Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn thi MÔN CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.96 KB, 38 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN CHÍNH TRỊ

Câu 1: Mối quan hệ giữa Vật chất và Ý thức ? Ý nghĩa phương pháp luận?

. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Theo quan điểm duy vật biện chứng: vật chất và ý thức tồn tại trong mối
quan hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn;
trong mối quan hệ đó vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức.
a) Vai trò có vật chất đối với ý thức
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chốt là cái có trước, ý thức là cái có sau;
vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh
đối với vật chất.
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất. có tổ chức cao là bộ óc người nên
chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới
vật chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là
sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển
hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học
chứng minh quan điểm:vật chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc
người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra hiện tượng phản ánh, lao
động, ngôn ngữ) đều, hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách
quan) hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ánh,
lao động, ngôn ngữ) nên vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là cái phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh về thế giới vật chất nên
nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phất triển của ý


thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và
sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật
chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức
biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.


b. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể.tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến
vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong
hiện thực.Muốn thay đổi hiện thực con người phải tiến hành những hoạt động vật
chất. Song, mọi hoạt động của con người đã do ý thức chi đạo, nên vai trò của ý
thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho
con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục
tiêu đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp biện pháp
công cụ, phương tiện ..để thực hiện mục tiêu của mình: Ở đây ý thức đã thể hiện sự
tác động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của cơn người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích
cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình
cảm cách mạng, có nghị lực có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các
quy luật khách quan con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá
trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác động tích
cực của ý thức; còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực
khách quan, bản chất quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của
con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng
tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.


Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thể
quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay
sai thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn .gốc, bản chất cháy thức về vai .trò của vật
chất, của ý thức có thể thấy: không bao giờ và không ở đâu ý thức lại quyết định
vật chất.Trái lại, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả
năng sáng tạo của ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện Ý thức; ý thức chỉ có

khả năng tác động chở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải
thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh của ý
thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ
thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của con người
và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất trong đó con người hành động theo
định hướng của ý thức.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Trên cơ sở quan điềm về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng động
sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa
duy vật biện chứng xây dựng nên một nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung
nhất đối với mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Nguyên tắc đó
là: trọng mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế
khách quan, tôn trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
Theo nguyên tắc phương pháp luận này, mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của
con người chỉ có thể đúng đắn, thành công và có hiệu quả khi và chỉ khi thực hiện
đồng thời giữa việc xuất phất từ thực tế khách quan, tôn trọng thực tế khách quan
với phát huy tính năng động chủ quan; phát huy tính năng động chủ quan phải là


trên cơ sở và trong phạm vi điều kiện khách quan, chống chủ quan duy ý chí trong
nhận thức và thực tiễn .
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính
khách quan của vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan mà căn
bản là tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật; tôn trọng vai trò
quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người, của xã
hội. Điều đó đòi hỏi trong nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ
thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra đường lối chủ trương, chính Sách,
kế hoạch biện pháp: phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm
ra những nhân tố vật chất,tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để
hành động.

Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực năng động
sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hoá
tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri
thức khoa học tích cực học tập nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền
bá nó vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn
quần chúng hành động. Mặt khác phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành,
củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống
nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ
quan trong nhân thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ
quan duy ý chí; đó là những hành động lấy ý chí áp đặt thực tế, lấy ảo tưởng thay
cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất
phát cho chiến lược, sách lược.... Đây cũng phải là quá trình chống chủ nghĩa kinh


nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì truệ, thụ
động... Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Câu 2: Mối quan hệ giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất ?
Vận dụng trong Đường lối đổi mới của Đảng?
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất:
a) Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất:
Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố
thuộc về người lao động (như năng lực, kỹ năng, tri thức,-. của người lao động)
cùng các tư liệu sản xuất nhất định (như đối tượng lao động, công cụ lao động, các
tư liệu phụ trợ của quá trình sản xuất,:..). Toàn bộ các nhãn tố đó tạo thành lực
lượng sản xuất của các quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ tinh tế giữa người với người trong quá trình
sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức - quản lý quá trình sản xuất và

quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó. Những quan hệ sản xuất
này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ sở
quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ
thống nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản
xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.


Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá
trình sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản
xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó.
Trong đời sống hiện thực, không thể có sự kết hợp các nhân tố của quá trình
sản xuất để tạo ra năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng vật chất tự nhiên lại có
thể diễn ra bên ngoài những hình thức kinh tế nhất định; ngược lại cũng không có
một quá trình sản xuất nào có thể diễn ra trong đời sống hiện thực chỉ với những
quan hệ sản xuất không có nội dung vật chất của nó. Như vậy, lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau. Đây
là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã
hội. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất định của lực lượng sản xuất cũng tất
yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với thực trạng đó trên cả ba phương
diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức - quản lý và phân phối. Chỉ có như vậy, lực
lượng sản xuất mới có thể được duy trì khai thác - sử dụng và không ngừng phát
triển. Ngược lại, lực lượng sản xuất của một xã hội chỉ có thể được duy trì, khai
thác - sử dùng và phát triển trong một hình thức kinh tế nhất định, không thể tồn tại
lực lượng sản xuất bên ngoài các hình thức tinh tế nhất định.
Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sân xuất và quan hệ sản xuất tuân
theo nguyên tấc khách quan: quan hệ sản xuất phụ thuộc vào thực trạng phát triển
thực tế của lực lượng sản xuất hiện thực trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; bởi
vì, quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất còn lực lượng

sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó. Tuy nhiên, quan hệ sản
xuất, với tư cách là hình thức tinh tế của quá trình sản xuất nó luôn luôn có tác
động trở lại lực lượng sân xuất. Sự tác động này có thể diễn ra theo chiều hướng
tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tình phù hợp hay không phù hợp của
quan hệ sản xuất với thực trạng và nhu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng


sản xuất. Nếu "phù hợp” sẽ có tác dụng tích cực và ngược lại, "không phù hợp ' sẽ
có tác dụng tiêu cực.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất va quan hệ sản xuất là mối quan hệ
thống nhất có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh
mâu thuẫn.
Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế xác định, lực
lượng sản xuất của xã hội được bảo tồn, không ngừng được khai thác - sử dụng và
phát triển trong 'quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội. Tính ổn định phù hợp
của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao thì lực lượng sản xuất
càng có khả năng phát triển, nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản xuất lại
luôn luôn tạo ra khả năng phá vỡ sự thống nhất của nó với những hình thức kình tế
hiện thực. Những hình thức kinh tế hiện thực này, từ chỗ là những hình thức phù
hợp và cần thiết cho sự phát triển của các lực lượng sản xuất đã trở thành những
hình sức kìm hãm sự phát triển đó, nó đã tạo ra một mâu thuẫn giữa giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất, từ đó xuất hiện nhu cầu khách quan phải tái thiết lập
mối quan hệ thống nhất giữa chúng theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp
với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Khi phân tích sự vận động của mâu
thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác đã từng chỉ
ra rằng: "Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật
chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước
đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển
của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực
lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội". Chính nhờ

các cuộc cách mạng xã hội mà những quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội được
thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với nhu cầu phát triển của lực


