Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC: QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC THỰC HÀNH GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.67 KB, 123 trang )

3

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC THỰC HÀNH
GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2015


3

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

ĐỖ THANH TÙNG

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC THỰC HÀNH
GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH Ở
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60 14 01 14

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN LUẬN VĂN: PGS, TS NGUYỄN THỊ TÌNH

HÀ NỘI – 2015




4

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY
HỌC THỰC HÀNH GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ
AN NINH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC

1.1 Những khái niệm cơ bản
1.2 Nội dung quản lý hoạt động dạy học thực hành Giáo dục
quốc phòng và an ninh
1.3 Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lí hoạt động dạy học
thực hành giáo dục quốc phòng và an ninh cho sinh viên
ở trường đại học
Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG DẠY
HỌC THỰC HÀNH GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN
NINH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

2.1 Khái quát về trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Khoa
Giáo dục quốc phòng
2.2 Thực trạng hoạt động dạy học thực hành giáo dục quốc
phòng và an ninh trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2.3 Thực trạng quản lí hoạt động dạy học thực hành giáo
dục quốc phòng và an ninh ở trường Đại học Sư phạm
Hà Nội
Chương 3 NGUYÊN TẮC, BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG

DẠY HỌC THỰC HÀNH GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ
AN NINH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

3.1 Nguyên tắc đề xuất biện pháp
3.2 Biện pháp quản lý hoạt động dạy học thực hành giáo dục
quốc phòng và an ninh ở trường Đại học Sư Phạm Hà Nội
3.3 Mối quan hệ giữa các biện pháp
3.4 Khảo nghiệm về tính cần thiết và tính khả thi của các
biện pháp được đề xuất
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


5

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Đại học Sư phạm Hà Nội

ĐHSPHN

Đại học Khoa học xã hội và nhân văn

ĐHKHXH&NV

Đại học Quốc gia Hà Nội


ĐHQGHN

Giáo dục quốc phòng

GDQP

Giáo dục quốc phòng và an ninh

GDQP và AN

Giáo dục và đào tạo

GD&ĐT

Nhà xuất bản

Nxb

Quốc phòng – an ninh

QP-AN


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII) chỉ rõ: "Phải tăng cường công tác
GDQP cho toàn dân, trước hết là đối với cán bộ các cấp, các ngành của Đảng
và Nhà nước và thế hệ trẻ học sinh, sinh viên". Nội dung GDQP và AN cho
sinh viên các trường đại học rất phong phú, đa dạng, trong đó một trong

những đặc trưng nổi bật đó là hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN.
Cùng với hoạt động giảng dạy lý thuyết, hoạt động dạy học thực hành GDQP
và AN có ý nghĩa quan trọng nhằm giúp sinh viên nắm thực hiện các động tác
về kỹ thuật, chiến thuật có thể vận dụng khi có các tình huống quốc phòng
xảy ra.
Nhận thức rõ vấn đề này, trong những năm qua, Trường ĐHSPHN đã
đưa hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN cho sinh viên vào chương
trình chính khoá, thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt,
giáo dục nâng cao nhận thức trách nhiệm, đổi mới nội dung chương trình và
phương pháp đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên GDQP và AN,
tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thao trường, bãi tập… Chính vì vậy, kết quả
dạy học thực hành GDQP và AN cho sinh viên của Trường ĐHSPHN đã thu
được những kết quả tốt, đã góp phần tạo sự chuyển biến thực sự về nhận thức
và trách nhiệm của cán bộ, giảng viên và sinh viên đối với công tác GDQP và
AN. Nhiều sinh viên ra trường tham gia hoạt động ở nhiều lĩnh vực, trên các
vùng, miền của Tổ quốc đã có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp củng
cố QP-AN, bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt
được, hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN cho sinh viên còn không ít
hạn chế, bất cập. Không ít sinh viên nhận thức chưa đầy đủ về vị trí vai trò
của học tập thực hành GDQP và AN, thiếu trách nhiệm và ý chí vượt khó,
chưa thật sự tích cực, tự giác trong học tập, rèn luyện. Một số ít giảng viên
chưa thật sự quan tâm đầu tư nghiên cứu, tìm tòi nâng cao chất lượng bài


7

giảng; quản lý tổ chức các hình thức huấn luyện chưa chặt chẽ, duy trì các chế
độ dễ dãi… Chính vì vậy, chất lượng học tập thực hành GDQP và AN của
không ít sinh viên chưa cao, chưa toàn diện, nhiều sinh viên khi ra trường
không nắm và thực hành các động tác kỹ thuật, chiến thuật. Hạn chế, bất cập

trong hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN cho sinh viên được bắt
nguồn từ nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, trong đó có nguyên
nhân quan trọng từ những yếu kém trong quản lý hoạt động dạy học thực
hành GDQP và AN cho sinh viên của Nhà trường.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài "Quản lý hoạt động dạy học thực
hành giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
" làm đề tài luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
1.1.1. Trên thế giới
Trước tình hình mới của thời đại, vấn đề QP-AN quốc gia đang được đặt
ra như một vấn đề thời sự nóng hổi của nhiều quốc gia trên thế giới, khu vực
và trong nước. Quản lý, nâng cao chất lượng GDQP và AN cho sinh viên là
vấn đề luôn thu hút sự quan tâm của lãnh đạo, các chuyên gia hoạch định
chính sách, nhà nghiên cứu và những người làm công tác quản lý, giáo dục ở
nhiều nước trên thế giới.
Ở Liên Xô (trước đây) và Liên Bang Nga (ngày nay), việc nghiên cứu,
quản lý công tác giáo dục ý thức quốc phòng cho cán bộ, viên chức, học sinh,
sinh viên được Nhà nước Nga đặc biệt quan tâm. Trong các công trình “Các
vấn đề giáo dục quân sự”, do E.G.Vapilin và Đại tá Mulinva viết năm 2001:
“Những quan điểm phương pháp luận về xây dựng học thuyết giáo dục quân
sự ở Nga”... đã phần nào phản ảnh được yêu cầu bức thiết quản lý giáo dục
quốc phòng cho thế hệ trẻ ở Nga trước sự vận động, phát triển mau lẹ của tình
hình quốc tế và đất nước Nga hiện nay.


