Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Vận dụng thi pháp văn học trung đại vào dạy học thơ Nôm Đường luật ở lớp 10 Trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.32 KB, 58 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

LỜI CẢM ƠN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
Lời đầu tiên em xin gửi lời tri ân và biết ơn sâu sắc đến Thầy - Phó giáo sư
- Tiến sĩ Nguyễn Viết Chữ, người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo, động
viên, khích lệ em trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài.

NGUYỄN TIẾN DŨNG

Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong Khoa sau đại học,
Trường Đại học giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và
tạo mọi điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin gửi lời cảm ơn tới các thầy trong Ban giám hiệu, các thầy, cô giáo,
bạn bè, đồng nghiệp đang giảng dạy, công tác tại trường THPT Giao Thủy C,

VẬN DỤNG THI PHÁP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI

trường THPT Quất Lâm, cũng như Sở giáo dục – Đào tạo tỉnh Nam Định, đã tạo

VÀO DẠY HỌC THƠ NÔM ĐƯỜNG LUẬT

mọi điều kiện tốt nhất cho tôi được học tập nghiên cứu để hoàn thành khóa học.

Ở LỚP 10 - TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Xin cảm ơn những người thân yêu trong gia đình dành cho tôi sự quan tâm, chia
sẻ, động viên, khích lệ trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu để tôi hoàn
thành luận văn này.


Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC

Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn !

(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 01 11

Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Nguyễn Tiến Dũng

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Viết Chữ

HÀ NỘI - 2014

i


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI CẢM ƠN..................................................................................................... i
ĐHSP

: Đại học Sư phạm

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ...................................... ii

GS


: Giáo sư

MỤC LỤC ........................................................................................................ iii

NXB

: Nhà xuất bản

PGS

: Phó giáo sư

THPT

: Trung học phổ thông

TS

: Tiến sĩ

SGK

: Sách giáo khoa

4. Đối tượng - Phạm vi nghiên cứu .................................................................... 5

SGV

: Sách giáo viên


5. Giả thuyết khoa học ....................................................................................... 5

Tr

: Trang

6. Phương pháp nghiên cứu . .............................................................................. 6

DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ vi
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu......................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 4

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ........................................................ 6
8. Cấu trúc luận văn ........................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ............................ 7
1.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................ 7
1.1.1. Vài nét về thi pháp học............................................................................. 7
1.1.2. Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam ....................................... 8
1.1.2.1. Hệ thống ưóc lệ trong văn học trung đại ................................................ 8
1.1.2.2. Thiên nhiên trong văn học trung đại .................................................... 13
1.1.2.3. Quan niệm về không gian, thời gian .................................................... 17
1.1.2.4. Quan niệm về con người ..................................................................... 20
1.1.3. Thơ Nôm Đường luật và quan niệm dạy học thơ Nôm Đường luật theo
hướng vận dụng thi pháp.................................................................................. 26
1.1.3.1. Thơ Nôm Đường luật .......................................................................... 26
1.1.3.2. Quá trình phát triển của thơ Nôm Đường luật ..................................... 26
1.1.3.3. Đặc trưng của thơ Nôm Đường luật .................................................... 30

1. 2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 34
1.2.1. Vai trò, vị trí của thơ Nôm Đường luật trong chương trình Ngữ văn Trung
học phổ thông .................................................................................................. 34

ii

iii


1.2.2. Những thuận lợi và khó khăn khi dạy học thơ Nôm Đường luật trong

CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM .................................................................... 84

chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông .................................................... 36

3.1. Mục đích thực nghiệm .............................................................................. 84

1.2.2.1. Thuận lợi ............................................................................................. 36

3.2. Yêu cầu thực nghiệm ................................................................................ 84

1.2.2.2. Khó khăn. ............................................................................................ 36

3.3. Địa bàn, đối tượng và bài thực nghiệm...................................................... 85

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP VẬN DỤNG THÍCH HỢP THI

3.4. Thời gian và quy trình tiến hành thực nghiệm ........................................... 85

PHÁP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VÀO DẠY HỌC THƠ NÔM ĐƯỜNG LUẬT


3.4.1. Thời gian thực nghiệm ........................................................................... 85

Ở LỚP 10 - TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ..................................................... 38

3.4.2. Quy trình tiến hành thực nghiệm ............................................................ 86

2.1. Thực trạng dạy học thơ trung đại hiện nay ................................................ 38

3.5. Giáo án thực nghiệm ................................................................................. 86

2.1.1. Thực trạng dạy học thơ trung đại ở trường trung học phổ thông hiện nay ..... 38

3.5.1. Yêu cầu chuẩn bị .................................................................................... 86

2.1.2. Thực trạng dạy học thơ Nôm Đường luật ở lớp 10 THPT hiện nay ........ 41
2.1.2.1. Khảo sát tình hình dạy học tác phẩm thơ Nôm Đường luật ở THPT .... 41
2.1.2.2. Kết quả khảo sát .................................................................................. 43
2.1.2.3. Nhận xét về thực trạng dạy học thơ Nôm Đường luật ở THPT hiện nay.... 45
2.2. Biện pháp vận dụng thích hợp thi pháp văn học trung đại vào dạy thơ Nôm
Đường luật ở lớp 10 trung học phổ thông ........................................................ 49
2.2.1. Những yêu cầu có tính nguyên tắc ......................................................... 49
2.2.1.1. Bám sát thi pháp của thơ HánNôm Đường luật trung đại .................... 49
2.2.1.2. Bám sát văn bản gốc và giai đoạn sáng tác của tác phẩm văn học
trung đại .......................................................................................................... 50

3.5.1.1. Đối với giáo viên................................................................................. 86
3.5.1.2. Đối với học sinh .................................................................................. 87
3.5.2. Giáo án thực nghiệm .............................................................................. 88
3.6. Đánh giá kết quả thực nghiệm ................................................................... 98

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .............................................................. 101
1. Kết luận ..................................................................................................... 101
2. Khuyến nghị .............................................................................................. 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 104
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 106

2.2.1.3. Đối chiếu các văn bản, phát hiện, khơi gợi, kích thích sự hình thành
năng lực so sánh, liên tưởng, tưởng tượng ....................................................... 51
2.2.1.4. Tạo không khí tranh luận, đối thoại giữa các tổ, nhóm, cá nhân ......... 54
2.2.2. Biện pháp vận dụng thích hợp thi pháp văn học trung đại vào dạy học thơ
Nôm Đường luật ở chương trình Ngữ văn lớp 10 THPT ................................. 56
2.2.2.1. Hướng dẫn học sinh xác định những nét tiêu biểu của thi pháp văn học
trung đại liên quan đến tác phẩm...................................................................... 56
2.2.2.2. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, khám phá, lĩnh hội văn bản trên cơ sở thi
pháp tác giả. ..................................................................................................... 58
2.2.2.3. Hướng dẫn học sinh vượt rào cản ngôn ngữ thông qua hoạt động cắt
nghĩa, chú giải.................................................................................................. 72
2.2.2.4. Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm để tìm hiểu về thi pháp được sử
dụng trong tác phẩm ........................................................................................ 81
iv

v


DANH MỤC BẢNG

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Bảng 1.1. Các bài thơ Nôm Đường luật ở THPT............................................. 35


Việc dạy học các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam đến nay vẫn còn là

Bảng 2.1. Thống kê số câu hỏi thi pháp trong phần tìm hiểu bài của các bài thơ

một thách thức lớn đối với không chỉ người đứng lớp mà cả những nhà nghiên

Nôm Đường luật trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 chương trình cơ bản ........ 43

cứu về phương pháp. Ở mảng văn học này tồn tại không ít những rào cản về văn

Bảng 2.2. Thống kê kết quả khảo sát giáo án ................................................... 43

tự (cả Hán và Nôm), văn hóa, lịch sử…. trong mối tương quan với thời đại

Bảng 2.3. Thống kê kết quả phiếu khảo sát phương pháp dạy học

chúng ta.

của giáo viên (15 giáo viên) ............................................................................. 44

Văn học trung đại Việt Nam suốt một nghìn năm lịch sử trải qua các triều

Bảng 3.1. Đối tượng thực nghiệm và đối chứng ............................................... 85

đại phong kiến với bao truyền thống hiển hách dựng nước và giữ nước…Hơi

Bảng 3.2. Thống kê kết quả tiếp thu kiến thức của học sinh trong sự

thở của dân tộc đọng lại trong từng câu chữ với bao vẻ đẹp hào sảng kết tinh ở


so sánh, đối chứng ........................................................................................... 99

nhiều thể loại: Chiếu, Biểu, Hịch, Phú, Cáo, Văn tế và các thể tài văn xuôi khác
Mảng văn học này chiếm một vị trí đặc biệt trong nhà trường và rất cần
được dạy học một cách bài bản, sâu sắc bởi nó tác động đến từng học sinh theo
những cách riêng
Nhưng xác định rõ thi pháp của thời kỳ, giai đoạn này cũng như trào lưu
của từng tác giả, tác phẩm vẫn còn là cái gì đó chưa được chú ý một cách
nghiêm túc. Vì vậy công việc dạy học bộ phận văn học này gần như chưa đi
đúng được các vấn đề bản chất sâu sắc cần thiết.
Thơ Nôm Đường luật là một thành tựu rực rỡ của thơ ca Việt Nam. Đó là
những bài thơ được viết bằng chữ Nôm theo thể Đường luật (gồm cả những bài
thơ theo thể Đường luật hoàn chỉnh và cả những bài theo thể Đường luật phá
cách). Để dạy tốt những tác phẩm này, người dạy cần phải nắm rõ bản chất, đặc
trưng, thi pháp của thể thơ. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tìm hiểu về thi pháp của
thơ Nôm Đường luật vẫn chưa được thực sự coi trọng trong quá trình dạy học ở
nhà trường phổ thông hiện nay.
Việc chuẩn bị từ sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu tham khảo.... Thậm
chí cả công việc đào tạo cho sinh viên trẻ về thi pháp văn học trung đại cũng
chưa được dụng công đến mức cần thiết. Việc dạy học các tác phẩm Hịch, phú,
cáo và đặc biệt là thơ ca còn tồn tại nhiều điều bất cập. Vì vậy ở luận văn này

vi

1


chúng tôi hướng sự chú ý đến việc “Vận dụng thi pháp văn học trung đại vào


Nhưng đi sâu vào từng tác phẩm của từng tác giả, phát hiện được những nét

dạy học thơ Nôm Đường luật ở lớp 10 - Trung học phổ thông.”

riêng trong cá tính sáng tạo của họ thì như còn để ngỏ.

Nhà trường Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI đang khẩn trương

Nguyễn Đăng Na có “Văn học trung đại Việt Nam tập 1, 2” nhưng cũng chủ

hiện đại hóa hướng đi, phương pháp vào với từng môn học để hội nhập khu vực

yếu hệ thống sắp xếp lại những thành tựu trước đó của ông. Còn Lã Nhâm Thìn

và quốc tế, vừa để giữ gìn bản sắc riêng của dân tộc thì ở văn học trung đại đã

với “Thơ Nôm Đường luật” thì trong đó tác giả cũng chủ yếu đi sâu phân tích

bảo tồn được sâu sắc bản sắc riêng về văn hóa dân tộc.

nội dung các bài thơ mà ít chú ý dến phương pháp. Với Bùi Văn Nguyên và Hà

Đặc biệt trong chương trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo hướng

Minh Đức thì lại đi sâu vào hình thức cổ thể của thơ ca Việt Nam. Trần Nho

phát huy năng lực cho người học như hiện nay thì việc cung cấp những kiến

Thìn thì chủ yếu khẳng định sự đóng góp của Trần Đình Hượu với văn hóa dân


thức nền tảng cho học sinh là rất thiết yếu để các em học sinh có thể chủ động

tộc mà cũng ít chú ý đến thi pháp của văn học.…. Bên cạnh các công trình

lĩnh hội khám phá tri thức một cách có sáng tạo. Vì vậy việc vận dụng thi pháp

nghiên cứu còn phải kể đến các bài báo, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ

vào dạy thơ Nôm Đường luật cũng là một hướng đổi mới để các em học sinh có

quan tâm tìm hiểu đến văn học trung đại và thi pháp của văn học trung đại.

thể tự nghiên cứu, tìm hiểu được nhiều những tác phẩm thơ Nôm Đường luật

Nhìn chung các tác giả nghiên cứu đã đưa ra nhiều phương pháp khác nhau

không đưa vào giảng dạy trong nhà trường.

