Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Báo cáo thực tập quản trị nhân lực: Nghiên cứu xây dựng một số phương pháp thu thập, xử lý thông tin phục vụ học tập của sinh viên trường đại học nội vụ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 70 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1
1.Lý do chọn đề tài....................................................................................................................1
2.Tổng quan tình hình nghiên cứu............................................................................................2
3.Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:.............................................................................................3
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:......................................................................3
5.Nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................................................3
6.Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................................4
7.Đóng góp của đề tài...............................................................................................................4
8.Nguồn tài liệu tham khảo.......................................................................................................5
9.Cấu trúc dự kiến của đề tài ....................................................................................................5

PHẦN NỘI DUNG..........................................................................................5
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THÔNG TIN, THU THẬP VÀ XỬ LÝ
THÔNG TIN....................................................................................................6
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN...............................................................................................6
1.1.1. Thông tin..........................................................................................................................6
1.1.2. Thu thập thông tin...........................................................................................................8
1.1.3. Xử lý thông tin...............................................................................................................10
1.2. Mối quan hệ giữa thu thập và xử lý thông tin...................................................................11
1.3. Tầm quan trọng của thu thập và xử lý thông tin đối với học tập của sinh viên.................12

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC THU THẬP, XỬ LÝ THÔNG TIN
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI......................14
2.1. Tổng quan về Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ...................................................................14
2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội..............................................14
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội........................................................16
2.2. Nhu cầu thu thập, xử lý thông tin phục vụ học tập của sinh viên Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội......................................................................................................................................17
2.2.1. Nhu cầu thu thập thông tin............................................................................................17




2.2.2. Nhu cầu xử lý thông tin.................................................................................................21
2.3. Thực trạng thu thập, xử lý thông tin phục vụ học tập của sinh viên Trường Đại học Nội Vụ
Hà Nội......................................................................................................................................23
2.3.1. Thực trạng thu thập thông tin.......................................................................................23
2.3.1.1. Các nguồn thông tin được thu thập...........................................................................23
2.3.1.2. Các phương pháp thu thập thông tin........................................................................27
2.3.2. Thực trạng xử lý thông tin.............................................................................................29
2.3.1.1. Phân loại thông tin.....................................................................................................30
2.3.1.2. Phân tích thông tin....................................................................................................32
2.3.1.3. Tóm tắt thông tin.......................................................................................................36

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP THU THẬP, XỬ LÝ..............37
THÔNG TIN PHỤC VỤ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN ..........................37
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI......................................................37
3.1. Nhận xét...........................................................................................................................37
3.1.1. Hiệu quả của các phương pháp thu thập, xử lý thông tin của sinh viên........................37
3.1.2. Hạn chế của phương pháp thu thập, xử lý thông tin của sinh viên...............................40
3.2. Đề xuất một số phương pháp thu thập, xử lý thông tin phục vụ học tập của sinh viên
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.................................................................................................41
3.2.1. Một số phương pháp thu thập thông tin.......................................................................41
3.2.1.1. Phương pháp quan sát, phản ánh...............................................................................41
3.2.1.2. Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu.................................................................44
3.2.1.3. Phương pháp làm việc nhóm.....................................................................................46
3.2.1.4. Phương pháp phỏng vấn, điều tra.............................................................................50
3.2.2. Một số phương pháp xử lý thông tin.............................................................................53
3.2.2.1. Phương pháp xử lý thông tin định lượng...................................................................53
3.2.2.2. Xử lý thông tin định tính.............................................................................................54


KẾT LUẬN....................................................................................................56
LỜI CẢM ƠN................................................................................................57
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, chúng tôi xin gửi tới toàn thể quý Thầy cô
trong Trường cũng như quý Thầy cô trong khoa Văn thư - Lưu trữ,


Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã tạo điều kiện cho chúng tôi được tham
gia nghiên cứu khoa học, được đi sâu tìm hiểu với thực tế công việc hơn,
hiểu rõ hơn nữa về những vấn đề lý luận chung cũng như những công
việc cụ thể trong thực tế nghề nghiệp tương lai, giúp chúng tôi có điều
kiện tiếp cận với cách thức làm việc khoa học và cách tư duy logic hơn. 57


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thông tin là một nhu cầu và thuộc tính của loài người và là động lực để
thúc đẩy mọi sự phát triển. Có thể nói, thông tin gắn bó hữu cơ với sự tồn tại
và phát triển của xã hội loài người, góp phần quan trọng cho sự tiến hóa của
nhân loại. Việc chuyển tải và tiếp nhận thông tin một cách nhanh chóng đã
thúc đẩy tiến trình phát triển các hoạt động kinh tế - xã hội. Trong cuộc sống
thường nhật, mọi hoạt động đều không thể thiếu vai trò của thông tin, đây là
điều kiện quan trọng để thực hiện hay quyết định một công việc cụ thể. Thực
tế này cũng đã đòi hỏi hệ thống lý luận liên quan đến thông tin như “thông tin
học”, “công nghệ thông tin”, “hệ thống thông tin”… ngày càng được quan
tâm nghiên cứu.
Mặt khác, thông tin còn có những vai trò quan trọng mang tính khu
biệt đối với từng lĩnh vực, từng mặt hoạt động trong đời sống xã hội và lĩnh
vực giáo dục cũng không là một ngoại lệ. Sự phát triển của “xã hội thông tin”
và “nền kinh tế tri thức” đòi hỏi người lao động phải có năng lực tư duy, kỹ
năng giải quyết vấn đề một cách sáng tạo và khả năng học tập suốt đời để

thích ứng sự phát triển nhanh chóng của xã hội. Trong bối cảnh đó, kiến thức
thông tin nổi lên như một trong những năng lực quan trọng nhất trong xã hội
thông tin, bởi lẽ trang bị kiến thức thông tin cho sinh viên là đảm bảo cho họ
năng lực học tập suốt đời. Điều này đòi hỏi mọi nền giáo dục cần đưa các
môn học cung cấp kiến thức cơ bản về thông tin vào chương trình đào tạo.
Hơn nữa, các nghiên cứu nhằm nâng cao kỹ năng thu thập, xử lý thông tin của
sinh viên cũng cần được thực hiện và vận dụng vào thực tiễn.
Trong quá trình học tập của sinh viên các Trường Đại học nói chung
và sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội nói riêng, việc thu thập và xử lý
thông tin có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Việc thu thập và xử lý thông tin

