QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI
HỌC AN GIANG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ
TÍN CHỈ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh nhân loại đã và đang bước vào kỷ nguyên của công
nghệ thông tin cùng với nền kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hoá mạnh
mẽ, giáo dục và đào tạo đang diễn ra những biến đổi sâu sắ
c trên quy mô toàn cầu. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã quyết
định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức,
tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020. Trước đó, tại Báo cáo chính trị Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII - Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định các
nguồn lực tác động đến sự phát triển của xã hội ta trong giai đoạn hiện nay
gồm: nguồn lực con người Việt Nam; nguồn tài nguyên thiên nhiên; cơ sở
vật chất kỹ thuật; các nguồn lực ngoài nước. Trong các nguồn lực đó, Đảng
ta khẳng định nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng nhất và đóng vai
trò then chốt.
Nguồn lực con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy sáng tạo, có ý
chí và có trí tuệ, biết sử dụng và vận dụng các nguồn lực khác, gắn kết
chúng lại với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng góp phần tác động
vào quá trình đổi mới đất nước. Các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị
khai thác cạn kiệt, trong khi đó trí tuệ con người là nguồn lực vô tận.
Đối với nước ta, phát triển nguồn nhân lực để thực hiện công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước đang là nhu cầu cấp bách, đòi hỏi chất lượng
nguồn nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột phá. Trong xu thế
toàn cầu hoá kinh tế, vấn đề phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng xu thế
chuyển dần sang nền kinh tế tri thức đang được các nước ưu tiên. Trong đó,
lao động tri thức là nhân lực đóng vai trò hàng đầu của sự phát triển kinh tế.
Dạy học được xem là con đường giáo dục cơ bản nhất để thực hiện
mục đích của quá trình giáo dục tổng thể, trong đó tự học là phương thức cơ
1
2
bản để người học có được những hệ thống tri thức phong phú và thiết thực.
nhân tố quan trọng, quyết định việc đẩy mạnh chất lượng đào tạo của
Tự học - tự đào tạo là con đường phát triển suốt đời của mỗi người, đó
Trường. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chất lượng đào tạo của Trường chưa
cũng là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, được thể hiện qua các
thực sự đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, điều này có thể do nhiều
câu thành ngữ, tục ngữ "Học một, biết mười", "Đi một ngày đàng, học một
nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau, trong đó, các biện pháp quản
sàng khôn", "Học thầy không tày học bạn",... Chất lượng và hiệu quả giáo
lý có thể là một trong những yếu tố tác động không nhỏ đến chất lượng đào
dục được nâng lên khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi
tạo. Lý luận về khoa học quản lý cho thấy, hoạt động có ý thức của con
biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Quy mô giáo dục được
người luôn bao hàm ý nghĩa của quản lý. Để đạt được mục đích đề ra, các
mở rộng khi có phong trào toàn dân tự học.
biện pháp, phương thức quản lý luôn được xem là một nhân tố quan trọng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh bàn về việc "lấy tự học làm gốc" đã được
Xuất phát từ cơ sở nhận thức đó, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Quản
nhân dân ta luôn coi trọng. Điều 5 của Luật Giáo dục 2005 quy định
lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An Giang đáp ứng
"Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư
yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ”.
duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả
2. Mục đích nghiên cứu
năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên"; "… đảm bảo thời
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận giáo dục đại học và thực tiễn quản lý
gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh phát triển phong trào tự học, tự đào
của Nhà trường, làm rõ và đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao
tạo..."; "… tạo ra năng lực tự học sáng tạo của mỗi học sinh" [9].
hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên khi áp dụng phương thức đào tạo
Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo
dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020 nêu rõ: “Xây dựng và thực hiện
theo học chế tín chỉ ở Trường Đại học An Giang, góp phân nâng cao nhận
thức về công tác quản lý hoạt động tự học trong môi trường đại học.
lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ, tạo điều kiện
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
thuận lợi để người học tích luỹ kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
thông, chuyển tiếp tới các cấp học tiếp theo ở trong nước và ở nước
ngoài”[10]. Để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước trong
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tự học và công tác quản lý
hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An Giang.
thời kỳ hội nhập quốc tế, trong đó, vấn đề đổi mới phương thức đào tạo và
- Đề xuất các biện pháp quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động tự học
quản lý đào tạo theo hướng hiện đại hoá đã và đang trở thành một yêu cầu
của sinh viên Trường Đại học An Giang đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học
cấp bách. Trường Đại học An Giang đang trong cơ chế chuyển đổi từ
chế tín chỉ.
phương thức đào tạo theo niên chế học phần sang phương thức đào tạo theo
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
học chế tín chỉ, điều này vừa đồng thời tạo ra vừa đòi hỏi một sự thay đổi
Khách thể nghiên cứu. Hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học.
lớn về công tác quản lý đào tạo của Nhà trường. Đối với phương thức đào
tạo theo học chế tín chỉ, việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên được coi là
3
4
Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu, phân tích tổng
sinh viên Trường Đại học An Giang đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế
hợp những tư liệu như: tư liệu về giáo dục học - tâm lý học, lý luận về quản
tín chỉ.
lý giáo dục, các văn bản về sinh viên, về tín chỉ.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát,
5. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, kết quả hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An
Giang còn hạn chế. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân chủ quan và
phương pháp điều tra bảng hỏi, phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phương
pháp chuyên gia.
- Nhóm các phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng các công thức toán
khách quan.
Nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An
học như trung bình cộng, thống kê và phân tích số liệu,...
Giang đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ là điều cấp thiết. Nếu áp
8. Giới hạn của đề tài
dụng đầy đủ, đồng bộ các biện pháp quản lý cùng với sự đảm bảo điều kiện
Mục đích nghiên cứu đã xác định và sự chi phối của các điều kiện
vật chất cần thiết thì hoạt động tự học của sinh viên trong điều kiện áp dụng
khách quan về nhận thức, về cơ chế đảm bảo, nên luận văn chỉ tập trung
phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ sẽ đạt được hiệu quả mong muốn,
nghiên cứu về thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên
đảm bảo chất lượng đào tạo.
Khoa Sư phạm Trường Đại học An Giang trong giai đoạn hiện nay, với hy
6. Phạm vi nghiên cứu
vọng qua việc phân tích cho Khoa Sư phạm sẽ mở rộng kết quả cho các
- Căn cứ vào mục đích nghiên cứu đã đặt ra, nội dung luận văn tập
Khoa khác trong giai đoạn tiếp theo.
trung nghiên cứu thực trạng hoạt động tự học của sinh viên năm thứ II, III,
9. Cấu trúc luận văn
IV Khoa Sư phạm Trường Đại học An Giang (200 phiếu), nơi tác giả đã và
đang trực tiếp làm việc; nghiên cứu biện pháp quản lý hoạt động tự học của
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
sinh viên đáp ứng đào tạo theo hệ thống tín chỉ của Nhà trường (40 giảng
Chương l: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
viên và cán bộ quản lý).
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường
- Trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng, tác giả đề xuất các biện pháp
Đại học An Giang.
quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An
Giang đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh
viên Trường Đại học An Giang đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín
chỉ.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội, trên cơ sở thế giới quan khoa
học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các
phương pháp nghiên cứu cơ bản được áp dụng gồm:
5
6
Chương l
tác dụng quyết định cho kết quả học tập. Việc tự học phải xuất phát từ động
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
lực của chính bản thân người học, nhưng vẫn cần sự hỗ trợ, tác động từ môi
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
trường học tập, cần sự chỉ đạo hướng dẫn của nhà trường, của người thầy.
Trong tiến trình phát triển chung của nhân loại, tri thức có vai trò to
Nhằm đổi mới phương thức tổ chức đào tạo ở đại học trong điều kiện
lớn thức đây sự tiến bộ của xã hội. Sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc
Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế
gia đều dựa trên nền tảng tri thức và muốn có tri thức thì phải phát triển giáo
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sau Hội nghị Hiệu trưởng ở Vũng
dục. Ý thức sâu sắc về vai trò, tầm quan trọng của tri thức, Đảng và Nhà
Tàu năm 1988, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo
nước ta luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Trong giai đoạn
dục và Đào tạo) đã ban hành Quy chế tạm thời về quản lý đào tạo làm cơ sở
hiện nay, chúng ta đang nỗ lực xây dựng một xã hội học tập với phương
cho việc triển khai “quy trình đào tạo mới” theo học phần và sau một vài
hướng, con đường thực hiện là kết hợp đến trường, giáo dục từ xa và tự học.
năm áp dụng, quy chế này được chính thức hoá vào tháng 12 năm 1990.
Trong đó tự học để trưởng thành là vô cùng quan trọng.
Học chế tín chỉ được khai sinh năm 1872, tại Viện Đại học Harvard
Một trong những đặc trưng cơ bản quan trọng nhất trong xã hội học
(Hoa Kỳ) dưới sự điều hành của Charles Eliot, xuất phát từ yêu cầu là quá
tập là tư tưởng tự học tập suốt đời. Vì “Việc học không bao giờ là muộn"
trình đào tạo được tổ chức sao cho người học lựa chọn được cách học phù
(Ngạn ngữ) hay “Bác học không có nghĩa là ngừng học" (Đác-uyn). Quan
hợp nhất với khả năng, điều kiện của mình và cơ sở đào tạo phải thích ứng
niệm tự học và học tập suốt đời nổi lên trong thời đại ngày nay như một chìa
dễ dàng trước nhu cầu biến động nhanh chóng, đa dạng của đời sống xã hội.
khoá mở cửa đi vào thế kỷ 21 - thế giới của nền kinh tế tri thức.
Với ý nghĩa đó, đào tạo theo học chế tín chỉ phát triển nhanh và lan rộng ra
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề giáo dục, vấn đề học
toàn nước Mỹ. Từ đầu thế kỷ XX, học chế tín chỉ phát triển ra nhiều nước
tập và rèn luyện. Có nhiều bài phát biểu, bài viết trong những thời điểm,
trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như: Nhật, Philippines,
hoàn cảnh lịch sử khác nhau nhưng bao giờ Bác cũng nhấn mạnh đến tác
Indonesia, Malaysia, Ấn Độ, Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc,
dụng và hiệu quả to lớn của việc học tập và rèn luyện. Bác cho rằng học tập
Senegal, Mozambic, Nigieria, Uganda,… Trước sự lớn mạnh đó, 29 Bộ
giúp con người tiến bộ, nâng cao phẩm chất, mở rộng hiểu biết, làm thay đổi
trưởng đặc cách giáo dục đại học ở các nước Liên minh Châu Âu ký “Tuyên
hiệu quả lao động. Đặc biệt, Bác rất nhấn mạnh đến tác dụng của tự học. Tại
ngôn Boglona” với mục đích hình thành “Không gian giáo dục đại học Châu
Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập khai mạc
Âu” (European Higher Education Area) nhằm triển khai học chế tín chỉ
ngày 6 tháng 5 năm 1950, Bác đã khuyên học viên: “Không phải có thầy thì
trong toàn bộ hệ thống giáo dục đại học.
học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập”. Ở tác phẩm “Sửa
Ở Việt Nam, trước năm 1975, học chế tín chỉ được triển khai ở Viện
đổi lối làm việc” (1947), khi nói về công tác huấn luyện cán bộ, Bác cũng
Đại học Cần Thơ, Viện Đại học Thủ Đức. Sau năm 1975, tư tưởng về học
nhắc nhở về cách học tập: "Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo góp
phần xuất hiện năm 1987, quy chế đào tạo theo học phần tạm thời ra đời
vào”[13, Tr.57]. Như vậy, theo Bác việc tự học giữ vai trò rất quan trọng, có
năm 1988 và hoàn chỉnh vào năm 1990 với khái niệm HỌC PHẦN và ĐƠN
7
8
VỊ HỌC TRÌNH, đào tạo theo 2 khối kiến thức và 3 học phần, điểm trung
thức đào tạo từ niên chế học phần sang hình thức đào tạo theo học chế tín
bình chung. Học chế học phần được xây dựng với mục đích tạo điều kiện
chỉ. Có thể thấy, trong nhiều tài liệu nghiên cứu về hoạt động tự học, các
cho người học tích luỹ dần kiến thức theo các mô-đun. Như vậy, học chế
nhà nghiên cứu đều khẳng định tự học không phải là một đề tài mới lạ. Tuy
học phần có điểm giống nhau cơ bản với học chế tín chỉ, nhưng nó chưa
nhiên, việc nghiên cứu hoạt động tự học trong học chế tín chỉ vẫn còn là vấn
phải hoàn toàn là tín chỉ mà thực chất là sự kết hợp giữa niên chế và tín chỉ.
đề mới. Vì vậy, trong luận văn này tác giả tập trung vào việc xây dựng các
Trường Đại học tiên phong áp dụng học chế học phần triệt để - học chế tín
biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Đại học An Giang
chỉ là Trường Đại học Bách Khoa TP. Hồ Chí Minh, năm học 1993 – 1994.
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tự học, nâng cao chất lượng đào tạo của
Sau đó, các Đại học khác như Đà Lạt, Cần Thơ, Khoa học Tự nhiên TP. Hồ
Nhà trường theo học chế tín chỉ.