để tìm hiểu nghiên cứu về thi pháp văn học trung đại nói chung và thi pháp của

2. Lịch sử nghiên cứu

thơ Nôm Đường luật nói riêng. Tuy nhiên việc nghiên cứu vận dụng thi pháp

Dạy học hiện đại phải đi từ khái quát đến cụ thể. Nếu không giải quyết được

của văn học trung đại vào giảng dạy thì thực sư chưa được quan tâm, đặc biệt là

cái khái quát thì khi gặp cái cụ thể ta không giải quyết được. Việc nghiên cứu


việc vận dụng thi vào dạy những bài thơ Nôm Đường luật ở chương trình Ngữ

thi pháp và vận dụng sâu sắc thi pháp văn học trung đại vào dạy học thơ Nôm

Văn 10 THPT.

Đường luật đang đặt ra những vấn đề có thể nói là rất cấp thiết, vận dụng thi

Ở nước ngoài đặc biệt là ở phương Tây vấn đề vể thi pháp đã được tìm hiểu

pháp vào dạy thơ Nôm Đường luật trong nhà trường hiện nay còn nhiều hạn

và nghiên cứ khá sớm nên họ đã hình thành cả một bộ môn thi pháp học để

chế. Bởi lẽ văn học trung đại đã được đưa vào học tập trong nhà trường phổ

nghiên cứu về thi pháp trong sáng tác. Thuật ngữ thi pháp học (poetika) đã được

thông từ nhiều năm nay, ở cả cấp THCS và cấp THPT. Và ở trường phổ thông

Aristote đề cập đến cách đây hơn hai nghìn năm, đó là công trình tổng kết kinh

cũng đã dành một thời lượng nhất định để định hướng tìm hiểu một số tác phẩm

nghiệm về nghệ thuật kịch thời Hi Lạp cổ đại, nó làm nên một học thuyết về

nhất định. Tuy nhiên vấn đề vận dụng thi pháp vào trong giảng dạy thì còn

nguyên tắc mô phỏng, miêu tả các loại và thể, các hình thức thơ ca mà người Hi


nhiều hạn chế. Các tác giả đã từng nghiên cứu về thi pháp văn học trung đại

Lạp tiếp nhận. Nó là một trình khoa học có ảnh hưởng sâu, rộng đến văn hóa

phải kể đến Trần Đình Sử với “Thi pháp văn học trung đại” và “Mấy vấn đề về

Châu Âu thời cổ đại, thời phục hưng và cho đến thế kỷ XVIII- XIX.

thi pháp văn học trung đại Việt Nam.” Trong các công trình của mình, có thể

Cuối thế kỷ XIX, trên thế giới lại mới quan tâm đến vấn đề thi pháp, lúc

nói Trần Đình Sử là người hệ thống và vận dụng lí thuyết thi pháp một cách

này họ nhìn văn hóa nghệ thuật theo một quy luật sáng tác riêng. Các công trình

công phu, bài bản nhất ở cả ba phương diện: Không gian, thời gian, ngôn ngữ.

thi pháp học tiêu biểu phải kể đến như M. Bakhtin cho xuất bản cuốn “Mấy vấn
đề sáng tác Dostoievki” và sau này là “Mấy vấn đề thi pháp Dostoievki”.

2

3


Khrapchenco cũng đã tổng kết thi pháp học lịch sử như là khuynh hướng nổi bật của

– Góp phần giải quyết một trong những vấn đề trọng tâm của việc đổi mới


nghiên cứu văn học Liên Xô từ năm 1959.

phương pháp dạy học văn hiện nay: Tổ chức hoạt động dạy học tác phẩm văn

Ở nước ta vấn đề thi pháp cũng đã dược manh nha từ những năm đầu thế kỷ XX

chương trong chương trình THPT.

tuy nhiên phải đến những năm cuối thế ky XX thì thi pháp mới được nhìn nhận như

– Nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề vận dụng thi pháp vào giảng dạy, chú ý đến

một bộ môn nghiên cứu thực sự và bộ môn thi pháp học mới được chính thức ra đời

những ưu thế và tính khả thi của hướng đi này trong việc vận dụng vào thực tế

để đưa vào học tập, nghiên cứu, giảng dạy. Người có công lớn đưa thi pháp học đến

dạy học bộ môn Ngữ văn, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học văn

Việt Nam chính là Giáo sư Trần Đình Sử một người đã có nhiều năm bỏ công sức để

trong nhà trường phổ thông hiện nay.

nghiên cứu về vấn đề thi pháp. Cho đến nay vấn đề thi pháp đã được nhìn nhận như

– Tác giả cũng xin được đề xuất một quy trình, cách thức tổ chức hoạt động dạy

một bộ môn khoa học nghiên cứu thực thụ. Nhưng những công trình nghiên cứu của


học theo hướng vận dụng thi tháp và thử nghiệm vận dụng thi pháp vào thực tế

các nhà khoa học còn mang nặng tính hàn lâm, kinh viện mà ít chú trọng đi vào ứng

giảng dạy khi tiến hành dạy học một số bài thơ Nôm Đường luật ở chương trình

dụng trong thực tế giảng dạy.

Ngữ văn ở bậc THPT ...

Tuy nhiên đi vào tìm hiểu thực tế trong quá trình giảng dạy các tác phẩm văn
học nói chung và tác phẩm văn học trung đại nói riêng thì hầu hết các thầy cô giáo
và các em học sinh cũng chưa quan tâm nhiều đến vấn đề thi pháp mà người dạy
cũng như người học mới chỉ chú trọng vào nội dung được thể hiện trong rác phẩm
cũng như một vài bút pháp nghệ thuật tiêu biểu. Thậm chí với một số người khái
niệm thi pháp còn rất xa lạ và họ coi đó là công việc của các nhà nghiên cứu. Ở
phạm vi nghiên cứu của đề tài này tác giả cũng chỉ dám đề cập đến việc vận dụng thi
pháp vào trong thực tế giảng dạy một vài bài thơ Nôm Đường luật cụ thể trong
chương trình Ngữ Văn THPT.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu về thi pháp học nói chung và thi pháp văn
học trung đại nói riêng, chúng tôi đã tìm hiểu, đối chiếu để vận dụng thi pháp
văn học trung đại vào dạy thơ Nôm Đường luật ở lớp 10 THPT nhằm giải quyết
một cách tốt nhất hướng tiếp cận các tác phẩm thơ Nôm Đường bằng các biện
pháp thích hợp nhất để đạt hiệu quả tối ưu theo định hướng dạy học đọc - hiểu
văn văn bản như hiện nay.
4. Đối tượng - Phạm vi nghiên cứu
Với tính chất bước đầu, luận văn giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên cứu
như sau:


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

– Cơ sở lí luận của phương pháp dạy học vận dụng thi pháp và hoạt động dạy

3.1. Mục đích nghiên cứu

học văn theo hướng vận dụng thi pháp.

Từ cơ sở của thi pháp học nói chung và thi pháp văn học trung đại nói riêng
để có những vận dụng linh hoạt vào việc giảng dạy thơ Nôm Đường luật ở
chương trình THPT. Vì thế khi thực hiện đề tài này chúng tôi nhằm hướng tới
những nhiệm vụ và mục đích sau:

– Vận dụng phương pháp dạy học vận dụng thi pháp vào việc tổ chức hoạt
động dạy học một số bài thơ Nôm Đường luật trong chương trình Ngữ văn lớp
10 THPT.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu nắm vững thi pháp văn học trung đại và có những biện pháp vận dụng thích
hợp vào quy trình dạy học thơ Nôm Đường luật thì hiệu quả giờ học sẽ cao hơn.

4

5


6. Phương pháp nghiên cứu .

CHƯƠNG 1


Để nghiên cứu vấn đề mà luận văn đặt ra, trong quá trình thực hiện, người

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN

viết đã kết hợp, vận dụng linh hoạt phương pháp nghiên cứu lí thuyết và phương

1.1. Cơ sở lí luận

pháp nghiên cứu thực nghiệm, cụ thể là:

1.1.1. Vài nét về thi pháp học
Thi pháp học là bộ môn khoa học đặc thù, nó hướng tới việc khám phá cấu

– Phương pháp phân tích, tổng hợp
– Phương pháp điều tra, khảo sát

trúc biểu hiện của nghệ thuật trên các các cấp độ khi nghiên cứu, phân tích hay

– Phương pháp so sánh

phê bình một tác phẩm văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì “thi pháp

– Phương pháp thực nghiệm

học là là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức là hệ thống các phương thức,

– Phương pháp thống kê

phương tiện, thủ pháp biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong


7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

sáng tác văn học” [7, tr 304]. Như vậy hiểu một cách đơn giản thì thi pháp học

– Đề tài góp phần khẳng định ưu điểm của phương pháp dạy học vận dụng thi

là một bộ môn khoa học nghiên cứu các hình thức nghệ thuật của văn học. Còn

pháp – một phương pháp có khả năng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo

theo Từ điển Bách khoa văn học giản yếu Nga ghi lại thì “Thi pháp học là khoa

của học sinh trong quá trình dạy học nói chung và phù hợp với đặc trưng của

học về cấu tạo của các tác phẩm văn học và hệ thống các phương tiện thẩm mỹ

việc dạy học văn nói riêng trên con đường hiện thực hoá luận điểm cơ bản của

mà chúng sử dụng.”[5, tr 936]. Trong công trình Những vấn đề thi pháp

việc dạy học văn hiện nay: học sinh là bạn đọc sáng tạo.

Đôxtoiepxki, tác giả M. Bakhtin không nêu ra định nghĩa trực tiếp về thi pháp

– Trên cơ sở đó, bước đầu xây dựng quy trình của phương pháp dạy học vận

học nhưng nội dung nghiên cứu của ông về Đôxtoiepxki như “Cái nhìn nghệ

dụng thi pháp vào những giờ dạy học văn cụ thể ở trường THPT, góp thêm một


thuật độc đáo” hay “ngôn ngữ đa giọng” cũng đã xác nhận nội dung của thi

tiếng nói mới, một cách nhìn mới trong nỗ lực tìm kiếm cách thức đổi mới

pháp học. Công trình Thi pháp văn học Nga cổ của D. X. Likhasốp nghiên cứu

phương pháp dạy học hiện nay.

về hệ thống thể loại, cách khái quát nghệ thuật, các phương tiện văn học, không

8. Cấu trúc luận văn

gian, thời gian nghệ thuật cũng đã đề cập nhiều những khái niệm, nhiều những

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung luận

vấn đề của thi pháp.
Các nhà nghiên cứu văn học phương Tây cũng có nêu ra một vài định nghĩa

văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn

khác về thi pháp học nhưng tựu chung lại thì đều xem văn học như một nghệ

Chương 2: Thực trạng và biện pháp vận dụng thích hợp thi pháp văn học

thuật. Theo nhà lí luận văn học người Nga V. Girmunxki thì : “Thi pháp học là

trung đại vào dạy học thơ Nôm Đường luật ở lớp 10 Trung học phổ thông


khoa học nghiên cứu thi ca (văn học) với tư cách là một nghệ thuật” [8, tr 5].

Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

Như vậy, tác giả đã định nghĩa về thi pháp học trong sự lồng ghép giữa tính
khoa học và tính nghệ thuật của văn học. Từ định nghĩa này nhà nghiên cứu văn
học Viện sĩ V. Vinogradop đã cụ thể hóa vấn đề thi pháp như sau “Thi pháp học
là khoa học về hình thức, các dạng thức, các phương tiện, phương thức tổ chức
6

7


tác phẩm của sáng tác ngôn từ, về các kiểu cấu trúc và các thể loại tác phẩm

văn học. Đặc trưng thi pháp này hình thành từ bối cảnh lịch sử xã hội phong

văn học. Nó muốn bao quát không chỉ là các hiện tượng của ngôn từ thơ, mà

kiến và cảm quan thẩm mỹ của tầng lớp nghệ sĩ Hán học.

còn là cả các khía cạnh khác nhau nhất của tác phẩm văn học và sáng tác dân

Xã hội phong kiến là một xã hội đẳng cấp, lắm nghi thức, công thức. Xã

gian.” [18, tr. 8]. Ở đây tác giả chủ yếu nhấn mạnh vào đối tượng đặc thù của

hội bị lễ nghĩa trói buộc, nên văn chương tất phải ước lệ. Tấng lớp Nho học xem

thi pháp học là hình thức tổ chức tác phẩm văn học.


sách xưa, lời nói cuả thánh hiền, người trước là chuẩn mực thì văn chương

Khi xem thi pháp học là khoa học nghiên cứu văn học như một nghệ thuật đã

không thể không đạt đến những mẫu mực về bút pháp, dùng từ, xây dựng hình

bao hàm được một phạm vi rất rộng, từ tác phẩm cụ thể, thể loại đến các khái

ảnh, hình tượng, sử dụng điển tích, điển cố,... Với các nhà văn thời này văn

quát phổ quát. Điểm làm cho thi pháp học có vị trí độc lập phân biệt với các bộ

chương phải “Văn dĩ tải đạo”, “Thi dĩ ngôn chí”; sáng tác văn học là hình thức

môn khác trong khoa văn học là thi pháp chỉ nghiên cứu cấu trúc và thuộc tính

trước thư lập ngôn, nên văn chương ước lệ mới đẹp, mới sang trọng. Trong tác

nghệ thuật của văn học từ góc độ nghệ thuật. Thi pháp học còn bao gồm sự miêu

phẩm, nhà văn càng sử dụng nhiều nghệ thuật ước lệ chừng nào thì càng uyên

tả, khám phá hệ thống các phương tiện cấu trúc nghệ thuật cụ thể mang sắc thái

áo, càng đẹp; mới thực hiện được chức năng giáo dục đạo lý của nó; mới góp

dân tộc và cá nhân, như thi pháp văn học Nga, thi pháp văn học Trung Quốc,
hoặc trong nước thì có thi pháp văn học trung đại, thi pháp văn học hiện đại, thi
pháp thơ Tản Đà, thi pháp thơ Tố Hữu…

1.1.2. Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam
1.1.2.1. Hệ thống ưóc lệ trong văn học trung đại
Trong đời sống xã hội, ước lệ là một qui ước có tính cộng đồng. Ước lệ
là một tín hiệu riêng của một cộng đồng khi cảm nhận thực tại, làm cho sự
vật và hiện tượng hiện lên đúng với những qui ước và đúng với cách hiểu
của cả cộng đồng.

phần hình thành mẫu người phong kiến lý tưởng.
Ước lệ trong văn học trung đại Việt Nam bao gồm ba tính chất: Tính uyên
bác và cách điệu hóa cao độ. Tính sùng cổ. Tính phi ngã.
* Tính uyên bác và cách điệu hóa cao độ
Không phải ngẫu nhiên văn học chính thống thời phong kiến được mệnh
danh là văn chương bác học (Văn học dân gian gọi là văn học bình dân). Gọi
như thế, văn chương mang trong mình nó tính bác học. Người sáng tác phải bác
học và người tiếp nhận cũng rất bác học. Bởi đây là loại văn chương phòng
khách, trà dư tửu hậu.
Văn chưong chính thống thời phong kiến mang tính qui phạm từ góc độ

Văn học nghệ thuật mọi thời, mọi dân tộc bao giờ cũng có tính ước lệ. Bởi lẽ,
văn học không là phiên bản thu nhỏ của hiện thực đời sống, nhưng bắt nguồn từ
mảnh đất thực tại, thanh lọc thực tại qua cái nhìn nghệ thuật của nhà văn, lăng
kính thẩm mỹ của thời đại. Có điều, ước lệ trong văn học là ước lệ thẩm mỹ có
tính qui ước của các nhà văn trong một thời đại, trong một giai đoạn, một dòng
văn học nhất định.

sáng tác đến thưởng thức. Giới văn học hẹp, chỉ quanh quẩn trong tầng lớp trí
thức Hán học tài hoa, tao nhân mặc khách. Trường hợp Nguyễn Khuyến và
Dương Khuê là một thí dụ tiêu biểu. Độc giả của Nguyễn Khuyến là Dương
Khuê, nên khi bạn văn mất, nhà thơ như muốn gác bút:
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa ?

Ước lệ trong văn học trung đại Việt Nam được nhà văn sử dụng triệt để,

Sáng tác trong môi trường ấy, tất nhiên tính uyên bác có ý nghĩa thẩm mỹ.

nghiêm túc và phổ biến. Các nhà văn bao giờ cũng cảm thụ và diễn đạt thế giới

Người sáng tác cũng như người tiếp nhận đều phải thông thuộc kính sử, điển cố,

bằng hệ thống nghệ thuật ước lệ. Ước lệ đã trở thành một đặc trưng thi pháp của

điển tích; phải có vốn thi liệu, văn liệu phong phú học tập được từ những áng

8

9


văn bất hủ của người xưa. Văn chương càng uyên bác càng có sức hấp dẫn lớn,

Nhìn chung, văn chương thời ấy không chú ý tả thực. Tả thực nếu có, chỉ
dùng cho những nhân vật phản diện phàm tục như Mã giám sinh, Sở Khanh,

có tính nghệ thuật cao.
Trước sau nào thấy bóng người

Tú bà…
Thoắt trông nhờn nhợt màu da


Hoa đào năm ngóai còn cười gió đông

Ăn chi cao lớn đẫy đà lám sao ?

(Nguyễn Du)

Thời bấy giờ, người ta quan niệm con người không hòan thiện, hòan mỹ

Hay:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

bằng tạo hóa, không tài hoa bằng hóa công. Vì thế, những gì cần lý tưởng hóa

Dân gìau đủ khắp đòi phương.

đều phải được so sánh với thiên nhiên, thiên nhiên trở thành chuẩn mực cho cái

(Nguyễn Trãi)
Văn chương của tao nhân mặc khách, nên có khuynh hướng lý tưởng hóa,
“văn chương hóa”, Các nhà văn thời ấy muốn tạo ra một thế giới nghệ thuật
riêng khác với thế giới đời thường. Cho nên, thế giới nghệ thuật của các trang
văn thời này luôn được các nhà văn cách điệu hóa cao độ. Hình tượng nghệ

đẹp của con người. Con những tiểu nhân chỉ có thể so sánh với xác của
chúng,mới tả thực.
* Tính sùng cổ:
Do quan niệm thời gian phi tuyến tính, nên trong văn chương cổ của dân
tộc ta, các nhà văn luôn có xu hướng tìm về quá khứ. Họ lấy quá khứ làm chuẩn
mực cho cái đẹp, lẽ phải, đạo đức. Với họ thời đại hòang kim không có trong


thuật càng cách điệu hóa càng đẹp.
Quan niệm này đã làm nấy sinh thái độ xem thường văn xuôi. Trong cái
nhìn của các nhà văn và độc giả văn học thời phong kiến, văn xuôi gần với đời
sống thực tại, ít được cách điệu hóa; thơ mới là thứ ngôn ngữ giàu tính cách
điệu. Con người trong văn chương phải đẹp một cách lý tưởng: tóc mây, mày
liễu, mặt hoa, tay tiên, gót sen, vóc hạc,... Cử chỉ, đi đứng, ăn nói tựa như đang
sống trong thế giới của nghệ thuật sân khấu:

thực tại. Thời đại hòang kim chỉ có vào thời Nghiêu, Thuấn; người anh hùng
nghĩa sĩ lý tưởng là Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng (Hịch tướng sĩ văn). Chân lý
quá khứ là chân lý có sức sáng tỏa muôn đời. Vì thế, văn chương thường lấy
tiền đề là lý lẽ và kinh nghiệm của cổ nhân, của lịch sử xa xưa (lập luận trong
Quân trung từ mênh tập của Nguyễn Trãi là một minh chứng).
Vì vậy mà văn học trung đại thường đầy rẫy những điển tích, điển cố. Mẫu
mực của văn chương cũng như vậy. Thơ ca không ai có thể vượt qua những thi

Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao
Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa
(Nguyễn Du)
Tạo vật thiên nhiên đi vào văn chương cũng phải thật sang quý và đẹp như
mai, cúc, tùng, bách, liễu,...

thánh, thi tiên, thi thần như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,...
Chính vì vậy, các nhà văn đời sau thường “tập cổ” vay mượn văn liệu, thi
tứ, hình ảnh nghệ thuật của các nhà thơ, nhà văn đời trước mà không bị đanh giá
là “Đạo văn”. Ngược lại, họ được đánh giá là một cây bút đạo đức, sang trọng;
tác phẩm của họ rất giàu giá trị.
* Tính phi ngã:

Thời phong kiến, ý thức cá nhân chưa có điều kiện phát triển. Con người

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

chưa bao giờ dám “sống là mình”, “sống với mình”. Con người chỉ sống với

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

không gian mà không sống cùng thời gian.

(Bà huyện Thanh Quan)
10

11


Con người được nhìn nhận, đánh giá trên cơ sở của tầng lớp, giai cấp,

Người viết văn làm thơ có một kho điển cố, điển tích, kho thi liệu, văn liệu

dòng tộc, địa vị xã hội. Vì thế con người được phân thành hai loại: quân tử và

chung. Tất cả đều là những hình ảnh, những ngôn từ ước lệ phi ngã. Nói chuyện

tiểu nhân. Trong cuộc sống cũng như trong văn chương, yêu đương tự do khó có

tri âm, tri kỉ thì “mắt xanh chẳng để ai vào”, nói tình yêu lỡ dỡ thì có chuyện

thể chấp nhận và không bao giờ đạt được hạnh phúc. Hôn nhân xây dựng trên


Thôi Oanh Oanh, Trương Quân Thụy. Nói người phụ nữ tài hoa thì ví như nàng

cơ sở đẳng cấp, môn đăng hộ đối. Người có văn hóa giáo dục là người biết khắc

Ban, ả Tạ. Cha mẹ là huyên đường, vợ chồng là tao khang. Nhớ quê hương thì

kỉ, biết giữ mình, biết nhún mình, thu mình lại, hạ thấp cái tôi cá nhân của mình.

trông áng mây Tần xa xa... Tất cả đều có nguồn gốc ở trong văn chương cổ

Chính điều kiện xã hội ấy đã sinh ra hệ thống ước lệ trong văn chương, một

Trung Hoa mà người viết văn, làm thơ cũng như người đọc văn, đọc thơ phải

ước lệ nghệ thuật có tính phi ngã. Nhà văn cảm thụ và diễn tả thiên nhiên không
bằng cái nhìn hữu ngã và bằng ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu do cá nhân mình
sáng tạo.

thông thạo.
Tuy nhiên, nói văn học trung đại có tính phi ngã không có nghĩa trong tác
phẩm văn chương không có dấu ấn bản ngã của người nghệ sĩ. Bởi lao động