1


cùng với năng lực học tập của sinh viên là hai trong nhiều yếu tố quyết định
thành tích học tập cũng như hiệu quả quá trình lĩnh hội kiến thức. Hơn nữa, sự
chủ động thu thập và xử lý thông tin tham khảo nhằm phục vụ học tập càng
thể hiện tầm quan trọng trong lộ trình chuyển đổi hình thức đào tạo theo học
chế tín chỉ - lấy người học làm trung tâm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, kỹ
năng thu thập xử lý thông tin của đa số sinh viên còn gặp nhiều khó khăn và
chưa thực sự hiệu quả.
Xuất phát từ những vấn đề trên, nhóm sinh viên chúng tôi lựa chọn đề
tài “Nghiên cứu xây dựng một số phương pháp thu thập, xử lý thông tin
phục vụ học tập của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội” cho công
trình nghiên cứu khoa học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Là một trong những khía cạnh quan trọng hàng đầu của đời sống xã
hội, thông tin đã được quan tâm nghiên cứu tại các quốc gia trên thế giới. Đặc
biệt, đối với vấn đề thu thập và xử lý thông tin – khía cạnh mang tính cơ bản
và nền tảng trong ngành thông tin học, giới nghiên cứu của Việt Nam đã dành

thời gian và tâm huyết để có được những sản phẩm khoa học sau:
+ Võ Thị Mỹ Hương, Kỹ năng thu thập; xử lý thông tin và trích dẫn
tài liệu tham khảo trong quá trình thực hiện niên luận, Chuyên đề giảng
dạy dành cho sinh viên, Khoa Luật, Trường Đại học Huế;
+ Nguyễn Thị Nhã, Tra tìm thông tin trên mạng phục vụ việc học tập
của sinh viên hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên, trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn, 2010;
+ Nguyễn Thị Bích Hà, Công tác thu thập xử lý và cung cấp thông tin
phục vụ cho hoạt động quản lý tại BQL các khu công nghiệp Bắc Ninh, Đề tài
nghiên cứu khoa học sinh viên, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
2011;
...

2


Tuy nhiên, “Nghiên cứu xây dựng một số phương pháp thu thập, xử
lý thông tin phục vụ học tập của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội”
là đề tài hoàn toàn mới và chưa từng được thực hiện ở bất kỳ công trình
nghiên cứu nào.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Thực hiện đề tài “Nghiên cứu xây dựng một số phương pháp thu thập,
xử lý thông tin phục vụ học tập của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà
Nội”, chúng tôi hướng tới các mục tiêu chính là:
- Tìm hiểu và nghiên cứu hệ thống lý luận về thông tin, thu thập và xử
lý thông tin;
- Đánh giá thực trạng thu thập, xử lý thông tin trong quá trình học tập
của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội;
- Nghiên cứu xây dựng một số phương pháp nhằm giúp cho sinh viên
biết cách thu thập, xử lý và vận dụng hệ thống kiến thức phục vụ cho học tập

có hiệu quả.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng thu thập và xử lý
thông tin trong quá trình học tập của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà
Nội. Đây cũng chính là căn cứ để xây dựng một số các phương pháp thu thập
và xử lý thông tin.
- Phạm vi: Đề tài lựa chọn Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là cơ quan
khảo sát và nghiên cứu áp dụng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu khái niệm thông tin, lý luận/ kỹ năng thu thập và xử lý
thông tin;
- Khảo sát thực trạng thu thập, xử lý thông tin phục vụ học tập của sinh
viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội;
- Vận dụng hệ thống lý luận về thông tin và thu thập xử lý thông tin để
phân tích, đánh giá những ưu điểm và hạn chế của thực trạng thu thập và xử

3


lý thông tin của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội;
- Nghiên cứu xây dựng các phương pháp thu thập và xử lý thông tin
phục vụ học tập của sinh viên.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, ngoài các phương pháp chung được áp dụng trong
nghiên cứu khoa học như: phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích
chức năng, phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp toàn diện và tổng
hợp, phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài còn sử dụng
các phương pháp cụ thể như:
- Phương pháp điều tra, khảo sát đối tượng: Được áp dụng đối với việc
điều tra, khảo sát thực trạng thu thập và xử lý thông tin của sinh viên thuộc

các ngành, các bậc, hệ của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội;
- Phương pháp phỏng vấn đối tượng: Được áp dụng để phỏng vấn một
số giảng viên về phương pháp và hiệu quả thu thập và xử lý thông tin của sinh
viên;
- Phương pháp nghiên cứu và phân tích tư liệu: được áp dụng để nghiên
cứu và phân tích các tư liệu để có thể đưa ra những lập luận mang tính khoa
học cao, từ đó xây dựng các phương pháp thu thập, xử lý thông tin phù hợp,
khách quan và hiệu quả nhất;
- Phương pháp so sánh: được áp dụng để tìm ra những điểm tương đồng
và khác biệt trong kỹ năng thu thập, xử lý thông tin giữa sinh viên các ngành
học mang tính đặc thù.
7. Đóng góp của đề tài
- Đóng góp một số phương pháp thu thập và xử lý thông tin phục vụ
học tập của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội;
- Là tư liệu tham khảo dành cho sinh viên trong quá trình học tập;
- Là tư liệu tham khảo dành cho cố vấn học tập và giảng viên bộ môn
để tư vấn phương pháp học cho sinh viên, đặc biệt trong lộ trình chuyển đổi
hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ.
4


8. Nguồn tài liệu tham khảo
Để thực hiện đề tài, chúng tôi đã lựa chọn và sử dụng các nguồn tài liệu
tham khảo phong phú về nội dung và đa dạng về thể loại. Các nguồn tài liệu
này bao gồm:
- Nhóm các giáo trình, tập bài giảng;
- Các công trình nghiên cứu đã công bố;
- Nhóm các bài viết được đăng tải trên báo, tạp chí;
- Nhóm các tham luận Hội thảo khoa học;
- Nhóm tài liệu đăng tải trên mạng Internet;

- Nhóm tài liệu lược dịch, dịch và tài liệu nguyên bản tiếng nước
ngoài...
9. Cấu trúc dự kiến của đề tài
Nội dung đề tài gồm có 3 chương:
- Chương 1: Khái quát về thông tin;
- Chương 2: Thực trạng việc thu thập, xử lý thông tin của sinh viên
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội;
- Chương 3: Một số phương pháp về việc thu thập, xử lý và vận dụng
hệ thống thông tin vào việc học tập.

