
cứu lịch sử phải xuất phát từ những sự kiện lịch sử cụ thể, diễn ra trong một
bối cảnh nhất định - diễn ra trong một thời gian và không gian nhất định.
Vì vậy, xác định được không gian xảy ra sự kiện, địa điểm xảy ra sự kiện thì
lịch sử càng sinh động, cụ thể.
Vi dụ, khi tìm hiểu về các quốc gia cổ đại phương Đông, KTĐL tự
nhiên về vị tri hình thành: nguồn nước, đất phù sa tơi xốp màu mỡ, tạo điều
kiện cho nông nghiệp phát triển. Điều này li giải vì sao nhà nước ra đời sớm ở
các quốc gia phương Đông cổ đại. vì sao nơi đây có nền văn minh ra đời sớm
nhất trên thế giới. Các quốc gia này luôn gắn với những con sông lớn: Trung
Quốc có sông Hoàng Hà và Trường Giang, Ai Cập có sông Nin, Ấn Độ có
sông Ấn và sông Hằng…
18
Khi tìm hiểu về các quốc gia cổ đại phương Tây, kiến thức về vị tri của
Hi Lạp và Rô Ma cổ đại: trên các bán đảo Ban Căng ở I-ta-li-a, ở đó có rất it đồng
bằng, chủ yếu là đất đồi, khô và cứng, nhưng có nhiều hải cảng tốt, nằm tiếp giáp
biển Địa Trung Hải. Điều này quy định nền tảng kinh tế của các quốc gia cổ
đại phương Tây là thủ công nghiệp và thương nghiệp. Từ đó, mở ra một chân
trời mới cho nền văn hóa phương Tây cổ đại. Bởi khi gần biển, cư dân ở đây
đã giao lưu học hỏi và tiếp thu được thành tựu văn hóa cổ đại phương Đông,
trên cơ sở đó phát triển thành thành tựu riêng của mình.
Như vậy, việc sử dụng KTĐL trong DHLS là hết sức cần thiết để làm
cho sự kiện lịch sử được sinh động, cụ thể và học sinh hiểu rõ mối liên hệ
giữa các khoa học, sự ảnh hưởng tác động và chi phối của không gian địa li.
1.1.2. Cơ sở xuất phát của việc sử dụng kiến thức địa lí trong dạy học
lịch sử
1.1.2.1. Tình hình nhiệm vụ đất nước và mục tiêu giáo dục
Công cuộc đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn trên
nhiều lĩnh vực. Nước ta đang trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
hội nhập và phát triển. Hoàn cảnh ấy đem lại rất nhiều thuận lợi nhưng cũng
không it những khó khăn. Trên thế giới và trong khu vực hiện nay, tuy hòa
bình, hợp tác, phát triển đang là xu thế chinh nhưng vẫn tồn tại những tranh
chấp, xung đột cục bộ về nhiều vấn đề. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ
Tám của BCH TƯ Đảng khóa X đã xác định mục tiêu chung là “Bảo vệ vững
chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam, giữ vững ổn định
chính trị và môi trường hòa bình để phát triển đất nước theo định hướng
XHCN”[18;3].
19
Mục tiêu giáo dục đã được pháp quy hóa trong văn bản Luật giáo dục
năm 2005: “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri
thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân
tộc và CNXH hình thành và bồi dưỡng phẩm chất, năng lực của công dân,
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [12; 32].
Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản bản, toàn diện, giáo dục và
đào tạo xác định rõ mục tiêu tổng quát: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ
về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công
cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục
con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả
năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào;
sống tốt và làm việc hiệu quả .”. Đồng thời, đề mục tiêu cụ thể: “Đối với giáo
dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất,
năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề
nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo
dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và
kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng
sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”.
Như vậy, tất cả các văn bản xác định mục tiêu, nhiệm vụ của đất nước
trong giai đoạn hiện nay đều chú trọng vào việc giáo dục con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có phẩm chất và năng lực vận dụng kiến thức vào thực
tiễn. Do đó, sử dụng KTLM nói chung và sử dụng KTĐL nói riêng góp phần
quan trọng trong phát triển toàn diện năng lực học sinh.
1.1.2.2. Mục tiêu nhiệm vụ của bộ môn lịch sử
Mục tiêu của bộ môn Lịch sử trường phổ thông nhằm giúp học sinh có
được những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới,
góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu
20
quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng năng lực tư
duy, hành đông, thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội.
Mục tiêu của môn Lịch sử ở trường THCS thể hiện ở ba mặt cơ bản:
kiến thức, kĩ năng, thái độ.