Chí Minh, Thuỷ sản Nha Trang, Dân lập Thăng Long – Hà Nội, Hải Phòng,
1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài
Thương Mại, Nông Nghiệp Hà Nội, Hoa Sen TP. Hồ Chí Minh, Dân lập
Để xác định rõ cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu, chúng ta sẽ tìm
Phương Đông,… cũng đã triển khai học chế tín chỉ. Trong "Chương trình
hiểu nội hàm của một số khái niệm có liên quan đến đề tài.
hành động của Chính phủ” thực hiện nghị quyết số 37/2004/QH11 khoá XI,
1.2.1. Hoạt động tự học
kỳ họp thứ sáu của Quốc hội về giáo dục đã chỉ rõ: "Mở rộng, áp dụng học
1.2.1.1. Khái niệm hoạt động học
chế tín chỉ trong đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp,...".
Học là quá trình con người lĩnh hội những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo
Năm học 2009 – 2010, có nhiều trường Đại học, Cao đẳng đang tích cực
và những phương thức hành vi mới, do vậy, ta thấy học chính là hoạt động
chuẩn bị đào tạo theo học chế tín chỉ theo chủ trương của Bộ Giáo dục và
nhằm tạo ra sự thay đổi kinh nghiệm của người học một cách bền vững. Để
Đào tạo. Sự phát triển này đánh dấu bước đổi mới đúng đắn của giáo dục đại
lĩnh hội được những kinh nghiệm xã hội, con người có nhiều cách thức
học Việt Nam [5, tr.7].
chiếm lĩnh khác nhau. Đó có thể là do được người khác truyền thụ, do tự
Triết lý cơ bản của hệ thống tín chỉ là "Tôn trọng người học, xem
quan sát, đúc kết từ lao động, môi trường sống,...
người học là trung tâm của quá trình đào tạo". Nói cách khác, đào tạo theo
Học có thể diễn ra một cách ngẫu nhiên trong cuộc sống hàng ngày và
học chế tín chỉ là hình thức đào tạo hướng về người học, tất cả vì người học.
nó diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc. Cách học này diễn ra khi tiến hành công việc
Chuyển sang phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ tạo ra sự thay
qua lao động sản xuất, hoạt động vui chơi,... không có chủ định dẫn đến kết
đổi lớn về phương cách, thói quen dạy - học của người dạy lẫn người học.
quả tri thức mà người học nắm được sẽ rời rạc và không có hệ thống. Ở
Đối với hình thức đào tạo này thì khối lượng giờ giảng trên lớp sẽ giảm đi,
người học chỉ hình thành những năng lực thực tiễn do kinh nghiệm mang lại.
mà sẽ tăng thời gian tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Vì vậy, khi áp
Nhưng thực tiễn để có thể tự cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con
dụng đào tạo theo học chế tín chỉ, việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên
người thì đòi hỏi con người phải nắm được các quy luật của tự nhiên, xã hội
có vai trò hết sức quan trọng, mang tính quyết định hiệu quả chất lượng đào
và quy luật về sự hình thành, phát triển con người. Nói một cách khác, ngoài
tạo. Trường Đại học An Giang cũng đang tổ chức thực hiện chuyển đổi hình
9
10
việc lĩnh hội những tri thức mang tính kinh nghiệm ra, con người cần phải
lý để chiếm lĩnh những tri thức khoa học của loài người và biến những tri
nắm bắt được những tri thức khoa học, những năng lực thực tiễn mới mà
thức đó thành vốn kinh nghiệm của bản thân.
cách học ngẫu nhiên không tạo ra được. Để có được những năng lực đó,
Theo tác giả Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học là tự mình động não, suy
người ta tiến hành một hoạt động hướng vào để thực hiện mục tiêu đó là
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có cả cơ bắp cùng các phẩm chất của
hoạt động học (học có chủ định).
mình, cả động cơ tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm một lĩnh
1.2.1.2. Khái niệm tự học
vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình.
Tự học (self-learning) là quá trình nỗ lực chiếm lĩnh tri thức của bản
Việc tự học sẽ được tiến hành khi người học có nhu cầu muốn hiểu biết một
thân người học bằng hành động của chính mình, hướng tới những mục đích
kiến thức nào đó và bằng nỗ lực của bản thân cố gắng chiếm lĩnh được kiến
nhất định.
thức đó” [34, Tr.59].
Đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề tự học ở nhiều góc độ khác nhau.
Như vậy, tự học là hình thức hoạt động nhận thức của người học
Dưới đây là một số quan điểm của các nhà nghiên cứu về vấn đề này:
nhằm chiếm lĩnh tri thức, tự mình luyện tập các thao tác, hành động để hình
Thông thường khái niệm "Tự học" được hiểu là "Tự học lấy một mình
thành kỹ năng, kỹ xảo. Tự học giúp người học tự tìm ra tri thức mới, cách
trong sách chứ không có thầy dạy" (Theo Thanh Nghị, trong Việt Nam tân
thức hành động mới bằng chính nỗ lực của bản thân mình. Tự học hình
từ điển) cũng có thể hiểu là "Tự đi tìm lấy kiến thức có nghĩa là tự học".
thành nên những con người năng động, sáng tạo.
Tuy nhiên, theo tác giả Nguyễn Hiến Lê, trong quyển "Tự học - một
Các đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ trong những năm gần đây thuộc
nhu cầu thời đại” ông lại cho rằng khái niệm "Tự học" nếu được hiểu là "…
ngành quản lý giáo dục cũng đã đề cập đến vấn đề tự học, tự nghiên cứu của
không ai bắt buộc mà mình tự tìm tòi, học hỏi để hiểu biết thêm và có thầy
sinh viên trong từng hoàn cảnh nhà trường cụ thể, của từng môi trường đào
hay không, ta không cần biết. Người tự học hoàn toàn làm chủ mình, muốn
tạo ngành nghề chuyên biệt. Những luận văn này đã đóng góp một phần tích
học môn nào tuỳ ý, muốn học lúc nào cũng được, đó mới là điều kiện quan
cực trong các công tác quản lý của nhà trường với hoạt động tự học nói
trọng", ông cũng trích dẫn để làm rõ hơn về khái niệm và tầm quan trọng
riêng và của giáo dục nói chung.
của tự học "Mỗi người đều nhận hai thứ giáo dục: Một thứ, do người khác
1.2.2. Sinh viên
truyền cho, một thứ quan trọng hơn nhiều, do mình tự kiếm lấy". [26, Tr.39].
Thuật ngữ "sinh viên" có nguồn gốc từ tiếng La-tinh "Student" có
Theo tác giả Lê Khánh Bằng: "Tự học là tự mình suy nghĩ, sử dụng
nghĩa là người làm việc, học tập nhiệt tình, người đi tìm kiếm, khai thác tri
các năng lực trí tuệ và phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa
thức. Nó được dùng cùng nghĩa tương đương với từ "Student" trong tiếng
học nhất định" [15, Tr.3].
Anh, "Etudiant" trong tiếng Pháp và "Cmgenm" trong tiếng Nga. "Sinh
Quan điểm này, tác giả cho rằng tự học là việc học của chính bản thân
người học, chính họ phải huy động các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm
11
viên" là để chỉ những người theo học ở bậc đại học và phân biệt với học sinh
đang theo học ở bậc phổ thông.
12
Theo ngôn ngữ Hán Việt, từ "sinh viên" được diễn nghĩa ra là người
bước vào cuộc sống, cuộc đời. Còn theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm "sinh
viên" được dùng để chỉ người học ở bậc đại học [12]. Theo Quy chế công
tác Học sinh Sinh viên trong các trường đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo
thì: " sinh viên" là người đang theo học hệ đại học và cao đẳng.
"Quản lý (cai trị) là công việc của các bậc đại nhân. Đó là biết tập
hợp quanh mình những người hiền" (Mặc Tử, Trung Hoa).
Theo H.Fayol (l841 - 1925), nhà tư tưởng Pháp: "Quản lý tức là lập
kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra".
F.W.Taylor (1856 - 1915), người được coi là "cha đẻ của thuyết quản
Từ đó ta có thể hiểu: khái niệm "sinh viên" là những người đang học
lý khoa học" đã nêu lên tư tưởng cốt lõi trong quản lý là: "Mỗi loại công
tập tại các trường đại học, cao đẳng - nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
việc dù nhỏ nhất đều phải chuyên môn hoá và phải quản lý chặt chẽ". Theo
cao đáp ứng yêu cầu của xã hội.
ông: "Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng chính xác cái gì cần làm và làm cái
đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất".
1.2.3. Quản lý
1.2.3.1. Khái niệm quản lý
Peter Drucker quan niệm: "Quản lý là một chức năng xã hội nhằm để
Hoạt động quản lý đã có từ xa xưa khi con người biết lao động theo
từng nhóm đòi hỏi có sự tổ chức, điều khiển và phối hợp hành động. Quản
phát triển con người và xã hội với những hệ giá trị, nội dung, phương pháp
biến đổi không ngừng".
lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, mỗi ngành khoa học
Qua các định nghĩa và quan niệm về “Quản lý” như đã trình bày ở
nghiên cứu quản lý từ góc độ riêng của mình và đưa ra những định nghĩa
trên, ta thấy rằng trong hoạt động quản lý luôn tồn tại hai thành tố đó là chủ
khác nhau. Chúng tôi sẽ trình bày dưới đây một số định nghĩa, quan niệm về
thể quản lý và khách thể quản lý. Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân hay
"Quản lý" của các nhà triết học, nhà khoa học quản lý như sau:
một nhóm người có chức năng quản lý, điều khiển tổ chức để tổ chức vận
Theo Harold Koontz: "Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm
bảo sự phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được các mục đích
hành và đạt được mục tiêu. Khách thể quản lý là những người chịu sự tác
động, chỉ đạo của chủ thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung.
của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà quản lý là nhằn hình thành một môi
Quản lý có nhiều loại khác nhau, trong đó quản lý xã hội là phức tạp
trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với
nhất. Bởi vì, xã hội một mặt là hệ thống trên của kinh tế, bao gồm toàn bộ
thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Với tư cách
các hoạt động về kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hoá, tinh thần,… nên nó
thực hành thì cách quản lý là một nghệ thuật, còn kiến thức có thể tổ chức
chứa đựng tất cả những sự phức tạp của các đối tượng phải quản lý; mặt
về quản lý là một khoa học" [25, Tr.33].
khác trong quá trình quản lý xã hội còn có những quan hệ phi kết cấu như
Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống: “Quản lý là phương thức tác
quan hệ đạo đức, quan hệ cá nhân, quan hệ xã hội nằm ngoài phạm vi điều
động có chủ đích của chủ thể quản lý lên hệ thống bao gồm hệ các quy tắc
chỉnh của pháp luật. Hơn nữa, sự tác động qua lại giữa các đối tượng, các
ràng buộc về hành vi đối với mọi đối tượng ở các cấp trong hệ thống nhằm
quan hệ làm cho việc quản lý càng phức tạp và khó khăn hơn. Do vậy, quản
duy trì tính trội hợp lý của cơ cấu và đưa hệ sớm đạt tới mục tiêu” [24].
lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật trong việc điều khiển một hệ thống xã
hội ở tầm vĩ mô hay vi mô.
13
14
1.2.3.2. Chức năng quản lý
Tiến trình tổ chức bao gồm việc thiết lập các bộ phận, phòng ban và
Tiến trình quản lý là một phức hợp những kỹ năng có tính hệ thống
rất sinh động và phức tạp. Để quản lý, chủ thể quản lý phải thực hiện nhiều
xây dựng các bản mô tả công việc. Vấn đề nhân sự cũng xuất phát trực tiếp
từ các chức năng lập kế hoạch và tổ chức.
loại công việc khác nhau. Những loại công việc quản lý này gọi là các chức
+ Chức năng chỉ đạo:
năng quản lý. Như vậy, các chức năng quản lý là tập hợp những nhiệm vụ
Chỉ đạo là quá trình chủ thể quản lý sử dụng quyền lực quản lý của
quản lý khác nhau, mang tính độc lập tương đối, được hình thành trong quá
mình để điều hành, tác động đến hành vi của các cá nhân, bộ phận trong hệ
trình chuyên môn hoá hoạt động quản lý. Có 4 chức năng cơ bản nhất là: lập
thống một cách có chủ đích để họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu đạt được
kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
các mục tiêu chung của tổ chức.