lượng sản xuất hiện thực, tiếp tục phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển
của lực lượng sản xuất trong một hình thức kinh tế mới.
Như vậy mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối
quan hệ mâu thuẫn biện chứng giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức kinh
tế của quá trình sản xuất xã hội. Sự vận động của mâu thuẫn này là một quá trình đi
từ sự thống nhất đến những khác biệt và đối lập, từ đó làm xuất hiện nhu cầu khách
quan phải được giải quyết theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với thực
trạng phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận động của mâu thẫn này cũng tuân
theo quy luật "từ những sự thay - đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại", quy luật "phủ định của phủ định", khiến cho quá trình phát triển của
nền sản xuất xã hội vừa diễn ra với tính chất tiệm tiến, tuần tự lại vừa có tính nhảy
vọt với những bước đột biến, kế thừa và vượt qua của nó ở trình độ ngày càng cao
hơn.
Trong phạm vi phân tích sự phát triển xã hội, mâu thuẫn và sự vận động của
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chính là nội dung cơ bản
của "quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất". Sự tác động của quy luật này tạo ra nguồn gốc và động lực cơ bản nhất đối
với sự vận động,.phát triển của nền sản xuất vật chất và do đó là sự vận động, phát
triển của toàn bộ đời 'sống xã hội; sự vận động, phát triển của lịch sử nhân loại từ
phương thức sản xuất thấp lên phương thức sản xuất cao hơn; nó cũng là cơ sở để
giải thích một cách khoa học về nguồn gốc sâu xa của toàn bộ các hiện tượng xã
hội và các sự biến trong đời sống chính trị, văn hóa của các cộng đồng người trong
lịch sử.
Câu 3: Trình bày nội dung học thuyết về Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà
nước. Ý nghĩa ?



. Chủ nghĩa t bản độc quyền nhà nớc là sự kết hợp hay dung hợp lẫn nhau giữa các tổ chức t bản độc
quyền và nhà nớc t sản nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức t bản độc quyền; duy trì và phát triển chủ
nghĩa t bản.
Chủ nghĩa t bản độc quyền nhà nớc là sự phát triển cao của chủ nghĩa t bản, do đó nó có vai trò to lớn về
kinh tế, chính trị, xã hội. Vì vậy, khi chủ nghĩa t bản độc quyền nhà nớc thống trị thì các quá trình kinh tế
diễn ra trong chủ nghĩa t bản không những chịu sự tác động của quy luật thị trờng một cách tự phát, mà
còn chịu sự điều tiết của nhà nớc t sản.
Hc thuyt chủ nghĩa t bản độc quyền nhà nớc
1. S tp

trung sn xut v t bn hỡnh thnh cỏc t chc c quyn

Liờn minh gia cỏc nh t bn nm phn ln vic sn xut v tiờu th mt s loi hng húa
no ú nhm thu li nhun cao
2. T bn ti chớnh v u s ti chớnh
T bn ti chớnh l loi t bn c hỡnh thnh trờn c s xõm nhp ln nhau gia t bn
cụng nghip v t bn ngõn hng. T bn ngõn hng ó tham gia vo cỏc t chc c quyn
sn xut cụng nghip theo dừi vic vay vn. Cỏc nhúm t bn ti chớnh cú tim lc mnh
tr thnh cỏc u s ti chớnh, thc hin thao tỳng i sng Kinh t - Chớnh tr cỏc nc t
bn.
3. Xut khu t bn
L xut khu giỏ tr ra nc ngoi nhng tin hnh u t tin ra nc ngoi búc lt gia tr
thng d. õy th on cỏc nc t bn tin hnh búc lt cỏc nc chm phỏt trin thụng
qua trao i khụng ngang giỏ.
4. S phõn th gii v kinh t
Liờn minh gia cỏc t chc c quyn ln ca cỏc nc phõn chia th trng trờn th gii ,
c chim ngun nguyờn liu, quy nh quy mụ sn xut, nh ra giỏ c c quyn nhm thu li
nhun c quyn cao
5. S phõn chia th gii v lónh th

õy l h qu tt yu ca s phõn chia th gii v kinh t, biu hin vic cỏc nc quc
xõm chim v thuc a húa nhng nc chm phỏt trin .
í ngha vic xut hin Ch ngha T bn c quyn
+ Thỳc y nn sn xut hng húa phỏt tin t ti mc in hỡnh trong lch s


+ quá trình xã hội hóa sản xuất phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu
+Quá trình sản xuất được liên kết và phụ thuộc lẫn nhau thành hệ thống
+ Xây dựng tác phong công nghiệp , hoàn thiện nền dân chủ tư sản
+CNTB độc quyền gắn với quá trình bóc lột chiếm lợi nhuận cao, bản chất bóc lột thể hiện rõ
dưới nhiều hình thức
+ Mâu thuẫn xã hội trong lòng các nước TB ngày càng gay gắt.
+ Nguy cơ chiến tranh, xung đột và chiến tranh...