8

Trung Quốc, một số tác giả đã đi sâu nghiên cứu đổi mới GDQP cho cán
bộ, học sinh, sinh viên trước yêu cầu chống ảnh hưởng nô dịch của chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực thù địch: đề xuất đổi mới nội dung chương trình,

phương pháp GDQP cho cán bộ, học sinh, sinh viên đáp ứng yêu cầu bảo vệ
đất nước Trung Quốc và thành quả cách mạng, xây dựng nền toàn dân. Các
tác giả: Lý Xương Giang, Tiểu Kính Dân, Vương Bảo Tôn... đã đi sâu nghiên
cứu chiến lược phát triển GDQP của Trung Quốc trước sự vận động, biến đổi
phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước.
Hàn Quốc, môn học quân sự là môn học tự chọn, các trường đại học giảng
dạy học phần lí thuyết. Nam giới trong độ tuổi từ 18 đến 25 tuổi bắt buộc phải
thực hiện nghĩa vụ quân sự tại các đơn vị quân đội. Tại đây, sinh viên sẽ được
trang bị kiến thức phần thực hành về quân sự, thời gian huấn luyện là 3 tháng.
Cộng hòa Pháp quan niệm quốc phòng được hiểu theo nghĩa rộng nhất,
không chỉ là lĩnh vực của quân đội và chính quyền nhà nước mà có liên quan
đến mọi công dân và mọi lĩnh vực hoạt động của đất nước. Vì vậy, hệ thống
giáo dục và nội dung GDQP được tổ chức chặt chẽ, toàn diện và sâu sắc. Hệ
thống GDQP có một số trường trực thuộc Chính phủ, một số trường trực thuộc
Bộ Giáo dục, số khác trực thuộc Bộ Quốc phòng. Nội dung nghiên cứu rất
rộng, bao quát nhiều lĩnh vực, từ chiến lược quốc phòng, chính sách quốc
phòng, kinh tế quân sự phát triển công nghiệp quốc phòng...
Giáo dục quốc phòng ở Mỹ được tổ từ các trường tiểu học. Để làm tốt
việc này, nước Mỹ đặt ra một loạt tổ chức và bộ máy tương ứng, trong các
trường tiểu học, trung học (mỗi trường trung học có một sĩ quan thường trú
chuyên trách thực hiện kế hoạch GDQP, công việc của người sĩ quan này do
nhà trường và phía quân đội cùng quản lí), đại học, xoay quanh vấn đề tâm lý
đạo đức, mở các khóa học "lợi ích nước Mỹ trên hết”, khiến cho học sinh,
sinh viên có bộ mặt tâm lý đạo đức cần có, và bồi dưỡng tâm lý đạo đức cho


9

cả lính mới và lính cũ của lực lượng vũ trang Mỹ.
1.1.2. Ở Việt Nam

Giáo dục quốc phòng và an ninh là vấn đề chiến lược, có tầm quan trọng
đặc biệt luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; đã có
nhiều văn bản, chỉ thị, nghị quyết, quy định, hướng dẫn thực hiện. Đã có
nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở
những góc độ khác nhau với những công trình tiêu biểu:
- Nguyễn Văn Huận ( 2003)“ Những giải pháp phát triển đội ngũ giáo
viên GDQP”. Đề tài của tác giả đã tập trung nghiên cứu về thực trạng chất
lượng của đội ngũ cán bộ giảng viên làm công tác GDQP tại các trung tâm,
khoa, bộ môn GDQP - AN, đồng thời đưa ra các giải pháp cụ thể để nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ quân đội biệt phái giảng dạy tại các cơ sở giáo dục
nói trên, cũng như việc định hướng trong giáo dục đào tạo đội ngũ giáo viên
làm công tác giảng dạy môn GDQP ở các trường THPT, góp phần thực hiện
nghị định 116 của Thủ tướng Chính phủ về công tác GDQP đối với học sinh,
sinh viên ở các bậc học [32].
- Lê Minh Vụ (2006), Đổi mới GDQP trong hệ thống giáo dục quốc gia,
Đề tài khoa học cấp Nhà nước, H. Đề tài đã tập trung phân tích làm rõ những
vấn đề cơ bản về GDQP, đánh giá những thành tựu, hạn chế, yếu kém của
công tác GDQP cho các đối tượng và trên cơ sở phân tích sâu sắc sự phát
triển của tình hình thế giới, khu vực, trong nước, yêu cầu nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc đã đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao chất lượng
GDQP cho cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân
đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đã xác định [53].
- Phạm Xuân Hảo (chủ nhiệm đề tài), Nguyễn Văn Cần, Hoàng Văn
Thanh; Học viện Chính trị Quân sự ( 2007). Đổi mới giáo dục quốc phòng
trong hệ thống giáo dục quốc gia - Thực trạng và kinh nghiệm giáo dục quốc


10

phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia;