+ Chức năng lập kế hoạch:
Nội dung cơ bản của chức năng chỉ đạo là chủ thể quản lý phải thực
Lập kế hoạch là việc xác định các mục tiêu và mục đích mà tổ chức
hiện nhiệm vụ ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định đó. Quá trình
phải hoàn thành trong tương lai và quyết định về cách thức để đạt được
này bao gồm các hoạt động phân công, hướng dẫn, đôn đốc, động viên, thúc
những mục tiêu, nhiệm vụ đó. Lập kế hoạch là chức năng đầu tiên và cơ bản
đẩy họ hoàn thành nhiệm vụ.
nhất trong hệ thống chức năng quản lý theo giai đoạn, là cơ sở của các chức
+ Chức năng kiểm tra:
năng còn lại. Để lập kế hoạch bao gồm có ba giai đoạn:
Kiểm tra là căn cứ vào kế hoạch và mục tiêu đã định để xem xét, đo
. Xác định các mục tiêu (phương hướng) cho tổ chức
lường và đánh giá việc thực hiện nhằm phát hiện kịp thời những sai sót, tìm
. Nhận diện các nguồn lực của tổ chức để thực hiện các mục tiêu đó
ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Đồng thời, kiểm tra cũng nhằm tìm
. Quyết định về những hoạt động cần thiết để đạt được các mục tiêu
kiếm các cơ hội, các nguồn lực có thể khai thác để thúc đẩy hoạt động của tổ
đã đề ra.
chức. Trong hoạt động quản lý, chức năng kiểm tra có vai trò hết sức quan
+ Chức năng tổ chức:
trọng, thông qua chức năng kiểm tra một cá nhân, một nhóm hoặc một tổ
Tổ chức là sự kết hợp hoạt động của những bộ phận sao cho chúng
chức theo dõi giám sát các thành quả hoạt động, nếu kết quả hoạt động
liên kết với nhau trong một cơ cấu chặt chẽ, hợp lý tạo thành một hệ thống
không đạt được đúng với mục tiêu, người quản lý sẽ tiến hành những biện
thống nhất như một cơ thể sống. Đó là sự liên kết những cá nhân, những quá
pháp điều chỉnh, sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết. Vì vậy, để đánh giá được
trình, những hoạt động trong hệ thống, thông qua đó để thực hiện các mục
hiệu quả quản lý, người lãnh đạo cần phải thực hiện chức năng kiểm tra.
tiêu chung của hệ thống trên cơ sở các nguyên tắc quản lý. Bằng cách thiết
lập một tổ chức hoạt động hữu hiệu, các nhà quản lý có thể phối hợp, điều
phối tốt hơn các nguồn vật lực, nhân lực.
Kiểm tra theo lý thuyết hệ thống chính là thiết lập mối liên hệ ngược
trong quản lý. Có 3 yếu tố cơ bản của công tác kiểm tra:
. Xây dựng chuẩn để thực hiện.
. Đánh giá việc thực hiện dựa trên chính sách so với chuẩn.
15
16
. Nếu kết quả hoạt động có sự chênh lệch so với chuẩn thì cần điều
chỉnh hoạt động để đạt được hiệu quả mong muốn.
lý khoa học và công nghệ,... Mỗi lĩnh vực quản lý sẽ có nét đặc thù riêng,
song tựu trung lại đều có những nét về bản chất và đặc trưng chung của hoạt
Bốn chức năng của hoạt động quản lý có mối quan hệ mật thiết với
động quản lý và nó góp phần rất lớn vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả
nhau tạo thành một chu trình quản lý. Chu trình quản lý bao gồm bốn giai
nói chung của mỗi tổ chức cũng như công việc của từng con người nói riêng
đoạn với sự tham gia của hai yếu tố vô cùng quan trọng đó là thông tin và
trong một hệ thống nhất định.
quyết định. Trong đó thông tin có vai trò là huyết mạch của hoạt động quản
lý đồng thời cũng là tiền đề của một quá trình quản lý tiếp theo.
Trong chiến lược phát triển giáo dục, các nhà chuyên môn đã đưa ra
giải pháp tăng cường công tác quản lý giáo dục như một biện pháp chiến
lược mang tính đột phá nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục -
Hình 1.1. Sơ đồ chức năng của quản lý
đào tạo. Hiện nay, cùng với sự bùng nổ thông tin khoa học kỹ thuật, việc
Kế hoạch
nghiên cứu và áp dụng những thành tựu khoa học mới vào hoạt động quản
Kiểm tra
Thông tin
Tổ chức
lý sẽ làm tăng hiệu quả quản lý. Vì thế, ở khía cạnh này có thể khẳng định
rằng trong thực tại "Quản lý còn được xem là công nghệ - công nghệ điều
Chỉ đạo
hành, phối hợp và sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực và thông tin
của một tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra" [20].
1.2.3.3. Vai trò quản lý
Ngày nay, mọi người đều thừa nhận tính tất yếu của quản lý. Đây là
Quản lý có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Từ xa
một trong những hoạt động vừa khó khăn, phức tạp, vừa có ý nghĩa hết sức
xưa, vai trò của quản lý đã được thể hiện một cách giản dị qua câu nói dân
quan trọng đối với sự tồn tại, diệt vong, suy thoái hay thịnh vượng của một
gian: "Một người biết lo bằng cả kho người làm". Về sau, Các-Mác đã
tổ chức, một quốc gia, một châu lục hay toàn cầu.
khẳng định: “Mọi lao động xã hội trực tiếp hoặc lao động chung khi thực
Thật vậy, năm học 2009 – 2010, ngoài các chương trình hành động do
hiện trên một quy mô tương đối lớn ở mức độ nhiều hay ít đều cần đến quản
Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động, còn có chủ đề tiêu biểu của năm học là:
lý”, và ông hình dung quản lý giống như công việc của người nhạc trưởng
“Năm học đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”.
trong một dàn hợp xướng.
1.2.4. Học chế tín chỉ
Các nhà lý luận về khoa học quản lý như Taylor (l856 - 1915) của
1.2.4.1. Khái niệm tín chỉ
Mỹ, Fayol (1841 - 1925) của Pháp và Max Weber (1864 - 1920) của Đức
Hệ thống tín chỉ cho phép sinh viên đạt được văn bằng qua việc tích
đều khẳng định rằng quản lý là khoa học, đồng thời là nghệ thuật thúc đẩy
luỹ các kiến thức, kỹ năng khác nhau được đo lường bằng một đơn vị xác
sự phát triển xã hội.
định căn cứ trên khối lượng lao động học tập trung bình của một sinh viên,
Trong xã hội, mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống đều có hoạt động
gọi là tín chỉ (credit).
quản lý, ví dụ như: quản lý giáo dục, quản lý kinh tế, quản lý văn hoá, quản
17
18
Trong các từ điển bách khoa, các tài liệu về giáo dục đại học có nhiều
- Một năm học có thể gồm 2 học kỳ chính (15 tuần học và 3 tuần thi)
định nghĩa khác nhau về tín chỉ. Theo định nghĩa của James Quann (Đại học
và có thể có một học kỳ hè (5 tuần học và 1 tuần thi), hay gồm 3 học kỳ (12
Quốc gia Washington): Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian
tuần học và 3 tuần thi) hoặc chia làm 4 học kỳ (10 tuần học và 2 tuần thi).
bắt buộc của một người học bình thường để học một môn học cụ thể, bao
- Đánh giá thường xuyên, thang điểm 4 bậc (A,B,C,D hay 4,3,2,l)
gồm: 1. thời gian lên lớp; 2. thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập
- Quy định khối lượng kiến thức phải tích luỹ cho từng văn bằng.
hoặc các phần việc khác đã được quy định ở thời khoá biểu; 3. thời gian
dành cho đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài,...;
đối với các môn học lý thuyết 1 tín chỉ là một giờ học trên lớp (với 2 giờ
Xếp năm học của người học theo khối lượng tín chỉ đã tích luỹ.
- Có hệ thống cố vấn học tập để tư vấn cho người học tự thiết kế
chương trình học tập của mình.
chuẩn bị ở nhà) trong 1 tuần và kéo dài trong 1 học kỳ 15 tuần; đối với các
- Chương trình đào tạo mềm dẻo: cùng với các học phần bắt buộc còn
môn học ở studio hay phòng thí nghiệm - ít nhất là 2 giờ trong 1 tuần (với 1
có các học phần tự chọn và tuỳ ý, cho phép sinh viên dễ dàng điều chỉnh
giờ chuẩn bị ở nhà); đối với việc tự nghiên cứu - ít nhất là 3 giờ làm việc
ngành nghề đào tạo trong quá trình học tập.
trong 1 tuần [6].
- Không có thi tốt nghiệp, không tổ chức bảo vệ khoá luận tốt nghiệp
Quyết định 31/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 30/7/2001 của Bộ Giáo dục
đối với các chương trình cao đẳng hoặc đại học.
và Đào tạo về việc thí điểm tổ chức đào tạo, kiểm tra, thi và công nhận tốt
- Ổn định và công khai hoá chương trình đào tạo cho mỗi khoá học.
nghiệp đại học, cao đẳng hệ chính quy theo học chế tín chỉ thì xác định: Tín
- Phương thức quản lý sinh viên sẽ thay đổi (theo hệ thống cố vấn học
chỉ là đơn vị dùng để đo khối lượng kiến thức đồng thời là đơn vị để đánh
tập, theo số chứng chỉ đã tích luỹ).
giá kết quả học tập của sinh viên dựa trên số lượng tín chỉ đã tích luỹ được.
- Thu học phí tỷ lệ với khối lượng các học phần đăng ký học.
Mỗi tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết. Để tiếp thu được 1 tiết
Hệ thống học chế tín chỉ sở dĩ được truyền bá nhanh và áp dụng rộng
học lý thuyết sinh viên cần ít nhất 2 tiết chuẩn bị cá nhân. Cứ 30 tiết thảo
rãi ở các trường đại học trên thế giới do có nhiều ưu điểm vượt trội hơn so với
luận trên lớp bài tập thí nghiệm hoặc 45 - 60 tiết thực tập, kiến tập, làm tiểu
hệ thống đào tạo theo niên chế học phần. Theo GS. Lê Thạc Cán, nếu kế
luận, đồ án, khoá luận tốt nghiệp được tính tương đương 1 tín chỉ [1].
hoạch đào tạo theo niên chế có thể ví như một tuyến đường đã được vạch sẵn
1.2.4. 2. Đặc điểm của học chế tín chỉ [5]
cho tất cả sinh viên (trong một khoá) đi theo trong suốt một khóa đào tạo thì
Kiến thức được cấu trúc thành các mô-đun (học phần).
kế hoạch đào tạo theo học chế tín chỉ là một bản đồ học tập của một hệ thống
- Quá trình học tập là sự tích luỹ kiến thức của người học theo từng
các tri thức lý luận và thực tiễn theo các ngành, chuyên ngành trên đó sinh
học phần.
viên có thể chọn tuyến đi, cách đi, tốc độ đi tới mục đích của mình căn cứ vào
- Đăng ký học vào đầu mỗi học kỳ, lớp học tổ chức theo từng học phần.
mục đích, sở thích, điểm mạnh, điểm yếu cụ thể. Lộ trình học tập này có thể
giúp sinh viên điều chỉnh tuyến đi lúc mục đích học tập của sinh viên thay đổi
theo nguyện vọng cá nhân, nhu cầu của thị trường nhân lực hoặc phát triển
19
20
của khoa học và công nghệ. Học chế này cho phép sinh viên có cơ hội linh
tích, học tổng hợp, học đánh giá và nhất là học phương pháp học tập, đó
hoạt chuyển đổi ngành học, tạo ra một "ngôn ngữ chung" giữa các trường Đại
là học có kế hoạch, học có tư duy và học có sáng tạo để học một biết
học, tạo điều kiện cho việc chuyển đổi sinh viên giữa các trường trong nước
mười, để có năng lực học suốt đời.
và trên thế giới, rất thuận lợi trong các chương trình đào tạo liên kết.
1.3. Đặc trưng của hoạt động tự học trong trường Đại học
Hoạt động chủ đạo của sinh viên là hoạt động học tập. So với hoạt
Theo quan niệm của UNESCO về yêu cầu đối với sản phẩm đại học
trong thời đại hiện nay là:
- Có năng lực trí tuệ và có khả năng sáng tạo và thích ứng.
động học tập của học sinh phổ thông, việc học tập của sinh viên có nhi ều
- Có khả năng hành động (các kỹ năng sống) để có thể lập nghiệp.
điểm khác. Trước hết hoạt động học tập của học sinh, sinh viên cũng là
- Có năng lực tự học, tự nghiên cứu để học thường xuyên, suốt đời.
quá trình nhận thức nhằm chiếm lĩnh những tri thức trong kho tàng trí
- Có năng lực quốc tế (ngoại ngữ, tin học, văn hoá toàn cầu,...) để có
tuệ của nhân loại. Điểm khác nhau là khi tiến hành hoạt động học tập,
khả năng hội nhập.
sinh viên không thể chỉ nhận thức thông thường mà tiến hành hoạt động
Ở các trường Đại học, tự học là cần thiết và là cách học ở đại học. Đó
nhận thức mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở tư duy độc lập, sáng tạo
là một hình thức tổ chức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm chiếm lĩnh
phát triển ở mức độ cao để chuẩn bị cho một ngành nghề nhất định có
hệ thống tri thức và kỹ năng do chính bản thân người học tiến hành. Khi
chuyên môn năng lực cao. Vì vậy, hoạt động học tập của sinh viên còn
sinh viên tự mình huy động mọi phẩm chất, năng lực của bản thân để tiến
gọi là hoạt động học tập nghề nghiệp. Vốn học vấn tiếp thu được trong
hành các hoạt động tìm tòi, khám phá độc lập nhằm mục đích chiếm lĩnh tri
quá trình này hết sức quan trọng vì nó là công cụ để họ tiến hành tham
thức là họ tiến hành hoạt động tự học.
gia vào lĩnh vực nghề nghiệp sau này và là nền tảng cho hoạt động tự
học, tự nghiên cứu.