Câu 4: Những đặc trưng cơ bản của Chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của
Đảng ta.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã nêu lên sáu đặc trưng của chủ nghĩa xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ

công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công; làm theo năng

lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến


bộ.
- Có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta xác định: “Xã hội xã hội chủ
nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát
triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam


bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(1).
Câu 5: Những đặc trưng cơ bẩn củ Chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Triết học
Mác – Lênin.
Thời đại ngày nay là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới, đã và đang mở ra khả năng cho nhiều nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ
những điểm xuất phát khác nhau. Trong đó có cả những nước có nền kinh tế lạc
hậu, chậm phát triển, khi cuộc cách mạng ở đây do giai cấp công nhân lãnh đạo
giành thắng lợi, chính quyền thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Tuy nhiên, do xuất phát từ trình độ phát triển còn thấp kém, các nước này sau khi
thiết lập chính quyền của nhân dân phải có thời gian dài để xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; Đồng thời, tận dụng mọi cơ hội do thời đại
tạo ra để đẩy nhanh, “rút ngắn” sư phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng, xây dựng đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần cho toàn xã hội,
từng bước tiến tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội (hay xã hội xã hội chủ nghĩa)


là nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
- Xã hội xã hội chủ nghĩa đã xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập

chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Chủ nghĩa xã hội tạo ra các cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
- Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động - nguyên tắc phân phối cơ

bản nhất.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân

dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân.
- Xã hội xã hội chủ nghĩa giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, thực hiện

công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo ra những điều kiện cơ bản để con
người phát triển toàn diện.


Câu 6: Nêu định nghĩa Tư tưởng Hồ Chí Minh? Trình bày tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đại đoàn kết dân tộc
Định nghĩa
Tư tưởng Hồ CHí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn hoá của nhân loại. Tư
tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi,
tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta
Thực chất của tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận phản ánh những vấn đề có tính quy luật của cách
mạng Việt Nam.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm những vấn đề có liên quan đến quá trình phát triển từ cách mạng

dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đó là tư tưởng về độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

B. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và được hình thành trên
cơ sở kế thừa và phát triển biện chứng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn
kết của dân tộc; tinh hoa văn hoá nhân loại; đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin đã
được vận dụng và phát triển sang tạo, phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể
của Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể.


1. Vị trí vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
a) Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, quyết định sự thành công của
cách mạng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc nhất quán, xuyên suốt
toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp lực
lượng nhằm hình thành sức mạnh to lớn của dân tộc chống kẻ thù của
dân tộc, của giai cấp. Do đó đoàn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài
của cách mạng, nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.
- Đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài
Hồ Chí Minh cho rằng, muốn làm cách mạng phải có lực lượng cách mạng;
muốn có lực lượng cách mạng phải thực hiện đoàn kết. Vậy, đoàn kết là một
vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Cụ thể:
+ Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi, cho
nên: đoàn kết cũng chính là vấn đề sống còn của cách mạng.
Lịch sử cách mạng Việt Nam trong suốt gần 1 thế kỷ qua đã chứng minh
rằng, khi nào, nơi nào tư tưởng đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được
quán triệt và thực hiện đúng, thì nơi đó, khi đó cách mạng phát triển
mạnh. Ngược lại…

+ Để giành được thắng lợi, trong từng thời kỳ và trong những nhiệm vụ cụ
thể khác nhau cần có phương pháp tổ chức, bố trí lực lượng tương ứng với
những yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể trong từng thời kỳ.
Trong từng thời kỳ của cách mạng, có thể phải điều chỉnh chính sách và
phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với từng đối tượng, nhưng
đại đoàn kết dân tộc phải là vấn đề sống còn của cách mạng. Hồ Chí Minh