- Nguyễn Khắc Thắng (2009), Quản lý quá trình giảng dạy GDQP - AN
phù hợp với phương thức đào tạo theo tín chỉ, Luận văn thạc sĩ Quản lý giáo
dục, Trường Đại học Giáo dục, H. Trong công trình của mình, tác giả Nguyễn
Khắc Thắng đã có sự phân tích khá đầy đủ về vị trí vai trò của GDQP - AN và
hoạt động giảng dạy GDQP - AN của đội ngũ giảng viên. Trên cơ sở đánh giá
thực trạng, tác giả đã đề xuất hệ thống biện pháp quản lý hoạt động giảng dạy
của giáo viên trong GDQP - AN đáp ứng với phương thức đào tạo theo tín chỉ
của các trường đại học, cao đẳng [46].
- Nguyễn Bá Dương (2009), Tư duy lý luận của Đảng ta về đổi mới
GDQP trong tình hình hiện nay, Nxb CTQG, H. Trong công trình của mình,
tác giả Nguyễn Bá Dương đã đi sâu phân tích sự phát triển của tình hình nhiệm
vụ cách mạng, nhiệm vụ xây dựng, củng cố nền QPTD, tăng cường tiềm lực,
sức mạnh QP-AN và thực trạng GDQP cho các đối tượng cán bộ, đảng viên và
nhân dân để từ đó khẳng định sự cần thiết phải đổi mới công tác GDQP, trước
hết là đổi mới tư duy trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng.
Đồng thời tác giả đã đề xuất một số chủ trương, giải pháp đổi mới tư duy trong
GDQP từ quan điểm chỉ đạo, nội dung chương trình, tổ chức quản lý, xây dựng
đội ngũ đến công tác đầu tư cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật [18].
- Nguyễn Đức Đăng (2011) “ Quản lý công tác giáo dục quốc phòng – an
ninh cho sinh viên hệ chính quy tại trường ĐHKHXH & NV, ĐHQGHN”. Đề
tài của tác giả đã đánh giá thực trạng quản lý công tác GDQP – AN cho sinh
viên hệ chính quy trường ĐHKHXH & NV, ĐHQGHN. Đồng thời đề xuất
các giải pháp quản lý công tác GDQP – AN cho sinh viên hệ chính quy
trường ĐHKHXH & NV, ĐHQGHN góp phần nâng cao hiệu quả công tác
quản lí môn học xong đề tài chưa đưa ra được các giải pháp mang tính đồng
bộ trong quản lý công tác GDQP – AN đối với sinh viên chuyên ngành [26]
- Ngoài những công tác trên, đã có rất nhiều bài viết đăng trên các báo,


11


các tạp chí có uy tín. Tiêu biểu: Phan Ngọc Diễn, GDQP cho thế hệ trẻ trong
các nhà trường - những vấn đề lưu tâm, Tạp chí GDQP số 2/2000; Phùng
Khắc Đăng, Tăng cường hơn nữa công tác GDQP toàn dân trước tình hình
mới, Tạp chí QPTD số 12/2003; Phạm Xuân Hảo (2002), Giáo dục quốc
phòng cho sinh viên đại học hiện nay, Chuyên đề khoa học cấp Viện Khoa
học xã hội và nhân văn; Lê Doãn Thuật, GDQP trong các trường đại học và
cao đẳng - bốn vấn đề bức xúc cần tháo gỡ từ cơ sở; Tạp chí QPTD, số
1/2002; Phạm Xuân Hảo, Đổi mới, nâng cao chất lượng GDQP toàn dân
trong thời kỳ mới, Tạp chí GDLLCTQS, số 1/2006…
Với các góc cạnh tiếp cận khác nhau, các công trình trên đã đi sâu phân
tích làm rõ những vấn đề cơ bản về vị trí, vai trò, nội dung, hình thức GDQP
và AN cho các đối tượng và đề xuất hệ thống các giải pháp trong tổ chức thực
hiện góp phần nâng cao chất lượng GDQP và AN trong tình hình mới. Hệ
thống các giải pháp được các tác giả đề cập mang tính đồng bộ, khả thi, tập
trung vào các giải pháp; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo; nâng cao chất lượng
đội ngũ giảng viên; nâng cao nhận thức trách nhiệm của các cấp, các ngành;
đổi mới nội dung chương trình và hình thức tổ chức huấn luyện; đổi mới, tăng
cường công tác quản lý và giải pháp về đầu tư cơ sở vật chất, công cụ phương
tiện huấn luyện…
Tuy chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống việc
quản lý hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN cho sinh viên ở Trường
ĐHSPHN, song có giá trị tham khảo tốt để tác giả nghiên cứu luận văn và đề
tài "Quản lý hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN cho sinh viên ở
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay" là công trình độc lập, không trùng
lặp với các công trình đã được nghiệm thu, công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động dạy học thực hành GDQP và
AN ở trường ĐHSPHN, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động dạy



12

học GDQP và AN, góp phần giáo dục toàn diện cho sinh viên.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về quản lý hoạt động dạy học thực
hành GDQP và AN ở trường đại học
Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động dạy học thực
hành ở Trường ĐHSPHN.
Đề xuất, khảo nghiệm một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học thực
hành GDQP và AN ở Trường ĐHSPHN.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Hoạt động dạy học GDQP và AN ở trường Đại học
* Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN ở Trường
đại học Sư phạm Hà Nội.
* Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về nội dung nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng các biện pháp quản lý hoạt động dạy
học thực hành GDQP và AN ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội từ đó bước
đầu đề xuất, khảo nghiệm mức độ cần thiết cũng như mức độ khả thi của các
biện pháp đó.
Về chủ thể quản lý
Ban Giám hiệu, Phòng đào tạo, ban chủ nhiệm khoa, chủ nhiệm bộ môn
khoa GDQP trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Về địa bàn nghiên cứu
Đề tài chỉ khảo sát thực trạng các biện pháp quản lý hoạt động dạy học
thực hành tại Trường đại học Sư phạm Hà Nội