Tóm lại, quá trình học tập của sinh viên ở các trường Đại học về bản
chất là quá trình nhận thức có tính chất nghiên cứu. Mỗi sinh viên tự mình
Một điều khác nữa so với hoạt động học tập của học sinh phổ thông
chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng. Muốn vậy, khi tiến hành hoạt động
thì hoạt động học tập của sinh viên mang tính tự giác, tích cực chủ động
học tập, sinh viên không chỉ phải có năng lực nhận thức thông thường mà
hơn. Sinh viên ngoài giờ lên lớp theo chương trình chính khoá, họ còn
cần tiến hành hoạt động nhận thức mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở khả
phải tích cực đọc thêm sách và tài liệu tham khảo để tự phát triển kiến
năng tư duy độc lập, sáng tạo phát triển ở mức độ cao. Có nghĩa là, dưới vai
thức cho mình, tranh thủ sự giúp đỡ của giảng viên để đào sâu kiến thức
trò chủ đạo của thầy, sinh viên không nhận thức một cách máy móc chân lý
chuyên môn. Có như vậy, sau khi ra trường họ mới vững vàng trong công
có sẵn mà còn đào sâu hoặc mở rộng kiến thức. Để có được những năng lực,
việc của mình. Chính sự khác biệt này đòi hỏi, sinh viên phải có sự thay
khả năng này, người học ở bậc đại học phải có cách học chủ động, khả năng
đổi lớn về nhận thức, tư duy. Do vậy, khác với giáo dục phổ thông, yêu
tự lực tìm kiếm và xử lí thông tin, năng lực tự học và khao khát sáng tạo. Do
cầu về chất lượng kiến thức thì ở đại học không chỉ học sự kiện hay hiện
vậy, cũng có thể nói “học đại học là tự học”.
tượng, không chỉ học biết, học hiểu và học vận dụng mà còn học phân
21
22
1.4. Quản lý hoạt động dạy học theo học chế tín chỉ và sự thúc đẩy
chế tín chỉ không chỉ bằng các bài kiểm tra và bài thi cuối môn học mà còn
bằng nhiều cách đánh giá khác:
sinh viên ý chí tự học.
Việc định lượng cụ thể và chính xác các nội dung yêu cầu tự học là
vấn đề rất phức tạp. Xét ở bình diện chung nhất, các yêu cầu của tự học là
những đòi hỏi, mục tiêu mà người học cần phải đạt được ở một mức độ
nhất định. Xem xét các yêu cầu tự học theo học chế tín chỉ tức là xác định
a) Hoạt động trên lớp (số buổi có mặt, thái độ theo dõi bài giảng, thảo
luận),
b) Việc tự học ở nhà (qua nội dung phát biểu thảo luận trên lớp, thời
gian và chất lượng hoàn thành bài tập ở nhà do giảng viên giao),
các nội dung đòi hỏi người học phải đạt được qua các vấn đề như: Khối
c) Làm việc trong phòng thí nghiệm, đi thực tế,
lượng kiến thức thực mà người học đã đạt được, kết quả đạt được qua các kỳ
d) Bài thi kết thúc môn học.
kiểm tra, đánh giá, việc tuân thủ các quy định mang tính chất khung, các
Khi tổ chức hoạt động giảng dạy, giảng viên có trách nhiệm cung cấp
nguyên tắc và sự thực hiện các nguyên tắc, sự phù hợp trong mối quan hệ
cho sinh viên bản đề cương môn học (syllabus), trong đó thể hiện rõ về cách
tương tác giữa người học, người dạy và người quản lý khác,...
thức, trọng số đánh giá kết quả học tập cũng như các yêu cầu, nội dung khác
1.4.1. Phương pháp kiểm tra, đánh giá trong học chế tín chỉ
của môn học trong ngay từ khi bắt đầu học. Việc kiểm tra, đánh giá thường
Hiện nay, trong các trường đại học áp dụng phương thức đào tạo theo
xuyên trong quá trình dạy và học buộc sinh viên phải học chăm chỉ, không
hình thức niên chế học phần, kết quả học tập môn học (học phần) của sinh
học đối phó trong các kỳ thi cuối kỳ như trước kia, làm tăng vị thế của giảng
viên được đánh giá bằng điểm thi kết thúc học phần. Theo Quy chế đào tạo
viên trong việc đánh giá sản phẩm đào tạo của mình qua kết quả học tập của
đại học ban hành theo Quyết định số 04/1999/QĐ-BGD&ĐT ngày
sinh viên. Chính vì vậy, vai trò của người thầy là rất quan trọng trong việc
11/02/1999 và Quy chế 25/2006/QĐ-BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
phát huy tính chủ động học tập của sinh viên. Làm tốt điều này sẽ tạo cho
và Đào tạo: “Điểm để đánh giá kết quả học tập của học phần lý thuyết là
sinh viên nâng cao được khả năng tự học theo kiểu nghiên cứu.
điểm thi kết thúc học phần"; đối với các học phần có cả thực hành và lý
Để đánh giá đúng năng lực và trình độ của sinh viên trong và sau khi
thuyết thì phần thực hành đạt được coi là đủ điều kiện để được xét dự thi
kết thúc môn học, giảng viên ngoài việc đánh giá trình độ nhận thức của
phần lý thuyết và "điểm thi phần lý thuyết là điểm thi kết thúc học phần".
sinh viên theo các tiêu chí đánh giá của môn học như đã nêu trong đề
Theo quy định này sẽ tạo cho sinh viên một thói quen không tốt đó là không
cương, còn phải đánh giá sinh viên về tinh thần, thái độ học tập, ý thức
chủ động, tích cực học tập một cách thường xuyên, mà họ chỉ tập trung học
chấp hành các nội quy, quy chế của Khoa và Nhà trường, có tinh thần cầu
tập vào thời gian chuẩn bị thi kết thúc học phần [5].
thị trong học tập, đi học đầy đủ, đúng giờ,... Về một phương diện nào đó có
Khác với đào tạo theo hình thức niên chế học phần, học chế tín chỉ coi
thể thấy, việc kiểm tra - đánh giá kết quả học tập trong học chế tín chỉ sẽ
trọng phần tự đào tạo, tự học của người học trong quá trình đào tạo. Do đó ,
toàn diện công bằng và đầy đủ hơn so với hình thức đào tạo theo niên chế
đặt ra những yêu cầu cao, chặt chẽ, liên tục về kiểm tra và đánh giá. Việc
học phần.
đánh giá kết quả học tập của sinh viên theo phương thức đào tạo theo học
23
24
1.4.2. Quản lý hoạt động dạy học theo học chế tín chỉ
phần đại cương hoặc nhập môn, còn những học phần có tính chất nâng cao
Nếu như trong đào tạo theo niên chế học phần, sinh viên phải học
và chuyên sâu và những học phần cơ sở ngành đều phải dạy ở giai đoạn 2.
theo tất cả những gì Nhà trường sắp đặt, không phân biệt sinh viên có điều
Chương trình nội dung đào tạo của các ngành cũng cần được xây dựng lại
kiện, năng lực tốt, hay sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, năng lực yếu.
sao cho có nhiều học phần chung, không phải chỉ ở giai đoạn 1 mà còn ở cả
Ngược lại, đào tạo theo hệ thống tín chỉ cho phép sinh viên có thể chủ động
giai đoạn 2. Một bộ phận các học phần phải được bố trí dưới dạng tự chọn.
học theo điều kiện và năng lực của mình. Những sinh viên giỏi có thể học
+ Hai là, phải thay đổi cách tổ chức quá trình đào tạo. Theo phương
theo đúng hoặc học vượt kế hoạch học tập toàn khoá, kế hoạch học tập từng
thức đào tạo niên chế học phần, lớp học được tổ chức theo khoá tuyển sinh
học kỳ theo gợi ý của Nhà trường, để tốt nghiệp theo đúng thời gian chuẩn
nhưng khi chuyển sang học chế tín chỉ, lớp học phải được tổ chức theo mỗi
của chương trình hoặc sớm hơn. Vì thế, sinh viên phải tự lập kế hoạch học
học phần mà sinh viên đã đăng ký học vào đầu mỗi học kỳ. Muốn làm được
tập toàn khoá và từng học kỳ cho phù hợp với năng lực và điều kiện cụ thể
điều đó, thời khoá biểu học tập và hệ thống các phòng học phải được phòng
của bản thân dưới sự giúp đỡ của giáo viên chủ nhiệm hay cố vấn học tập.
Đào tạo của Trường tập trung quản lý thống nhất, không phân cấp cho các
Toàn bộ hệ thống quản lý đào tạo, quản lý sinh viên phải vận hành theo yêu
Khoa như trước đây. Ngoài ra, để đảm bảo cho tất cả các học phần đều được
cầu của từng sinh viên làm cho quá trình quản lý trở nên sức hết phức tạp so
dạy rải đều trong suốt 15 tuần thực học của một học kỳ, số tiết giảng lý
với đào tạo theo niên chế. Chương trình đào tạo của tất cả các ngành đều
thuyết ở mỗi tuần phải được bố trí đúng bằng số tín chỉ của từng học phần
phải cấu trúc lại theo hướng mô-đun hoá thành những học phần; lịch trình
được dạy trong học kỳ đó.
giảng dạy phải thực hiện hết sức chính xác, không được đổi giờ hoặc bỏ giờ;
mỗi giảng viên, mỗi sinh viên đều có thời khoá biểu riêng, không theo một
Vì vậy, phòng Đào tạo của các trường phải có các chuyên gia về giáo
dục đại học, có kiến thức rộng và thạo việc.
quy luật nào cả. Vì thế, nếu trước kia, sinh viên phải "chạy" theo kế hoạch
+ Ba là, phải thay đổi phương thức quản lý sinh viên. Trong phương
của Nhà trường thì bây giờ Nhà trường phải "chạy" theo kế hoạch của từng
thức đào tạo theo niên chế học phần, lớp học được tổ chức theo khoá tuyển
sinh viên, do vậy, quản lý đào tạo, quản lý dạy học theo học chế tín chỉ cần
sinh, việc quản lý sinh viên được thực hiện theo cơ chế giáo viên chủ nhiệm.
một hệ thống quản lý khoa học, chặt chẽ, linh hoạt và mềm dẻo. Để quản lý
Khi chuyển sang phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ, cơ chế này tỏ ra
dạy học trong học chế tín chỉ đạt hiệu quả cao, Nhà trường phải thực hiện
kém thích hợp, cần được thay thế bằng cơ chế cố vấn học tập. Cố vấn học
đồng bộ các nội dung sau:
tập là những cán bộ giảng dạy am hiểu quy trình đào tạo, có tinh thần trách
+ Một là, phải ổn định và công khai hoá nội dung chương trình đào
nhiệm cao, có uy tín với sinh viên và được sinh viên quý mến. Dưới sự giúp
tạo của tất cả các ngành nghề trong Trường bằng một Niên lịch đào tạo. Để
đỡ của cố vấn học tập, từng sinh viên sẽ lựa chọn đăng ký học những phần
đảm bảo tổ chức giảng dạy theo học chế tín chỉ, các học phần phải được xây
thích hợp với năng lực và ý muốn riêng của mình vào đầu mỗi học kỳ. Cùng
dựng sao cho kiến thức chứa đựng trong mỗi học phần phải ở cùng một trình
với việc thay đổi hình thức tổ chức lớp học, cơ chế hoạt động của tổ chức
độ. Theo cách đó, các học phần thuộc giai đoạn 1 chỉ có thể là những học
Đảng, đoàn thể trong sinh viên cũng phải thay đổi theo cho thích hợp.
25
26
+ Bốn là, phải thay đổi căn bản phương thức dạy và học trong các
thức ở ngoài lớp học được thể hiện trong đề cương môn học mà mỗi giảng
trường Đại học và Cao đẳng. Trước hết, đội ngũ cán bộ giảng dạy cần tập thói
viên bắt buộc phải có và phát cho sinh viên trước hoặc ngay trong buổi
quen tôn trọng thời khóa biểu giảng dạy, khả năng một thầy dạy nhiều môn
lên lớp đầu tiên. Đề cương môn học phải cung cấp thông tin chủ yếu về
học, phải thông thạo các phương pháp sư phạm tích cực nhằm giảm dần thời
nội dung và tổ chức dạy - học của môn học. Đề cương môn học bao gồm:
gian lên lớp, buộc sinh viên phải tăng cường năng lực tự học. Quy trình kiểm
tra đánh giá kết quả học tập của sinh viên cũng phải thay đổi từ phương thức
đánh giá 1 lần sang phương thức đánh giá cả quá trình của sinh viên.
+ Năm là, phải thay đổi chế độ thu học phí. Học phí được tính đối với
- Thông tin về đơn vị đào tạo (tên trường, khoa, bộ môn,...).
- Thông tin về môn học (tên môn học, bắt buộc hay tự chọn, số lượng
tín chỉ, loại giờ tín chỉ, các môn học tiên quyết,...).
- Thông tin về tổ chức dạy và học.
mỗi học kỳ tỷ lệ với khối lượng của tất cả các học phần bằng tổng số tín chỉ
- Mục tiêu, nội dung cơ bản và phương pháp giảng dạy môn học.
mà sinh viên đã đăng ký.