Tranh vẽ, thơ vịnh đều có sự quy định theo một công thức nhất định: tứ

nghệ thuật là một họat động sáng tạo; văn học chân chính không chấp nhận công

quý, tứ linh, tứ thú,... Tạo vật thì phải là xuân lan, thu cúc, hoa điểu, tùng hạc,

thức, phi ngã. Trong văn học thời trung đại của dân tộc ta, các cây bút lớn đều


con người thì ngư, tiều, canh, mục. Buổi chiều phải có chim bay về tổ, mục

khẳng định tư tưởng, cá tính và tài nghệ độc đáo của họ. Tiến trình văn học đã

đồng thổi sáo réo rắt ngồi trên mình trâu về thôn xa, người lữ thứ bước vội trên

khẳng định điều đó. Chúng ta không thể phủ nhận cá tính sáng tạo của Nguyễn

đường, chùa xa chuông ngân tiếng âm trầm giục giã khách giang hồ,... Cảnh

Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần

trăng khuya thì có thuyền gối bãi, thuyền chở trăng; đêm thì có tiếng dế nỉ non,

Tế Xương, Tản Đà,... Chỉ có điều, do tính qui phạm nghệ thuật; nên sự khác biệt

khoan nhặt, giọt ba tiêu thánh thót rơi buồn,...

trong tư tưởng và phong cách nghệ thuật của các cây bút ấy chỉ là những hình

Truyện luôn có nhân vật giai nhân tài tử, trai anh hùng gặp gái thuyền

thức khác nhau của sự vận dụng những chuẩn mực chung của cộng đồng văn

quyên. Gái đẹp luôn được miêu tả: mặt hoa da phấn, “làn thu thủy nét xuân

học bấy giờ mà thôi.

sơn”, lưng ong, gót sen; anh hùng thì râu hùm hàm én; đấng trượng phu, bậc


1.1.2.2. Thiên nhiên trong văn học trung đại

quân tử được ví như cây tùng, cây bách nơi chốn lâm tuyền, sẽ làm rường cột

Đi vào tìm hiểu những tác phẩm thơ ca của cha ông xưa, người đọc như

cho quốc gia,... Cốt truyện thì theo một công thức định sẵn như: gặp gỡ, ly tán,

được sống giữa thế giới tạo vật thiên nhiên non nước hữu tình vừa tĩnh lặng vừa

đòan viên,...

hòanh tráng. Trong sáng tác của các nhà thơ, nhà văn trung đại hình như không

Thơ phải cách luật. Luật phối thanh bằng trắc của thơ phú cũng quy định

thể vắng bóng thiên nhiên. Thiên nhiên làm nên diện mạo, linh hồn của tác

nghiêm ngặt, chặt chẽ, khiến cho người làm thơ phải diễn tả thế giới bằng thính

phẩm. Thiên nhiên biểu hiện cảm quan vũ trụ, mỹ cảm và tư tưởng triết học

giác có tinh “phi ngã” của cộng đồng tao nhân mặc khách. Bố cục thơ cũng định

phương Đông của các nghệ sĩ Nho học này.

sẵn, bất di bất dịch. Ngay cả tiêu đề thơ cũng quanh quẩn: ngôn hòai, thuật hoài,
ngôn chí,...

Riêng thơ ca thì thơ tức cảnh cũng là như tranh sơn thủy chiếm một vị trí hết

sức quan trọng trong đời sống văn nghệ thời phong kiến.

12

13


Hiện tượng này có thể bắt nguồn từ xã hội kinh tế nông nghiệp thô sơ của

Từ tư tưỏng và quan niệm trên, văn chương trung đại đã miêu tả thiên nhiên

thời trung đại. Thời ấy con người sống giữa thiên nhiên. Con người trực tiếp

theo một bút pháp đặc biệt: không tả hình xác của tạo vật mà gợi tả linh hồn của

khai thác thiên nhiên bằng bàn tay lao động của mình. Thiên nhiên là nguồn

thiên nhiên. Thiên nhiên trở thành ý niệm tượng trưng, dấu hiệu tượng trưng,

nuôi dưỡng tinh thần và vật chất cho con người. Thiên nhiên có mặt trong cuộc

chứa đựng những cảm giác, cái không thấy của con người. Thiên nhiên là nơi

sống gia đình, xã hội của cư dân của nền văn hóa thảo mộc, nền văn minh lúa

gởi gắm những tư tưởng, tình cảm hay triết lý của con người.

nước. Hiện tượng nghệ thuật này cũng có thể nẩy sinh từ hệ triết học phương

Xuân đến trăm hoa nở


Đông: con người hòa đồng với vạn vật, tạo vật và con người tương sinh trong

Xuân đi trăm hoa rụng

thế giới này. Và cũng có thể xuất phát từ đời sống văn hóa tín ngưỡng Tô-tem

..........

hay tín ngưỡng phồn thực phương Đông.

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

Hiện tượng này cũng có thể lý giải bằng hệ tư duy tổng hợp Đông phương,

Đêm qua sân trước một nhành mai

bằng tính cách duy cảm của dân tộc ta. Con người không nhìn nhận mình là chủ

(Mãn Giác Thiền sư)

thể mà cảm nhận mình là một yếu tố cùng với thiên nhiên tạo nên sự sống của

Thiên nhiên có linh hồn nên cũng sang hèn, quân tử tiểu nhân như con

thế giới thực tại này. Con người duy cảm nên luôn đắm mình vào những biến

người. Các nhà thơ xưa không chấp nhận cái thấp hèn, những sự vật tầm thường

thái mong manh, tinh vi của tạo vật để giao cảm, giao hòa. Vì vậy, ta hiểu văn


nên thiên nhiên trong thơ họ luôn là những tạo vật cao sang. Các nhà thơ bầu

chương trung đại thơ ca chiếm một vị trí quan trọng và trong văn xuôi lại thắm
đượm chất thơ, cảm xúc trữ tình.

bạn hay tri âm tri kỷ với thiên tao nhã, sang trọng như: “Sơn thủy yên hoa tuyết
nguyệt phong” (Hồ Chí Minh). Họ tự ví mình như cốt cách phong độ của “Mai,

Vì những căn cứ trên, thiên nhiên không tách khỏi con người như một khách
thể trong văn chương. con người cảm thụ thiên nhiên như là một chủ thể. Con
người đã gán cho thiên nhiên những phẩm chất, thuộc tính của chính mình.

lan, cúc, trúc” hay “Tùng, cúc, trúc, mai”.
Quét trúc bước qua lòng suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng

Thiên nhiên chưa được khám phá với những giá trị tự thân, chưa thực sự là
đối tượng hiện thực của văn học. Người ta tìm đến với thiên nhiên và xem
thiên nhiên như là một tư liệu để để ngụ tình hay giáo huấn đạo đức một cách
không tự giác.
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Điều này khác với văn chương hiện đại. Văn chương hiện đại tôn trọng
sự sống riêng của tạo vật thiên nhiên. Thiên nhiên được miêu tả như là một

(Nguyễn Trãi)
Hay:
Nghêu ngao vui thú yên hà

Mai là bạn cũ hạc là người thân
(Nguyễn Du)
Họ đối lập thiên nhiên tao nhã với thiên nhiên phàm tục, tầm thường cũng là
để đối lập họ với những kẻ tiểu nhân, phàm phu đắc thế:
Phượng những tiếc cao diều hãy liệng
Hoa thường hay héo cỏ thường tươi

khách thể.
14

15


Hoặc:

điệu tâm hồn của các thi nhân ấy. Thơ của các thi nhân ấy là tâm hồn sáng láng,
Đến trường đào mận ngặt chăng thông

nhân cách cao cả, phong thái tự tại của chính họ giữa chốn đời bụi bặm này.

Quê cũ ưa làm chủ trúc thông

1.1.2.3. Quan niệm về không gian, thời gian

(Nguyễn Trãi)
Do cảm thụ thiên nhiên như vậy, nên văn thơ có hai đặc tính:
Thiên nhiên được cảm nhận và tái hiện một cách tinh vi như muốn khám phá
linh hồn ẩn kín, bí mật của tạo vật.

* Không gian nghệ thuật

Không gian là nơi con người tồn tại. Trong tác phẩm văn học, không gian
nghệ thuật chính là những nơi chốn, địa điểm được diễn tả trong tác phẩm.
Trong tác phẩm văn học không gian nghệ thuật được chia thành các hình

Thụy khởi khải song phi

thức sau:

Bất tri xuân dĩ quy

Không gian vũ trụ: Rộng lớn, kì vĩ.

Nhất song bạch hồ điệp

Không gian đời thường: Gần gũi, quen thuộc.

Phách phách sấn hoa phi
dịch thơ:

Không gian vay mượn: Đó thường là những không gian tượng trưng, được vay
mượn ở Trung Quốc:

Ngủ dậy ngó song mây

Mượn núi, sông để diễn tả sự xa cách, sự ngăn cách.

Xuân về vẫn chửa hay

“Yêu nhau mấy núi cũng leo,


Song song đôi bướm trắng
Phấp phới sấn hoa bay.

Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”.

(Xuân hiểu-Trần Nhân Tông)
Thiên nhiên trong thơ thường được phối màu thanh đạm, đường nét thanh

“Núi cao chi lắm núi ơi!

Hay:

Núi che mặt trời không thấy người thương”.
Mượn núi Thái Sơn để diễn tả núi cao.

tao; nhưng mang đậm chất sống ngồn ngộn tươi rói như thiên nhiên trong cuộc

Mượn Trường An, Lạc Dương để diễn tả kinh đô.

sống đời thường.

Mượn sông Dịch Thuỷ để diễn tả nơi biệt li.
Đồng bằng nhô núi biếc

Mượn sông Tiêu Tương để diễn tả miền thương nhớ.

Hình thế tựa diều bay

Khi tìm hiểu cần lí giải được những hình ảnh tượng trưng đó, hiểu được


Cầu vắt qua khe nước

những địa danh đã đi vào điển cố, điển tích. Không gian nghệ thuật trong các tác

Chùa nằm tít đỉnh mây

phẩm văn học cũng được chia thành:

(Đề núi cánh diều-Lê Quý Đôn)
Thiên nhiên luôn được tái hiện bằng cảm xúc dạt dào, tình cảm lắng sâu của

Không gian địa lí.
Không gian tâm lí.

người làm thơ. Những vần thơ đã trích là một thí dụ. Đọc những vầng thơ của

Con người sống chiếm một khoảng không gian. Không gian đó chính là

Nguyễn Trãi, Trần Nhân Tông, Lê Quý Đôn,… ta như nghe thấy hơi thở nhịp

không gian địa lí. Trong bài ca dao, có hai kiểu không gian. Không gian địa lí xa
thì xa, gần là gần. Xa hay gần chính là đơn vị dùng để diễn tả khoảng cách.