PHẦN NỘI DUNG

5


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THÔNG TIN, THU THẬP VÀ XỬ LÝ
THÔNG TIN
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1. Thông tin
Trong đời sống hàng ngày, thông tin luôn được đề cập như một yếu tố
không thể thiếu. Có thể nói, thông tin là nguồn lực phát triển của xã hội và
các ngành khoa học. Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, ngày
nay, thông tin trở thành nguồn tài nguyên đặc biệt và nguồn lực của mỗi quốc
gia, là công cụ điều hành sản xuất và quản lý xã hội, là cơ sở của các hoạt
động chuyển giao tri thức và trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học.
Giống như các khái niệm khác mang tính trừu tượng, thông tin được
hiểu theo nhiều cách khác nhau mặc dù có nghĩa tương tự về mặt nội hàm. Từ
Latin “Informatio”, gốc của từ hiện đại “Information” (thông tin) có hai
nghĩa: Một là, nó chỉ một hành động rất cụ thể là tạo ra một hình dạng

(forme). Hai là, tuỳ theo tình huống, thông tin có nghĩa là sự truyền đạt một ý
tưởng, một khái niệm hay một biểu tượng. Tuy nhiên cùng với sự phát triển
của xã hội, khái niệm thông tin cũng phát triển theo.
Theo nghĩa thông thường, thông tin được hiểu là tất cả các sự việc, sự
kiện, ý tưởng, phán đoán làm tăng thêm sự hiểu biết của con người. Thông tin
hình thành trong quá trình giao tiếp, một người có thể nhận thông tin trực tiếp
từ người khác thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, từ các ngân
hàng dữ liệu, hoặc từ tất cả các hiện tượng quan sát được trong môi trường
xung quanh. Có thể nói, định nghĩa này chỉ đề cập đến nguồn gốc hình thành
của thông tin là chủ yếu mà con người tiếp nhận được thông qua các nguồn
tin khác nhau.
Trên quan điểm Triết học: “Thông tin là sự phản ánh của tự nhiên và xã
hội (thế giới vật chất) bằng ngôn từ, ký hiệu, hình ảnh v.v...hay nói rộng hơn
6


bằng tất cả các phương tiện tác động lên giác quan của con người”. [15;19]
Từ điển Oxford - một ấn phẩm được coi là từ điển tiếng Anh đầu tiên
đưa ra định nghĩa: “Thông tin là điều mà người ta đánh giá hoặc nói đến; là tri
thức, tin tức”. Mặc dù, định nghĩa thông tin được đưa ra rất ngắn gọn chỉ 16
từ tưởng chừng rất đơn giản nhưng nó đã bao quát được khái niệm thông tin.
Đồng thời khi đọc, chúng ta hình dung rất nhanh được thông tin là gì? [15;18]
Các từ điển khác đơn giản đồng nhất thông tin với kiến thức: “thông tin
là điều mà người ta biết” hoặc “thông tin là sự chuyển giao tri thức làm tăng
thêm sự hiểu biết của con người”.
Trong khi đó, tác giả Nguyễn Hữu Tân - Trường Đại học Đà Lạt cho
rằng: Thông tin là những gì con người ta thu nhận được từ dữ liệu và xử lý dữ
liệu nhằm tạo ra sự hiểu biết, tạo ra các tri thức và những nhận thức tốt hơn về
tự nhiên và xã hội. Nói cách khác, thông tin dữ liệu đã qua xử lý, đối chiếu và
trở nên có ý nghĩa đối với người dùng. Trong đó, tin tức là sự hiểu biết, quan

niệm về một điều gì đó là tin, là thông báo. Dữ liệu (Data) bao gồm nhiều tin
tức cập nhật cùng nhau, là sự kiện, ý tưởng, tin tức mà nó được thể hiện bằng
kí hiệu để thu thập, xử lý, truyền tải. Khái niệm “dữ liệu” và “thông tin”
thường gây sự nhầm lẫn nhưng thực chất đây là hai khái niệm khác nhau và
cần được phân biệt rõ ràng. Chúng ta có thể coi dữ liệu là thông tin dưới dạng
dầu thô chưa qua xử lý, dữ liệu ấy cần phải trải qua một quá trình phân loại,
đánh giá, chọn lọc, tổng hợp, phân tích mới trở thành thông tin. Bên cạnh đó,
tri thức (Knowledge) cũng là một khái niệm chỉ thông tin sau khi thu được, xử
lý, phân tích, nhận thức, lĩnh hội được. Đó là sự hiểu biết của một cá nhân, tập
thể, tổ chức về thế giới xung quanh. Đồng thời, tri thức là thông tin được
đồng hoá bởi các cá nhân, tập thể, cấu trúc hoá, liên kết bởi các quan hệ nhân
quả và các quan hệ khác.
Như vậy, từ các khái niệm trên ta có thể hiểu một cách đơn giản, thông
tin xuất phát từ “tin tức và dữ liệu”. Tin tức là bậc thấp nhất của thông tin, sau
7


đó đến dữ liệu và cuối cùng là chính bản thân thông tin. “Thông tin” là những
dữ liệu đã được tổ chức và đặt trong một ngữ cảnh cụ thể được đồng hóa bởi
các cá nhân và tổ chức. Thông tin cũng được hiểu đơn giản là các dữ liệu đã
được qua xử lý. Để được gọi là thông tin phải đảm bảo ba điều kiện:
Thứ nhất, thông tin phải là tin tức, dữ liệu phán ánh trạng thái tồn tại,
vận động của hiện tượng, sự vật trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
Thứ hai, thông tin phải là tin tức, dữ liệu có thể thu thập, chế biến,
chuyển giao được.
Thứ ba, thông tin là cái mà nhờ đó một yếu tố, một hệ thống có thể biến
đổi để thu nhận và lĩnh hội thông tin.
Tóm lại, thông qua các khái niệm cụ thể trên đây, chúng ta có thể đi
đến một khái niệm chung nhất được nhiều người sử dụng nhất như sau:
“Thông tin là những gì con người ta thu nhận được từ dữ liệu và xử lý dữ liệu

nhằm tạo ra sự hiểu biết, tạo ra các tri thức và những nhận thức tốt hơn về tự
nhiên và xã hội. Nói cách khác, thông tin dữ liệu đã qua xử lý, đối chiếu và
trở nên có ý nghĩa đối với người dùng”.
1.1.2. Thu thập thông tin
Trong quá trình tiếp thu tri thức, chúng ta không thể bỏ qua khâu thu
thập thông tin. Số lượng thông tin liên quan đến nhau khá nhiều nên việc thu
thập thông tin được coi là quan trọng. Một câu hỏi đặt ra: “Vậy thu thập thông
tin là gì?”
Thu thập thông tin là việc tìm kiếm và thu gom dữ liệu từ nhiều nguồn
phát sinh khác nhau để tạo lập hoặc bổ sung các cơ sở dữ liệu. Bên cạnh đó
ThS. Võ Thị Mỹ Hương – Trường Đại học Huế cho rằng: “Thu thập thông
tin là quá trình tập hợp tài liệu của người cần thông tin những tiêu chí cụ thể
nhằm làm rõ những vấn đề/nội dung liên quan đến lĩnh vực/đề tài
nghiên cứu”.
Thông tin có tầm quan trọng đặc biệt trong việc giải quyết mọi vấn đề
8