- Giáo trình sử dụng và danh mục tài liệu tham khảo.
Để thực hiện tốt việc quản lý các nội dung trên, Nhà trường phải có
- Các yêu cầu và quy định về kiểm tra - đánh giá kết quả học tập.
hệ thống phần mềm, cơ sở dữ liệu quản lý đào tạo, quản lý sinh viên theo hệ
Trong phương thức đào tạo truyền thống, người dạy có hai vai trò
thống tín chỉ. Như thiết kế tổng thể hệ thống thông tin quản lý đào tạo theo
nổi bật nhất là "người toàn trí" (người biết mọi tri thức về môn học liên
tín chỉ; xây dựng phần mềm quản lý đào tạo gồm nhiều phân hệ (tuyển sinh,
quan) và “người quyết định mọi hoạt động dạy - học trong lớp học".
quản lý sinh viên, chương trình đào tạo, kế hoạch giảng dạy, đăng ký học
Trong vai trò thứ nhất, người dạy được xem như là nguồn kiến thức duy
phần, thời khoá biểu, quản lý điểm, học bổng học phí, khen thưởng kỷ
nhất và người học chỉ cần tiếp thu được nguồn kiến thức này từ người dạy
luật,...); cài đặt hướng dẫn sử dụng phần mềm quản lý đào tạo; xây dựng cơ
là đủ. Trong vai trò thứ hai, người dạy được xem như là người có toàn
sở dữ liệu quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ.
quyền quyết định dạy cái gì (nội dung) và dạy như thế nào (phương
Hiện đại hoá quá trình quản lý đào tạo - tin học hoá toàn bộ quá trình
quản lý, sẽ tạo ra một tác phong làm việc công nghiệp, hiện đại trong toàn
pháp); người học được xem là những "con chiên" ngoan đạo, nghe giảng
bài, ghi chép và học thuộc những gì được dạy.
thể cán bộ của Trường, điều này giúp giải quyết việc quản lý công tác đào
Trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, hai vai trò đã nêu ở trên ở
tạo giảng dạy của Nhà trường được đồng bộ, chính xác, nhanh gọn, khoa
một mức độ nào đó vẫn được duy trì. Tuy nhiên, người dạy phải đảm nhiệm
học và đạt hiệu quả cao.
thêm ít nhất ba vai trò nữa đó là: cố vấn cho quá trình học tập; người tham
1.4.2.1. Quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên
gia vào quá trình học tập; người học và nhà nghiên cứu.
Khi chuyển đổi sang phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ, việc
Với tư cách là cố vấn cho quá trình học tập, khi giảng bài cũng như
quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên và hoạt động học của sinh
khi hướng dẫn thảo luận, người dạy phải chọn những vấn đề cốt lõi, quan
viên cũng có sự thay đổi căn bản. Ngoài việc truyền đạt kiến thức, giảng
trọng để giảng mà nếu không có người dạy thì người học khó có thể lĩnh hội
viên phải hướng dẫn và giao nhiệm vụ cho sinh viên tự tìm kiếm kiến
27
28
được, tạo điều kiện cho người học tiếp thu và khám phá tiếp kiến thức. Là
thay vì đơn thuần chỉ thuyết trình theo cách giảng dạy như đào tạo theo niên
cố vấn cho quá trình học tập, người dạy sẽ:
chế học phần trước đây, thì đối với đào tạo theo học chế tín chỉ, hình thức tổ
- Giúp cho chính mình hiểu được người học: hiểu được những gì họ
chức giảng dạy có phần đa dạng hơn. Vì vậy, giảng viên khi thực hiện giờ lý
cần trong quá trình học tập và những gì họ có thể tự làm được để có thể
thuyết cũng như thực hành trên lớp, ngoài khả năng chuyên môn ra, người
chuyển giao những nhiệm vụ này cho họ thông qua hướng dẫn và giám sát;
thầy cần phải có kinh nghiệm điều hành và quản lý lớp học.
- Giúp người học thể hiện rõ hơn những ý định của họ để qua đó họ
Như vậy, để thực hiện tốt hoạt động giảng dạy theo học chế tín chỉ,
có thể phát huy được vai trò chủ động và sáng tạo, và những nguồn lực của
người thầy không chỉ truyền đạt những tri thức khoa học mà điều quan trọng
chính họ để học tốt môn học;
là hướng cho sinh viên phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự học và rèn luyện
- Hướng sự tham gia tích cực của người học vào những mục tiêu thực
tế nhất của giáo dục hiện đại: học gắn với hành.
Trong vai trò của người tham gia vào quá trình dạy - học, người dạy
hoạt động như là một thành viên tham gia vào quá trình học tập ở trên lớp
tốt các kỹ năng thao tác trong quá trình tự đào tạo. Để làm tốt điều này,
giảng viên phải có trách nhiệm:
- Nắm vững quy chế đào tạo, các quy định và hướng dẫn của Nhà
trường về công tác đào tạo tín chỉ.
với các nhóm người học. Với tư cách vừa là cố vấn vừa là người tham gia
- Chuẩn bị bài giảng nghiêm túc, giảng dạy theo đúng đề cương môn
vào quá trình học tập, người dạy còn có thêm một vai trò nữa đó là nguồn
học đã được phê duyệt. Quản lý sinh viên của lớp môn học trong các giờ học
tham khảo cho người học, giúp họ tháo gỡ những khó khăn trong quá trình
và các hoạt động giảng dạy khác. Quyết định về điều kiện thi kết thúc môn
học tập và nghiên cứu.
học của sinh viên đối với từng trường hợp cụ thể.
Trong vai trò là người học và người nghiên cứu, với tư cách là một
- Sử dụng các phương pháp giảng dạy tiên tiến và phù hợp với
thành viên tham gia vào các hoạt động học tập ở trên lớp, người dạy, ở một
phương thức đào tạo theo tín chỉ để đảm bảo truyền thụ cho sinh viên nội
mức độ nào đó, có điều kiện trở lại vị trí của người học, hiểu và chia sẻ
dung môn học, hướng dẫn sinh viên rèn luyện năng lực nhận thức, năng lực
những khó khăn và trách nhiệm học tập với họ. Có thực hiện được vai trò
tư duy sáng tạo, năng lực thu thập thông tin, xử lý thông tin, năng lực làm
của người học thì người dạy mới có thể phát huy được vai trò tích cực của
việc nhóm, năng lực tự học và tự nghiên cứu.
người học, lựa chọn được phương pháp giảng dạy phù hợp. Với tư cách là
- Cung cấp danh mục các tài liệu tham khảo, hướng dẫn sinh viên về
nhà nghiên cứu, người dạy có thể đóng góp khả năng và kiến thức của mình
mục tiêu và phương pháp đọc tài liệu tham khảo, tổ chức thảo luận, thực
vào việc tìm hiểu bản chất của quá trình dạy - học nói chung, bản chất của
hành và các hoạt động chuyên môn khác.
quá trình học một môn học nói riêng, những yếu tố tâm lý - xã hội ảnh
hưởng đến quá trình dạy - học môn học đó.
Có thể thấy, khi thực hiện việc tổ chức giảng dạy trong học chế tín
chỉ, người giảng viên sẽ phải đi vào các vấn đề kỹ thuật thao tác nhiều hơn,
29
- Hướng dẫn cho sinh viên tự học, tự nghiên cứu ở nhà và phải có
hình thức kiểm tra, kiểm soát và đánh giá kết quả tự học, tự nghiên cứu của
sinh Có trách nhiệm tham gia hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học theo
phân công của khoa trong kế hoạch giảng dạy hàng năm.
30
- Ra đề thi, chấm thi và trả bài thi theo đúng thời gian quy định.
Trong quá trình đào tạo, ngoài sự hướng dẫn của giảng viên, nhiệm vụ
Như đã trình bày ở trên, ta thấy hoạt động giảng dạy trong phương
học tập của sinh viên là rất quan trọng và chính họ là trung tâm của quá trình
thức đào tạo theo học chế tín chỉ có nhiều điểm khác, phức tạp hơn so với
đào tạo, quyết định chất lượng đào tạo. Sinh viên cần tham khảo ý kiến của
phương thức đào tạo theo niên chế học phần. Để tổ chức quản lý tốt hoạt
cố vấn học tập để xây dựng kế hoạch học tập phù hợp với mình và đăng ký
động giảng dạy khi chuyển đổi sang phương thức đào tạo mới này, Nhà
môn học theo mỗi học kỳ với Khoa, với Trường. Thực hiện đầy đủ các yêu
trường phải có quy chế, quy định hướng dẫn phù hợp và một hệ thống quản
cầu học tập môn học được quy định trong đề cương môn học của môn học
lý theo dõi và kiểm tra một cách chặt chẽ.
đó. Nâng cao ý thức tự giác trong học tập, năng lực tự học, tự nghiên cứu và
1.4.2.2. Quản lý hoạt động học của sinh viên
thường xuyên liên hệ với giảng viên, cố vấn học tập để được tư vấn, hỗ trợ
Quản lý hoạt động học tập của sinh viên không chỉ giới hạn trong
về vấn đề tự học, tự nghiên cứu. Để thực hiện việc nâng cao chất lượng đào
phạm vi đào tạo, giáo dục sinh viên ở trên lớp, trong Trường, mà còn gồm
cả việc sinh viên tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp, học tập nhóm,
tham gia câu lạc bộ, tự học, thực hành thực tập, tham quan, giao lưu,...
Quản lý hoạt động học tập của sinh viên là một trong những nội dung
của công tác quản lý giáo dục trong Nhà trường, tiến hành theo quy chế của
tạo trong học chế tín chỉ, sinh viên cần thực hiện tốt những nhiệm vụ sau:
- Chuẩn bị đầy đủ các học liệu của môn học (gồm học liệu bắt buộc
và học liệu tham khảo).
- Tham gia đầy đủ các buổi học trên lớp, các buổi xê-mi-na theo các
đơn vị nhóm hoặc các lớp chuyên ngành của ngành học.
Bộ Giáo dục và Đào tạo. Quản lý hoạt động học tập của sinh viên bao hàm
- Nghe giảng và ghi chép bài giảng đầy đủ trong các giờ học trên lớp.
quản lý thời gian và chất lượng học tập, quản lý tinh thần thái độ và phương
- Làm đầy đủ các bài viết cá nhân/tuần; các bài tập nhóm/tháng, các
pháp học tập. Quản lý hoạt động học tập của sinh viên là quản lý để thực
hiện đồng bộ và toàn vẹn các nhân tố: mục tiêu học tập, nội dung học tập,
phương pháp học tập, chủ thể học tập, điều kiện - phương tiện học tập, quy
chế học tập,… Lưu tâm thích đáng đến hoạt động học tập của người học
chính là trung tâm của toàn bộ công tác tổ chức quản lý giáo dục trong Nhà
bài tập lớn; bài kiểm tra giữa kỳ và bài thi hết môn.
- Tích cực phát biểu trong khi thảo luận, chủ động đề xuất với giảng
viên các nội dung thảo luận.
1.4.2.3. Dạy học theo tín chỉ và sự thúc đẩy sinh viên nâng cao ý chí
tự học.
trường. Quản lý tốt hoạt động học tập của sinh viên sẽ nâng cao hiệu quả
Hoạt động chiếm lĩnh tri thức của nhân loại để phục vụ cuộc sống là
học tập ở sinh viên. Chất lượng học tập của sinh viên phản ánh chất lượng
hoạt động mang tính tất yếu của con người. Con người có thể nhận thức thế
quản lý của Nhà trường bởi "Chất lượng giảng dạy và học tập phản ánh tập
giới khách quan và tri thức xã hội thông qua nhiều con đường khác nhau.
trung tình trạng và chất lượng chung của toàn bộ giáo dục; và xét về nguyên
Đối với sinh viên, học tập là hoạt động trọng tâm, là hoạt động chủ đạo, là
tắc, nó thống nhất với chất lượng quản lý, chất lượng nghiên cứu và thông
hoạt động nhận thức mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở tư duy độc lập,
tin, chất lượng đào tạo” [24].
sáng tạo, phát triển để chuẩn bị kiến thức chuyên môn nhất định cho một
ngành nghề trong tương lai.
31
32
Dạy học trong học chế tín chỉ, với những đặc trưng như đã trình bày,
- Phương thức kiểm tra đánh giá trong học chế tín chỉ với tần suất lớn,
đặt sinh viên vào vị trí người làm chủ quá trình lao động của mình, chịu
tiến hành thường xuyên, với nhiều nội dung, tài liệu tham khảo phong phú
trách nhiệm chính về kết quả lao động của mình. Đây vừa là yêu cầu vừa là
đòi hỏi sinh viên phải thật tập trung, lao động với công suất, hiệu suất lớn
động lực thúc đẩy sinh viên nâng cao ý chí tự học. Vấn đề được thể hiện trên
vừa nhằm đánh giá đúng hơn năng lực, mức độ, kết quả hoạt động học tập
những nội dung cơ bản như:
của sinh viên vừa có thể được xem như là biện pháp “tấn công não” trong
- Trong học chế tín chỉ, sinh viên chỉ có khoảng 1/3 thời gian trên lớp
giáo dục, kích thích sinh viên vươn lên trong hoạt động chiếm lĩnh tri thức.
là được giảng viên hướng dẫn, thời gian còn lại, sinh viên phải tự học, tự
Quản lý hoạt động dạy, hoạt động học của Nhà trường thực chất là các hoạt
nghiên cứu. Nếu không thực hiện tốt hoạt động tự học, tự nghiên cứu, sinh
động đảm bảo, cung cấp, tạo điều kiện cần thiết phục vụ cho quá trình sinh
viên không thể hoàn thành yêu cầu của bài học, đồng thời không thể có đủ
viên vươn lên chiếm lĩnh tri thức phục vụ cho cuộc sống, cho xã hội theo
điều kiện tiếp cận, tiếp thu các nội dung hướng dẫn mới của giảng viên.