Về khách thể khảo sát


13

- Tổng số khách thể khảo sát: 365
- Ban Giám hiệu, Trưởng, phó phòng; trưởng, phó khoa, bộ môn: 25
- Giáo viên: 55
- Sinh viên: 285
5. Giả thuyết khoa học của đề tài
Trong thời gian qua, hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN nói
chung và nhất là quản lý hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN ở trường
ĐHSPHN đã đạt được một số kết quả nhất định như: công tác tiếp nhận sinh
viên, quản lý hồ sơ sổ sách, tổ chức hoạt động dạy học của giảng viên, hoạt
động học tập của sinh viên, tổ chức thi và kiểm tra đánh giá kết quả học tập.
Tuy nhiên đứng trước yêu cầu đổi mới giáo dục còn bộc lộ những hạn chế, bất
cập do các nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân biện pháp quản
lý chưa phù hợp. Nếu đề xuất và áp dụng các biện pháp quản lý hoạt động dạy
học thực hành GDQP và AN một cách khoa học, đồng bộ, phù hợp hơn với
thực tiễn của nhà trường và người học, cũng như đáp ứng được những yêu
cầu, mục tiêu của dạy học GDQP và AN, sẽ nâng cao được chất lượng hoạt
động dạy học thực hành GDQP và AN, nhờ đó nâng cao chất lượng đào tạo
của nhà trường.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về GDĐT và giáo dục quốc phòng và an ninh. Đề tài sử dụng
cách tiếp cận vấn đề theo quan điểm lịch sử lôgic, quan điểm thực tiễn để xem
xét, phân tích những vấn đề liên quan.

* Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu tài liệu về quản lý, tài liệu liên quan đến hoạt động dạy học
thực hành GDQP và AN; quản lý trường đại học, quản hoạt động dạy học


14

thực hành GDQP và AN và các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Trên cơ sở đó tiến hành phân tích, tổng hợp, hệ thống tài liệu để xây dựng
khung lý luận làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát
Quan sát các biểu hiện của hoạt động dạy học thực hành của giáo viên và
quản lý hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN ở trường ĐHSPHN, các
biểu hiện về thái độ và hành động của giáo viên và cán bộ quản lý trong quá
trình dạy học thực hành qua đó đánh giá hiệu quả hoạt động dạy học thực
hành ở trường ĐHSPHN
Phương pháp điều tra
Để điều tra thực trạng biện pháp quản lý hoạt động dạy học thực hành
GDQP và AN ở trường ĐHSPHN, Chúng tôi sử dụng các bảng hỏi dành cho
các đối tượng: sinh viên, giáo viên, cán bộ quản lý
Mục đích: Tìm hiểu thực trạng về
- Thực trạng hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN và quản lý hoạt
động dạy học thực hành GDQP và AN ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội
- Mức độ thực hiện các nội dung quản lý hoạt động dạy học thực hành
GDQP và AN và mức độ thực hiện các biện pháp quản lý hoạt động dạy học
thực hành GDQP và AN ở trường ĐHSPHN
Phương pháp phỏng vấn
Bổ sung, kiểm tra và làm rõ những thông tin đã thu thập được thông qua

phương pháp điều tra. Qua đó tìm hiểu thêm những biện pháp quản lý hoạt
động dạy học thực hành. Những thông tin này có giá trị là căn cứ để nhận xét,
khẳng định chính xác hơn thực trạng biện pháp quản lý hoạt động dạy học
thực hành GDQP và AN ở trường ĐHSPHN. Ngoài ra, có thể tìm hiểu thêm
các nhân tố ảnh hưởng tới thực trạng đó cũng như những khuyến nghị của họ.
Đồng thời những thông tin này cũng giúp cho nhà nghiên cứu có thêm căn cứ
để khẳng định tính trung thực, độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.


15

Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Tham khảo ý kiến của các lãnh đạo và chuyên gia, các nhà quản lý để có
thêm thông tin tin cậy đảm bảo tính khách quan cho các kết quả nghiên cứu. Đặc
biệt xin ý kiến đóng góp cho những đề xuất biện pháp nhằm quản lý có hiệu quả
việc quản lý hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN ở trường ĐHSPHN.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Từ kết quả hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN ở trường
ĐHSPHN, phân tích làm rõ hiệu quả quản lý hoạt động dạy học thực hành
GDQP và AN ở trường ĐHSPHN.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Qua các hoạt động: viết sáng kiến kinh nghiệm; báo cáo khoa học, hội
thảo, trao đổi kinh nghiệm về hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN và
quản lý hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN ở Trường ĐHSPHN để
xuất các biện pháp quản lý phù hợp
Phương pháp khảo nghiệm
Tiến hành khảo nghiệm về nhận thức các biện pháp đã đề xuất để khẳng
định tính khoa học, cần thiết, khả thi của các biện pháp đó.
- Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
Dùng xử lý các số liệu thu thập được trong quá trình điều tra thực trạng quản

lý hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN ở trường ĐHSPHN dưới dạng: Bảng
số liệu về quản lý hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN ở Trường ĐHSPHN
giúp cho các kết quả nghiên cứu trở nên chính xác và đảm bảo độ tin cậy.
7. Ý nghĩa của đề tài
- Về lý luận
Với việc hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về hoạt động dạy học thực
hành và quản lý hoạt động dạy học thực hành GDQP và AN ở trường đại học,
góp phần làm rõ hơn, sâu sắc hơn và khái quát hơn khung lý luận về quản lý
hoạt động dạy học nói chung và quản lý hoạt động dạy học GDQP và AN ở
trường đại học nói riêng


