Tải bản đầy đủ (.pdf) (149 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và ý nghĩa hiện thời của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (982.41 KB, 149 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Đỗ Thị Kim Hoa

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội, 2016
HÀ NỘI - năm


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Đỗ Thị Kim Hoa

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN
CHỦ VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ

Chuyên ngành: CNDVBC và CNDVLS
Mã số: 62.22.03.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM VĂN ĐỨC



HÀ NỘI – 2016


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................2
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .....................................6
1.1. Công trình nghiên cứu về khái niệm dân chủ và cơ sở hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ......................................................................... 6
1.2. Công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ ...................... 14
1.3. Những nghiên cứu đánh giá ý nghĩa hiện thời tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ........................................................................................................ 21
1.4. Nhận xét tổng quát và hướng nghiên cứu ................................................ 23
Chƣơng 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
DÂN CHỦ ................................................................................................................... 27
2.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................ 27
2.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 41
Kết luận Chương 2 ...................................................................................................... 52
Chƣơng 3. TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢN CHẤT, VAI TRÒ,
PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN VÀ PHƢƠNG PHÁP THỰC HÀNH
DÂN CHỦ ................................................................................................................... 53
3.1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về bản chất, vai trò và phương thức biểu
hiện của dân chủ .............................................................................................. 53
3.2. Phương pháp thực hành dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh .................... 74
Kết luận chương 3 ....................................................................................................... 89
Chƣơng 4. Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................... 90
4.1. Bổ sung và phát triển lý luận Mác – Lênin về dân chủ ........................... 90
4.2. Góp phần làm cơ sở cho quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
dân chủ ............................................................................................................ 99

4.3. Góp phần định hướng cho hoạt động thực tiễn ...................................... 113
4.4. Góp phần xây dựng và đổi mới văn hóa dân chủ................................... 125
Kết luận chương 4 ..................................................................................................... 132
KẾT LUẬN............................................................................................................... 134
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .............................................................................. 136
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 137

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, cùng với xu thế phát triển của thời đại, sự hội nhập và giao
lưu văn hóa diễn ra mạnh mẽ, nhu cầu dân chủ của nhân dân ta ngày càng
được nâng cao. Trong quá trình đổi mới đất nước, các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội đều cần được hoàn thiện, phát triển và mở rộng
cũng như đi vào chiều sâu. Dân chủ là động lực lớn cho sự phát triển của xã
hội. Như vậy, việc đẩy mạnh quá trình thực hiện dân chủ của đất nước cần
dựa trên những lý luận nền tảng về dân chủ. Cho nên, việc khảo cứu và làm
rõ các lý luận về dân chủ để từ đó vận dụng vào giải quyết những vấn đề
bức xúc đang đặt ra cần thiết hơn bao giờ hết.
Từ năm 1991 đến nay, Đảng ta đã khẳng định, “lấy Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động”. Những di
sản Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta trong đó có tư tưởng về dân chủ đến
nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là một trong những kho tàng lý luận quý giá
của dân tộc. Ở đó hàm chứa nhiều vấn đề về dân chủ liên quan đến xây
dựng, phát triển xã hội mà chúng ta chưa khai thác được một cách triệt để.
Tư tưởng của Người là sự kế thừa và phát triển học thuyết Mác –
Lênin. Người đã bổ sung và làm phong phú thêm học thuyết Mác về dân

chủ. Hiện nay, chúng ta đang trong quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào trong điều kiện cụ thể của Việt Nam nên cũng cần phải
xem xét và luận giải về sự kế thừa và phát triển tư tưởng dân chủ Hồ Chí
Minh trong học thuyết Mác.
Đối với Việt Nam, từ khi thực hiện chính sách “mở cửa”, Đảng và
Nhà nước ta cũng đã quan tâm đến thực thi dân chủ cho người dân. Thực tế
cho thấy, qua mỗi kỳ Đại hội, trong đường lối của Đảng càng ngày càng
quan tâm hơn đến vấn đề dân chủ. Để có được những định hướng đúng và
trúng thì đường lối, chính sách để thực thi dân chủ không thể không dựa vào
những lý luận dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Do vậy, tư tưởng dân
chủ của Người càng cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng để Đảng và Nhà

2


nước ta có cơ sở vận dụng một cách sáng tạo và hiệu quả trong việc thực thi
dân chủ nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu dân chủ của người dân.
Tuy nhiên, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ có thực sự đã được khai
thác một cách triệt để chưa? Những lý luận mà Người để lại mà chúng ta
khai thác hiện nay đã được hiểu đúng và trúng chưa? Những vấn đề về dân
chủ và thực hành dân chủ của Người được hiểu đúng thì đã được vận dụng
tốt cho hoàn cảnh hiện nay của chúng ta chưa?... Từ những điều này, cho
thấy việc nghiên cứu là làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và ý
nghĩa hiện thời của nó là cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
- Trên cơ sở phân tích và làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ,
luận án nêu bật ý nghĩa hiện thời của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
trong quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ

Để thực hiện mục đích đó, luận án có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Thứ nhất: Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Thứ hai: Trình bày khái niệm dân chủ và nêu lên cơ sở hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ.
- Thứ ba: Trình bày và phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
- Thứ tư: Làm rõ ý nghĩa hiện thời của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ trong quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ. Trước
hết, khái niệm dân chủ, cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, tư
tưởng Hồ Chí Minh về bản chất, vai trò và phương pháp dân chủ là những đối
tượng nghiên cứu chủ yếu. Bên cạnh đó, những giá trị tư tưởng dân chủ của Hồ
Chí Minh có ý nghĩa trong quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam hiện nay cũng sẽ
được luận giải.
3.2 Phạm vi nghiên cứu

3


Không gian nghiên cứu: Luận án tập trung khảo cứu các quan niệm
phương Đông, phương Tây về dân chủ. Những tác phẩm của Hồ Chí Minh
về dân chủ ở Việt Nam và ý nghĩa của tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh đối
với Việt Nam.
Thời gian nghiên cứu: Luận án chỉ khảo sát tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ và thực hành dân chủ từ 1912 đến 1969 và ý nghĩa của tư tưởng này
từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (1986) đến nay ở Việt Nam.
4. Cơ sở và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở nghiên cứu
a/- Cơ sở lý luận: Luận án nghiên cứu lấy chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở xuyên suốt cho toàn bộ những
luận giải của luận án. Trong quá trình nghiên cứu, luận án chủ yếu dựa trên
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ.
b/- Cơ sở thực tiễn: Luận án nghiên cứu xem xét việc thực hành dân
chủ ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Những giá trị tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ và ý nghĩa hiện thời của tư tưởng ấy trong công cuộc đổi
mới hiện nay với yêu cầu lấy thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng một số phương pháp phổ biến trong nghiên cứu khoa
học xã hội như: phương pháp nghiên cứu phân tích - tổng hợp, quy nạp, diễn
dịch, đi từ cụ thể đến trừu tượng, phương pháp so sánh, đối chiếu, lôgic –
lịch sử, hệ thống hóa, khái quát hóa, phương pháp văn bản học, phân loại,
thông kê và hồi cố để phân tích những giá trị trong tư tưởng dân chủ của Hồ
Chí Minh.
Luận án sử dụng cách tiếp cận tổng thể, liên ngành, đa dạng trên cơ sở
sử dụng phương pháp duy vật biện chứng xem xét vấn đề từ góc độ triết học
chính trị về dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và nêu rõ ý nghĩa hiện thời
của tư tưởng ấy.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