trong cuộc sống. Để soạn thảo và ban hành một quyết định đúng, chúng ta cần
thu thập được những thông tin chính xác và đa chiều. Chỉ khi có đầy đủ thông
tin chính xác, khách quan cần thiết, công việc mới có thể được giải quyết hợp
tình, hợp lý và hữu hiệu. Thông tin giúp con người học hỏi được những kinh
nghiệm thành công cũng như thất bại của người khác, nâng cao hiểu biết,
năng lực giải quyết vấn đề, tránh mất thời gian công sức lặp lại những điều
người khác đã làm, đã khám phá. Ngược lại thông tin không đầy đủ, phiến diện
hoặc sai lệch sẽ làm ảnh hưởng tới kết quả giải quyết công việc. Đối với những
thông tin được truyền lại từ người khác, chúng ta phải hết sức cảnh giác, bởi
chúng phụ thuộc vào sự trung thực và quan điểm của người phản ánh.
Thu thập thông tin là một trong những bước đi cơ bản để mở rộng tầm
nhìn khi giải quyết vấn đề. Thông tin có thể thu thập được từ nhiều nguồn

như: sách, báo, mạng internet, tài liệu lưu trữ...Chúng ta có thể thu thập thông
tin qua nhiều kênh như: trao đổi ý kiến, quan sát, khảo sát thực tế, điều tra,
thăm dò ý kiến bằng phiếu, phỏng vấn…
Thông tin thu thập được là cơ sở để suy luận, tính toán, từ đó xây dựng
các giả thuyết, đồng thời kiểm chứng các giả thuyết đó. Việc sử dụng thông
tin đòi hỏi phải qua quá trình kiểm tra, phân tích, đánh giá về ý nghĩa, tầm
quan trọng và độ chính xác của từng thông tin. Phân biệt sự thật và dư luận,
nguồn thông tin khởi nguồn và thứ cấp, ý kiến khách quan và chủ quan, lập
luận logic và ngụy biện. Những thông tin mới khác với những gì đã biết có
thể đòi hỏi nhận diện lại vấn đề.
Tuy nhiên, thông tin thu thập được không phải tất cả đều chính xác.
Trên thực tế nhiều thông tin kể cả trên sách báo có thể sai lầm hoặc nhầm lẫn.
Mặt khác, thông tin về quá khứ và cả hiện tại thường không đủ điều kiện giúp
cho việc định hướng tương lai. Yêu cầu thu thập đủ thông tin không có nghĩa
là quá sa đà để mất quá nhiều thời gian, công sức vào việc đó đến mức làm
chậm tiến độ giải quyết vấn đề. Việc tìm kiếm thông tin không có định hướng
9


sẽ rất dễ rơi vào “cái bẫy” thu thập mọi thông tin, làm lãng phí thời gian, công
sức. Vì vậy, thông tin phải được thu thập một cách chọn lọc, có chất lượng.
1.1.3. Xử lý thông tin
Trong quá trình tiếp thu tri thức phục vụ các hoạt động thực tiễn, sản
xuất hay nghiên cứu khoa học, khi đã thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác
nhau, để có thông tin chính xác, có chất lượng đòi hỏi chúng ta phải xử lý
thông tin. Thu thập thông tin là một khâu rất quan trọng nhưng xử lý thông tin
lại càng quan trọng hơn. Bởi lẽ, thu thập đảm bảo về mặt số lượng thông tin
còn xử lý đảm bảo về mặt chất lượng thông tin.
Trong cuốn từ điển Bách khoa Việt Nam, khái niệm xử lý thông tin
được đưa ra là: “Xử lý thông tin là quá trình biến đổi thông tin được thực hiện

bởi một dãy các thao tác của con người, của máy tính theo quy định của một
phương pháp, trình tự, chương trình, nhằm xuất phát từ các dữ liệu ban đầu
(thông tin vào) tìm ra kết quả (thông tin ra)”. Hay Giáo trình của Trường Đại
học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội lại đưa ra định nghĩa: “Xử lý
thông tin là tìm ra những dạng thể hiện mới của thông tin phù hợp với mục
đích sử dụng. Xử lý thông tin không làm tăng lượng tin mà chỉ hướng hiểu
biết vào các khía cạnh có lợi trong hoạt động thực tiễn. Mục đích xử lý thông
tin là để tìm ra tri thức”. Ngày nay khi nói đến xử lý thông tin người ta vẫn
thường hiểu đó là việc xử lý thông tin diễn ra trên máy tính điện tử bằng cách
xử lý các dữ liệu, xử lý các phép toán logic hay những việc đơn giản cũng
như phức tạp theo một chu trình, một trình tự nhất định nào đó để công việc
đó tiến hành như đúng mong muốn.
Nguồn tin liên quan trực tiếp và gián tiếp đến những vấn đề lớn, phức
tạp vô cùng phong phú, nên phải được xử lý, kiểm tra, sắp xếp thành hệ thống
để làm bộc lộ ra các mối liên hệ và xu thế của sự vật. Để phân tích và hệ
thống hoá các số liệu có thể biểu hiện dưới nhiều dạng như: biểu đồ, đồ thị,
bảng thống kê…
10


Xử lý thông tin là một việc làm quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên,
công việc này được đánh giá là một công việc rất khó khăn. Bởi lẽ, khi xử lý
thông tin cần phải áp dụng các phương pháp xử lý. Để cụ thể hơn đó là những
phương pháp nào, nhóm nghiên cứu xin được giới thiệu chi tiết hơn ở
Chương 3.
1.2. Mối quan hệ giữa thu thập và xử lý thông tin.
Thu thập và xử lý thông tin là hai phạm trù có mối quan hệ biện chứng
với nhau, chúng không thể tách rời. Hai kỹ năng này đều cần được thực hiện
nhằm đưa ra thông tin “đúng” và “trúng” với mục đích đã được đặt ra của
người dùng tin.