đã nêu:
+ “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi…, đoàn kết là then chốt của
thành công”. “Đoàn kết là điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt đẻ ra con
cháu đều tốt”. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công,
đại thành công”.
- Đại đoàn kết dân tộc nhằm tập hợp mọi lực lượng
Hồ Chí Minh cho rằng: cách mạng là một sự nghiệp to lớn, đòi hỏi phải có
sự đoàn kết của nhiều người mới có thể làm được.
Cách mạng không phải là một cuộc chơi, không phải 1 sớm 1 chiều có thể
thành công… Ngay từ đầu Hồ Chí Minh đã nói rằng: Người mình (người
Việt Nam) đã làm cách mạng nhiều rồi mà chưa thành công trước hết bởi
vì thiếu đoàn kết với nhau. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, chúng
chia Việt Nam ra là 3 kỳ với 3 chế độ chính trị khác nhau nhằm dễ bề
thống trị, đồng thời chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Do
đó, muốn đánh thắng thực dân Pháp, nhân dân ta phải đoàn kết lại.
- Đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được khẳng định là vấn đề sống còn
+ Hồ Chí Minh đi đến kết luận: muốn được giải phóng, các dân tộc bị áp bức
và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách mạng,
bằng cách mạng vô sản.
+ Nhờ đoàn kết được toàn dân tộc, nhân dân ta đã làm nên thắng lợi của
cuộc Cách mạng tháng Tám, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà;
thắng lợi của các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc;

thắng lợi của công cuộc đổi mới…
b) Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng


- Đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc được quán triệt trong mọi đường lối,
chính sách của Đảng là lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt
Nam. Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam năm
1951, Hồ Chí Minh nêu mục đích của Đảng Lao động Việt Nam gồm 8 chữ:
“đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc”. Trước Cách mạng tháng Tám và
trong kháng chiến, nhiệm vụ của tuyên huấn là làm sao cho đồng bào
hiểu được mấy điều: một là, đoàn kết, hai là, làm cách mạng đòi độc lập
dân tộc. Sau kháng chiến Bác lại nêu nhiệm vụ của tuyên huấn là để dân
hiểu: một là, đoàn kết, hai là, xây dựng CNXH, ba là, đấu tranh thống
nhất nước nhà.
- Đại đoàn kết dân tộc phải được khẳng định là nhiệm vụ hàng đầu của mọi
giai đoạn cách mạng
Ở bất cứ thời kỳ cách mạng nào, khi xây dựng đường lối chiến lược, vấn đề
quan trọng hang đầu của Đảng là xác định được mục tiêu, nhiệm vụ và
phương pháp đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng, quyền lợi của đại đa số
dân chúng mới có thể thu hút và phát huy triệt để sức mạnh của quần chúng
vào sự nghiệp cách mạng.
Như vậy, đại đoàn kết không đơn thuần là phương pháp tập hợp lực
lượng cách mạng, mà đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.
Vì vấn đề cơ bản của cách mạng suy cho cùng là phải có bộ tham mưu
đưa ra đường lối tập hợp sức mạnh toàn dân đánh giặc.
- Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc
Vấn đề đại đoàn kết dân tộc phải xuất phát từ đòi hỏi khách quan của cách
mạng do quần chúng tiến hành. Đại đoàn kết dân tộc là một chính sách chứ



không thể là một thủ đoạn chính trị. Đảng phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập
hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng
thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch của cuộc đấu tranh vì
độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
2. Nội dung của đại đoàn kết dân tộc
a) Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
- Khái niệm DÂN, NHÂN DÂN và đại đoàn kết dân tộc - đại đoàn kết toàn
dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Dân và nhân dân là khái niệm có nội hàm rộng, chỉ toàn bộ con dân nước
Việt, “con Lạc, cháu Hồng”, “con Rồng, cháu Tiên”. Tư tưởng đại đoàn kết
toàn dân là đoàn kết với tất cả nhân dân không phân biệt: dân tộc thiểu số
hay đa số, tín ngưỡng, già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo… Đoàn kết với mỗi
người dân cụ thể, với toàn thể đông đảo quần chúng và cả hai đối tượng
trên đều là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc.
- Đại đoàn kết dân tộc là nền tảng là gốc rễ là nguồn sức mạnh vô địch,
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong khi tập hợp khối đại đoàn kết thì “lực lượng chủ yếu của khối đại
đoàn kết dân tộc là liên minh công-nông, cho nên liên minh công-nông là nền
tảng của mặt trận dân tộc thống nhất”. “đại đoàn kết trước hết là đoàn kết
đại đa số nhân dân, mà đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác”. “Trong bầu trời không có gì quý bằng
dân, trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân”.
- Tư tưởng đại đoàn kết có lập trường giai cấp rõ ràng, đó là đoàn kết trên