4


Luận án đã trình bày và phân tích làm nổi bật các giá trị cốt lõi về dân
chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Bước đầu khai thác một cách tổng hợp nhất
về bản chất, vai trò trong quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ và đã làm
sáng tỏ được tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ dưới góc độ các phương thức
biểu hiện. Bên cạnh đó luận án nêu lên được tư tưởng Hồ Chí Minh về phương
pháp thực hành dân chủ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội.

Luận án đã có những đánh giá về ý nghĩa hiện thời của tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân chủ trong quá trình dân chủ hóa của Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Khẳng định được về giá trị phương pháp luận to lớn tư tưởng dân
chủ của Hồ Chí Minh. Luận án góp phần bổ sung lý luận chung về dân chủ
và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ.
- Luận án sẽ là tài liệu tham khảo, phục vụ cho công tác giảng dạy và
nghiên cứu chuyên ngành Triết học, Chính trị học, Tư tưởng Hồ Chí Minh ở
Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
các công trình đã công bố, luận án được chia làm 4 chương, 12 tiết.

5


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trước hết, cần khẳng định rằng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và
ý nghĩa hiện thời của nó là mảng đề tài rất có ý nghĩa. Từng nội dung riêng
rẽ của vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng liên quan đến chủ đề trên cũng
đã ít nhiều được các nhà khoa học, các công trình nghiên cứu đi trước bàn
luận ở những mức độ khác nhau cả về quy mô, hướng tiếp cận lẫn cách giải
quyết. Qua sự tìm tòi, nghiên cứu và tiếp cận với những tư liệu liên quan
đền đề tài, tác giả tổng quan tư liệu chủ yếu trên ba nhóm chủ đề lớn như
sau:
1.1.

Công trình nghiên cứu về khái niệm dân chủ và cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí


Minh về dân chủ.

1.1.1. Những nghiên cứu về khái niệm dân chủ.
Từ lâu, vấn đề dân chủ đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
ở nhiều lĩnh vực khác nhau, như chính trị học, triết học, luật học, xã hội
học… Trên thực tế, đã có nhiều công trình nghiên cứu phân tích các khía
cạnh của vấn đề này.
Cuốn “Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện
nay” của Đỗ Trung Hiếu, Nxb. Chính trị quốc gia, 2000 đã trình bày các
quan điểm trong lịch sử tư tưởng nhân loại về khái niệm dân chủ và nhà
nước, những đóng góp của chủ nghĩa Mác đối với học thuyết về dân chủ và
nhà nước. Tác giả đã tìm hiểu khái niệm “dân chủ” dưới cả 2 góc độ triết
học và chính trị. Thứ nhất, chiều cạnh triết học của dân chủ được thể hiện ở
3 nội dung: tự do cá nhân, bình đẳng về điều kiện và thống nhất trong tính
đa dạng; Thứ hai, chiều cạnh chính trị của dân chủ được cụ thể hóa thành 10
nguyên tắc: Tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân; mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật; quyền tự do tư tưởng, ý chí; nguyên tắc thiểu số phục
tùng đa số; nguyên tắc quyền của thiểu số; nguyên tắc bảo đảm các quyền cơ
bản của con người; nguyên tắc bầu cử tự do và công bằng; nguyên tắc hạn

6


chế quyền năng nhà nước bằng Hiến pháp; nguyên tắc thống nhất trong tính
đa dạng các khuynh hướng xã hội; nguyên tắc hòa giải, hợp tác, khoan dung
và đối thoại trong giải quyết các xung đột.
Tác giả cho rằng, không nên đồng nhất vấn đề dân chủ với vấn đề giai
cấp, “nếu chỉ nhấn mạnh vào một yếu tố là tính giai cấp (dĩ nhiên việc nhấn
mạnh như vậy là hoàn toàn đúng đắn trong bối cảnh lịch sử xác định) mà
chưa quan tâm thỏa đáng đến những yếu tố khác, thì nền dân chủ mới vẫn

chưa thể hình thành và do đó, chưa thể phát huy được những tiềm năng vốn
có của nó”; “không nên đánh đồng mục tiêu dân chủ xã hội chủ nghĩa với
hiện thực dân chủ”.
Tác giả cũng đã chỉ ra ba nguyên nhân chính của việc đồng nhất dân
chủ vô sản với chuyên chính vô sản, đó là: Thứ nhất, những nhà mácxít về
sau đã không quán triệt đầy đủ tinh thần của phép biện chứng, cụ thể là chưa
nhận thức đúng ý nghĩa của việc bổ sung và phát triển lý luận về nhà nước
và dân chủ do V.I.Lênin đề ra; Thứ hai, đã có sự lẫn lộn giữa lý tưởng với lý
thuyết khoa học của chủ nghĩa Mác; Thứ ba, trong hiện thực xã hội chủ
nghĩa của Liên Xô và các nước Đông Âu (cũ) vẫn chưa có một cơ chế dân
chủ hữu hiệu cho phép khai mở các tiềm năng sáng tạo cá nhân, cho phép sự
đa dạng ý kiến và các tranh luận thuộc lĩnh vực khoa học xã hội – nhân văn.
Cuốn “Dân chủ và thiết chế dân chủ ở Việt Nam”, Nxb. Quân đội nhân
dân, 2006, là một công trình biên soạn khá công phu về vấn đề dân chủ và thiết
chế dân chủ ở Việt Nam. Trong cuốn sách, các tác giả đã dành một phần lớn để
bàn về nguồn gốc của thuật ngữ “dân chủ”, những nội dung cơ bản của khái
niệm dân chủ và thực hiện dân chủ... Nhóm tác giả cho rằng, có nhiều cách
hiểu khác nhau về dân chủ và họ cũng đã chỉ ra những bình diện khác nhau của
dân chủ, chẳng hạn coi dân chủ như một dòng triết học – chính trị, dân chủ như
một chỉnh thể hiện thực, hoặc dân chủ như một thực thể chính trị,…
Bên cạnh đó, các tác giả đã trình bày quá trình hình thành và phát
triển của dân chủ bắt đầu từ xã hội cộng sản nguyên thủy đến xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, trong phần đề cập đến dân chủ trong xã hội tư bản chủ