Xét từ khía cạnh chất lượng thông tin: Thu thập luôn phải gắn liền với
xử lý thông tin vì khi đó thông tin mới trở nên thật sự giá trị, giúp cho người
dùng tin hiểu một cách chính xác nhất về thông tin và vận dụng nó vào thực
tế. Xét theo bản chất thì phương pháp xử lý là trình tự các bước tác động vào
thông tin nhằm rút ra những thông tin mới cần thiết cho quá trình chúng ta thu
thập và tìm hiểu nguồn thông tin mình cần. Vai trò quan trọng của phương
pháp xử lý thể hiện ở việc nhờ nó mà người dùng tin hiểu sâu sắc và đầy đủ
hơn so với những thông tin mới chỉ dừng lại ở công đoạn thu thập mà chưa
qua xử lý.
Xét từ khía cạnh số lượng thông tin: Xử lý thông tin đòi hỏi người dùng
tin phải thu thập được thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, từ đó thông tin sau
khi được xử lý mới đạt được mức hoàn chỉnh tối đa. Càng thu thập thông tin
đa dạng về nguồn và phong phú về nội dung thì quá trình xử lý thông tin càng dễ
so sánh, đối chiếu để cho ra lượng thông tin đảm bảo chất lượng nhất. Ngược lại,
quá trình thu thập thông tin với đặc thù là lượng thông tin nhiều, sẽ cần phải có
quá trình xử lý để giảm đi sự cồng kềnh của thông tin, đặc biệt là những thông
tin trùng lặp, không cần thiết đối với mục đích của người sử dụng.
Như vậy, thu thập và xử lý thông tin là hai quá trình gắn liền nhau và
11


có sự tác động hai chiều. Một trong hai quá trình được thực hiện không hiệu
quả sẽ kéo theo hệ quả là chất lượng thông tin đầu ra để phục vụ mục đích của
người sử dụng sẽ không như mong đợi và không thể phục vụ đắc lực cho
người sử dụng đúng như vai trò quan trọng vốn có của thông tin nói chung.
1.3. Tầm quan trọng của thu thập và xử lý thông tin đối với học tập
của sinh viên
Nói đến vai trò của thông tin, V.I.Lênin đã khẳng định: “Không có
thông tin thì không có thắng lợi trong bất cứ lĩnh vực nào, cả khoa học, kỹ
thuật và sản xuất”. Hơn bao giờ hết, thông tin đang trở thành một yếu tố quan

trọng chủ chốt quyết định thành bại của các hoạt động kinh tế, chính trị, xã
hội. Nắm bắt và xử lý thông tin chính xác, kịp thời cũng chính là thể hiện
trình độ, bản lĩnh của con người trên con đường chinh phục và hướng tới
thành công. Giáo dục đại học cũng không nằm ngoài các lĩnh vực của đời
sống xã hội, và để phát triển thì cần có sự đóng góp lớn từ hệ thống thông tin
khổng lồ và ngày một biến đổi. Hệ thống thông tin phản hồi với tầm ảnh
hưởng của mình đã trở thành nguồn tài nguyên, công cụ đắc lực trong việc
xây dựng chất lượng đào tạo của các trường Đại học trên thế giới, đặc biệt là
sinh viên – đội ngũ tri thức, những chủ nhân tương lai của đất nước. Đó cũng
là lý do mà nhóm nghiên cứu sẽ đi sâu phân tích tầm quan trọng của việc thu
thập và xử lý thông tin đối với sinh viên nói chung.
Thứ nhất, thu thập là bước đầu tiên phải tiến hành sau khi xác định
được vấn đề hoặc yêu cầu cụ thể. Sinh viên cần định hình được những công
việc cần làm như Thu thập ở đâu? Thu thập những gì? Và Thu thập như thế
nào?… Nếu không có sự cân nhắc đó, sinh viên sẽ rất dễ bị “chìm” trong khối
thông tin khổng lồ và vô tận trên rất nhiều nguồn khác nhau. Hiện nay có rất
nhiều nguồn giúp cho sinh viên trong việc thu thập thông tin một cách dễ
dàng như thư viện, từ sách, báo và đặc biệt Internet cũng là một nguồn khá
phong phú được sinh viên sử dụng để thu thập thông tin phục vụ học tập của
12


mình. Đây được coi là một bước phát triển vô cùng mạnh mẽ trong việc ứng
dụng khoa học công nghệ phục vụ học tập của sinh viên Việt Nam hiện nay,
giúp cho việc tiếp cận mọi nguồn thông tin trong nước và trên thế giới một
cách nhanh chóng và thuận tiện.
Thứ hai, sau khi thu thập được những thông tin có liên quan đến vấn đề
cần tìm hiểu, một câu hỏi đặt ra là “Vậy những thông tin nào mới thật sự cần
thiết, là trọng tâm của vấn đề đó?”. Hay nói cách khác, sinh viên phải xử lý,
chọn lọc để giảm bớt sự cồng kềnh của khối thông tin đồ sộ đã thu thập được.

Từ đó rút ra những thông tin cốt lõi và cần thiết nhất cho mục đích của mình.
Có như vậy sản phẩm thông tin cuối cùng sau khi xử lý mới có hiệu quả thật
sự đối với sinh viên trong quá trình học tập tại trường.
Có thể nói, thu thập và xử lý thông tin tạo ra hiệu quả trong học tập,
trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản để làm chủ thế giới thông tin.
Bên cạnh đó còn rèn luyện cho sinh viên những kỹ năng nhận dạng thông tin,
đơn vị nguồn tin phù hợp, tổ chức nguồn tin tìm được một cách hợp lý, thẩm
định nguồn tin đã được chọn lọc. Việc thu thập và xử lý thông tin không chỉ
có tầm quan trọng đối với sinh viên khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn
đặc biệt quan trọng đối với công việc của sinh viên sau khi ra trường. Do đó,
trang bị một kiến thức vững vàng về thu thập và xử lý thông tin là một việc
rất cần thiết đối với sinh viên, bởi vì kiến thức đó chính là chìa khóa mở ra
những cơ hội tri thức và nghề nghiệp cho mỗi cá nhân, góp phần thúc đẩy sự
phát triển mạnh mẽ về khoa học, công nghệ cũng như giáo dục của đất nước.