16

17


Ngoài không gian địa lí trong bài ca dao còn có khoảng không gian vô


Quan sát cận cảnh hằng ngày, nhận thức thời gian tuyến tính một đi không trở

hình, đó là không gian tâm lí. Không gian tâm lí không như không gian địa lí, xa

lại. Thời gian tuyến tính vận động mau lẹ, đầy hình ảnh, đầy màu sắc cụ thể và

hay gần tuỳ thuộc vào sự cảm nhận của con người. Không gian tâm lí được đo

giàu chất sống. Thời gian tuyến tính là thời gian của thế giới phàm tục

bằng sự nhạy cảm của trái tim. Chính vì vậy nên có rất nhiều nghịch lí. Có khi

Quan sát thế giới từ xa, nhận thức thời gian tuần hòan qua sự tuần hòan của

xa mà gần, có khi gần mà xa. Nếu có khoảng cách về không gian địa lí, con

vũ trụ. Đây là quan niệm thời gian theo chu kỳ, thời gian quay tròn không đi

người sống có tình cảm thì khoảng cách đó có thể thu hẹp được:

mất, động mà tĩnh, ngưng đọng, phi thời gian. Thời gian chu kỳ là thời gian của

"Yêu nhau chẳng ngại đường xa
Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều”.
Còn sống mà có khoảng cách về tâm lí thì gần cũng trở nên xa.

cõi trời, cõi tiên, của thế giới thanh cao bất tử.
Trong hai quan niệm thời gian này, người xưa chủ yếu hướng về thời gian
chu kỳ, họ cho rằng thời gian tuyến tính phục tùng thời gian chu kỳ. Vì vậy,
cảnh trong thơ xưa nhìn chung là cảnh ngưng đọng, phi thời gian, màu sắc đạm


* Thời gian nghệ thuật
Con người thời cổ đại và trung đại chưa xem thời gian và không gian như
những phạm trù trừu tượng. Thời ấy, người ta cảm nhận thời gian bằng sự trực
cảm, bằng những tín hiệu không gian, bằng sự vận động của thiên nhiên và sự
sống của con người. Bước đi của thời gian được theo dõi bằng thời tiết bốn mùa,
bằng thời vụ nông tang, bằng sen tàn, cúc nở, bằng oanh vàng liễu biếc hay
tiếng Đỗ quyên kêu.

bạc giàu ý nghĩa biểu tượng triết lý hơn là hiện thực.
Trong truyện cổ, do cảm giác thời gian tuyến tính và chu kỷ song hành, nên
cốt truyện thường có mô-típ: con người từ cõi trần lên cõi tiên, rồi từ cõi tiên trở
lại cõi trần, từ thời gian tuyến tính đi lên thời gian chu kỳ rồi quay về thời gian
tuyến tính. Truyện Từ Thức lên tiên sống với thế giới phi thời gian, sau đó trở
về lại cõi trần và thấy trăm năm đã trôi qua.
Trong thơ ca cổ điển, các nhà thơ cũng cấu tứ theo hai ý niệm thời gian như

Dưới trăng quyên đã gọi hè

thế. Bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu khẳng định điều đó:

Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu

(Nguyễn Du)

Mà nay Hòang hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng bay mất từ xưa


Hay:

Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca
Nay quyên đã giục oanh già

(Tản Đà dịch)
Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm thời gian chu kỳ ngưng đọng biểu đạt lối
sống nhàn tản, bất hòa với cõi nhân gian thế thái:

Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.

Thu ăn măng trúc đông ăn giá

(Chinh phụ ngâm-Đặng Trần Côn)
Từ kinh nghiệm trực cảm, người xưa có hai nhận thức về thời gian:

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Hoặc:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao

18

19


Trong thơ Nguyễn Khuyến, thời gian hầu như tĩnh tại đồng hiện, con người


Hay:

như đóng khung trong thời gian lắm sắc màu lòe lọet, nhịp điệu trì trệ ấy mà

Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc

cảm nghe sự bất lực của một kẻ sĩ :

Nợ tang bồng vay trả trả vay

Năm gian nhà cỏ thấp le te

Chí làm trai nam bắc đông tây

Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
(Thu ẩm)

(Nguyễn Cổng Trứ)
Người đẹp là người sánh ngang với sự hoàn mỹ của vũ trụ và khiến trời đất
cũng ghét ghen:

1.1.2.4. Quan niệm về con người

Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh


* Con người vũ trụ
Thời trung đại, con người và thiên nhiên tạo vật được nhìn nhận là một khối
thống nhất. Con người là một tiểu vũ trụ luôn tìm về hội nhập cùng đại vũ trụ.
Con người vì thế luôn quan hệ với vũ trụ.

(Kiều- Nguyễn Du)
Con người vũ trụ luôn ứng xử theo quy luật tuần hòan của vũ trụ, âm dương
tiêu trưởng. Tư tưỏng đó là thiên mệnh. Thấm nhuần tư tưởng trên, nên người

Chính quan niệm này đã chi phối quan niệm nghệ thuật về con người trong

quân tử “xuất xư”, “hành tàng” một cách ung dung thanh thản: gặp tai biến

văn chương: con người vũ trụ. Con người vũ trụ thể hiện qua một thi đề phổ

không lo sợ sầu não, gặp vận may không vui mừng đắc chí. Họ luôn sống theo

biến của thơ trữ tình: con người giao cảm, đối diện đàm tâm với tạo vật vũ trụ,

khái niệm “Thời”, theo qui luật: bĩ tắc thái, cùng tắc thông. Trong văn chương

có kích thước vũ trụ.

xưa, ta thường thấy hình ảnh con người sống theo đạo trời, bước đi cùng tạo

Đó là khi con người khi gặp oan khuất, chỉ có trời đất thấu hiểu.
Xanh kia thăm thẳm từng trên

hóa. Họ khoan thai, ung dung, hòa mình vào thiên nhiên; thậm chí muốn nhập

hẳn vào vũ trụ:

Vì ai gây dựng cho nên nỗi này

Trên đồi có thông

(Chinh phụ ngâm- Đặng Trần Côn)

Muôn dặm biếc mông lung
Ta thảnh thơi nằm ngủ bên trong

Khi thề nguyền keo sơn gắn bó thì núi sông chứng giám lòng thành
thủy chung. Khi xử thế lánh đục tìm trong, vong bần lạc đạo, con người tìm
về chốn lâm tuyền, cùng bầu bạn với gió trăng, cây cỏ. Khi nhập thế thì
rồng mây gặp hội.

(Nguyễn Trãi)
* Con người đạo đức
Thời trung đại, Người ta chưa phân biệt được tâm và vật. người ta gán tâm

Tầm vóc con người được đo theo chiều kích sông núi:

cho vật. Vạn vật khách quan đều có tính chủ thể. Thời gian, không gian đều có

Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu

xấu tốt, độc lành. Tòan bộ xã hội được nhìn nhận trong một hệ thống tôn giáo -

Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu


đạo đức nhất định tùy theo từng khu vực văn hóa.

(Thuật Hòai-Phạm Ngũ Lão)
20

21


Văn chương theo đấy mà phản ánh xã hội không phải ở bình diện khách quan
mà chủ yếu theo quan niệm đạo đức, luân lý. Nhân loại phân hóa thành hai cực
đạo đức và phi đạo đức. Nhân vật trong tiểu thuyết cũng phân hóa thành hai
tuyến: thiện và ác, chính và tà, trung và nịnh, quân tử và tiểu nhân. Chủ đề đạo
đức, khuynh hướng giáo huấn có tính phổ biến đối với các loại tiêu thuyết, cổ
tích thời trung đại:

Giá trị cá nhân không được xem xét từ bản thân phẩm chất cá nhân mà ở vai trò
của cá nhân trong mối quan hệ giai tầng.
Chính vì thế, trong văn chương, từ ứng xử đến tâm tư; từ tình yêu đôi lứa đến
tình yêu nước,... tất cả đều theo một chuẩn mực chung của đẳng cấp.
Nhân vât trong các truyện Nôm đều là những nhân vật sắm vai, nghĩa là họ
diễn các vai trò mà xã hội giao cho với những nghi thức áp đặt bên ngoài.

Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
(Nguyễn Đình Chiểu)

Tình yêu cũng đầy nghi thức. Tình yêu kị sĩ, tình yêu của giai nhân tài tử đều
có những nghi thức riêng.
Như vậy, thời phong kiến trung đại, con người cá nhân chưa được giải phóng


Văn chương không nhằm mục đích nhận thức hiện thực mà chỉ để chuyên chở

về nhiều phương diện. Con người sống đồng trục, đồng dạng về tư tưởng tình

đạo lý, đấu tranh cho đạo lý. Chức năng giáo dục của văn học được đặt lên hàng

cảm. Con người xuất hiện trong văn chương với mối quan hệ tình và nghĩa;

đầu. Vì vậy, Các truyện Nôm đều kết thúc có hậu. Văn chương gần như minh

nhưng không có màu săc cá nhân.

họa cho đạo đức, khẳng định triết lý: Ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ; khuyên con

Từ đó, những thủ pháp nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong tác phẩm
cũng giống nhau. Các nhà văn thường sử dụng hành vi bên ngoài và những dấu

người tích thiện, hành thiện.
Thiện căn ở tại lòng ta

hiệu thân xác để diễn tả tâm tư nhân vật. Trần Hưng Đạo giận quân xâm lược thì

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài

“nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Kiều Nguyệt Nga thủy

(Nguyễn Du)
Nhìn chung, con người trung đại quan niệm thế giới có tính chất lưỡng
nguyên. Họ cho rằng, cõi trần gian tội lỗi và cõi trời cao cả thánh thiện.


chung với Lục Vân Tiên thì họa hình người mình yêu mà mang theo trên đường
công danh khoa cử. Thúy Kiều lo nghĩ, nhớ thương đến héo hon, sầu não thì
“khi vò chín khúc, khi chau đôi mày”.

Hướng về cao cả, thánh thiện; nên văn chương thường thiên về cái đẹp phi

Thủ pháp thể hiện tâm lý nhân vật là thủ pháp ngoại hiện. Nhân vật vì vậy

vật chất, phi tính dục, phi thân xác. Hình tượng văn học chủ yếu được xây

lúc nào cũng động đậy, không bao giờ chịu ngồi yên trầm tư. Tiểu thuyết, vì thế

dựng bằng thị giác, thính gíác. Hình tượng vị giác, nhất là xúc gíac bị xem là

nặng về sự kiện và cốt truyện hơn là khai thác tâm lý trực tiếp. Trong truyện
không có ngôn ngữ nhân vật mà chỉ có lời phụ đề trữ tình của tác giả hay lời của

thô tục, phi mỹ học.

tác giả đặt vào miệng các nhân vật, bắt nhân vật nói hộ mình. Do vậy, nhân vật

* Con người phi cá nhân
Trong văn học thời trung đại, con người cá nhân chưa được quan niệm rạch
ròi và xây dựng thành một hình tượng nghệ thuật. Đây là một vấn đề có cơ sở xã
hội của nó. Xã hội phong kiến, về phương diện kinh tế, không dựa trên nền tảng
cá nhân. Do vậy, con người chưa được nhìn nhận như một cá nhân cá thể ý thức.

22

thiếu cá tính, tính cách. Nhân vật nếu có tính cách thì tính cách cũng rõ ràng,

đơn giản và bất biến.
* Con người ý thức
Những vấn đề quan niệm về con người trình bày ở trên là xét về đại thể, xét
trong một giai đọan văn học từ thế kỉ X-đầu thế kỉ XVIII. Trong thực tiễn đời

23


sống văn học, ở tác giả này, ở tác phẩm kia không phải là không có con người
cá nhân ý thức về cái tôi của mình. Nhất là ở giai đọan cuối thế kỷ XVIII.
Xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XVIII rơi vào tình trạng khủng
hỏang sâu sắc. Mọi chân giá trị của xã hội bị đảo lộn hay băng hoại. Đây cũng là

Hồ Xuân Hương đã lấy trực cảm nghệ thuật mà khám phá và tái hiện tạo vật
thế giới, xây dựng nên một vũ trụ thơ ca ngồn ngộn sắc màu, thanh âm, đường
nét sống động, tươi rói sự sống. Đấy là một thế giới bộc lộ trọn vẹn tình cảm
của nữ sĩ:

thời đại khởi nghĩa của nông dân. Chính từ điều kiện xã hội ấy, ý thức cá nhân

Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ

bắt đầu trỗi dậy. Con người cá thể cảm thấy bị trói buộc nặng nề phi lý của đạo

Sau giận vì duyên để mỏm mòm

lý, của lễ giáo phong kiến, của hệ thống ước lệ thẩm mỹ phong kiến.

Tài tử văn nhân ai đó tá ?