7


nghĩa, các tác giả vẫn còn chịu ảnh hưởng của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác trong việc đánh giá nền dân chủ trong giai đoạn lịch sử này. Đồng thời,
các tác giả cũng làm rõ sự thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính dân tộc

và tính nhân loại trong các giá trị dân chủ trong xã hội có giai cấp.
Từ những nội dung trên, các tác giả đưa ra một số nguyên tắc và tiêu
chí của một xã hội dân chủ cũng như cơ chế để thực hiện dân chủ. Đặc biệt,
các tác giả cũng đã dành một phần không nhỏ trong cuốn sách để phân tích
và so sánh dân chủ tư sản với dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Cuốn “Dân chủ và tập trung dân chủ: Lý luận và thực tiễn” của
Nguyễn Tiến Phồn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, là công trình tập
hợp những chuyên luận nghiên cứu của tác giả về dân chủ và tập trung dân
chủ, tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ và nguyên tắc tập trung
dân chủ trong hoạt động quản lý Nhà nước, vai trò lãnh đạo chính trị của
Đảng và chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước...
Đề tài cấp Bộ “Thực hiện quy chế dân chủ ở các doanh nghiệp nhà
nước trên địa bàn Hà Nội – thực trạng và giải pháp” do Lưu Văn An làm
chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2006, đã trình bày một số vấn đề lý luận về dân
chủ, dân chủ cơ sở và các đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước; đánh giá
thực trạng triển khai xây dựng, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và qua đó,
đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả quy
chế dân chủ cơ sở trên địa bàn Hà Nội. Theo nhóm tác giả đề tài, khái niệm
dân chủ được hiểu theo 4 góc độ: Thứ nhất, dân chủ là hình thái nhà nước,
trong đó mọi quyền lực thuộc về giai cấp thống trị - quyền sở hữu về tư liệu
sản xuất và quyền lực nhà nước. Thứ hai, dân chủ là nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, cùng với nhà nước thiết lập một
xã hội công dân có sự phân công, phối hợp hài hoà quyền lực, dung hoà các
quyền lợi giai cấp, tầng lớp xã hội để duy trì ổn định và phát triển xã hội.
Thứ ba, dân chủ là sản phẩm của lịch sử, là một giá trị xã hội – chính trị có
sự phát triển biện chứng cả về nội dung và hình thức biểu hiện dưới sự tác
động của sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá và trình độ dân trí cao. Thứ

8



tư, chế độ dân chủ là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, giữa giai cấp thống trị
và giai cấp bị trị. Bên cạnh đó, đề tài đưa ra một số quan điểm cơ bản của
Đảng coi dân chủ là khát vọng của con người được quyền sống, quyền làm
người, quyền mưu cầu hạnh phúc; dân chủ phải được thực hiện trên mọi mặt
của đời sống xã hội; cần đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị nhằm thực
hiện dân chủ ngày càng đầy đủ hơn; dân chủ trước hết phải được thực hiện
từ cơ sở, vì vậy phải xây dựng và hoàn thiện quy chế dân chủ, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở.
Ngoài những tài liệu nghiên cứu trong nước về dân chủ, các tài liệu
nghiên cứu nước ngoài cũng đã cho thấy sự phong phú, đa dạng trong quan
niệm của các học giả về dân chủ.
Tác giả Amartya Sen, nhà Kinh tế học nổi tiếng đoạt giải Nobel năm
1998 đã đưa ra được khá nhiều nhận định về dân chủ. Trong cuốn của
Amartya Sen Development as Freedom (Phát triển là quyền tự do), Nxb
Alfred A.Knopf, New York, 1999, ở chương 6, “Tầm quan trọng của dân
chủ”, tác giả đã có những lập luận rất sắc bén về tầm quan trọng của dân
chủ. Theo ông, dân chủ là một nhu cầu thiết yếu của con người, là tầm quan
trọng tự thân của dân chủ, gắn liền với năng lực cơ bản của con người. Hơn
nữa, theo tác giả, tầm quan trọng của dân chủ đóng vai trò “có tính công cụ”
giúp cho nhân dân có cơ hội đòi hỏi nhà nước có những hành động thích hợp
để ngăn chặn những thảm họa lớn. Và hơn bao giờ hết, dân chủ có vai trò
mang tính xây dựng, dân chủ sẽ góp phần tạo ra các giá trị và chuẩn mực
của xã hội. Đây là một sự tiếp cận khá độc đáo, với những lý giải chân thực,
tinh tế và bao quát về vai trò của dân chủ, tiếc rằng thời lượng dành cho việc
phân tích này trong cuốn sách là quá ít.
Bên cạnh Development as Freedom, Amartya Sen cùng với James
D.Wolfensohn, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới, đồng thuận cho rằng cuộc
tranh luận công cộng và các cuộc thảo luận mang tính dân chủ có thể đóng
một phần quan trọng trong việc hình thành các giá trị. Ông A.Sen nhận xét

rằng, "trong ý nghĩa này, sự cởi mở liên quan đến dân chủ là một phần giải

9


pháp của vấn đề thất bại giá trị cản trở hiệu quả của thị trường"; rằng, nó là
quan trọng đối với mối quan hệ giữa các quốc gia cũng như giữa các công
dân. Những vấn đề này đã được đề cập đến trong “Dân chủ kinh tế thị
trường và phát triển từ góc nhìn châu Á”, do Farrukh Iqbal và Jong-II You
chủ biên, Nxb. Thế giới, 2002.
Cuốn Chế độ dân chủ: Nhà nước và xã hội của tác giả N.M
Voskresenskaia và N.B. Davletshina do Phạm Nguyên Trường dịch cho Nhà
xuất bản Tri thức năm 2009 đã có những phân tích thế nào là dân chủ, các
giá trị khác nhau của dân chủ… Đặc biệt tác giả đã đưa ra các quyền con
người trong một xã hội dân chủ cần phải được tôn trọng, và tác giả khẳng
định không thể và không cho phép bất cứ thế lực chính trị nào tước đoạt đi
những quyền đó của con người cũng như từng người và không được cho
phép mình chà đạp lên những quyền đó của người khác.
Cuốn Democracy (Dân chủ) của Harrison Ross, Nxb. Routldge, London
New York, 1993 đã phân tích các quan niệm về dân chủ và các hình thức dân
chủ của các nhà tư tưởng phương Tây từ thời cổ đại đến hiện nay, như các nhà
tư tưởng Hy Lạp cổ đại, những người đi tiên phong trong quan niệm về tự do
(Hobbes, Lock, Rousseau, Hegel, C.Mác cũng như một số triết gia phương Tây
khác, như Bentham, Mill...). Mối quan hệ giữa dân chủ với luật pháp, giữa dân
chủ và bình đẳng... cũng được khảo cứu trong cuốn sách.
Trong cuốn Capitalism, Socialism And democracy (Chủ nghĩa Tư bản,
Chủ nghĩa Xã hội và Dân chủ) của Joseph A.Schumpeter, Nxb. Routledge,
London and New York, 2003 (xuất bản lần đầu năm 1943), tác giả cũng đã
dành một phần để bàn về dân chủ trong chủ nghĩa xã hội cũng như dân chủ
trong chế độ một đảng. Trong chương 4 của cuốn sách, tác giả đã làm rõ khái