* Về kiến thức: Trên cơ sở củng cố cho HS những kiến thức lịch sử đã
học ở tiểu học, từ đó biết được những sự kiện quan trọng, những nội dung cơ
bản của lịch sử loài người từ nguồn gốc đến nay, đặc biệt là những sự kiện,
những vấn đề liên quan đến lịch sử dân tộc ta. Hiểu biết đơn giản, bước đầu
một số nội dung cơ bản của phương pháp luận nhận thức xã hội như: kết cấu
xã hội loài người, mối quan hệ giữa các yếu tố trong kết cấu đó, vai trò của
sản xuất (vật chất, tinh thần) trong lịch sử, vai trò của quần chúng nhân dân và
cá nhân, sự tiến hoá của lịch sử.
* Về kĩ năng:
- Bước đầu hình thành các kĩ năng cần cho học tập bộ môn:
+ Làm việc với sách giáo khoa và các nguồn sử liệu, các loại đồ dùng
trực quan phổ biến...
+ Phân tich, đánh giá, so sánh các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử…
+ Vận dụng những hiểu biết đã có vào các tình huống học tập và cuộc sống
- Hình thành năng lực phát hiện, đề xuất và giải quyết các vấn đề trong
học tập lịch sử (nêu vấn đề, thu thập, xử li thông tin, nêu dự kiến giải quyết
vấn đề, tổ chức giải quyết vấn đề (thực hiện, dự kiến), thông báo, thông tin về
kết quả giải quyết vấn đề).
* Về thái độ: Bước đầu hình thành những phẩm chất cần thiết của
người công dân: có thái độ tich cực vì xã hội, vì cộng đồng, yêu lao động, sẵn
sàng đi vào lao động, khoa học và kĩ thuật, sống nhân ái, có niềm tin, ý thức
kỉ luật và tuân theo pháp luật; trân trọng với các dân tộc, các nền văn hoá trên
thế giới, có tinh thần quốc tế chân chinh, yêu chuộng hoà bình, hữu nghị giữa
21
các dân tộc; có lòng yêu quê hương, đất nước gắn liền với tin yêu chủ nghĩa
xã hội, lòng tự hào dân tộc và trân trọng đối với những di sản lịch sử trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước; có niềm tin về sự phát triển từ thấp đến cao,
từ lạc hậu đến văn minh của lịch sử nhân loại và lịch sử dân tộc.
Để đạt được mục tiêu trên, cần nâng cao chất lượng đội ngũ GV, đầu tư
mọi mặt cho giáo dục và đổi mới phương pháp DHLS. Việc sử dụng KTĐL
trong DHLS góp phần thực hiện tốt mục tiêu trên.
1.1.2.2. Đặc trưng của kiến thức lịch sử
Việc nắm vững các đặc trưng của kiến thức lịch sử ở trường phổ thông
cũng là căn cứ để đề xuất các biện pháp sử dụng kiến thức địa li hiệu quả.
Những đặc trưng của bộ môn Lịch sử là:
- Tính quá khứ: Lịch sử là những sự việc đã diễn ra, có thật và tồn tại
khách quan trong quá khứ. Vì vậy không thể phán đoán, suy luận hay tưởng tượng
để nhận thức lịch sử, mà cần phải thông qua những "dấu tich" của quá khứ, những
chứng cứ về sự tồn tại của các sự việc đã diễn ra. Lịch sử là quá trình phát triển
hợp quy luật của xã hội loài người từ lúc con người và xã hội hình thành tới nay
và luôn gắn liền với không gian xác định. Vì vậy, DHLS có những khó khăn nhất
định. HS không thể trực tiếp quan sát sự kiện lịch sử, mà chỉ có thể tri giác các tài
liệu lịch sử, thông qua các đồ dùng trực quan để hiểu biết về các sự kiện lịch sử.
Tuy nhiên, đặc trưng này của bộ môn cũng tạo điều kiện để GV rèn luyện cho HS
khả năng tưởng tượng, tái tạo lịch sử trong học tập.
- Tính không lặp lại: Sự kiện lịch sử mang tinh không lặp lại về thời
gian và cả không gian. Mỗi sự kiện, hiện tượng lịch sử chỉ xảy ra trong thời
gian và không gian nhất định. Điều này đòi hỏi các GV khi trình bày một sự
kiện, hiện tượng nào đó phải khắc sâu những đặc điểm của sự kiện, hiện
tượng để HS không bị nhầm lẫn giữa sự kiện này với sự kiện khác.
22