đúng mục tiêu đã xác định trong sứ mạng của Nhà trường. Quản lý tốt hoạt
- Sinh viên hoạt động học tập theo nhóm là một trong những điểm đặc
động dạy, hoạt động học sẽ nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên. Chất
trưng của phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ. Để có thể tham gia thảo
lượng học tập của sinh viên là sự phản ánh chất lượng quản lý của Nhà
luận với thành viên trong nhóm và với giảng viên, đòi hỏi sinh viên phải tích
trường. Bên cạnh những yếu tố tác động khách quan của học chế tín chỉ,
cực chủ động tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề, về yêu cầu được giao.
Nhà trường phải tổ chức thực hiện tốt các hoạt động quản lý, đảm bảo điều
- Trong học chế tín chỉ, sinh viên được chủ động trong việc xây dựng
kế hoạch học tập. Kế hoạch học tập của sinh viên một mặt tạo điều kiện cho
sinh viên xác định lộ trình học tập phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của mình
kiện đủ cho kết quả học tập của sinh viên.
1.5. Yêu cầu quản lý hoạt động tự học theo học chế tín chỉ đối với
sinh viên
đồng thời cũng tạo ra hiệu ứng của sự tác động xã hội, kích thích tâm lý
Đối với phương thức đào tạo theo niên chế học phần, chương trình
“thua thầy một vạn không bằng kém bạn một ly", nhằm nâng cao ý chí phấn
học tập của sinh viên sẽ căn cứ vào thời khóa biểu của từng học kỳ, năm học
đấu của mỗi cá nhân sinh viên.
và do Nhà trường xây dựng và tổ chức thực hiện. Sinh viên chỉ tuân thủ theo
- Sự lựa chọn chương trình, xây dựng kế hoạch, lộ trình học tập là yếu
mà không có sự lựa chọn. Tuy nhiên, khi chuyển đổi sang phương thức đào
tố tác động trực tiếp đến thời hạn học tập của sinh viên. Học chế tín chỉ cho
tạo theo học chế tín chỉ, kế hoạch học tập cụ thể phụ thuộc vào chính bản
phép sinh viên học trước, học vượt. Tiết kiệm được thời gian đồng nghĩa với
thân người học lựa chọn. Chính vì vậy, quản lý hoạt động tự học theo học
tiết kiệm được của cải vật chất. Tích cực, chủ động trong học tập, rút ngắn
chế tín chỉ có nhiều điểm khác so với phương thức đào tạo cũ. Để quản lý
được thời gian học tập trong Nhà trường là sinh viên đã tiết kiệm được của
được tốt hoạt động này, Nhà trường phải triển khai, thực hiện tốt những nội
cải vật chất đầu tư cho hoạt động học, vấn đề này không chỉ có ý nghĩa đối
dung quản lý như việc đăng ký môn học của sinh viên, quản lý học liệu phục
với bản thân mỗi sinh viên mà còn có ý nghĩa với toàn xã hội.
vụ tự học, quản lý hoạt động giảng dạy trên lớp của giảng viên và công tác
kiểm tra - đánh giá hoạt động giảng dạy.
33
34
1.5.1. Thực hiện đăng ký môn học của sinh viên có sự hướng dẫn
cho sinh viên chọn lựa môn học phù hợp nhu cầu - khả năng
Về mặt lý thuyết, trong phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ, bắt
đầu một học kỳ mỗi sinh viên sẽ tự quyết định các môn mà mình sẽ theo học
trong học kỳ đó. Điều này giúp cho sinh viên có thể chủ động chọn lựa số
lượng môn học trong một học kỳ sao cho phù hợp với quỹ thời gian và năng
mục tiêu, từng nhiệm vụ cụ thể. Như vậy, việc đăng ký môn học không chỉ
giúp sinh viên chủ động trong việc lập kế hoạch học tập khoa học, phù hợp
và hiệu quả mà còn giúp sinh viên xác định được các phương tiện, biện pháp
để thực hiện các mục tiêu đề ra trong kế hoạch đó.
1.5.2. Quản lý cung cấp học liệu phục vụ hoạt động tự học theo
môn học đăng ký
lực học tập của mình. Trường Đại học An Giang đã quy định việc đăng ký
Đối với hoạt động tự học, cùng với ý chí, nỗ lực học tập của sinh
môn học của sinh viên như sau: "Đầu mỗi học kỳ, sinh viên phải tìm hiểu,
viên, học liệu là vấn đề có tính chất quyết định đến chất lượng học tập. Số
nghiên cứu để nắm được chương trình đào tạo và đăng ký các học phần sẽ
lượng, chất lượng nguồn học liệu càng đảm bảo thì chất lượng hoạt động tự
học trong học kỳ đó bằng phiếu đăng ký hoặc đăng ký trực tiếp trên máy
học càng có điều kiện để nâng lên. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề,
tính thông qua mạng nội bộ của trường hoặc mạng Internet" [5]. Trước khi
Nhà trường đã chỉ đạo tổ chức biên soạn nhiều giáo trình, bài giảng và tài
sinh viên đăng ký môn học, Nhà trường tổ chức một buổi hướng dẫn về lý
liệu tham khảo phục vụ hoạt đông giảng dạy và học tập. Hàng năm, Nhà
thuyết chung cho sinh viên của toàn Trường, sau đó sẽ cho sinh viên đăng
trường đã dành một khoản kinh phí không nhỏ cho hoạt động trên, về cơ bản
ký môn học trên mạng máy tính Internet trực tuyến (Phụ lục – Mẫu 1.1, Tr.
đã giải quyết được tình trạng thiếu bài giảng, giáo trình, đáp ứng khá tốt về
104,105) với sự hướng dẫn của cán bộ phòng Đào tạo. Về quy trình đăng ký
cơ sở học liệu, tài liệu cho sinh viên.
môn học gồm có 3 bước sau :
Khác với phương thức đào tạo theo niên chế học phần, trong phương
Bước 1: Phát phiếu đăng ký môn học. Phòng Đào tạo chuyển cho
thức đào tạo theo học chế tín chỉ, sinh viên được giảng viên cung cấp bản đề
Khoa phiếu đăng ký môn học, sau đó Khoa tổ chức phát phiếu cho sinh viên
cương môn học, trong đề cương ghi đầy đủ danh mục học liệu mà môn học
có ký nhận thông qua các cố vấn học tập (Phụ lục – Mẫu 1.2, Tr.106).
yêu cầu, bao gồm tài liệu bắt buộc, tài liệu tham khảo. Cụ thể hơn, trong phần
Bước 2: Đăng ký học, ghi phiếu đăng ký môn học.
kế hoạch giảng dạy của từng tuần, mục "Yêu cầu sinh viên chuẩn bị" giảng
Bước 3 : Thu nhận phiếu đăng ký.
viên đã chỉ rõ nội dung sinh viên cần đọc ứng với số trang, chương và từng
Sau khi đã hoàn tất quy trình đăng ký môn học, sinh viên có trách
mục cụ thể của từng cuốn giáo trình. Điều này sẽ tạo điều kiện cho sinh viên
nhiệm theo dõi phản hồi về kết quả đăng ký học tại phòng Đào tạo hoặc tại
không mất nhiều thời gian tìm kiếm, để tăng thời gian cho hoạt động học tập.
văn phòng Khoa. Kết quả đăng ký học tập của mỗi sinh viên được thông báo
Thư viện của Đại học An Giang là một đơn vị phục vụ chung cho sinh
ở "Phiếu đăng ký học tập". Trên phiếu ghi rõ tên các học phần, số tín chỉ,
viên các Khoa trong toàn Trường. Ngoài ra, còn có phòng tư liệu chuyên
lịch học của các học phần,... Khi đã biết được số lượng học phần mà mình
ngành tại các Khoa, Bộ môn trực thuộc. Thư viện có đủ các lại sách báo, tài
phải tích luỹ, sinh viên sẽ xác định được thời gian học tập trong học kỳ của
liệu đáp ứng nhu cầu về nghiên cứu và học tập của cán bộ giảng dạy và sinh
mình. Từ đó, họ có thể sắp xếp thời gian hợp lý cho từng môn học, từng
viên, cũng như nhu cầu tìm hiểu về văn học lịch sử, văn hóa và các nhu cầu
35
36
về giải trí của độc giả. Thư viện Đại học An Giang và các phòng tư liệu đều
của nhau. Khi chuyển đổi sang phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ,
có sổ sách theo dõi, thống kê số lượng độc giả đến đọc và mượn sách, tài
giảng viên phải xác định được nhiệm vụ cụ thể đối với từng loại giờ tín chỉ
liệu. Thư viện Đại học An Giang được tin học hóa và quản lý bằng mạng
như sau:
máy tính, được nối mạng và liên kết khai thác tài liệu trong nội bộ Đại học
- Trong giờ lý thuyết, giảng viên ngoài việc hướng dẫn sinh viên nắm
An Giang, có hệ thống tài liệu điện tử giúp người đọc có thể tra cứu. Sách
rõ được các vấn đề đã nêu trong đề cương môn học còn xây dựng kịch bản
và tài liệu trong Thư viện được tra cứu qua mạng, thường xuyên cập nhật tài
cho một giờ lên lớp, gồm: Xác định thời gian, chủ đề, nội dung, yêu cầu cho
liệu mới, có nhiều biện pháp khuyến khích cán bộ, người học khai thác có
giờ lên lớp lý thuyết; giới thiệu mục tiêu bài học, các yêu cầu cần thực hiện;
hiệu quả các tài liệu. Tỷ lệ người đọc hàng năm tăng cao do hệ thống quản
lựa chọn và chuyển tải nội dung cốt lõi cần trình bày trên lớp; làm rõ nội
lý, phục vụ được hiện đại hóa. Sách và tài liệu được cập nhật trong từng học
dung, vấn đề sinh viên sẽ thảo luận, làm bài tập trên lớp hoặc tự học ở nhà.
kỳ của năm học. Thư viện Đại học An Giang có quan hệ hợp tác với nhiều
- Trong giờ thảo luận, giảng viên phải lựa chọn và giao các nội dung,
thư viện trường đại học trong nước, thư viện quốc gia, thư viện các viện
các yêu cầu tài liệu để từng sinh viên (từng nhóm) chuẩn bị và trình bày tại
nghiên cứu, các trung tâm và địa phương.
từng buổi thảo luận; soạn kịch bản về các nội dung thảo luận; tham dự,
1.5.3. Quản lý hoạt động của giảng viên, sinh viên ở trên lớp
hướng dẫn, nhận xét và tổng kết thảo luận (giảng viên phải làm đạo diễn nội
Theo yêu cầu của phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ, thì hình
dung và chủ đề thảo luận); đánh giá phần chuẩn bị trình bày, thảo luận của
thức tổ chức các giờ học (giờ tín chỉ) là cách thức tổ chức thực hiện các hoạt
từng sinh viên (nhóm sinh viên).
động của giảng viên và sinh viên ứng với cách tổ chức chương trình môn
- Giờ bài tập là thời gian lên lớp dành cho sinh viên làm bài tập hoặc
học, trong đó coi trọng khâu tự học, năng lực nghiên cứu, thực hành, thực
chữa bài tập sinh viên đã chuẩn bị. Có loại bài tập cá nhân, bài tập nhóm, bài
tập. Có các hình thức tổ chức giờ tín chỉ như sau:
tập tuần và bài tập tháng. Đối với giờ bài tập, giảng viên xác định rõ mục
- Dạy, học trên lớp: Là dạy, học lý thuyết gồm nghe thuyết trình, ghi
tiêu, nêu rõ tiêu chí đánh giá kết quả, chữa bài tập, đánh giá, cho điểm.
chép bài giảng, làm và chữa bài tập, thảo luận,... do giảng viên yêu cầu.