niệm dân chủ thông qua việc phân tích nguồn gốc của khái niệm, cũng như
những quan điểm truyền thống và hiện đại về dân chủ. Qua đó, đề xuất một số
yêu cầu cho việc bảo đảm dân chủ trong chủ nghĩa xã hội.
David Held, Models Of Democracy (Các mô hình dân chủ), Stanford
University Press, 2006. Cuốn sách đã nghiên cứu mô hình dân chủ cổ điển ở

10


Hy Lạp để từ đó đưa ra những ý kiến cho việc xây dựng một mô hình dân
chủ hiện nay, khi mà nền chính trị thế giới đang biến đổi một cách nhanh
chóng. Đồng thời, một chương trình mới về dân chủ cũng đã được thảo luận,
trong đó người dân không chỉ tham gia vào chính trị mà còn phải làm cho sự
tham gia đó có hiệu quả và ý nghĩa hơn.
Ngoài ra còn có rất nhiều cuốn sách và bài viết trên các tạp chí nghiên
cứu nổi tiếng khác nhau của các tác giả nước ngoài nghiên cứu về dân chủ ở
các khía cạnh chính trị, chính đảng, nhà nước pháp quyền, luật pháp, toàn
cầu hóa… như: Larry Diamond, All citizens are equal under the law (Tất cả
công dân đều bình đẳng trước pháp luật), Hilla University for Humanistic
Studies, 2004; Michel Rosenfeld, The rule of law and the legitimacy of
constitutional democracy (Các quy tắc của luật pháp và tính hợp pháp của
nền dân chủ lập hiến), Southern California Law Review, vol 74, 2001. Cuốn
Tương lai của nền dân chủ xã hội của Thomas Meyer và Nicole Breyer đã
được dịch ra tiếng Việt và xuất bản tại Nxb Lý luận chính trị, 2007….
1.1.2. Những nghiên cứu về cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ.
Cuốn “Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb Chính trị quốc gia,
2003 phân tích nguồn gốc tư tưởng và điều kiện lịch sử tác động đến sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, các tác giả đã nêu lên những điều
kiện cụ thể của thế giới và Việt Nam lúc đó đã có ảnh hưởng nhiều đến sự

hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh, đặc biệt là yếu tố quê hương và gia
đình. Về nguồn gốc tư tưởng, có thể thấy, giáo trình đã chỉ ra truyền thống
văn hóa Việt Nam, tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây là những
nguồn tư tưởng để Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển cho lý luận của mình.
Ở đây, cuốn sách chỉ nêu những điểm chung nhất ảnh hưởng đến sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh mà không chỉ ra một cách cụ thể yếu tố nào
làm nên tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh. Đây không phải là sự thiếu sót của
cuốn sách mà do đặc thù của một cuốn giáo trình về tư tưởng Hồ Chí Minh
nói chung nên việc nêu lên như vậy là hoàn toàn hợp lý.

11


Trong cuốn “Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh”, Nxb Chính trị
quốc gia, 2007 của tác giả Phạm Văn Bình đã nên và phân tích 4 cơ sở hình
thành phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh.
Một là sự tiếp thu yếu tố và hình thức dân chủ trong văn hóa truyền
thống Việt Nam. Ở đây tác giả đã nêu lên các yếu tố “dân chủ nông thôn”,
dân chủ của những thiết chế làng xã, phong tục, tập quán, lễ hội trong các
hình thức dân chủ truyền thống cùng các yếu tố dân chủ trong các vương
triều tiến bộ của Việt Nam đã tác động đến Hồ Chí Minh. Tác giả cũng
khẳng định những yếu tố dân chủ của các nhà Nho yêu nước trước và cùng
thời với Hồ Chí Minh đã làm nên chất men gợi ý cho việc xây dựng nền dân
chủ cộng hòa ở Việt Nam của Hồ Chí Minh.
Hai là những ảnh hưởng của văn hóa dân chủ phương Đông đến Hồ
Chí Minh. Trong phần này, tác giả đã khẳng định văn hóa Phật giáo, Nho
giáo làm nên nhân cách con người Hồ Chí Minh.
Ba là Hồ Chí Minh tiếp nhận giá trị tư tưởng dân chủ tư sản phương
Tây. Ngoài việc nêu lên sự tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản từ các nhà khai
sáng Pháp như Montesquieu, JJ. Rousseau… tác giả còn nhấn mạnh thêm

rằng, những năm tháng hoạt động trên đất Pháp, Mỹ, Anh – những nước văn
minh nhất thế giới - với những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái cũng như sự
“khai hóa văn minh” của những nước này giúp cho Hồ Chí Minh nhận thấy
những giá trị của dân chủ tư sản và cả mặt trái của nó.
Bốn là sự tiếp thu tư tưởng dân chủ của chủ nghĩa Mác – Lênin và
hình thức dân chủ Xôviết. Những tư tưởng về giải phóng con người, giải
phóng xã hội, cùng với Cách mạng Tháng Mười Nga được tác giả cho rằng
Hồ Chí Minh rất tâm đắc và tiếp thu một cách tích cực. Như vậy, có thể
thấy khi tác giả giải quyết một khía cạnh về phương pháp thực hành dân chủ
của Hồ Chí Minh, tác giả đã nêu lên được bốn nguồn gốc hình thành tư
tưởng ấy. Tuy nhiên, tác giả chưa chỉ ra đâu là nguồn gốc lý luận, đâu là
nguồn gốc thực tiễn.