13


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC THU THẬP, XỬ LÝ THÔNG TIN
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
2.1. Tổng quan về Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
2.1.1.1. Chức năng
- Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là cơ sở giáo dục đại học công lập
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, trực thuộc Bộ Nội vụ, có chức năng: Tổ
chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ đại học, sau đại học và
thấp hơn trong lĩnh vực công tác nội vụ và các ngành nghề khác có liên quan;
hợp tác quốc tế; nghiên cứu khoa học và triển khai áp dụng tiến bộ khoa học
công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
- Trường là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có con dấu

và tài khoản riêng tại kho bạc Nhà nước và Ngân hàng.
- Trường chịu sự lãnh đạo, quản lý toàn diện và trực tiếp của Bộ Nội
vụ, sự quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
chịu sự quản lý hành chính theo lãnh thổ của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương nơi Trường đặt trụ sở, Văn phòng và Cơ sở đào tạo,
được hưởng các chính sách, chế độ của Nhà nước áp dụng cho hệ thống các
trường đại học, cao đẳng công lập.
2.1.1.2. Nhiệm vụ
- Xác định tầm nhìn, xây dựng chiến lược, kế hoạch tổng thể phát triển
Trường qua từng giai đoạn, kế hoạch hoạt động hàng năm.
- Tổ chức đào tạo nguồn nhân lực có trình độ đại học, sau đại học và
thấp hơn các ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ và các ngành
nghề khác theo nhu cầu xã hội khi được các cơ quan có thẩm quyền cho phép.
- Xây dựng và triển khai các chương trình bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu xã hội và hội nhập quốc tế.
- Cấp, xác nhận văn bằng, chứng chỉ theo thẩm quyền.
- Tuyển dụng, quản lý công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ giảng
viên của Trường đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành
nghề, cơ cấu độ tuổi và giới, đạt chuẩn về trình độ được đào tạo; tham gia vào
14


quá trình điều động của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với nhà
giáo, cán bộ, nhân viên.
- Tuyển sinh và quản lý người học.
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp
luật; sử dụng nguồn thu từ hoạt động kinh tế để đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất của Trường, mở rộng sản xuất, kinh doanh và chi cho các hoạt động giáo
dục theo quy định của pháp luật.
- Xây dựng hệ thống giáo trình, tài liệu, trang thiết bị dạy - học phục

vụ các ngành đào tạo của Trường và nhu cầu xã hội.
- Phối hợp với gia đình người học, các tổ chức, cá nhân trong hoạt
động giáo dục và đào tạo; Tổ chức cho công chức, viên chức và người học
tham gia các hoạt động xã hội phù hợp với ngành nghề đào tạo và nhu cầu của
xã hội.
- Tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sự kiểm định chất lượng
giáo dục của cơ quan có thẩm quyền; xây dựng và phát triển hệ thống đảm
bảo chất lượng của Nhà trường; tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng
và không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường.
- Tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ; ứng dụng, phát triển và
chuyển giao công nghệ; tham gia giải quyết những vấn đề về kinh tế - xã hội
của địa phương và đất nước; thực hiện dịch vụ khoa học, sản xuất kinh doanh
theo quy định của pháp luật.
- Liên kết với các tổ chức kinh tế, giáo dục, văn hóa, thể dục, thể thao,
y tế, nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, gắn đào tạo
với sử dụng, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bổ sung nguồn tài
chính cho Nhà trường.
- Xây dựng, quản lý và sử dụng cơ sở dữ liệu về đội ngũ công chức,
viên chức, các hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ và hợp tác quốc tế
của Nhà trường, về quá trình học tập và phát triển sau tốt nghiệp của người
học; tham gia dự báo nhu cầu nguồn nhân lực trong lĩnh vực đào tạo của
Trường.
- Được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; chuyển giao, chuyển nhượng kết
15


quả hoạt động khoa học và công nghệ, công bố kết quả hoạt động khoa học và
công nghệ; bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân trong hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ của Nhà trường.
- Phát hiện và bồi dưỡng nhân tài trong đội ngũ công chức, viên chức

và người học của trường.
- Thực hiện liên kết đào tạo sau đại học, đại học và thấp hơn theo quy
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các quy định hiện hành khác.
- Được Nhà nước giao hoặc cho thuê đất, giao hoặc cho thuê cơ sở vật
chất; được miễn, giảm thuế, vay tín dụng theo quy định của pháp luật.
- Chấp hành pháp luật về giáo dục; thực hiện xã hội hóa giáo dục; Giữ
gìn, phát triển di sản và bản sắc văn hóa dân tộc.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật và quy chế
làm việc của Bộ Nội vụ; Thực hiện chế độ báo cáo Bộ Nội vụ và các cơ quan
quản lý Nhà nước về hoạt động của Trường theo quy định của pháp luật.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
Cơ cấu tổ chức của Trường gồm có:
a) Ban Giám hiệu, gồm: Hiệu trưởng và các Phó Hiệu trưởng
b) Hội đồng khoa học và đào tạo, các Hội đồng tư vấn khác
c) Các Phòng chức năng:
- Phòng Quản lý đào tạo
- Phòng Tổ chức cán bộ
- Phòng Hành chính – Tổng hợp
- Phòng Kế hoạch – Tài chính
- Phòng Quản trị - Thiết bị
- Phòng Khảo thí và bảo đảm chất lượng
- Phòng Quản lý khoa học và sau đại học
- Phòng Hợp tác quốc tế
- Phòng Công tác sinh viên
d) Các Khoa:

16


- Khoa Tổ chức xây dựng chính quyền

- Khoa Tổ chức quản lý nhân lực
- Khoa Hành chính học
- Khoa Văn thư – Lưu trữ
- Khoa Quản trị văn phòng
- Khoa Văn hóa – Thông tin và xã hội
- Khoa Nhà nước và pháp luật
- Khoa Khoa học Chính trị
- Khoa Đào tạo tại chức và bồi dưỡng
đ) Các tổ chức khoa học – công nghệ và dịch vụ:
- Viện Nghiên cứu và phát triển Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
- Trung tâm Tin học
- Trung tâm Ngoại ngữ
- Trung tâm Thông tin Thư viện
- Tạp chí Đại học Nội vụ
- Ban Quản lý ký túc xá
e) Cơ sở đào tạo trực thuộc:
- Trung tâm đào tạo nghiệp vụ văn phòng và dạy nghề
- Cơ sở Trường Đại học Nội vụ Hà Nội tại Miền Trung
- Cơ sở Trường Đại học Nội vụ Hà Nội tại thành phố Hồ Chí Minh
g) Đảng Bộ Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
h) Công đoàn Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
i) Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
k) Các tổ chức đoàn thể và tổ chức xã hội khác.
2.2. Nhu cầu thu thập, xử lý thông tin phục vụ học tập của sinh
viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
2.2.1. Nhu cầu thu thập thông tin
Nhu cầu thông tin là một khái niệm cơ bản trong quá trình học tập của
17