- Giờ tự học xác định là bộ phận cấu thành tổng số giờ tín chỉ của
- Dạy, học trong phòng thực hành: Dạy, học thực hành, thực tập.
môn học. Nội dung của giờ tự học xác định là một phần nội dung của môn
- Dạy, học ở ngoài lớp, ngoài phòng thực hành: Tự học, tự nghiên
học mà sinh viên phải tích luỹ bằng phương thức tự học. Các hướng dẫn
cứu, các hoạt động theo nhóm,…
này nhất thiết phải được giảng viên quy định rõ trong hướng dẫn sinh viên
Gắn với hình thức tổ chức giờ tín chỉ là cách thức tổ chức hoạt động
tự học môn học. Phải xác định nội dung cụ thể và giao nhiệm vụ tự học cho
giảng dạy của giảng viên và học tập của sinh viên, đó chính là phương
sinh viên; cung cấp tài liệu và giới thiệu địa chỉ tìm tài liệu, hướng dẫn
pháp dạy và phương pháp học nhằm thực hiện tốt các mục tiêu và nhiệm
cách xử lý tài liệu, xây dựng tiêu chí đánh giá, xác định thời hạn nộp báo
vụ dạy học đã xác định. Hai phương pháp này không độc lập, tách rời nhau
cáo kết quả tự học, tự nghiên cứu; đánh giá, nhận xét kết quả tự học, tự
mà liên quan và phụ thuộc lẫn nhau, vừa là mục đích vừa là nguyên nhân
nghiên cứu.
37
38
1.5.4. Tổ chức đánh giá chất lượng học tập kịp thời
Tiểu kết chương 1
Đặc trưng của phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ đặt sinh viên
Qua các vấn đề lý luận trên đây, chúng tôi nhận thấy việc tự học của
vào vị trí trung tâm của hoạt động dạy học. Sinh viên là chủ thể chủ động
sinh viên chính là một hình thức tổ chức dạy học ở bậc đại học - cao đẳng,
khám phá và lĩnh hội tri thức. Cũng giống như các vấn đề xã hội khác, hoạt
trong đó phát huy cao nhất vai trò chủ thể, tích cực độc lập nhận thức của
động tự học của sinh viên bên cạnh những ưu điểm cũng tồn tại những
sinh viên nhưng không tách rời vai trò điều khiển của giảng viên. Muốn có
nhược điểm rất dễ xảy ra như: khả năng xa rời, thoát ly mục tiêu, lệch chuẩn
kết quả học tập cao đòi hỏi sinh viên phải có một quá trình rèn luyện thường
nhận thức, không tự đánh giá, kiểm soát được tính chuẩn xác của tài liệu
xuyên các kỹ năng tự học. Trong quá trình rèn luyện đó giáo viên giữ vai trò
trong nguồn tài liệu vô cùng phong phú và đa dạng,… Những yếu tố kể trên
quan trọng trong việc định hướng giáo dục, lựa chọn các biện pháp tác động
có thể làm sai lệch chất lượng tự học, làm cho hoạt động tự học không đạt
nhằm hình thành ở sinh viên các kỹ năng tự học và biết giúp sinh viên rèn
được hiệu quả mong muốn. Tổ chức kiểm tra, đánh giá kịp thời chất lượng
luyện kỹ năng tự học. Việc rèn luyện kỹ năng tự học của sinh viên được tiến
học tập của sinh viên là để nhằm khắc phục những nhược điểm rất có thể
hành trong mối quan hệ chặt chẽ, khoa học với hoạt động dạy của giảng viên
xảy ra trong hoạt động tự học.
và hoạt động dạy giữ vai trò chủ đạo, định hướng, tổ chức, dẫn dắt và điều
Bên cạnh đó, trong thực tiễn đào tạo theo học chế tín chỉ ở một số
chỉnh hoạt động tự học của sinh viên. Quá trình dạy học phải biến thành quá
trường đại học, một số vấn đề chủ quan tồn tại ảnh hưởng đến chất lượng học
trình tự học. Tự học của sinh viên là yếu tố đảm bảo kết quả, chất lượng dạy
tập của sinh viên cũng rất đáng được quan tâm như: Sinh viên thiếu tính tích
học ở đại học, cao đẳng. Đây cũng chính là quá trình dạy tự học mà các
cực, tự giác trong học tập, chưa nhận thức đúng ý nghĩa của việc học tập, học
trường đại học – cao đẳng đang quan tâm, nhất là kết hợp việc tự học truyền
tập mang tính đối phó. Trước thực trạng nêu trên, hoạt động kiểm tra, đánh giá
thống với tự học chủ động theo tín chỉ là một hướng đi không phải dễ dàng,
thường xuyên, bằng nhiều hình thức, kết hợp linh hoạt các biện pháp kiểm tra
nó cần thời gian và các yếu tố khác cấu thành thì mới đạt hiệu quả tốt.
trên cơ sở xác định yêu cầu cụ thể đến cá nhân sinh viên là hoạt động quan trọng
để kịp thời uốn nắn, điều chỉnh và nâng cao nhận thức cho sinh viên về hoạt
động tự học, đánh giá đúng thực chất kết quả học tập, động viên, khuyến khích
sinh viên tích cực, chủ động tự học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
Quản lý nội dung giảng dạy, quy trình kiểm tra - đánh giá theo đúng
yêu cầu được xác định trong đề cương môn học là trách nhiệm của bộ máy
quản lý trong Nhà trường, là trách nhiệm của từng cán bộ giảng viên,
Trưởng Bộ môn, chủ nhiệm Khoa và được thực hiện trong sự kiểm tra giám
sát của các bộ phận quản lý chức năng, đặc biệt là hoạt động của Phòng
Thanh tra Pháp chế và hệ thống thanh tra đào tạo.
39
40
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
2.1. Quá trình hình thành và phát triển Trường Đại học An Giang
Nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cùng với các Bộ, Ngành Trung ương
trong phạm vi chức năng quyền hạn có liên quan.
Ngoài việc đào tạo đại học, Trường còn tạo điều kiện cho cán bộ
giảng viên trong Trường nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ
nhằm đáp ứng nguyện vọng của từng cá nhân, đồng thời góp phần vào sự
[6], (www.agu.edu.vn)
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Năm 1970, Trường được thành lập với tên Trường Sư phạm Long
Xuyên với vỏn vẹn 4 lớp và 260 giáo sinh.
Sang đến năm 1976, Trường Cao đẳng Sư phạm An Giang được Bộ
Giáo dục cho thành lập, đến 1985 thì giao lại cho Tỉnh An Giang quản lý.
Đến năm 1995, Tỉnh quyết định sát nhập hai trường Trung học Sư
phạm và Cao đẳng Sư phạm thành một, và lấy tên mới là Cao đẳng Sư phạm
An Giang đào tạo giáo viên nhiều ngành và nhiều hệ.
Cuối năm 1999, Chính phủ đáp ứng đề nghị thiết tha của các tỉnh
phát triển kinh tế-xã hội và văn hoá của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ
Trong bối cảnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số
241/1999/QĐ-TTg ngày 30/12/1999 thành lập Trường Đại học An Giang
với những chức năng, nhiệm vụ sau:
- Đào tạo cán bộ trình độ đại học và các trình độ thấp hơn, phục vụ
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang và các tỉnh lân cận.
- Nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội trong vùng.
Đồng bằng sông Cửu Long, nhằm từng bước cải tiến tình trạng xuống cấp
2.1.3. Cơ cấu tổ chức (Phụ lục - Bảng 2.1, Tr.107)
của giáo dục Việt Nam, và đỡ bớt gánh nặng của Đại học Cần Thơ trước áp
2.1.4. Phân tích quy mô và chất lượng đào tạo của Trường
lực của hơn 40.000 học sinh tốt nghiệp trung học hàng năm tại Đồng bằng
2.1.4.1. Quy mô đào tạo
sông Cửu Long, Chính phủ ký quyết định cho phép thành lập Trường Đại
Nhà trường có các bậc đào tạo: Trung cấp, Cao đẳng, Đại học, Cao
học An Giang tháng 12 năm 1999.
học với 2 hình thức: chính quy và không chính quy, tổng số có 45 ngành.
Tháng 01 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định cho phép
Tổng số sinh viên học viên của Nhà trường năm học 2008 - 2009 là:
xây dựng Trường Đại Học An Giang trên khu đất 40 hecta với tổng kinh phí
- Hệ chính quy: 7.938
đầu tư lên đến 35 triệu USD.
- Hệ không chính quy: 1.622
Đại học An Giang được xem là trường Đại học trẻ ở khu vực Đồng
Ngoài hình thức đào tạo chính quy và không chính quy, Nhà trường
bằng sông Cửu Long, và là trường Đại học công lập thứ hai được thành lập
còn tổ chức các hình thức đào tạo khác như văn bằng thứ hai, chuyên tu, từ
ở khu vực này (sau Đại học Cần Thơ) vào thời điểm đó. Trường Đại học An
xa, vừa học vừa làm,… các khoá học ngắn hạn cấp chứng chỉ, các chương
Giang là cơ sở đào tạo công lập thuộc hệ thống các trường đại học Việt
trình phối hợp đào tạo. Với sự đa dạng về hình thức đào tạo như vậy, Nhà
Nam, Trường trực thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang và chịu sự quản lý
trường đã từng bước đáp ứng được nhu cầu của xã hội về nguồn nhân lực.
41
42
2.1.4.2. Chất lượng và hiệu quả đào tạo
Việc tổ chức các hoạt động đào tạo được Nhà trường triển khai đúng
quy chế, với phương thức mềm dẻo, phát huy được tính tích cực của người
học, hướng đến nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện. Phương thức tổ chức
Kết quả học tập của khoá 31 hệ cao đẳng và khóa 6 hệ đại học (đào
tạo theo niên chế) trong năm học 2008 - 2009 có 1.901/2.018 (đạt 95%) sinh
viên tốt nghiệp ra Trường.
Bảng 2.2. Kết quả tốt nghiệp của sinh viên hệ chính quy
đào tạo và đánh giá chất lượng đào tạo luôn được Nhà trường quan tâm,
Năm học
được đa dạng hoá phù hợp với đặc thù từng chuyên ngành đào tạo.
Tổng
Xuất sắc
Giỏi
Khá
TB Khá
Trung bình
2004-2005
749
04
137
471
136
01
Ngoài ra, các hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống,
2005-2006
2.124
08
191
877
667
381
phát triển Đảng trong sinh viên luôn được Nhà trường quan tâm. Đảng ủy
2006-2007
1.497
05
218
768
440
66
Nhà trường đã xây dựng kế hoạch và tích cực triển khai hoạt động bồi
2007-2008
1.758
10
322
859
426
141
dưỡng, phát triển đảng viên là sinh viên. Sinh viên, học viên của Trường có
2008-2009
1.901
13
546
798
361
183
nhận thức chính trị đúng đắn, có đạo đức và lối sống lành mạnh, tích cực
(Nguồn: Phòng Đào tạo)
tham gia các hoạt động xã hội, tập thể. Nổi bật là phong trào tình nguyện do
Qua bảng số liệu trên ta thấy, tỷ lệ sinh viên đạt loại Xuất sắc, Giỏi,
Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên tổ chức. Hàng năm, có khoảng 250 sinh
Khá tăng lên trong từng năm học. Tỷ lệ tốt nghiệp cũng tăng theo. Cụ thể:
viên tham gia lớp Cảm tình Đảng và khoảng gần 30 sinh viên được kết nạp
+ Năm 2004 – 2005: 749/1152, đạt 65%
vào Đảng. Năm học 2008 – 2009, toàn Trường có 132 sinh viên là đảng
+ Năm 2005 – 2006: 2.124/3.034, đạt 70%
viên. Các hoạt động giáo dục về giá trị truyền thống, đạo đức cách mạng đã
+ Năm 2006 – 2007: 1.497/1.773, đạt 84,4%
được Nhà trường, các tổ chức Đoàn thể quan tâm thực hiện định kỳ trong
+ Năm 2007 – 2008: 1.758/1.875, đạt 93,76%
năm học và trong những ngày lễ lớn của dân tộc, ngày truyền thống của
+ Năm 2008 – 2009: 1.901/2.018, đạt 95%
Trường, Khoa, qua đó nâng cao ý thức, trách nhiệm đối với bản thân và xã
Với đội ngũ giảng viên nhiều kinh nghiệm, tâm huyết, có trình độ
hội của người học. Việc triển khai kịp thời Quy chế đánh giá kết quả rèn
chuyên môn tốt, cùng với đội ngũ quản lý có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh
luyện sinh viên của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đem lại nhiều hiệu quả
thần trách nhiệm cao đã góp phần từng bước nâng cao chất lượng đào tạo
cho công tác quản lý, giáo dục sinh viên (hàng năm có trên 80% sinh viên
của Nhà trường. Hàng năm, Nhà trường đã đào tạo và cung cấp cho xã hội
đạt điểm rèn luyện từ khá trở lên). Nhà trường không chỉ đảm bảo tốt các
hàng nghìn nhân lực chất lượng cao, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và
điều kiện trong quá trình học tập mà còn hướng đến các hoạt động định
phát triển đất nước, địa phương. Chất lượng sinh viên tốt nghiệp được các
hướng về việc làm, bổ trợ thêm các kỹ năng xã hội thông qua các hoạt động
nhà tuyển dụng, chuyên môn đánh giá tốt.
về các diễn đàn nghề nghiệp - việc làm, hội chợ việc làm, tiếp xúc với doanh
nghiệp, các hoạt động hướng nghiệp.