12


Cuốn “Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh” của Phạm Thành –
Nguyễn Khắc Mai, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991 đã phân tích một số nguồn
gốc hình thành nên tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh. Trong khi phân tích, tác
giả không nêu rõ thứ tự các nguồn gốc. Qua sự phân tích đan xen của tác giả
chúng ta có thể tóm lược lại một số nguồn gốc. Đó là, triết lý nhân văn
phương Đông; những điều mới mẻ tích cực của dân chủ tư sản phương Tây
và cả mặt hạn chế của nó; các phong trào dân chủ của các cuộc cách mạng
Pháp và Mỹ; lý luận dân chủ của chủ nghĩa Mác – Lênin; sự đàn áp của thực
dân Pháp đối với nhân dân An Nam.
Trong bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế thực hiện dân chủ” trên
tạp chí Triết học số 1 năm 2003 của tác giả Dương Văn Duyên đã khẳng
định, tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là sự “kế thừa có chọn lọc và phát
triển sáng tạo những tư tưởng dân chủ tiến bộ của các nhà triết học, nhà tư
tưởng lớn trên thế giới, mà trực tiếp nhất là tư tưởng dân chủ của V.I.Lênin”

[21, tr.10]. Tác giả cũng khẳng định những trải nghiệm của Hồ Chí Minh ở
các nước Anh Pháp, Mỹ và chứng kiến hoàn cảnh của nước nhà cũng như
những thay đổi của nước Nga Xôviết mà Người đã nhận thức được về dân
chủ. Ở đây, tác giả mới đưa ra những khẳng định mà chưa có một sự phân
tích cụ thể nào.
Tác giả Đỗ Huy, trong bài “Cách thức tiếp thu di sản tư tưởng nhân
loại ở Hồ Chí Minh” đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ tiếp
thu Nho giáo, Cơ đốc giáo, Mác – Lênin, Tôn Dật Tiên, mà còn tiếp thu cả
Phật giáo, hệ tư tưởng tư sản; ca ngợi cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ; tiếp
cận với tư tưởng về nhà nước của A. Lincôn; cổ vũ tinh thần yêu nước của
đạo Cao Đài, Hòa Hảo” [51, tr.10-11]. Khi khẳng định sự tiếp thu các di sản
tư tưởng nhân loại của Hồ Chí Minh, tác giả đã nêu lên bốn tiểu hệ thống
trong hệ tư tưởng mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu được. Trong đó, tác giả cũng
nêu rõ trong tiểu hệ thống thứ hai, đó là tư tưởng xây dựng nhà nước kiểu
mới, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở một nền dân chủ của
dân, do dân, vì dân và sức mạnh thuộc về nhân dân.

13


1.2. Công trình nghiên cứu Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Trong cuốn “Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh” của Phạm Thành –
Nguyễn Khắc Mai, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, các tác giả đã khẳng định, tư
tưởng dân chủ là một bộ phận quan trọng trong kho tàng tư tưởng Hồ Chí
Minh. Các tác giả đã bước đầu phân tích những tư tưởng của Hồ Chí Minh
về dân chủ và thực hành dân chủ nhằm khẳng định việc dân chủ hoá mọi
mặt đời sống xã hội là một trong những vấn đề then chốt nhằm khơi dậy và
huy động những lực lượng cách mạng to lớn tiềm ẩn trong nhân dân tham
gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, trong cuốn sách
của mình, tác giả Phạm Thành đã đưa ra được 04 nội dung về dân chủ của

Hồ Chí Minh như sau: Thứ nhất, về địa vị và quyền làm chủ của nhân dân;
Thứ hai, về nhà nước dân chủ; Thứ ba, về sự lãnh đạo của Đảng; Thứ tư, về
dân chủ với tính cách là phạm trù đạo đức. Cùng với việc đưa ra bốn nội
dung dân chủ của Hồ Chí Minh, tác giả cũng phân tích quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về dân chủ dưới sự dẫn dắt của Hồ Chí Minh. Việc tác
giả chia nội dung dân chủ của Hồ Chí Minh thành 4 nội dung để dễ phân
tích và đánh giá làm cho người đọc dễ tiếp thu và hiểu rõ hơn về tư tưởng
dân chủ của Hồ Chí Minh. Nhưng bên cạnh tính khoa học của sự phân chia
ấy lại có một nhược điểm, đó là có những quan điểm, quan niệm của Người
về dân chủ không nằm trong cả 04 nội dung ấy. Dù tác giả cố gắng đào sâu
phân tích những câu nói của Hồ Chí Minh về dân chủ nhưng chỉ với 27
trang để phân tích cả 4 nội dung dân chủ này thì chưa thể làm nổi bật được
những nội dung cốt lõi về thực hành dân chủ của Người. Bởi, tư tưởng về
thực hành dân chủ của Người mang tính thực tiễn rất cao. Những phương
pháp, cách thức cũng như việc khẳng định vai trò phải thực hành dân chủ
như “chìa khóa vạn năng” của sự phát triển đã không được tác giả khai thác
ở đây.
Cuốn “Dân chủ - di sản văn hóa Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn
Khắc Mai, Nxb Lao động, Hà Nội, 1997, đã đưa ra 100 câu nói về dân chủ
của Hồ Chí Minh. Đây là một sự thông kê khá công phu và được đánh giá

14


cao. Từ sự thông kê 100 câu nói về dân chủ này, tác giả đã chia ra thành 6
phạm trù của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, đó là: 1. “Dân chủ là của
quý báu nhất của nhân dân”. Ở đây, tác giả khẳng định tư duy của Hồ Chí
Minh coi dân chủ là điều kiện để tiến lên Chủ nghĩa xã hội; 2. “Địa vị cao
nhất là dân, vì dân là chủ”, trong đó, tác giả khẳng định sự kế thừa của Hồ
Chí Minh từ tư tưởng dân chủ của C.Mác và có sự đi sâu so với C.Mác trong

việc cụ thể hóa quyền làm chủ của nhân dân; 3. “Nhiệm vụ của chính quyền
dân chủ là phục vụ nhân dân”, dưới ngòi bút của Nguyễn Khắc Mai, những
luận điểm về chính quyền dân chủ của Hồ Chí Mình được lý giải khá mạch
lạc; 4. “Đảng cũng ở trong xã hội”. “Đảng từ Trung ương đến xã do dân tổ
chức nên”, mục này có thể được kết hợp với mục 3. Tuy nhiên, tác giả đã
tách ra đặt nó thành một phạm trù trong tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh.
Điều này thực sự là một ý tưởng táo bạo. Bởi thực tế, Hồ Chí Minh rất coi
trong việc thực hành dân chủ trong Đảng, đến mối quan hệ giữa Đảng và
nhân dân. Phạm trù này, Hồ Chí Minh đã đề cập rất nhiều, và bởi có lẽ
Người đề cập nhiều quá mà tác giả một phần nào đó chỉ phân tích mang tính
chất đánh giá và viện dẫn, chưa có sự đào bới so với thực tiễn hiện nay xem
quan điểm nào cần phải duy trì và phát huy; Trong hai mục 5. “Đoàn thể là
tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền lợi của dân, liên lạc mật
thiết giữa dân với chính phủ” và mục 6. “Thực hiện những cải cách xã hội
để nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự”, tác giả đã
lẩy ra được những đánh giá của Hồ Chí Minh về vai trò của các đoàn thể
trong xã hội và nêu lên những giải pháp của Hồ Chí Minh về việc thực hiện
dân chủ thực sự. Tuy nhiên, tác giả phân tích phần giải pháp thực hành dân
chủ của Hồ Chí Minh chưa được sâu sắc, nếu đi vào trọng tâm của vấn đề
hơn nữa thì chắc chắn tạo nên một giá trị toàn mỹ cho cuốn sách.
Cuốn “Hồ Chí Minh nói về dân chủ, kỷ luật và đạo đức cách mạng”,
Nxb Sự thật, Hà Nội,1969 là cuốn tập hợp một số bài nói chuyện và bài viết
của Người về mở rộng dân chủ, tăng cường kỷ luật ở trong Đảng; về bảo
đảm quyền làm chủ tập thể của quần chúng nhân dân và về đạo đức cách