sinh viên nói chung. Ở các trường học, dù là Giáo dục phổ thông, giáo dục đại
học chuyên nghiệp, giáo dục sau đại học, kể cả quá trình tự học,...thì học sinh,
sinh viên đều có nhu cầu thu thập, tìm kiếm thông tin nhằm thỏa mãn học tập
hay cuộc sống của mình. Đó là nhiệm vụ cơ bản, nếu không muốn nói là quan
trọng nhất của bất cứ quá trình học tập nào. Và quá trình học tập của sinh viên
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cũng không là ngoại lệ. Nhu cầu thu thập
thông tin của sinh viên mỗi ngành học, mỗi bậc trung học, cao đẳng, đại học
đều có sự khác biệt, nhưng vẫn có những vấn đề chung chi phối mọi loại nhu
cầu thu thập thông tin trong học tập.
Dễ nhận thấy rằng, nhu cầu thông tin của sinh viên có thể được chia
thành 3 nhóm lớn bao gồm: Nhóm thông tin đào tạo liên quan đến khóa học,
ngành học; nhóm thông tin/kiến thức, kỹ năng ngành học và nhóm thông tin
thực tế liên quan đến đời sống xã hội…
Thứ nhất, xét ở góc độ nhu cầu thông tin về ngành học, về chương
trình đào tạo thì hiện nay Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đang thực hiện song
song hai chương trình đào tạo: Đào tạo theo niên chế và đào tạo theo tín chỉ.
Với mỗi loại hình đào tạo, sinh viên cần phải chủ động thông tin trong học tập
của mình, đặc biệt là đào tạo theo học chế tín chỉ – loại hình đào tạo yêu cầu
sinh viên phải chủ động nghiên cứu kỹ, nắm chắc các tài liệu của nhà trường,
nắm vững chương trình đào tạo, các học phần phải học trước, các học phần
học song hành, phần kiến thức giáo dục đại cương, phần kiến thức giáo dục
chuyên nghiệp,… đó là nhu cầu thông tin cực kỳ quan trọng ảnh hưởng trực
tiếp học tập của sinh viên. Tuy nhiên, thực tế khảo sát của nhóm nghiên cứu
lại cho thấy một điều khá thất vọng của thực trạng sinh viên học tập tại
Trường hiện nay. Hầu hết sinh viên chưa chủ động trong việc tìm hiểu và nắm
bắt các thông tin liên quan đến khóa học, quy chế đào tạo, lịch học, phương
thức đánh giá của mỗi học phần. Trong khi đó, đây là điều đặc biệt cần thiết
đối với khối sinh viên đang được đào tạo theo học chế tín chỉ.
18



Thứ hai, nhóm thông tin/kiến thức, kỹ năng ngành học bao gồm một số
ngành học tiêu biểu như:
Đối với ngành Lưu trữ học và Văn thư – Lưu trữ, sinh viên cần đến các
thông tin, các kiến thức và kĩ năng về: quản trị văn phòng, thư kí văn phòng,
văn hoá công sở, lễ tân văn phòng, tin học văn phòng, soạn thảo văn bản,
quản lí văn bản, lập hồ sơ, lưu trữ và tra tìm hồ sơ, tài liệu… Bên cạnh đó, họ
cần được trang bị các kĩ năng mềm để thích ứng với công việc tại các môi
trường làm việc khác nhau như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tham mưu, kĩ năng
thuyết trình, kĩ năng tổ chức sự kiện và đặc biệt là kĩ năng thu thập và xử lí
thông tin. Theo kết quả khảo sát, 92% sinh viên thuộc ngành học Lưu trữ học
cần và biết đến thông tin quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến học tập của
mình. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần có phương pháp để nâng cao những kỹ
năng này cho sinh viên ngành học để sinh viên ra trường có trình độ am hiểu
thông tin và kỹ năng nghề nghiệp đem lại hiệu quả trong công việc.
Ngành Quản lý Nhà nước cung cấp thông tin cho sinh viên những kiến
thức cơ bản về quản lý, kiến thức chuyên sâu về quản lý hành chính Nhà nước
để sinh viên có khả năng thực hiện được các công việc quản lý hành chính
thuộc khu vực công hoặc khu vực tư: Kỹ năng về điều hành, tổ chức, kỹ năng
quản lý nhân sự, kỹ năng thao tác nghiệp vụ hành chính văn phòng cơ bản, kỹ
năng giải quyết các thủ tục hành chính,…Vì vậy, sinh viên rất cần thông tin
để có thể phân tích, đánh giá các vấn đề về quản lý hành chính, có khả năng
đàm phán trong quản lý hành chính và giao tiếp đạt hiệu quả. Trong giai đoạn
đất nước đẩy mạnh phát triển kinh tế hội nhập quốc tế, nguồn nhân lực nói
chung và đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan Nhà nước
có vai trò quyết định. Đội ngũ này chính là những người xây dựng và thực thi
chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, các cơ quan Nhà nước rất cần có
đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ, kỹ năng về quản lý Nhà nước. Thực tế
có đến 96% các bạn sinh viên ngành học này cho rằng thông tin có vai trò đặc
19