Trong đời sống văn học, nhiều tác phẩm có tính chất phản phong xuất

Thân này đâu đã chịu già tom !

hiện như Cung óan ngâm khúc, Truyện Kiều; nhiều tác giả dõng dạc khẳng

(Tự tình I)

định cái tôi của mình như Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Cao Bá Quát,

Cũng có thể thấy ở thơ Nguyễn Công trứ con người cá nhân ý thức. Nguyễn

Nguyễn Công Trứ,...
Có thể đơn cử thơ Hồ Xuân Hưong để minh chứng cho điều đã nói ở trên.

Công Trứ chủ trương hưởng lạc để khẳng định bản thể của cá nhân. Hưởng lạc

Hồ Xuân Hương là nữ sĩ đã đưa cái tôi của mình vào thơ, đã trưng ra cá tính nổi

là sự tự khẳng định cá nhân mình trong thời gian hữu hạn. Do vậy, ta hiểu vì sao

lọan trên những trang viết của mình. Hồ Xuân Hương đã làm vỡ tung hệ thống

nhà thơ không dùng khái niệm “Trăm năm” mà dùng “Ba vạn sáu nghìn ngày”.

ước lệ nghiêm ngặt của văn học trung đại.

Nhưng cần phải thấy rõ, hưởng lạc của Nguyễn Công Trứ nằm trong phạm vi

Trong thơ Hồ Xuân Hương, những gì gọi là hiền nhân quân tử đều bị phàm


thể hiện cái tài tình của cá nhân: “Bài ca ngất ngưỡng” hay:

tục hóa, đời thường hóa. Họ cũng chẳng sang quý gì mà cũng mỏi gối chồn

Chen chúc lợi danh đà chán ngắt

chân, đã mỏi gối chồn chân nhưng vẫn cố trèo “Đèo Ba dội”, cũng mụ mị ngắm

Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao

nhìn “Cá giếc le te lội giữa dòng”, cũng:

hoặc:

Trai đu gối hạc lom khom cật

Được mất dương dương người tái thượng

Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.

Khen chê phơi phới ngọn đông phong

(Đánh đu)
Hồ Xuân Hương đã lên tiếng đòi hỏi hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc cho
người phụ nữ “Làm lẽ”. Nữ sĩ đã đem hạnh phúc ấy mà xô lệch cái thế giới
nghệ thuật trang nghiêm, đạo mạo của các đấng, bậc Hán học; để khẳng định
một chất nhân văn mới, một hình thức nghệ thuật mới cho thơ.
Qủa cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi

Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi.
(Mời trầu)
24

Nhìn chung, với Nguyễn Công Trứ, ý thức cá nhân được khẳng định với ba
phạm trù: công danh, cái nhàn hưởng lạc và cái ta hơn người, cái riêng tư tự
hào, tự cho là đủ. Tất cả tạo nên một con ngươi cá nhân trong thơ hài hòa, tự tin,
phong lưu, tự do, đứng trên mọi sự tính tóan được mất khen chê. Đấy là bước
phát triển cao nhấy của ý thức cá nhân mang nội dung phong phú, hài hòa trong
văn học Việt Nam thời trung đại.
Phải chăng con người ý thức cá nhân cá thể của văn học giai đọan này sẽ là
tiền đề cho sự tiếp nối và phát triển con người cá nhân trong văn chương giai
đọan sau này, khi có sự hội nhập với nền văn hóa phương Tây hiện đại.
25


1.1.3. Thơ Nôm Đường luật và quan niệm dạy học thơ Nôm Đường luật theo

* Giai đoạn phát triển:
Chữ Nôm ra đời cũng như thơ Nôm Đường luật được sáng tác đã đánh

hướng vận dụng thi pháp
1.1.3.1. Thơ Nôm Đường luật

dấu một bước ngoặt trong lịch sử văn học dân tộc. Thơ Nôm Đường luật

Thơ Nôm Đường luật chiếm giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đời

chính là tiếng nói, hơi thở, là hồn của dân tộc. Trải qua quá trình phát triển


sống, tư tưởng tình cảm của cộng đồng người Việt Nam, đặc biệt là trong thời

thơ Nôm Đường luật không ngừng lớn mạnh để đạt đến đỉnh cao trong nền

trung đại. Thơ Nôm Đường luật là tiếng nói gửi gắm tình cảm, tư tưởng, suy

văn học nước nhà.

nghĩ của nhiều bậc tri thức về con người, thiên nhiên, quan niệm sống thời

Từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi đến thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, Tú
Xương được coi là năm thế kỉ phát triển và có nhiều thành tựu vượt bậc. Tuy

trung đại.
Theo các nghiên cứu văn học thì thơ Nôm Đường luật là những bài thơ viết
bằng chữ Nôm theo luật của thơ Đường hoàn chỉnh và cả những bài viết theo
thơ luật Đường phá cách có xen câu ngũ ngôn, lục ngôn vào vào bài thơ thất
ngôn như thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm…
1.1.3.2. Quá trình phát triển của thơ Nôm Đường luật
Quá trình phát triển của thơ Nôm Đường luật trải qua một thời gian khá dài
trong tiến trình lịch sử phát triển của nền văn học dân tộc, nhưng nhìn chung là
trải qua ba giai đoạn đó là: giai đoạn hình thành, giai đoạn phát triển và giai

nhiên trong năm thế kỉ phát triển ấy thơ Nôm Đường luật lại trải qua nhiều
chặng khác nhau với những đặc điểm riêng độc đáo.
- Từ Nguyễn Trãi đến Hồ Xuân Hương thơ Nôm Đường luật phát triển khá
mạnh mẽ. Đây vừa là giai đoạn đi từ thể nghiệm đến ổn định đồng thời cũng là
giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của thể loại thơ ca này. Nhờ có giai đoạn này mà
ngay từ đầu, thơ Nôm Đường luật đã khẳng định được vị trí của mình trong lịch

sử văn học dân tộc. Có thể nêu một số đặc điểm của từng thờ kì trong giai đoạn
phát triển rực rỡ này.
Ý thức về việc phải “nhập nội” một thể thơ ngoại lai nên trên cơ sở đó ông

đoạn cuối.

cha ta đã nghiên cứu tìm tòi để sáng tạo ra một lối thơ cho người Việt. Vì thế

* Giai đoạn hình thành:

cách gọi thơ Nôm Đường luật là thơ Hàn luật để chỉ loại thơ này có từ thời Hàn

Cho đến nay chưa có bằng chứng chứng minh được một cách chính xác, cụ
thể về thời gian ra đời của thơ Nôm Đường luật. Nhưng theo Đại Việt sử kí toàn
thư của Ngô Sĩ Liên, một bộ thông sử chính thức của nhà nước phong kiến và
cũng theo nhiều nhà nghiên cứu đánh giá về khả năng ra đời của chữ Nôm thì
thơ Nôm Đường luật ra đời vào khoảng cuối thế kỉ XIII. Tuy nhiên cho đến nay
thì văn bản chữ Nôm đầu tiên của thể thơ này còn giữ được là tập thơ Quốc âm

Thuyên. Người có công lớn đầu tiên trong việc nỗ lực cố gắng xây dựng một lối
thơ Việt chính là Nuyên Trãi, Với Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi đã thực sự tạo
cho lịch sử văn học Việt Nam một lối thơ mới có những điểm khác biệt với thơ
Đường luật. Tiếp sau Nguễn Trãi còn phải kể đến Hồng Đức quốc âm thi tập,
Bạch Vân quốc ngữ thi tập…
Thế kỉ XV có thể nói là thế kỉ của thơ Nôm Đường luật, bởi sự xuất hiện của

thi tập của Nguyễn Trãi. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu thơ Nôm Đường luật

hai tập thơ lớn là Quốc âm thi tập và Hồng Đức quốc âm thi tập. Ở đó ta quan


chủ yếu được bắt đầu từ tập thơ này. Tuy nhiên Quốc âm thi tập là tập thơ Nôm

sát thấy cả sự kế thừa cũng như tìm tòi, mở hướng theo xu hướng xã hội hóa

Đường luật đầu tiên hiện nay còn lại chứ chắc chắn không phải là sáng tác tác

trong nội dung phản ánh và đay được coi như là một quy luật phát triển của thơ

đầu tiên bằng thơ Nôm.

Nôm Đường luật.
26

27


Từ sau Nguyễn Bỉnh Khiêm đến trước Hồ Xuân Hương thơ Nôm phát triển

cuộc sống thực mà con người ta hằng ngày vẫn phải sống. Đến Hồ Xuân

với nhịp độ bình thường.Cũng trong khoảng gần hai thế kỉ nhưng thơ Nôm

Hương, thơ Nôm Đường luật đã thực sự là một cuộc cách tân đầy ý nghĩa,

Đường luật thé kỉ XV, XVI đã đạt được những thành tựu xuất sắc, rực rỡ, trong

những hình ảnh cuộc sống đời thường, dân dã, nguyên sơ, chất phác đã trở

khi đó thế kỉ XVII và nử đầu thế kỉ XVIII thơ Nôm Đường luật không có những


thành đối tượng thẩm mĩ của nhà thơ. Cái bản năng, tự nhiên, trần tục vốn xa lạ

tác giả, tác phẩm lớn dù số lượng thơ Nôm dược sáng tác không phải là ít.

với phong cách trang trong, cao quý của thơ Đường luật bỗng trở nên gần gũi,

Những tac giả sáng tác nhiều thơ Nôm Đường luật như Trịnh Căn, Trịnh Doanh

thích hợp với phong cách trữ tình trào phúng của Hồ Xuân Hương.

thì ngay cả những bài hay nhất cũng không thể đọ được với thơ Nôm của các

Xu hướng dân chủ hóa thể loại là xu hướng chủ đạo trong những sáng tác

bậc tiên bối như Nuyên Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nói như vậy là không có

của Hồ Xuân Hương. Xu hướng này mạnh mẽ đến nỗi đôi khi người ta có cảm

nghĩa gần hai thế kỉ này thơ Nôm không có đóng góp gì lịch sử phát triển của

giác Hồ Xuân Hương không lo tìm kiếm tính dân tộc ở một vài yếu tố hình thức

văn học dân tộc mà trên thực tế những tìm tòi thể nghiệm của thơ Nôm Đường

mà Nguyễn Trãi là người đầu tiên thể hiện tinh thần phá cách một cách mạnh

luật giai đoạn này chính là tiên đề thúc đẩy sự phát triển của thơ Nôm Đường

mẽ với những câu thơ lục ngôn để người đọc có thể đễ dàng nhận diện được thơ


luật ở những thế kỉ sau.

Nôm Đường luật. Tuy nhiên, không chú ý ở mặt hình thức thể hiện nhưng Hồ

- Sau gần hai thế kỉ phát triển với nhịp điệu bình thường từ nửa cuối thế kỉ

Xuân Hương lại xây dựng một lối thơ Việt cho riêng mình bằng chính nội dung

XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX thơ Nôm Đương luật được khởi sắc trở lại với sự

thể hiện. Đó là việc nhà thơ đã đưa vào một nội dung “không nghiêm chỉnh’ vào

đóng góp to lớn của Hồ Xuân Hương. Thơ Nôm Đường luật của Hồ Xuân

một hình thức thơ “nghiêm chỉnh” để tạo nên sức công phá mạnh mẽ, mới mẻ

Hương thời kì này được coi như là một hiện tượng của nền văn học dân tộc mà

cho hồn thơ dân tộc.

nói như Xuân Diệu thì “Bà chúa thơ Nôm” đã giành lại vị trí vốn có trước đây
của thơ Nôm Đường luật.