15


mạng của người cán bộ. Cuốn sách chỉ là sự thống kê của Nhà xuất bản Sự
thật về các bài nói chuyện, bài viết những vấn đề này của Hồ Chí Minh mà

không có sự phân tích luận giải hay đánh giá. Tuy nhiên, việc thống kê như
vậy cũng rất có ý nghĩa. Với một cuốn sách nhỏ có chủ đề cụ thể sẽ truyền
tải được những điều răn dạy của Người đến mọi người trong xã hội một cách
hữu ích nhất.
Cuốn “Dân chủ và thiết chế dân chủ ở Việt Nam”, Nxb. Quân đội
nhân dân, 2006 đã trích dẫn các bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về dân chủ. Cuốn sách không đi sâu phân tích làm rõ tư tưởng chủ đạo của
Hồ Chí Minh về dân chủ, mà chỉ đưa ra một cách khách quan các bài viết
chọn lọc liên quan đến dân chủ của Hồ Chí Minh.
Cuốn “Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh” do Phạm Văn Bính (chủ
biên), Nxb. Chính trị quốc gia, 2007, trình bày về phương pháp dân chủ của
Hồ Chí Minh. Với 80 trang bài, các tác giả tập trung làm rõ hệ thống
phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh và những đặc điểm của phương pháp
dân chủ Hồ Chí Minh. Trong đây, các tác giả đã làm nổi bật được việc “tiến
hành cải cách xã hội, thực hện dân chủ thực sự” là quan điểm có tính
phương pháp luận xuyên suốt trong tư duy lý luận và hành động cách mạng
của Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu rõ bốn đặc điểm trong hệ
thống phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh. Thứ nhất, phương pháp tư
duy về dân chủ và thực hành dân chủ của Hồ Chí Minh theo các lớp quan
hệ; Thứ hai, thực tiễn hóa lý luận dân chủ và lý luận hóa thực tiễn dân chủ
của Việt Nam; Thứ ba, tính thiết thực, hữu ích, hiệu quả, thực tế; Thứ tư,
phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh là một kiểu mẫu của lòng khoan dung
nhân ái, của việc thực hành lối sống và nhân cách văn hóa.
Liên quan đến việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, cũng
có nhiều bài viết trên các tạp chí chuyên ngành đề cập ở nhiều khía cạnh và
phương diện khác nhau, như bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và phép
nước” của Vũ Văn Châu trên tạp chí Lý luận Chính trị số 7, 2006 đã đề cập đến
việc Hồ Chí Minh “đặc biệt quan tâm đến quyền dân chủ của nhân dân, đồng

16



thời cũng nhấn mạnh dân chủ phải đi đôi với phép nước” [10, tr.3]. Trong bài,
tác giả đã nêu tư tưởng dân chủ đi đôi với phép nước trong tư tưởng Hồ Chí
Minh thể hiện ở bốn điểm: Một là, ai là nhân dân ta? Hai là, thế nào là quyền
dân chủ? Ba là, công dân Việt Nam phải hiểu rõ và khéo sử dụng quyền dân
chủ của mình; Bốn là, chính quyền nhân dân phải sử dụng phép nước để bảo vệ
dân chủ. Qua phân tích, tác giả đã cho thấy đôi nét về quan niệm của Hồ Chí
Minh về dân là những người thuộc nhiều giai cấp, tầng lớp, bộ phận khác nhau
trong nhân dân; Về quyền dân chủ của nhân dân không chí là quyền lợi mà còn
bao gồm cả nghĩa vụ của người làm chủ nước nhà.
Bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị” của tác giả
Nguyễn Văn Quang trên Tạp chí Xây dựng Đảng đã phân tích 4 nội dung cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị: Thứ nhất, khẳng
định tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị xuất phát từ truyền
thống văn hoá dân tộc, được kết tinh qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước; là sự kết hợp những tinh hoa, giá trị dân chủ của văn hóa phương
Đông và phương Tây, đặc biệt là lý tưởng giải phóng dân tộc gắn với giải
phóng xã hội, giải phóng con người của chủ nghĩa Mác – Lênin; Thứ hai, tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị được thể hiện ở việc khẳng
định quyền lực của nhân dân trong Hiến pháp và pháp luật; đảm bảo tổ chức
Nhà nước dân chủ của dân, do dân và vì dân. Quan điểm của Đảng ta về dân
chủ chính là xuất phát từ quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ
của Nhà nước Việt Nam; Thứ ba, để phát huy dân chủ và xây dựng Nhà
nước của dân, do dân và vì dân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ phải xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam nhằm làm cho hoạt động của Nhà nước đem lại
hiệu quả xã hội thực sự. Quan điểm này, theo tác giả, là cơ sở lý luận cho
chủ trương của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay; Thứ tư, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính
trị có giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng sâu sắc đối với cách mạng Việt

Nam qua các thời kỳ. Tư tưởng đó đã được Đảng Cộng sản Việt Nam kế
thừa, vận dụng và không ngừng phát triển sáng tạo nhằm đưa đất nước tiến

17


lên chủ nghĩa xã hội với hệ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng và văn minh.
Trong bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ trong
Đảng” của tác giả Nguyễn Thế Thắng đã nêu ra và làm rõ 6 vấn đề trong
việc thực hành dân chủ trong Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh và việc thực
hành nó trong Đảng hiện nay, bao gồm: Thứ nhất, những quyền dân chủ cơ
bản của đảng viên; Thứ hai, quan điểm Hồ Chí Minh về dân chủ là nền tảng
của tập trung thể hiện ở 4 nội dung: 1, các cơ quan lãnh đạo đều do quần
chúng đảng viên bầu cử lên. 2, phương châm, chính sách, nghị quyết của
Đảng được xây dựng trên cơ sở kinh nghiệm và ý kiến của quần chúng đảng
viên, do các cuộc hội nghị của Đảng thảo luận giải quyết, chứ không ai được
tự ý độc đoán. 3, quyền lực của cơ quan lãnh đạo là do quần chúng đảng
viên giao phó cho, chứ không phải tự ai tranh giành được. Vì vậy, người
lãnh đạo phải gần gũi và học hỏi quần chúng đảng viên, biết lắng nghe ý
kiến của họ. Nếu lên mặt với quần chúng, lạm dụng quyền lực là sai lầm.
4, trật tự của Đảng là cá nhân phải phục tùng tổ chức, số ít phải phục tùng số
nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, các địa phương phải phục tùng
Trung ương; Thứ ba, mặc dù dân chủ là nền tảng của tập trung nhưng dân
chủ được thực hiện dưới sự chỉ đạo tập trung; Thứ tư, theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, để thực hiện được nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng phải thực
hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong lề lối làm việc của
Đảng; Thứ năm, muốn thực hành dân chủ phải chống quan liêu, mệnh lệnh;
phải mở rộng phê bình và tự phê bình; Thứ sáu, khẳng định việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ trong Đảng vào sự nghiệp đổi mới