16

- Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu thực tiễn của đề tài là cơ sở khoa học giúp cho các
cấp quản lý xác lập các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động dạy học
GDQP và AN ở Trường ĐHSPHN và có thể trờ thành tài liệu tham khảo cho
các trường ĐHSP có tính chất tương đồng
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị và tài liệu tham khảo, luận
văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học thực hành giáo
dục quốc phòng và an ninh ở trường đại học
Chương 2: Cơ sở thực tiễn về quản lý hoạt động dạy học thực hành giáo
dục quốc phòng và an ninh ở Trường đại học Sư phạm Hà Nội
Chương 3: Nguyên tắc, biện pháp quản lý hoạt động dạy học thực hành
giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trường đại học Sư phạm Hà Nội



17

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
THỰC HÀNH GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Hoạt động dạy học
Dạy học là một hoạt động và là một bộ phận của quá trình sư phạm
được tiến hành dưới sự hướng dẫn của người thầy do nhà trường tổ chức
nhằm hình thành hệ thống những kiến thức khoa học và kỹ năng thực hành
cho người học, để nâng cao trình độ kiến thức và năng lực thực hành cũng
như việc phát triển trí tuệ và hoàn thiện nhân cách. Dạy học là con đường cơ
bản quan trọng để thực hiện mục đích giáo dục xã hội. Học tập là cơ hội quan
trọng nhất để giúp mỗi cá nhân hoàn thiện nhân cách của mình.
Dạy học là một hoạt động đặc biệt diễn ra ở trong các nhà trường gồm
hai hoạt động chủ yếu đó là: hoạt động dạy của người thầy và hoạt động học
của học sinh, các hoạt động đó được diễn ra đồng thời và có sự gắn bó mật
thiết với nhau. Nếu thiếu một trong hai hoạt động đó thì hoạt động dạy không
được diễn ra với ý nghĩa đầy đủ nhất như là một hoạt động sư phạm. Tuy
nhiên hai hoạt động này đều chịu sự chi phối bởi mục tiêu dạy học cũng như
là phương pháp, phương tiện, nội dung trong quá trình dạy học…
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “ Dạy học là một chức năng xã hội,
nhằm truyền đạt và lĩnh hội kiến thức, kinh nghiệm xã hội đã tích lũy được,
nhằm biến kiến thức kinh nghiệm thành phẩm chất và năng lực cá nhân”
Như vậy, hoạt động dạy học là một trong những hoạt động giao tiếp sư
phạm mang ý nghĩa xã hội và chủ thể của hoạt động chính là người dạy và
người học, họ tiến hành các hoạt động khác nhau, song tồn tại và phát triển
trong cùng một quá trình không hề đối lập nhau mà có sự thống nhất và hỗ trợ
cho nhau. Kết quả của người học được đánh giá thông qua việc truyền đạt
kiến thức của người thầy và khả năng lĩnh hội chi thức của người trò.



18

Giáo dục trong nhà trường được thực hiện bằng nhiều con đường, trong
đó con đường quan trọng là tổ chức dạy học. Hoạt động dạy học là hoạt động
mà trong đó dưới sự tổ chức, điều khiển, lãnh đạo của người giáo viên làm
cho người học tự giác, tích cực, chủ động nhận thức, học tập của mình nhằm
thực hiện những nhiệm vụ dạy học.
Hoạt động dạy học là tổng thể của quá trình toàn vẹn với hai thành tố
cơ bản là hoạt động dạy và hoạt động học. Quá trình này có mối liên hệ và
tương tác với nhau và cùng tuân theo những quy luật nhất định, đồng thời
đảm bảo được tính nguyên tắc trong quá trình dạy học.
Dạy học, xuất phát từ nhu cầu dạy và nhu cầu học để có khái niệm dạy
và học, là hai mặt của một quá trình luôn tác động qua lại, bổ sung cho nhau,
thông qua hoạt động chung, thống nhất của thầy và trò, trong đó dưới tác
động chủ đạo của thầy là truyền đạt tri thức và trò tiếp nhận tri thức. Được
chia thành các giai đoạn phát triển tâm lý tương ứng với từng giai đoạn tâm lý
lứa tuổi học trò, để hoạt động dạy phù hợp với hoạt động học, đạt kết quả tốt,
trong suốt quá trình dạy học.
Quá trình dạy học nếu thiếu một trong hai thành tố trên đều không tạo
thành với tư cách là một quá trình mang tính hệ thống. Kết quả của người học
được tạo thành ở trong cả người dạy và người học. Người dạy thông qua hoạt
động chỉ đạo, điều khiển quá trình học và sự phản hồi kết quả của người học
để có những điều chỉnh, nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình dạy, từ đó chất
lượng dạy học sẽ được nâng cao. Ngoài hai thành tố chất lượng và hiệu quả
thì chất lượng dạy học còn phụ thuộc vào những thành tố khác như: Nội dung
dạy học, hình thức tổ chức dạy học, phương tiện, phương pháp dạy học…
Hoạt động dạy học chính là sự thống nhất giữa hoạt động nhận thức
mang tính chủ động sáng tạo của người học và sự chỉ đạo trong hoạt động

nhận thức đó của người dạy thông qua quá trình dạy học. Hoạt động nhận
thức của người học thực chất là quá trình tái tạo những tri thức mà con người
ta đã tìm hiểu, chứng minh và trở thành chân lí chứ không phải là hoạt động