Nghiên cứu khoa học của sinh viên ngày càng có hiệu quả do được
cải tiến về cách thức tổ chức với sự gia tăng vai trò của tổ chức Đoàn, Hội
và nhóm ngành. Công tác nghiên cứu khoa học của Trường những năm qua
43
44
luôn đạt hiệu quả kép: Vừa phục vụ yêu cầu, mục tiêu phát triển kinh tế,
cán bộ có thể học tập, nâng cao trình độ chuyên môn ở nước ngoài. Nhà
chính trị xã hội và văn hoá của đất nước; vừa phục vụ nâng cao chất lượng
trường có cơ chế tạo điều kiện về thời gian và hỗ trợ về tài chính theo quy
đào tạo nguồn nhân lực chuyên ngành.
định của tỉnh cho cán bộ đi nghiên cứu, tham gia các hoạt động chuyên môn
Bảng 2.3. Kết quả nghiên cứu khoa học của sinh viên
nghiệp vụ ở nước ngoài theo phân công của Trường. Trường đã xây dựng
Năm học
Số giải cấp trường
Số giải cấp tỉnh
được đội ngũ cán bộ có đầy đủ phẩm chất, có khả năng sư phạm và năng lực
2004-2005
14
07
quản lý, có đủ điều kiện trình độ về chuyên môn, tin học và ngoại ngữ, có
2005-2006
13
05
khả năng thích ứng với sự chuyển đổi sang hình thức đào tạo mới.
2006-2007
11
06
2.1.5.2. Cơ sở vật chất sư phạm của Trường
2007-2008
11
08
Nhà trường được giao quản lý, sử dựng diện tích đất (tính bằng ha):
2008-2009
16
09
gần 50ha. Nhà trường đã cố gắng tập trung quy hoạch theo hướng xây dựng
(Nguồn: Phòng QLKH và HTQT)
mới, cải tạo các cơ sở đã xuống cấp, sắp xếp lại cơ sở làm việc, học tập
2.1.5. Đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất sư phạm của Trường
nhằm tăng diện tích sử dụng, tăng cường đầu tư trang thiết bị cho Thư viện,
2.1.5.1. Đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý
hệ thống phòng tư liệu, phòng thực hành, thực tập cho một số ngành học
Tổng số cán bộ viên chức hiện đang làm việc tại Trường là 738 người
nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo, nghiên cứu khoa học và quản lý, từng bước
(nam: 48,5%; nữ: 51,5%). Số cán bộ giảng dạy là 415 người, trong đó có 01
tin học hoá quản lý và đào tạo.
Giáo sư và 01 Phó Giáo sư; số giảng viên có trình độ sau đại học là 200, có
Ngoài hệ thống Thư viện chung của Đại học An Giang, với nguồn tư
192 cử nhân, cao đẳng và trình độ khác là 21. Ngoài ra, Nhà trường còn
liệu đa dạng, phong phú, được tin học hoá và hiện đại hoá, sinh viên Nhà
cộng tác với hơn 50 cán bộ thỉnh giảng từ các trường đại học khác trong
trường còn được tìm kiếm tài liệu, cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ
vùng Đồng bằng sông Cửu Long, TP. Hồ Chí Minh và các nơi khác.
chuyên môn tại các phòng tư liệu chuyên ngành, các trung tâm nghiên cứu,
Lực lượng cán bộ của Trường ngày càng được trẻ hoá, đảm bảo được
các phòng thực hành nghiệp vụ tại các đơn vị đào tạo trong Trường. Sách và
yêu cầu về chuyên môn. Đội ngũ cán bộ giảng dạy của Trường có kinh
tài liệu trong Thư viện của Đại học An Giang, Phòng tư liệu của các đơn vị
nghiệm cao trong công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Hiện nay, cơ
trong Trường nhiều về số lượng, đa dạng về chủng loại, thường xuyên được
bản Trường đã tương đối đảm bảo được tỉ lệ số giảng viên/số sinh viên quy
cập nhật, đầu tư. Tổng số đầu sách trong các Thư viện của Trường, Khoa:
định (1/24), đội ngũ cán bộ đủ về số lượng và trình độ chuyên môn đáp ứng
hơn 10.000 đầu sách. Hệ thống Thư viện được tin học hoá, thuận tiện cho
yêu cầu công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học.
việc tra cứu tài liệu. Với mục tiêu chuẩn hoá, hiện đại hoá các mặt hoạt
Công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Trường cũng được quan tâm,
động, trong những năm qua, Trường chú trọng vào việc hiện đại hoá cơ sở
đầu tư về thời gian và vật chất. Hàng năm, Trường đều tổ chức đào tạo
vật chất, trang thiết bị, nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo (hệ
nghiệp vụ từ đầu cho cán bộ mới được tuyển dụng cũng như tạo điều kiện để
thống âm thanh, camera tại các giảng đường, với số lượng máy projector,
45
46
overhead, video, LCD, phòng học chuẩn, phòng hội thảo, hội nghị, phòng
Tập thể cán bộ giảng dạy Khoa Sư phạm đã không ngừng tự nâng cao
thực hành,…). Tổng số máy tính trong Trường gần 1.500, trong đó: Dùng
trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho mình, cải tiến phương pháp dạy học và
cho khối hành chính, văn phòng: 250; dùng cho sinh viên học tập: 1.250.
nghiên cứu khoa học. Hàng năm khoa đều có tổ chức Hội thảo, Hội thi
Diện tích phục vụ đào tạo từng bước được cải thiện, góp phần đảm bảo chất
Nghiệp vụ Sư phạm trong sinh viên và cải tiến phương pháp giảng dạy.
lượng đào tạo, tạo điều kiện cho người học có thể tiếp cận được nguồn tri
thức phong phú và luôn được cập nhật.
2.2. Phân tích hoạt động của Khoa Sư phạm (www.agu.edu.vn)
Việc kết hợp giữa Khoa Sư phạm và các trường phổ thông ở trong
tỉnh, đã tạo điều kiện tốt cho việc rèn luyện nghiệp vụ cho sinh viên ngành
Sư phạm.
2.2.1. Lịch sử phát triển và nhiệm vụ
2.2.2. Đội ngũ cán bộ
Theo quyết định thành lập Trường Đại học An Giang của Thủ tướng
- Tổng số giảng viên: 246
Chính phủ, Trường Cao đẳng An Giang được sát nhập và chuyển thành
- Trình độ sau đại học: 118 thạc sĩ, 34 đang học thạc sĩ, 07 nghiên cứu sinh
Khoa Sư phạm của Trường Đại học An Giang kể từ năm học 2000 - 2001.
- Giảng viên chính: 76
Hiện nay, Khoa có tất cả 288 giảng viên, nhân viên; 10 bộ môn: Toán,
Thông qua các chuyên gia tiếng Anh từ nhiều nước, các cán bộ giảng
Vật Lý, Hoá học, Sinh vật, Ngữ văn, Sử - Địa, Tâm lý Giáo dục, Ngoại ngữ,
dạy tiếng Anh đã được tiếp nhận phương pháp dạy học tiếng Anh tiên tiến,
Mỹ thuật - Nữ công, Giáo dục - Mầm non.
có hiệu quả. Trình độ của cán bộ giảng dạy tiếng Anh nâng cao rõ rệt.
Khoa Sư phạm Trường Đại học An Giang có chức năng đào tạo, bồi
2.2.3. Hoạt động đào tạo
dưỡng đội ngũ giáo viên các ngành cho các bậc học, các ngành học: mẫu
Hiện nay, Khoa Sư phạm đào tạo 3 bậc: Đại học, Cao đẳng và Trung
giáo, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông trong tỉnh An Giang
học gồm 24 ngành, đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng giáo viên trong tỉnh
và các tỉnh lân cận: Đồng Tháp, Kiên Giang, Cần Thơ.
và các tỉnh Đồng Tháp, Kiên Giang, 2 huyện Vĩnh Thạnh – Thốt Nốt của
Trong năm học 2004 - 2005 đến nay, Khoa Sư phạm đảm nhận đào
thành phố Cần Thơ. Khoa Sư phạm là đơn vị có thời gian đào tạo lâu năm
tạo giáo viên các cấp học mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
nhất Trường cũng như tạo được hiệu ứng, lòng tin, uy tín trong nhân dân.
thông, với gần 5.000 lượt sinh viên/năm học.
Sinh viên Khoa Sư phạm chủ yếu là sinh viên thuần nhất về bản chất, nghiệp
Vào ngành Sư phạm, sinh viên được cung cấp đầy đủ kiến thức các bộ
môn khoa học cơ bản liên quan trực tiếp đến ngành đào tạo và được huấn
luyện kỹ lưỡng về phương pháp giảng dạy, về nghiên cứu khoa học,....
Ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ qui định chung, Khoa Sư phạm tập
trung vào nhiệm vụ trọng tâm là cải tiến phương pháp giảng dạy và nghiên
cứu khoa học.
vụ, hoàn cảnh, điều kiện và có tinh thần cầu tiến, ham học hỏi, tay nghề tốt.
2.3. Thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên ở
Trường Đại học An Giang (trong đó có khoa Sư phạm) trước xu thế đào
tạo theo học chế tín chỉ
Quản lý hoạt động tự học được xem là một nội dung cơ bản của quản
lý Nhà trường. Quản lý hoạt động tự học là quản lý các hoạt động học tập tích
cực của người học và các điều kiện đảm bảo cho người học học tập tích cực,
47
48
nhằm nâng cao hiệu quả học tập của người học và hiệu quả đào tạo của cơ sở
nét riêng. Dạy học lấy sinh viên làm trung tâm đầu tiên phải nhận thức đúng
giáo dục. Quản lý hoạt động tự học của sinh viên gồm các nội dung sau:
đối tượng người học trong những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể, với những ưu
- Quản lý việc xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học của sinh viên,
điểm và nhược điểm,... Có nghĩa là phải tiến hành việc học tập trên cơ sở có
- Quản lý nội dung tự học của sinh viên,
hiểu biết những năng lực đã có của sinh viên. Phải để cho sinh viên hoạt
- Quản lý việc bồi dưỡng phương pháp tự học cho sinh viên.
động cả về thể chất và tinh thần chứ không để cho sinh viên bị động tiếp thu
Để tìm hiểu thực trạng việc quản lý hoạt động tự học của sinh viên,
mà đòi hỏi sinh viên phải tích cực suy nghĩ, tích cực hoạt động. Phải động
chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sinh viên, cán bộ quản lý và giảng viên
viên, khuyến khích và tạo điều kiện để sinh viên thường xuyên tự kiểm tra,
của Trường, dựa trên các kết quả điều tra của các nhà nghiên cứu, qua đó có
tự đánh giá quá trình học tập của mình để không ngừng cải thiện phương
được những thông tin và số liệu về thực trạng và hiệu quả quản lý đối với
pháp học tập dần dần tiến lên có được phương pháp tự học, tự đào tạo, tự
hoạt động tự học của sinh viên.
giải quyết các vấn đề trong lý luận và thực tiễn một cách độc lập, sáng tạo,
2.3.1. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên
2.3.1.1. Nhận thức của sinh viên về hoạt động tự học
Để nâng cao hiệu quả dạy học nói riêng và chất lượng giáo dục - đào
tạo nói chung thì phải chú trọng nâng cao năng lực tự học cho sinh viên. Tinh
thần của các Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) và Nghị quyết Trung ương
2 (khóa VIII) đã được thể chế hóa trong Luật giáo dục 2005 ở điều 36b như
qua đó có được ý chí và năng lực tự học sáng tạo suốt đời.
Theo khảo sát thực trạng về hoạt động tự học của sinh viên Trường
Đại học An Giang cho kết quả như sau: Đa số sinh viên đều có nhận thức và
hiểu biết về vai trò của hoạt động tự học.
Bảng 2.4. Nhận thức của sinh viên về hoạt động tự học
Nhận thức
Cao
Bình thường
Thấp
sau: “Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng bồi dưỡng năng lực tự
Tính tích cực, tự giác
5.5%
27%
67.5%
học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo,
Tính chủ động
9.5%
31.5%
59%
rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng".
Thói quen tự học
5.5%
33.5%
61%
Có được năng lực tự học mới có thể học suốt đời được. Vì vậy, ở đại học,
quan trọng nhất là học cách học.
(Theo kết quả khảo sát sinh viên Khoa Sư phạm)
Tuy nhiên ý thức tự học của sinh viên chưa cao, đó là do sinh viên
Phương pháp giáo dục mới " lấy người học làm trung tâm" với mục
thiếu tính tích cực, tự giác, có đến 67.5% sinh viên công nhận điều này là
tiêu trang bị cho người học không chỉ kiến thức chuyên môn mà còn cả
đúng. Kết quả cho thấy sinh viên coi việc học tập là phương tiện chứ không
những kỹ năng, năng lực giao tiếp, khả năng phân tích, sáng tạo và có óc
phải mục đích như học lấy điểm cao, học để đạt học bổng, học để không
phê phán, suy nghĩ độc lập. Theo quan điểm "dạy học lấy người học làm
phải thi lại, học để đối phó,... Có đến 59% sinh viên đều cho rằng tính chủ
trung tâm", việc dạy học phải xuất phát từ người học, tức là phải xuất phát
động của sinh viên trong học tập còn thấp, có đến 61% số sinh viên không
từ nhu cầu, động cơ, đặc điểm và điều kiện của người học. Những nhu cầu
có thói quen tự học, chuẩn bị bài trước khi lên lớp.
học tập của sinh viên phản ánh những yêu cầu của xã hội nhưng có những
49
50