có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong phần này, tác giả đã chỉ ra sự kế thừa
tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong các văn kiện của Đảng như Văn
kiện Đại hội X, Đại hội XI, Điều lệ Đảng (Đại hội XI).
Bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và vấn đề thực hiện Quy chế
Dân chủ ở cơ sở” của tác giả Lê Xuân Đình, Tạp chí Cộng sản, số 2, 2004
đã nêu lên tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hành dân chủ. Tác giả

18


đã nêu trong tư tưởng dân chủ của Người, Hồ Chí Minh luôn coi dân chủ
không những là mục tiêu của cách mạng mà còn là động lực to lớn cho sự
phát triển tiến bộ, là con đường đi đến đoàn kết dân tộc. Thực hành dân chủ
là vũ khí và là phương pháp hữu hiệu để chống lại mọi sự tha hóa biến chất
của cán bộ, đảng viên. Bài viết tập trung nhiều về thực trạng thực hành dân
chủ và giải pháp để tiếp tục thực hành dân chủ một cách đồng bộ và hiệu
quả. Chính vì vậy, thời lượng cho những phân tích và nêu bật tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân chủ còn hạn chế.
Ngoài ra, liên quan đến mảng nội dung này còn có nhiều công trình
của các nhà khoa học khác, cuốn “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ trong sự nghiệp xây dựng tổ chức Công đoàn Việt Nam hiện nay”,
Nguyễn Viết Vượng (chủ biên), Nxb. Lao động, 2008; trong đó phân tích
những tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân chủ, hoạt động của Công đoàn với
quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hành dân chủ; Cuốn “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân” của Nguyễn Đình
Lộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998 đề cập đến quan điểm của Người
về một nhà nước mà nhân dân làm chủ, nhân dân phải có quyền lực thực sự.
Bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực nhà nước và sự vận dụng trong
thực tiễn Việt Nam” của Trần Đình Thắng trên Tạp chí Lý luận Chính trị số

5, 2005 đề cập đến nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực nhà nước
phải thực hiện trên nguyên tắc nhân dân làm chủ. Và, còn nhiều bài ít nhiều
có liên quan đến nội dung luận án như: Bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ và thực hành dân chủ trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền
lãnh đạo” của tác giả Đặng Hữu Toàn trên Tạp chí Triết học số 2, 2015; Bài
“Chủ tịch Hồ Chí Minh và vấn đề dân chủ” của Mai Trung Hậu trên tạp chí
Lý luận Chính trị, số 5, 2002. Bài “Dân vận – vấn đề luôn mới (Qua nghiên
cứu tác phẩm “Dân vận” của Hồ Chí Minh)” của Mạch Quang Thắng trên
tạp chí Lý luận Chính trị số 8, 2006; Bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về hiệu lực
pháp lý của một nhà nước pháp quyền” của Vũ Ngọc Miến, Tạp chí Triết

19


học số 7, 2004. Bài “Phát huy dân chủ trong xây dựng và phát triển văn hóa
theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của tác giả Ngô Vương Anh, Tạp chí Lý luận
Chính trị số 10, 2004. Bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” của Nguyễn Đình Hòa,
tạp chí Triết học số 7, 2006…
Hiện nay, những tài liệu nghiên cứu ở nước ngoài về tư tưởng dân chủ
Hồ Chí Minh rất ít. Về những cuốn sách viết về Hồ Chí Minh, ít nhiều có đề
cập đến tư tưởng dân chủ của Người, nhưng không đáng kể. Tuy nhiên,
những cuốn sách viết về Hồ Chí Minh đều có những nghiên cứu sâu sắc về
cuộc đời hoạt động của Người, có những đánh giá khá sâu sắc về những giá
trị mà Hồ Chí Minh để lại. Có thể kể đến những cuốn: Following Ho Chi
Minh: The Memoirs of North Vietnamse Colonel, Nxb C. Hurst & Co, 1995,
202 trang. Cuốn Ho Chi Minh: A Life của William J. Duker, Nxb Hyperion,
2000, 695 trang. Cuốn Ho Chí Minh: A Biography của Pierre Brocheux,
dịch sang tiếng Anh bởi Claire Duiker, Đại học Cambridge xuất bản 2003 in
tại Hoa Kỳ; Cuốn Ho Chi Minh: The Missing Years, 1919 – 1941 của tác

giả Sophie Quinn-Judge, Nxb C. Hurst & Co,2003. Cuốn Ho Chi Minh:
North Vietnamese President của Kristin F. Johnson xuất bản năm 2012 bởi
Công ty xuất bản ABDO. … Nhìn chung các cuốn sách của Người nước ngoài
thường viết về cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh, từ khi ra đi tìm đường
cứu nước, học tập ở nước ngoài và đều đánh giá Hồ Chí Minh có cao về giá trị
dân chủ. Nhưng các tác giả cũng chỉ dừng lại ở đó mà không đưa ra dẫn chứng
về câu nói hay quan điểm của Người cũng như có những phân tích sâu sắc về
tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh.
Tóm lại, những cuốn sách viết về Hồ Chí Minh là những đánh giá mang
tính chủ quan của các học giả nước ngoài, mặc dù có những nghiên cứu sâu
rộng về cuộc đời hoạt động của Người, nhưng có những nhận định có thể chưa
phù hợp với chúng ta. Những tài liệu này chỉ mang tính chất tham khảo và có
sự chắt lọc, luận án không lấy đó để khẳng định những gì họ nói là đúng hoàn
toàn về Hồ Chí Minh.