19

khám phá, tìm kiếm những chân lí mới mẻ, đó chỉ là hoạt động nhận thức
những tri thức được đúc rút ra từ kho tàng tri thức của nhân loại mà đối với họ
còn mới mẻ. Quá trình nhận thức này nó cũng tuân theo những quy luật nhận
thức mà V.I. Lênin đã chỉ ra đó là: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của
nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan”. Quá trình nhận thức đó
không phải bước đi những bước đi chập chững, dò dẫm mà diễn ra theo con
đường đã được khám phá dưới sự chỉ đạo của các nhà sư phạm. Chính vì vậy
trong một thời gian ngắn người học đã lĩnh hội được một lượng chi thức lớn
một cách thuận lợi. Quá trình dạy học thực chất là quá trình chuyển tải thông
tin mà trung gian chính là hoạt động dạy của người thầy với rất nhiều khâu
được tiến hành, nhằm biến những tri thức lĩnh hội được trở thành tài sản của
cá nhân người học và lấy nhu cầu học để tạo điều kiện cho người học hoàn
thiện các phẩm chất tâm lý, từ năng lực nhận thức cảm tính đến năng lực nhận
thức lý tính, đúc kết thành năng lực tự chủ, hình thành nhu cầu tự học, tự tìm
tòi tri thức, để có đầy đủ năng lực tư duy, tự phát hiện vấn đề, tự tìm ra giải
pháp và từng bước tự giải quyết vấn đề. Như vậy bản chất của quá trình dạy
học là quá trình nhận thức mang tính độc đáo của người học dưới vai trò chủ
đạo của người dạy. Ngày nay hoạt động dạy học đã được phát triển lên một
tầm cao mới với những kho tàng tri thức đã được bổ sung cho nhân loại và đi
kèm với nó là sự xuất hiện của những phương tiện, phương pháp và hình thức
dạy học mang tính tích cực đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao nhận
thức, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và hình thành phát triển nhân cách cho người

học. Từ những kết quả đó đã khẳng định tính đúng đắn của quá trình dạy học
hiện nay là ngày càng hướng vào người học và lấy người học làm trung tâm
của quá trình dạy học. Chính vì những yếu tố đó đã khảng định tính đúng đắn
về bản chất của quá trình dạy học hiện nay là đảm bảo cho các thành tố hoạt
động một cách chính xác và hiệu quả.


20

Hoạt động dạy học của giáo viên nhằm cung cấp cho học sinh hệ thống
kiến thức khoa học, bồi dưỡng tư duy sáng tạo và kỹ năng thực hiện, nâng cao
trình độ học vấn, hình thành lối sống văn hoá. Mục đích cuối cùng là làm cho
mỗi học sinh trở thành những người tự chủ, năng động, sáng tạo. Như vậy dạy
học là con đường cơ bản để đạt tới mục đích giáo dục tổng thể. Hoạt động dạy
học được thực hiện thông qua các thành tố cấu trúc sau đây:
- Mục tiêu dạy học: Là kết quả sư phạm mong đợi đạt được khi kết thúc
quá trình dạy học, hình thành nhân cách người học tương thích yêu cầu của xã hội.
- Nội dung dạy học: Là những kiến thức cơ bản, toàn diện, cập nhật,
hiện đại thể hiện ở nội dung chương trình sách giáo khoa, giáo án và kế hoạch
dạy học, bao gồm hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và hoạt động sáng tạo.
- Phương pháp dạy học: Là cách thức phối hợp giữa hoạt động dạy và
hoạt động học nhằm đạt được mục tiêu dạy học. Việc sử dụng phương pháp
dạy học phù hợp sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động dạy học.
- Phương tiện dạy học: Bao gồm mọi thiết bị kỹ thuật từ đơn giản đến
phức tạp được dùng trong quá trình dạy học để làm dễ dàng cho sự truyền đạt
và tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo.
- Kết quả: Là khả năng phát triển trí tuệ và hình thành các phẩm chất
đạo đức cho học sinh.
Theo tiếp cận hệ thống thì quá trình dạy học là một hệ thống bao gồm
các thành tố cơ bản: Mục tiêu dạy học, nội dung, phương pháp, phương tiện,

hình thức tổ chức dạy học, giáo viên với hoạt động dạy, học sinh với hoạt
động học, kết quả dạy học ... Các thành tố trong quá trình dạy học tác động
qua lại quan hệ biện chứng với nhau và đặt trong sự tương tác với môi trường
tạo nên “tính trồi” của hệ thống, đó chính là chất lượng của quá trình dạy
học. Điều đó có nghĩa là muốn nâng cao chất lượng quá trình dạy học từng
phải nâng cao chất lượng từng thành tố trong hệ thống, tạo sự gắn bó chặt chẽ
các thành tố thành một khối thống nhất. Trong đó nâng cao chất lượng hai


21

thành tố hoạt động dạy và hoạt động học là khâu có tính đột phá. Ta có thể
thấy rõ mối quan hệ của các thành tố qua sơ đồ:
Mục đích, nhiệm
vụ dạy học

Môi
trường
khoa
học kỹ
thuật

Giáo viên với hoạt
động dạy

Nội dung dạy học

Phương pháp,
phương tiện DH


Hình thức tổ chức
dạy học

Môi
trường
chính
trị xã
hội

Học sinh với hoạt
động học

Kết quả dạy học

Mối liên hệ ngược ngoài

Mối liên hệ ngược trong

Sơ đồ 1.3: Mối quan hệ các thành tố của quá trình dạy học trong
quan hệ với môi trường
Nhìn vào sơ đồ ta thấy các thành tố cấu trúc của hoạt động dạy học
quan hệ tương tác lẫn nhau, bổ sung, phối hợp với nhau trong tác động của
môi trường tự nhiên và xã hội. Việc tác động tốt vào mối quan hệ đó là cơ sở
và điều kiện làm tăng hiệu quả của hoạt động dạy học, nâng cao chất lượng
giáo dục. Mối quan hệ giữa các thành tố cấu trúc của hoạt động dạy học được
phản ánh trong quá trình dạy học, với vai trò điều khiển của thầy và tự điều
khiển của trò.