Công bằng mà nói, việc làm nên vẻ rạng rỡ của thơ Nôm Đường luật thời kì
này ngoài những nét riêng độc đáo của “Bà chúa thơ Nôm” còn phải kể đến

Với Hồ Xuân Hương, thơ Nôm Đường luật tiếp tục xu hướng dân tộc hóa

gương mặt “hoài cổ” của thơ Bà Huyện Thanh Quan, nói đến cái chất “ngông”


đồng thời chuyển sang con đường dân chủ hóa về nội dung và hình thức thể

đầy tài năng của Nguyễn Công Trứ…. Việc hội tụ đươc nhiều gương mặt tiêu

loại. xu hướng dân chủ hóa thể thơ Đường luật là là xu hướng mạnh mẽ nhất

biểu đã tạo cho thơ Nôm Đường luật sự phong phú, đa dạng, mới mẻ trong diện

trong các sáng tác của Hồ Xuân Hương. Trong văn học trung đại Việt Nam, Hồ

mạo của nền văn học dân tộc.

Xuân Hương là trường hợp duy nhất sáng tác không cần bất cứ một thứ ánh

* Giai đoạn cuối:

sáng của học thuyết tôn giáo nào, một thứ chính trị nào từ trên dọi xuống. Có

Đến cuối thế kỉ XIX Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai tác giả đã

thể nói Hồ xuân Hương là sự giải tỏa hoàn toàn khỏi giáo điều phong kiến, là sự

chuyển thơ Nôm Đường luật từ văn học trung đại sang văn học cận- hiện đại.

đoạn tuyệt triệt để với tinh thần “đẳng cấp” của Nho giáo. Với Hồ Xuân Hương,

Với Nguyễn Khuyến, Tú Xương, tầm khái quát nghệ thuật của thơ Nôm

thơ Nôm Đường luật không còn ở địa vị ‘đẳng cấp trên’ trong hệ thống thể loại


Đường luật vừa được mở rộng vừa được nâng cao hơn.Chức năng phản ánh

văn học trung đại, nó cũng thoát khỏi phong cách trang nghiêm “cao quý” để đi

xã hội của thể loại không chỉ dừng lại ở mức “trữ tình thế sự”, “tư duy thế

thẳng vào cuộc sống đời thường với những góc cạnh, bi kịch… nhưng đó là
28

29


sự”, “trào phúng thế sự’ mà còn vươn tới chỗ phản ánh xã hội với những chi

không giống nhau trong từng bài thơ. Giáo viên cần thấy được giá trị biểu đạt,

tiết hiện thực sinh động, phong phú.

biểu cảm, giá trị

Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai tác giả vẫn tiếp tục xu hướng dân chủ

“Yếu tố Nôm” trong thơ Nôm Đường luật được xây dựng bằng hai nội

hóa trong thơ Nôm Đường luật theo phong cách trào phúng. Có điều đáng lưu ý

dung: thứ nhất, đó là những gì thuộc về dân tộc; thứ hai, là những gì thuộc về

là ở hai nhà thơ này đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trào phúng và trữ tình


dân dã, bình dị (Nôm là đọc biến âm của Nam và Nôm còn được hiểu là nôm na,

để tạo ra những vần thơ “cười ra nước mắt”. Với hai tác giả trên, người ta đã có

dân dã).

thể nói tới một xã hội thực dân phong kiến ở thành thị trong thơ Tú Xương, một

“Yếu tố Nôm” được biểu hiện ở các mặt đề tài, chủ đề là hướng tới những

xã hội nông thôn trong thơ Nguyễn Khuyến, ở đó với nhiều hạng người, nhiều

vấn đề của đất nước, dân tộc; biểu hiện về mặt ngôn ngữ là chữ Nôm, từ Việt,

màu sắc sinh hoạt chân thực, sinh động. Có thể nói Nguyễn Khuyến, Tú Xương

ngôn ngữ văn học dân gian, ngôn ngữ đời sống; về hình ảnh là những hình ảnh

cũng là những nhà thơ để lại phong cách tác giả khá đậm nét trong thơ Nôm

chân thực, bình dị, dân dã; về câu thơ là những câu năm chữ, sáu chữ đan xen

Đường luật.

bài thất ngôn; về nhịp điệu là cách ngắt nhịp ¾ trong câu thơ bảy chữ ( lẻ trước,

Với sự sung sức của những cây bút ấy, lại kết hợp với sự chuẩn bị chu đáo

chẵn sau) khác với cách ngắt nhịp 2/2/3, 4/3 (của thơ Đường luật).


về nhiều mặt, thơ Nôm Đường luật có khả năng chuyển sang văn học hiện đại

Xét ở chủ đề thiên nhiên trong thơ Nôm Đường luật chúng ta thấy rõ “yếu

và gặt hái nhiều thành tựu xuất sắc hơn nữa. Tuy nhiên do sự phát triển của xã

tố Nôm” được sử dụng chủ yếu trong việc xây dựng những bức tranh thiên

hội và cũng để đáp ứng nhu cầu phản ánh và nhu cầu thưởng thức của cuộc

nhiên dân dã , bình dị, giàu chất dân tộc; không có những bức tranh hoành tráng,

sống, nền văn học dân tộc xuất hiện nhiều thể loại mới thực hiện tốt chức xã hội

kì vĩ. Có thể khảo sát “yếu tố Nôm” trong thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn

và chức năng thẩm mĩ mà thơ Nôm Đường luật không thể vươn tới được. Và

Trãi – một tấm lòng yêu thiên nhiên mà theo Xuân Diệu “lòng yêu thiên nhiên

sinh mệnh của thơ Nôm Đường luật đã chấm dứt khi chữ Nôm không còn được

tạo vật là một kích thước để đo một tâm hồn”. “Cây chuối” là một bài thơ viết

dùng trong sáng tác.

về đề tài thiên nhiên trong Quốc âm thi tập. Tuy nhiên, với việc chọn hình ảnh

1.1.3.3. Đặc trưng của thơ Nôm Đường luật


cây chuối làm đối tượng biểu đạt thì Nguyễn Trãi đã có sự cách tân so với nghệ

Ngoài những đặc điểm chung của văn học trung đại thì thơ Nôm Đường luật

thuật truyền thống – tức tác giả đã sử dụng yếu tố Nôm trong việc chọn đề tài.

cũng có những đặc điểm riêng mang được bản sắc của thơ ca Việt. Nói một cách

Bởi bút pháp quy phạm của văn học trung đại đã quy định một số loài cây, hoa

ngắn gọn bản chất của thơ Nôm Đường luật là sự kết hợp hài hòa giữa “yếu tố

để làm đối tượng biểu đạt. Nếu là cây phải là: tùng, cúc, trúc, mai…; là hoa phải

Nôm” và “yếu tố Đường luật”. Hai yếu tố này hòa quyện đan xen vào với nhau

là: đào, sen, lan, huệ…

tạo nên giá trị của mỗi tác phẩm thơ Đường luật.

Việc xuất hiện một số hình ảnh dân dã, bình thường trong cuộc sống như bè

Mỗi một yếu tố lại có những giá trị biểu đạt, biểu cảm riêng, có giá trị thẩm

muống, lãnh mùng, kê, khoai, lạc…trở thành đề tài ngâm vịnh quả thực rất hiếm

mĩ khác nhau nhưng chúng lại có những tính độc lập tương đối, có thể tách ra để

thấy.Tuy nhiên, hình ảnh cây chuối là một ngoại lệ, nó khiến cho thơ của


nhận diện đặc điểm của thể loại. Tuy nhiên trong một bài thơ Nôm Đường luật

Nguyễn Trãi đậm chất dân tộc hơn tạo nét riêng trong dòng văn học trung đại.

thường có kết hợp cả hai yếu tố trên. Tất nhiên chúng sẽ có mức độ đậm nhạt

Chủ đề của bài “Cây chuối” cũng khác hẳn so với sự ước lệ trong văn học trung

30

31


đại. Cây chuối với cảm hứng Thiền là biểu tượng của cái tâm hư không, thanh

câu thơ của Nguyễn Trãi đã được vận dụng khéo léo, dồn nén được ý tứ của

tịnh của những người tu hành nói riêng và con người nói chung. Còn với cảm

những câu tục ngữ thật cô đọng, hàm súc. Ngôn ngữ thơ mang giá trị biểu cảm

hứng Nho là biểu tượng phẩm chất người quân tử kiên trinh. Khi vào thơ

cao nhưng vẫn dễ hiểu với người đọc.

Nguyễn Trãi, cây chuối được thể hiện với cảm hứng khác, sâu sắc, kín đáo

“Yếu tố Nôm” còn thể hiện ở việc sử dụng các câu năm chữ, sáu chữ đan

nhưng không kém phần rạo rực, sôi nổi: cảm hứng về tình yêu, tuổi trẻ. Ta lại


xen trong bài thất ngôn và cách ngắt nhịp ¾ (lẻ trước, chẵn sau) tạo nên những

bắt gặp một bức tranh hết sức mộc mạc, bình dị về cảnh làm lụng, sinh hoạt như

sắc thái riêng và giá trị biểu cảm của câu thơ, bài thơ:

một “lão nông tri điền” ở bài “Thuật hứng 24”
“Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen”
Bên cạnh những hình ảnh hết sức thanh thoát, tao nhã như “đìa thanh” và
vẻ cao quý của hoa sen. Chúng ta cũng thấy những hình ảnh còn lại “muống”,
“cỏ” hết sức chân thực, dân dã và hàng loạt từ Việt được dùng để miêu tả cuộc
sống dân quê mộc mạc khiến cho câu thơ thấm đẫm phong vị dân tộc. Với việc
dùng tiếng mẹ đẻ, Nguyễn Trãi đã miêu tả thành công một bức tranh thôn quê
hết sức tự nhiên, sống động với chính ngôn ngữ của dân tộc.
Ở bài “Thuật hứng -25”:
“Một cày một cuốc thú nhà quê

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Câu thơ chỉ có sáu chữ khác hẳn với thơ luật Đường hoàn chỉnh đã tập
trung lột tả được hình ảnh nhân vật trữ tình đang trong thời gian rảnh rỗi, tâm
hồn thư thái, đang “hóng mát”. Những tưởng là một thi nhân đang tận hưởng
thú vui tao nhã của mình nhưng đó không phải là con người của Nguyễn Trãi.
Bởi ông là “người thân không nhàn mà tâm cũng không nhàn”(chữ dùng của
nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn), một con người dù có bận bịu với cuộc sống
nhưng không lúc nào quên chuyện “ái ưu” với dân, với nước:
“Bui có một lòng trung liễn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”
(Thuật hứng số 24)


Áng cúc lan chen bãi đậu kê”
Với những từ Việt “cày”, “cuốc” và “đậu, kê” Nguyễn Trãi đã tạo nên một
bức tranh hết sức thuần việt, một thú vui dân dã. Những yếu tố Nôm đã khiến
cho thơ ông trở nên gần gũi, chất phác đậm tính dân tộc hơn.
Trong thơ Nguyễn Trãi còn có sự vận dụng ngôn ngữ dân gian, tục ngữ

Con người ấy khi nhìn cảnh sống của dân chỉ mong sao:
“Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Câu thơ sáu chữ ngắn gọn, thể hiện sự dồn nén cảm xúc của tác giả. Một
tấm lòng lo cho dân được ấm no, hạnh phúc. Một niềm hạnh phúc chung cho tất
cả mọi người “khắp đòi phương”. Ở bài “Tùng” để khắc họa một đặc điểm của

rất sáng tạo:
“Ở bầu thì dáng ắt nên tròn
Xấu tốt đều thì rập khuôn

cây tùng mà ít loại cây nào có được, Nguyễn Trãi viết:
“Cội rễ bền, dời chẳng động”

Lân cận nhà giàu no bữa cốm;

Câu thơ chỉ có sáu chữ, lại ngắt nhịp 3/3 ngắn gọn, chắc nịch, dứt khoát:

Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn”

“Cội rễ bền/ dời chẳng động” tăng thêm tính khẳng định sức sống mãnh liệt,

Những câu thơ trên đều lấy ý từ ngữ : “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, “Ở


khỏe khoắn, kiên cường, bất khuất của cây tùng. Kết thúc bài thơ cũng với câu

gần nhà giàu đau răng ăn cốm, ở gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn ”. Khi đi vào
32