20


1.3. Những nghiên cứu đánh giá ý nghĩa hiện thời tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về dân chủ

Hiện nay việc đi sâu đánh giá ý nghĩa hiện thời tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ còn ít được đề cập đến. Trong các bài viết đôi chỗ có nói và nhắc
đến rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, nhân quyền, nhà nước pháp
quyền… rất có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với công cuộc đổi mới ở nước
ta. Nhưng, chưa có một cuốn sách hay một chương trong một cuốn sách
chuyên khảo nào đi sâu phân tích ý nghĩa hiện thời tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ. Trong một số tác phẩm, ở một vài khía cạnh về xây dựng nhà nước
pháp quyền, phương pháp dân chủ, … của Hồ Chí Minh, các tác giả có đưa ra
những khẳng định về giá trị trong tư tưởng của Người. Tuy nhiên, các tác giả
chưa làm rõ một cách căn bản và chuyên sâu về lĩnh vực này.

Bài “Ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh” trên báo
điện tử Đảng Cộng sản ra ngày 13/5/2010 có đưa ra ý nghĩa thời đại trong tư
tưởng của Người. Nội dung trong đó đề cập đến bốn ý nghĩa chính. Thứ
nhất, sự tiếp thu phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng
một cách sáng tạo vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam; Thứ hai, phát huy
chủ nghĩa dân tộc chân chính gắn với chủ nghĩa quốc tế chân chính nhằm tổ
chức cuộc đấu tranh trường kỳ, anh dũng để giành độc lập dân tộc, thống
nhất Tổ quốc, đưa đất nước ta phát triển theo định hướng chủ nghĩa xã hội;
Thứ ba, trên con đường phát triển của Việt Nam không chỉ có đấu tranh giai
cấp mà là cuộc đấu tranh làm sao người dân có công ăn việc làm, sao cho
dân giàu nước mạnh, nhân dân được tự do hạnh phúc; Thứ tư, ý nghĩa và giá
trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ trên nhiều lĩnh vực khác
về xây dựng con người và văn hóa... Trong bối cảnh mới, tư tưởng của
Người mang ý nghĩa và giá trị mới [xem: 134]. Có thể thấy, trong bài dù đưa
ra 4 ý nghĩa thời đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng tác giả cũng chưa
đề cập đến ý nghĩa tư tưởng dân chủ của Người.
Tác giả Nguyễn Thị Kim Hoa khi viết bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ và vận động nhân dân trong tác phẩm dân vận”, trên Tạp chí Lý
luận Chính trị số 5, 2005 đã phân tích hai quan niệm về dân chủ của Hồ Chí

21


Minh. Một là, dân chủ là mục tiêu, lý tưởng chính trị; Hai là, dân vận là
phương pháp thực hiện dân chủ. Trên cơ sở phân tích hai quan niệm trên, tác
giả đã đi đến kết luận: “Ngày nay, những tư tưởng đó vẫn còn nguyên giá
trị, còn mang tính thời sự. Công cuộc đổi mới để phát triển đất nước càng đi
vào chiều sâu, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tác phẩm nói trên càng có ý
nghĩa giáo dục sâu sắc” [47, tr.12].
Ngoài ra, tác giả Dương Văn Duyên cũng kết luận sau khi đưa ra

những phân tích của mình trong bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ chế thực
hiện dân chủ” rằng: “Những tư tưởng dân chủ đó ở Hồ Chí Minh đã và đang
soi sáng cho việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực quản lý
của Nhà nước ở nước ta hiện nay để từng bước xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân” [21, tr.13].
Trong câu cuối cùng của bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ dân
chủ nhân dân” của tác giả Lại Quốc Khánh trên Tạp chí Triết học số 7, 2005
cũng đã nhận xét như sau: “Tư tưởng của Người về chế độ dân chủ nhân dân
chứa đựng những giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, được Đảng và nhân dân
ta kế thừa, phát huy trong sự nghiệp đổi mới đất nước nhằm xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội” [54, tr.22].
Trước khi đưa ra thực trạng với con số thực tế về nạn tham nhũng, bất
công bằng, đời sống nhân dân còn khó khăn khi chưa thực hiện triệt để tư
tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ, tác giả Lê Văn Tuấn trong bài
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ” trên Tạp chí Thông tin Lý
luận số 9/1992 có nêu: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hành dân
chủ có một giá trị to lớn và ý nghĩa thời sự đối với công cuộc đổi mới hiện
nay” [126, tr.35].
Nhìn chung, có nhiều bài viết về tư tưởng Hồ Chí Minh ở những lĩnh
vực khác nhau liên quan đến dân chủ. Họ đều có những đánh giá về ý nghĩa
thời sự tư tưởng của Người. Tuy nhiên, tất cả mới chỉ dừng lại ở những phân
tích về lĩnh vực mà tác giả quan tâm và nêu lên tư tưởng Hồ Chí Minh về
lĩnh vực đó có ý nghĩa sâu sắc cho công cuộc đổi mới đất nước, hay có giá

22


trị cho Đảng và Nhà nước ta vận dụng, chưa có các bài viết đi sâu làm rõ ý
nghĩa hiện thời tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ.
Trở lại với cuốn “Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh”, Phạm Văn

Bính (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, 2007, tác giả đã dành toàn bộ
Chương II đi sâu phân tích việc vận dụng phương pháp dân chủ Hồ Chí
Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong khi phân tích sự vận dụng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, tác giả cũng đã ít nhiều đánh giá những giá trị về
tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả cho rằng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê nin ở Việt Nam, là mẫu mực
của tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí
Minh chẳng những có giá trị khoa học sâu sắc mà còn có giá trị định hướng,
giá trị phương pháp luận cho cách mạng Việt Nam trong hiện tại và tương
lai” [9, tr.138]. Và, “Tư tưởng Hồ Chí Minh vốn tiềm ẩn những giá trị vô
cùng sâu sắc. Ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng, chúng ta phải xuất
phát từ nhu cầu thực tiễn để tìm trong tư tưởng của người những chỉ dẫn có
ý nghĩa phương pháp luận, có giá trị kim chỉ nam cho hành động của chúng
ta hôm nay” [9, tr.161].
Nhìn chung, những đánh giá của các tác giả trong những công trình
này đều mới chủ dừng lại ở mức độ khái quát, chung chung, không đi vào
vấn đề cụ thể ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ. Việc không đi sâu
và làm rõ ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ không phải là thiếu sót
của tác giả, mà mục đích truyền tải ý tưởng của tác giả ở đây là phân tích
quá trình vận dụng của Đảng ta và đưa ra giải pháp cho việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp thực hành dân chủ. Vì vậy việc đi sâu
tìm hiểu ý nghĩa hiện thời tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là những vấn
đề cần phải tìm hiểu, tranh luận và làm sáng tỏ hơn nữa.
1.4. Nhận xét tổng quát và hƣớng nghiên cứu

1.4.1. Nhận xét tổng quát
Qua việc khảo sát các công trình liên quan đến đề tài: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân chủ và ý nghĩa hiện thời của nó” đã cho chúng ta thấy sự
đa dạng và phong phú trong các nghiên cứu về dân chủ. Có rất nhiều khung


23


×