22


Hoạt động dạy học bao gồm hoạt động dạy và hoạt động học, đó là hai
mặt không thể tách rời và tác động lẫn nhau một cách thống nhất. Quá trình
dạy học thực chất là sự thể hiện toàn bộ hoạt động có chủ định, có kế hoạch
của thầy và trò, làm cho học sinh nắm vững và có kiến thức về tự nhiên và xã
hội, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, thói quen hành động.
Hoạt động dạy của giáo viên gồm các chức năng: hướng dẫn, tổ chức,
chỉ đạo, điều khiển, truyền đạt và tự điều khiển luôn tương tác với nhau và
thống nhất với nhau. Dạy phải xuất phát từ lôgíc khoa học của khái niệm và
lôgic sư phạm của tâm lý lĩnh hội.
Hoạt động học của học sinh là bộ phận quan trọng của hoạt động dạy
học, là quy định lôgic của quá trình dạy học về mặt lý luận dạy học. Nghĩa là
trình độ trí dục và quy định lĩnh hội của học sinh có ảnh hưởng quyết định
đến việc tổ chức hoạt động dạy học. Nó bao gồm các chức năng thống nhất
với nhau: tích cực, tự giác, chủ động, tự điều khiển...
Nếu quá trình dạy học được tổ chức một cách khoa học, các thành tố
cấu trúc của hoạt động dạy học được thực hiện và phối hợp một cách hợp lý,
thì sẽ đạt được
1.1.2. Hoạt động dạy học thực hành
Hoạt động dạy học thực hành là hoạt động rèn luyện kỹ năng tay nghề
cho người học dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Đó là quá trình tổ chức các
hoạt động dạy học nhằm hình thành và phát triển hệ thống kiến thức và kỹ
năng chuyên môn, năng lực thực hành nghề theo mục tiêu đào tạo nghề
nghiệp tương ứng. Đây là quá trình liên kết giữa lý thuyết và thực tế, được
thực hiện đúng lịch trình kế hoạch dạy học thực hành theo chương trình chi
tiết của môn học đã được phê duyệt. Dạy học thực hành có thể được tiến hành
trên lớp, ngoài thực địa, phòng thí nghiệm, xưởng trường, phòng học chuyên
dùng, trung tâm huấn luyện thực hành.



23

1.1.3. Quản lý hoạt động dạy học thực hành
1.1.3.1. Quản lý
Quản lí là một thuật ngữ được định nghĩa là “ Tổ chức và điều khiển
các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [ 14, tr. 722 ].
Theo C.Mác: “ Quản lí là lao động điều khiển lao động”. ( C.Mác –
Ăngghen toàn tập, tập 25, phần 2, trang 350 ). Ông khẳng định “ Bất cứ lao
động hay lao động chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá lớn, đều yêu
cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân…Một nhạc sĩ
độc tấu thì điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng”.
Như vậy C.Mác đã lột tả được bản chất của quản lí là một loại hình
hoạt động lao động để điều khiển hoạt động lao động khác và là một hoạt
động tất yếu vô cùng quan trọng của sự vận động và phát triển của xã hội loài
người và khi xã hội loài người phát triển thì sự chuyên môn hóa trong hoạt
động lao động ngày càng cao từ đó đòi hỏi hoạt động quản lí cũng phải phát
triển theo để phát triển kịp với quan hệ sản xuất mới. Trong xã hội hiện nay
hoạt động quản lí đã trở thành một hoạt động phổ biến, mọi nơi, mọi lúc, mọi
lĩnh vực và có liên quan đến mọi người và đó là phần sống còn trong sự phát
triển cả cộng đồng dựa trên sự phân công và hợp tác để nhằm đạt được mục
tiêu chung.
Trong mỗi lĩnh vực khác nhau thì hoạt động quản lí cũng có sự khác
nhau với nhiều hình thức phong phú và đa dạng chính vì vậy dẫn đến sự
phong phú về các quan niệm quản lí cũng như cách tiếp cận của các tác giả về
khái niệm quản lí.
Đối với các tác giả nước ngoài:
Theo F.W.Taylor ( 1856 – 1915 ) cho rằng “ Quản lí là biết chính xác
điều bạn muốn người khác làm, và sau đó hiểu rằng họ đã hoàn thành công
việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”.
Theo H.Koontz (Người Mỹ): Quản lý là một hoạt động thiết yếu nhằm

đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực của các cá nhân để đạt được mục đích của