biệt quan trọng đối với việc học tập. Có kỹ năng thu thập thông tin về quản lý
Nhà nước sẽ là một trong những điều kiện tiên quyết cho các bạn sinh viên
đạt được thành công trong học tập và tương lai.
Ngành Quản trị Văn phòng là ngành được xây dựng dựa trên nhu cầu
của xã hội về nguồn nhân lực có chuyên môn, trình độ về Quản trị văn phòng.
Do đó, sinh viên ngành học này rất cần nguồn thông tin đảm bảo cho học tập
và công việc sau này. Qua khảo sát thực tế sinh viên ngành học có tới 100%
các bạn cho rằng thông tin cần cho học tập của mình, và rất cần có phương
pháp để thu thập thông tin cho hiệu quả. Những thông tin này cần phải phù
hợp với mục tiêu đào tạo ngành Quản trị văn phòng hướng đến là đào tạo sinh
viên có khả năng giúp lãnh đạo cơ quan quản lý, triển khai, hướng dẫn thực
hiện các nghiệp vụ văn phòng tại các đơn vị, bộ phận văn phòng của cơ quan,
tổ chức; đào tạo sinh viên có khả năng thực hiện thành thạo các kỹ năng,
nghiệp vụ văn phòng như: tham mưu, tổng hợp và cung cấp thông tin phục vụ
cho hoạt động quản lý; soạn thảo văn bản; tổ chức quản lý và giải quyết văn
bản; kỹ năng giao tiếp; phương pháp tổ chức các hoạt động, bố trí sắp xếp các
công việc và cải tiến lề lối làm việc trong văn phòng; phương pháp kiểm tra,
đánh giá, điều hành…
Ngành Khoa học thư viện là ngành gắn liền với thông tin nhiều nhất so
với các ngành học khác. Ngành học yêu cầu sinh viên cần nắm được những
thông tin, kiến thức cơ bản về Khoa học thư viện, đáp ứng nhu cầu hoạt động
trong lĩnh vực thư viện và thông tin; nắm vững kiến thức, tổ chức các hoạt
động nghiệp vụ cơ bản của khoa học thư viện như lựa chọn, thu thập, bổ sung
nguồn tin, tổ chức xử lý, lưu giữ, phân tích, tổng hợp, tạo dựng các sản phẩm,
dịch vụ và phân phối thông tin theo phương pháp truyền thống và hiện đại; có
kiến thức và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động thư viện,
am hiểu các loại hình thư viện…Có kỹ năng thực hành thành thạo các hoạt
động nghiệp vụ thư viện - thông tin: chọn lọc, bổ sung, xử lý tài liệu; tổ chức

20


kho, bảo quản tài liệu; tổ chức bộ máy tra cứu, tra cứu thông tin và tổ chức
các dịch vụ thư viện - thông tin phục vụ người đọc, người dùng tin. Vì đặc thù
ngành gắn liền với thông tin cốt lõi cho quá trình học tập nên 100% sinh viên
ngành này cần đến thông tin và đòi hỏi phương pháp mang lại hiệu quả nhất
trong học tập.
Thứ ba, ngoài sự khác biệt về nhu cầu kiến thức, thông tin về ngành
học, sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội có một nhu cầu chung về thông
tin rất quan trọng khác. Đó là thông tin thực tế liên quan đến đời sống - xã
hội, nó gắn liền quá trình học tập và nâng cao khả năng nhận thức của sinh
viên. Thông tin từ thực tiễn của đời sống xã hội mang lại sự khác biệt về
ngoại hình lẫn tư duy của sinh viên. Trên thực tế, thời đại thông tin ngày nay
đã tạo ra những điều kiện và cơ hội cho sinh viên về nhu cầu được giao lưu,
liên kết, chia sẻ những sở thích, sự quan tâm, những ý tưởng, những việc làm
bằng các phương tiện truyền thông hiện đại – nhất là sự phát triển ngày càng
đa dạng của Internet, trong đó có các mạng xã hội. Sinh viên luôn cần nhu cầu
thông tin để chia sẻ và chọn lọc một cách có hiệu quả thông tin hiện tại hoặc
cả thông tin vượt qua trở ngại về không gian và thời gian, vượt qua khoảng
cách giữa các thế hệ. Nó giúp nâng cao vai trò của mỗi sinh viên trong việc
tạo lập quan hệ và tự tổ chức xoay quanh những mối quan tâm chung trong
những cộng đồng, thúc đẩy sự liên kết các tổ chức xã hội. Sinh viên cần có
nhu cầu thông tin để phục vụ những mục đích tất yếu của mình, để tác động
bản thân sinh viên tự làm thay đổi nhiều thói quen cũ và hình thành những
biểu hiện mới của tư duy, lối sống và văn hóa.
2.2.2. Nhu cầu xử lý thông tin
Xử lý thông tin là công đoạn mà chủ thể tác động lên nguồn thông tin
đã được lựa chọn nhằm loại bỏ những thông tin nhiễu hay những thông tin
không đáp ứng các yêu cầu đã được đặt ra ban đầu. Việc vận dụng và liên kết

các thông tin lại theo mối quan hệ về bản chất vốn có, đúc rút ra những thông
21


tin thật sự có giá trị, phục vụ cho việc học tập, lao động và nghiên cứu là vô
cùng cần thiết và quan trọng. Bản chất của xử lý thông tin không làm tăng
lượng tin mà chỉ hướng đối tượng dùng tin vào việc làm sao để thông tin gọn
nhẹ nhất, dễ dàng sử dụng và đem lại hiệu quả tối ưu nhất, bởi vì mục đích
của quá trình xử lý thông tin là tri thức. Trên thực tế, mặc dù xử lý thông tin
có vai trò quan trọng như vậy nhưng không phải 100% sinh viên Trường Đại
học Nội vụ Hà Nội đều có nhu cầu xử lý thông tin.
Trước hết, đối với đại bộ phận sinh viên có nhu cầu xử lý thông tin: Do
khối lượng thông tin được thu thập từ các nguồn khá đa dạng và phong phú,
nên thực tế này đặt ra yêu cầu phải xử lý thông tin. Nhu cầu xử lý thông tin
xuất phát từ chính bản thân người học, nhằm phục vụ việc học tập cũng như
phục vụ cho đời sống sinh hoạt hàng ngày. Điều này có nghĩa, các nguồn
thông tin được thu thập sẽ phải trải qua quá trình “chế biến” bằng các phương
pháp cụ thể như phân loại thông tin, phân tích thông tin, xác định mức độ tin
cậy của nguồn tin và lựa chọn thông tin. Qua khảo sát thực tế, chúng tôi nhận
thấy rằng, có đến 87% sinh viên có nhu cầu xử lý thông tin sau khi tiến hành
công đoạn thu thập. Nguyên nhân chính được xác định chính là sự phát triển
của khoa học công nghệ, truyền thông. Cụ thể là, khi nghiên cứu hoặc tìm hiểu
về một vấn đề nào đó, sự phát triển của khoa học công nghệ và truyền thông
hiện nay có thể cung cấp cho sinh viên vô số các nguồn tin. Nhiệm vụ của sinh
viên lúc này là phải phân loại, phân tích, lựa chọn, tổng hợp những thông tin đó
để có được thông tin có giá trị nhất phục vụ việc học tập và nghiên cứu của
mình.
Đối với số lượng nhỏ sinh viên không có nhu cầu xử lý thông tin: Sinh
viên thuộc nhóm này chỉ chiếm 13% tổng số sinh viên của Trường. Thay vì
thực hiện các phương pháp xử lý thông tin sau khi thu thập được thì sinh viên

thuộc nhóm này lại thực hiện sao chép y nguyên trong tài liệu khi làm bài tập
được giáo viên bộ môn giao. Bên cạnh đó, một số sinh viên thậm chí không
22


×