nền tảng liên minh công - nông - trí thức do Đảng lãnh đạo.
b) Đại đoàn kết toàn dân là tập hợp được mọi người dân vào cuộc đấu
tranh chung

Để thực hiện được đại đoàn kết toàn dân cần cần chú ý:
- Kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc
- Phải khoan dung, độ lượng với con người, tin ở con người
Người mà có lầm lạc, mà biết lỗi thì đoàn kết với họ, tránh khoét sâu
cách biệt. “bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập
dân tộc thì dù người đó trước đây chống lại chúng ta bây giờ chúng ta
cũng thật thà đoàn kết với họ.” “Cần xoá bỏ hết mọi thành kiến, cần thật
thà đoàn kết với nhau, giúp nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân”.
- Phải có lập trường giai cấp rõ ràng
Tư tưởng đại đoàn kết có lập trường giai cấp rõ ràng, đó là đoàn kết trên
nền tảng liên minh công - nông - trí thức do Đảng lãnh đạo.
3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc
a) Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc
thống nhất
- Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi qui tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước.
Trong từng thời kỳ mặt trận có tên gọi khác nhau nhưng đó phải là mặt trận
chính trị rộng rãi tập hợp đông đảo các lực lượng phấn đấu vì hoà bình, vì
mục tiêu của dân tộc.
Sự thật đã chứng minh rằng, mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi
thì liên minh công - nông - trí càng mạnh. Tính bền vững của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc biểu hiện qua việc củng cố liên minh công - nông -


trí đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
b) Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
Một là, Đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu
nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, chống nghèo nàn lạc hậu.
Hai là, tư tưởng, chiến lược đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng liên minh
công nông, trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng thành một khối vững chắc.
Ba là, Mặt trận dân tộc hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.

Lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc, của các tầng lớp nhân dân
làm cơ sở củng cố và không ngừng mở rộng mặt trận.
Bốn là, đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ. Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn
kết. Phương châm là “cầu đồng tồn dị” lấy cái chung để hạn chế cái riêng.
Trong đoàn kết phải luôn đấu tranh chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi,
đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một chiều.
- Lực lượng lãnh đạo mặt trận dân tộc thống nhất và xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân chính là Đảng Cộng sản. Vì vậy, Đảng Cộng sản phải vận động,
tuyên truyền, giáo dục đề quần chúng giác ngộ thấy sự cần thiết phải đoàn
kết lại.
Như vậy, Đảng Cộng sản là một bộ phận không tách rời của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Cái khác của Đảng Cộng sản với các bộ phận khác của đại
đoàn kết toàn dân tộc là Đảng phải là lực lượng tiên phong, là lực lượng
lãnh đạo, linh hồn và là tấm gương về đoàn kết cả khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
Câu 7: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức


Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc
Việt Nam, đã được hình thành và phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước. Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và
phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Vấn đề đạo
đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người yêu cầu đạo đức đối với
các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi
hành vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của con người: đối với
mình, đối với mọi người và đối với việc.
Trung với nước hiếu với dân:
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và các nước phương
Đông được Hồ Chí Minh kế thừa phát triển trong điều kiện mới.

+ Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước và giữ

nước, phát triển đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với các cường quốc
năm châu”. Nước là của dân, dân là chủ đất nước, trung với nước là trung với
dân, vì lợi ích của nhân dân “bao nhiêu quyền lợi đều của dân, bao nhiêu lợi
ích đều vì dân”
+ Hiếu với dân nghĩa là cán bộ Đảng, cán bộ nhà nước vừa là lãnh đạo vừa

là “đầy tớ trung thành của dân”.
+ Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách

mạng. Trung với nước , hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào
dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ, quan tâm cải thiện dân
sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nhiệm vụ quyền hạn của người làm
chủ đất nước.
Người từng nói “dễ mười lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng
xong”. Từ năm 1954 đến năm 1969 Bác đã có 718 đi xuống thăm hỏi nhân dân tại
những vùng xa xôi hải đảo, vùng rừng núi vùng dân gặp khó khăn để kịp thời động
viên, thăm hỏi. Trong khi đi Bác rất giản dị không xe ưu tiên, không cần cảnh vệ…,
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan điểm của
người về mối quan hệ nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng, đất nước.
Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình
Yêu thương con người trong đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống
nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa


nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm chất cao đẹp
nhất, và thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội..
- Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại đa


số nhân dân, những người lao động bình thường trong xã hội, những người
nghèo khổ bị áp bức bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi việc để phát
huy sức mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Và đây cũng là một ham muốn
tột bực của Bác.
- Thương yêu con người phải tin vào con người với mình thì chặt chẽ,

nghiêm khắc; với người thì khoan dung độ lượng, rộng rãi, kể cả những người
lầm đường lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm. Trong Di chúc Bác đã dặn dò đối
với những người trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu…, chúng ta hãy coi họ là
nạn nhân của chế độ xã hội cũ, bỡi vậy nhà nước phải vừa giáo dục, vừa dùng
pháp luật để cải tạo học, giúp đỡ họ trở thành người lương thiện.
- Yêu thương con người là phải giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt

đẹp hơn. Vì vậy phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp đỡ nhau
sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
- Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân đấu tranh giải phóng con

người.
Cần - kiệm – liêm – chính – chí công vô tư
Cần - kiệm – liêm – chính – chí công vô tư là nền tảng của đời sống mới, đây là
phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng HCM, là cái gốc tu
dưỡng của con người.
Hồ Chí Minh quan niệm: Trời có 4 mùa: Xuân – Hạ - Thu – Đông, Đất có 4 phương:
Bắc – Nam – Đông – Tây, Người có 4 đức: Cần – Kiệm – Liêm – Chính, thiếu một
đức thì không thành người được. Người giải thích cặn kẽ nội dung từng khái niệm:
- Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng

suất cao; lao động với tinh thần tự lực cách sinh, không lười biếng, không ỷ lại,
không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống,

nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”.
- Kiệm là tiết kiệm sức lao động , tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của

nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không
hoan phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức…”


- Liêm là trong sạch, là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”,

“không xâm phạm một đồng xu, một hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”;
“không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham tân bốc mình…”
- Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình

không tự cao tự đại; đới với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá
lừa lọc, luôn giữ thái độ trung thành, khiếm tốn, đoàn kết. Đối với việc phải để
việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ thì quyết làm
cho kỳ được, “việc thiện thì nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng
tránh”.
Liêm chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ.
- Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng,
thiên vị” tư ân, tư huệ hoặc tư thù, tư oán”, đem lòng chí công vô tư đối với người
với việc” lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” Muốn chí công vô tư phải chiến thắng
được chủ nghĩa cá nhân.
Cần, kiệm , liêm , chính dẫn đến chí công vô tư, ngược lại, đã chí công vô tư, một
lòng vì nước, vì dân thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
Tinh thần Quốc tế trong sáng
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan
niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn thế giới. Người là
hiện thân của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng. Nhờ đó mà nhân dân thế giới kính yêu người trao tặng Người danh hiệu nhà

văn hóa kiệt xuất của thế giới và là anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc
của phong trào cộng sản quốc tế . Từ chủ nghĩa quốc tế cao cả, Người đã xây
dựng nên tình đoàn kết quốc tế rộng lớn của dân tộc ta với các dân tộc trên thế
giới, góp phần quan trọng vào những thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta và phong
trào cách mạng thế giới. Theo tư tưởng HCM: đoàn kết quốc tế là phát huy tinh
thần độc lập, tự chủ, tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng
hợp tác cùng có lợi, phấn đấu vì hòa bình, phát triển, chống chiến tranh đói
nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế.
- Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải

phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột.


- Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản trên thế giới vì mục tiêu chung

“bốn phương vô sản đều là anh em”.
Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội

Câu 8: Trình bày nội dung Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng và Ý
nghĩa sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam?
Nội dung cương lĩnh:
Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “Tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam:
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho
nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức
quân đội công nông.
Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn
(như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để
giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế

quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; xóa bỏ sưu thuế cho dân
cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm tám giờ.
Về văn hoá - xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền, …;
phổ thông giáo dục theo công nông hoá.
Về lực lượng cách mạng: Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày
và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa
chủ và phong kiến; làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác
xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia; phải hết sức liên
lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào
phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà
chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung
lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng lập hiến v.v.) thì đánh đổ.


Về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Đảng phải có nhiệm vụ thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình.
Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: Cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
3. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam đã quy tụ ba tổ chức
cộng sản thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam theo
một đường lối chính trị đúng đắn, đã tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị
và hành động của phong trào cách mạng cả nước hướng tới mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân
tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
Việt Nam và hệ tư tưởng Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ
rằng giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Trong quá trình chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập

Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc không chỉ vận dụng sáng tạo, mà còn
bổ sung, phát triển học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản: “Đảng Cộng sản Việt
Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam”.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong
trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối
cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX; mở ra con
đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương: Cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được ủng
hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của
thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời, cách mạng Việt Nam cũng


góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Câu 9: Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm Cách Mạng
Tháng tám 1945
ý nghĩa
- Đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp trong gần một thế kỷ, lật
nhào chế độ quân chủ hàng mấy nghìn năm và ách thống trị của phátxít Nhật, lập
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở
Đông Nam Á.
- Đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của lịch sử dân tộc Việt Nam, đưa dân
tộc ta bước vào một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
- Đảng ta và nhân dân ta đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, cung cấp thêm nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giành quyền dân chủ.
- Đã cổ vũ mạnh mẽ nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân giành độc lập tự do.


*Nguyên nhân thắng lợi
- Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong bối cảnh quốc tế rất thuận lợi: Kẻ thù
trực tiếp của nhân dân ta là phátxít Nhật đã bị Liên Xô và các lực lượng dân chủ
thế giới đánh bại. Bọn Nhật ở Đông Dương và tay sai tan rã. Đảng ta đã chớp thời
cơ đó phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành thắng lợi nhanh chóng.
- Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh gian khổ
của toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã được rèn luyện qua ba cao trào
cách mạng rộng lớn: Cao trào 1930-1931, Cao trào 1936-1939 và Cao trào giải
phóng dân tộc 1939-1945.


- Cách mạng Tháng Tám thành công là do Đảng ta đã chuẩn bị được lực
lượng vĩ đại của toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, dựa trên cơ sở liên
minh công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố chủ yếu nhất, quyết định thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám 1945.
*Bài học kinh nghiệm
Một là: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm
vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
Hai là: Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công - nông.
Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
Bốn là: Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách
mạng một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà
nước của nhân dân.
Năm là: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ.
Sáu là: Xây dựng một Đảng Mác - Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa
giành chính quyền.
Câu 10: Nội dung cơ bản đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và can
thiệp Mĩ

- Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước trong quá trình
chỉ đạo Nam bộ kháng chiến, qua thực tiễn đối phó với âm mưu, thủ đoạn của
địch cũng như từ thực tiễn chuẩn bị lực lượng về mọi mặt của ta.
- Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trong chỉ thị kháng chiến
kiến quốc, Đảng ta nhận định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc là thực
dân Pháp, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Trong quá trình chỉ đạo
cuộc kháng chiến Nam bộ, Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp
đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp định
tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam.


×