24

nhóm (tổ chức). Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường trong đó
con người có thể đạt được mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất
và sự bất mãn cá nhân ít nhất. [ 19, tr 46]
Theo Henry Fayol ( 1841 – 1925 ) xuất phát từ nghiên cứu các loại
hình quản lí, ông là người đầu tiên phân biệt chúng thành 5 chức năng cơ bản
“ kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra”. Ông đã nhấn mạnh
đến ý nghĩa của cấu trúc bộ máy tổ chức và khẳng định rằng khi con người
lao động hiệp tác thì quan trọng là họ phải xác định rõ công việc mà họ phải
hoàn thành.
M.T.Follet ( 1868 – 1933 ) cho rằng trong công việc quản lí cần chú
trọng tới người lao động với toàn bộ đời sống của họ, cả yếu tố kinh tế lẫn
yếu tố tinh thần và tình cảm. Theo Bà “ Quản lí là nghệ thuật khiến cho công
việc được thực hiện thông qua người khác”.
Theo Kozlova O.V và Kuzenetsov I.N: Quản lí là sự tác động có mục
đích đến những tập thể con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ
trong quá trình sản xuất.
Đối với các tác giả trong nước:
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: Quản lí là tác động có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể quản lí đến tập thể những người lao động ( Nói
chung là khách thể quản lí ) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến
[ 21, Tr31 ].
Tác giả Nguyễn Minh Đạo: “ Quản lí là sự tác động liên tục có tổ chức,
có định hướng của chủ thể quản lí về các mặt văn hóa, chính trị, kinh tế, xã
hội bằng một hệ thống luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương
pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát

triển của đối tượng” [ 25, Tr 28 ].


25

Theo Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu; quản lý là một hệ thống các quá trình tác động
đến hệ thống nhằm đạt được mục tiêu nhất định” [13, Tr 28].
Theo tác giả Trần Kiểm: Quản lí nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều
người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã
hội [ 20. Tr45 ].
Từ các khái niệm trên của các tác giả trong nước cũng như ngoài nước
chúng ta thấy rằng đứng trên góc độ và cách tiếp cận khác nhau thì có nhiều
các quan niệm khác nhau về quản lí. Song các quan niệm trên đều đi đến
thống nhất với quan điểm rằng khi nói đến quản lí bao giờ cũng phải có chủ
thể quản lí, là người tiến hành các công việc thông qua quản lí để đạt được
một mục đích nhất định và đó chính là cái đích của quá trình quản lí. Chủ thể
quản lí bao giờ cũng phải là một con người cụ thể. Còn “quản lí ai”, “quản lí
cái gì”, ta gọi đó là khách thể quản lí. Bên cạnh đó vấn đề quản lí bao giờ
cũng có mục đích rõ ràng cho cả chủ thể và khách thể quản lí, nó là cơ sở để
định hướng cho các nhà quản lí tiến hành các hoạt động quản lí, đảm bảo đem
lại hiệu quả cao nhất trong công tác quản lí.
Ngày nay hoạt động quản lí đã phát triển lên một tầm cao mới phù hợp
hơn với quá trình phát triển của nhân loại. Quản lí không chỉ còn là một hoạt
động khoa học thông thường mà nó còn là một nghệ thuật quản lí.
Quản lí dù đứng ở góc độ và phương diện nào thì nó cũng là quá trình
tác động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lí đến khách thể quản lí nhằm đạt
được mục tiêu chung, sự tác động trên nhằm hướng tới thực hiện mục tiêu của
quản lí đặt ra thông qua các công cụ và phương pháp của nhà quản lí.
Từ các quan niệm của các học giả nêu trên, khái niệm quản lí thường

được hiểu như sau:


26

Quản lí là sự tác động có chủ đích, phù hợp với quy luật khách quan
của chủ thể quản lí tới đối tượng quản lí thông qua kế hoạch hóa, tổ chức chỉ
đạo, kiểm tra để nhằm đạt đến những mục tiêu nhất định.
1.1.3.2. Quản lý hoạt động dạy học
Quản lý hoạt động dạy học là quá trình người hiệu trưởng hoạch định,
tổ chức, điều khiển, kiểm tra hoạt động dạy học của giáo viên nhằm đạt mục
tiêu đề ra. Trong toàn bộ quá trình quản lý nhà trường thì quản lý hoạt động
dạy học là hoạt động cơ bản của người hiệu trưởng. Nó chiếm thời gian và
công sức rất lớn của người hiệu trưởng, bởi vì nhiệm vụ hàng đầu của quản lý
hoạt động dạy học là quản lý có hiệu quả các thành tố cấu trúc của hoạt động
dạy học, cần phải tạo điều kiện và tác động cho sự cộng tác tối ưu giữa giáo
viên và học sinh nhằm xác định đúng mục tiêu, lựa chọn nội dung phù hợp kế
hoạch, áp dụng hài hoà các phương pháp, tận dụng các phương tiện và điều
kiện hiện có, tổ chức linh hoạt các hình thức dạy học.
Quản lý hoạt động dạy học là quản lý việc chấp hành các quy định
(Điều lệ, Quy chế, nội quy…) về hoạt động giảng dạy của giáo viên và hoạt
động học tập của học sinh, bảo đảm cho các hoạt động đó được diễn ra một
cách tự giác, có nề nếp, có chất lượng và đạt hiệu quả.
Quản lý hoạt động dạy học là một hệ thống những tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý
trong quá trình dạy học nhằm đạt mục tiêu đề ra. Để quản lý hoạt động dạy
học có hiệu quả cần lưu ý những vấn đề cơ bản sau:
- Quản lý xây dựng kế hoạch và thực hiện chương trình của tổ chuyên
môn, của cá nhân.
- Quản lý việc soạn bài và chuẩn bị tiết dạy của giáo viên.

- Quản lý công tác đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên.
- Quản lý giờ dạy và hồ sơ chuyên môn của giáo viên.


×