33


lục ngôn, ngắt nhịp 1/5 “Dành/ để trả nợ dân cày” như một lời hứa quyết tâm
với nhân dân của một tấm lòng luôn đau đáu nỗi lo cho dân, cho nước.
Hay để miêu tả sức sống mãnh liệt của thiên nhiên vào hè, tác giả đã sử dụng
cách ngắt nhịp ¾ nhằm lột tả đầy đủ biểu hiện của cảnh vật:

Bảng 1.1. Các bài thơ Nôm Đường luật ở THPT
Lớp

Tên bài

Tác giả

Tiết

Nhóm bài

10

Cảnh ngày hè

Nguyễn Trãi


38

Văn bản trữ tình

(kì 1)

Nhàn

Nguyễn Bỉnh Khiêm

40

Văn bản trữ tình

Tự tình

Hồ Xuân Hương

5

Văn bản trữ tình

11

Câu cá mùa thu

Nguyễn Khuyến

6


Văn bản trữ tình

(kì 1)

Thương vợ

Trần Tế Xương

9

Văn bản trữ tình

“ Thạch lựu hiên/ còn phun thức đỏ
Hồng liên trì/ đã tiễn mùi hương”
Tất cả dường như đều muốn trỗi dậy, muốn bộc lộ hết vẻ đẹp của mình.
Cây hòe trước hiên cứ như đang "đùn đùn" mà lên, đùn đùn mà toả rộng; cây
lựu như đang "phun" ra những tia màu đỏ chói, như muốn cháy hết mình. Dưới
ao những đài sen đang tỏa ngát hương thơm. Bằng tài quan sát và sự cảm nhận

Vịnh khoa thi hương
Chạy giặc

10
Nguyễn Đình Chiểu

17

Văn bản trữ tình

tinh tế của mình Nguyễn Trãi đã vẽ nên một bức tranh mùa hè thật sinh động,

Vì vậy việc dạy học thơ Nôm Đường luật có một vai trò, vị trí vô cùng quan

đầy sức sống lôi cuốn người đọc.
Như vậy, chính “yếu tố Nôm” đã tạo nên những đặc sắc trong thơ Nôm

trọng trong việc tìm hiểu về thơ ca Trung đại Việt Nam nói chung và nhằm giúp

Đường luật với những biểu hiện đầy đủ của các yếu tố. Tuy nhiên, để có thể

học sinh tiếp cận, khám phá được cái hay, cái đẹp của thể thơ này nói riêng. Từ

hiểu được giá trị của một bài thơ Nôm Đường luật chúng ta còn phải nắm được

đó các em học sinh có cái nhìn toàn diện và hiểu biết sâu sắc về xã hội, về con

các “ yếu tố Đường luật” của bài thơ. Có như vậy mới có thể lần tìm được

người lúc bấy giờ.

những lớp nghĩa sâu kín dưới bề mặt con chữ của dòng thơ Nôm luật Đường.

Thơ Nôm Đường luật được đưa vào chương trình Ngữ văn THPT đều là

1. 2. Cơ sở thực tiễn

những bài đặc sắc đã được tuyển chọn từ những tác giả tiêu biểu. Tuy nhiên, các

1.2.1. Vai trò, vị trí của thơ Nôm Đường luật trong chương trình Ngữ văn

soạn giả chủ yếu đưa vào chương trình nhằm mục đích đặt việc tìm hiểu thơ


Trung học phổ thông

Nôm Đường luật trong việc tìm hiểu đặc điểm của văn bản trữ tình nói chung để

Thơ Nôm Đường luật từ khi ra đời đã khẳng định được vai trò, vị trí của nó

phục vụ cho việc giảng dạy phần Tập làm văn như cảm thụ, biểu cảm, nghị

trong đời sống xã hội. Những vần thơ Nôm dù mộc mạc, giản dị như thơ của

luận... Và các tác phẩm thơ Nôm Đương luật cũng đều đặt trong nhóm các bài

Nguyễn Trãi hay những vần thơ uyên bác của Bà huyện Thanh Quan thì cũng

thơ trung đại khác nói chung chứ chưa tách ra để tìm hiểu kĩ về đặc trưng thể

đều để chuyển tải tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của con người Việt Nam

loại, về thi pháp... so với các thể thơ Trung đại khác, nên còn nhiều khó khăn

Vì thế trong chương trình Ngữ văn THPT, thơ Nôm Đường luật chiếm một

trong việc tìm hiểu các bài thơ này.

thời lượng khá lớn, được học tập và giảng dạy ở cả lớp 10 và 11. Tất cả những
bài được đưa vào giảng dạy đều đã được thẩm định, tuyển chọn rất kĩ lưỡng để
cho học sinh học tập.
34


35


1.2.2. Những thuận lợi và khó khăn khi dạy học thơ Nôm Đường luật trong

được chú trọng. Do đó việc tìm hiểu thể thơ này mới chỉ dừng lại ở việc

chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông

cung cấp nội dung kiến thức mà chưa thấy hết cái hay, cái đẹp của thể thơ

1.2.2.1. Thuận lợi

này một cách thực thụ.

Thơ Nôm Đường luật được đưa vào chương trình phổ thông từ khá sớm, ở

Nhiều bài dạy chưa cho thấy được chất trữ tình của tác phẩm, chưa dạy

chương trình Ngữ văn 7 các em đã được làm quen với một số tác phẩm thơ Nôm

đúng đặc trưng thể loại, chưa biết vận dụng những thi pháp cơ bản của thể thơ

Đường luật như Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương, Qua Đèo Ngang của Bà

này để cắt nghĩa, giảng giải cho thật sâu sắc. Vì thế những câu hỏi đưa ra còn

Huyện Thanh Quan, Bạn đến chơi nhà của Nguyễn khuyến. Vì thế dù ít nhiều

vụn vặt,đơn điệu, chưa khơi gợi được tư duy sáng tạo của học sinh và chưa tạo


nhiều các em đã được tiếp cận với thể loại thơ ca này ở các lớp dưới và cũng có

hứng thú cho người học. Với lại một số tác phẩm nội dung khá phong phú

những nền tảng nhất định. Bởi vậy lên chương trình THPT các em lại tiếp tục

nhưng thời lượng dành cho lại rất ít, thậm chí có tiết phải dạy đến hai bài liền

được tìm hiểu thể loại thơ này nên cũng có nhiều những thuận lợi. Đa số các em

nên việc giảng dạy chỉ dừng lại ở việc giới thiệu về tác giả, tác phẩm, nọi dung

học sinh đã nắm được tên tác giả, bài thơ, thể thơ và nội dung, nghệ thuật cơ bản

chính của bài thơ chứ không đủ thời gian để tìm hiểu khai thác những cái hay,

của thể thơ này. Các em cũng có những hứng thú nhất định trong việc tìm hiểu,

cái đẹp của tác phẩm.

khám phá những bài thơ này so với một số bài thơ trung đại khác.
Đội ngũ các thầy cô giáo cũng có kiến thức chuyên môn vững vàng, có
những hiểu biết nhất định về thể thơ này khi tìm hiểu nghiên cứu, giảng dạy.
Hiện nay nguồn dữ liệu khai thác trên phương tiện công nghệ thông tin cũng
tương đối thuận tiện nên cũng cũng việc tìm hiểu, nghiên cứu, trau dồi về thể
thơ này cũng có nhiều thuận lợi hơn.
1.2.2.2. Khó khăn.
Đa số học phổ thông chưa thật sự thích học văn học trung đại nói chung và
thơ Nôm Đường luật nói riêng vì các em cho rằng văn học giai đoạn này vừa

khó, vừa khô, lại có nhiều những điển cố, điển tích khó hiểu nên việc tiếp cận
gặp nhiều khó khăn. Nhiều học sinh học xong bài vẫn không hiểu tác phẩm thơ
Nôm Đường luật ấy nói cái gì, để làm gì.
Với giáo viên giảng dạy thể thơ này thì phương pháp chủ yếu cũng chỉ
là thuyết giảng, hỏi đáp, đọc chép, còn các phương pháp đọc sáng tạo, đọc
diễn cảm, vận dụng thi pháp thể loại, giảng bình còn rất ít, và thực sự chưa

36

37


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP VẬN DỤNG THÍCH HỢP THI PHÁP
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VÀO DẠY HỌC THƠ NÔM
ĐƯỜNG LUẬT Ở LỚP 10 - THPT

một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”, “Ta lấy toàn quân là
hơn để nhân dân nghỉ sức” )
Như vậy công việc dạy học tác phẩm thơ Nôm Đường luật còn là một vấn
đề khá nan giải. Để giải mã được nội dung, tư tưởng của tác phẩm cần thiết phải
tiếp cận hình thức nghệ thuật của nó. Bởi tác phẩm văn học là chỉnh thể thống

2.1. Thực trạng dạy học thơ trung đại hiện nay

nhất của hai mặt hình thức và nội dung. Hình thức là sự biểu hiện của nội dung,

2.1.1. Thực trạng dạy học thơ trung đại ở trường trung học phổ thông

là cách thể hiện nội dung. Nội dung trong tác phẩm văn học cần phải được suy


hiện nay

ra từ hình thức, đó là “hình thức mang tính nội dung” (Trần Đình Sử). Vì vậy

Thực tế cho thấy việc dạy học thơ Nôm Đường luật cho học sinh THPT

phương pháp chủ yếu của thi pháp học là phương pháp hình thức, có thể hiểu

hiện nay còn gặp rất nhiều khó khăn. Việc dạy học thơ Nôm Đường luật đã

“Phương pháp hình thức là phương pháp phân tích các khía cạnh hình thức của

được nhiều người quan tâm cả ở trong và ngoài nhà trường. Đã có nhiều hướng

tác phẩm văn học nghệ thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mĩ của nó” (Nguyễn Văn

nghiên cứu về giảng dạy và tiếp nhận thơ Nôm Đường luật, đã có nhiều kiểu

Dân). Khi tìm hiểu một tác phẩm văn học chủ thể tiếp nhận cần phải nắm vững

dạy học truyền thống và hiện đại về thơ Nôm Đường luật. Và thực tế qua nhiều

mối quan hệ biện chứng giữa hình thức và nội dung bởi “Trong tác phẩm nghệ

năm đứng trên bục giảng cùng với nhiều những giáo viên say mê với nghề,

thuật, tư tưởng và hình thức phải hòa hợp với nhau một cách hữu cơ như là tâm

nhưng cho đến nay việc dạy thơ Nôm Đường luật vân là một thách thức và chưa


hồn và thể xác, nếu hủy diệt hình thức thì cũng có nghĩa là hủy diệt tư tưởng và

đạt được hiệu quả tối ưu. Có nhiều nguyên nhân, nhưng chắc chắn một nguyên

ngược lại cũng vậy ” và “Khi hình thức là biểu hiện của nội dung thì nó gắn

nhân mà người viết bận tâm nhiều nhất để phát hiện đúng bản chất của công

chặt với nội dung tới mức là nếu tách nó khỏi nội dung có nghĩa là hủy diệt bản

việc này chính là việc chưa bám sát thi pháp của thơ ca trung đại vào trong

thân nội dung và ngược lại tách nội dung ra khỏi hình thức, có nghĩa là tiêu diệt

giảng dạy.

hình thức ” (Belinxki) [11; 256]. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy văn, không

Việc dạy học thơ trung đại là dạy thơ trên giảng đường khác tiếng. Vì vậy

ít cách dạy, cách học vi phạm nguyên tắc tách nội dung ra khỏi hình thức. Học

công việc này phải được tiến hành một cách bài bản. Từ tương quan văn hóa của

tác phẩm văn học nhưng thoát ly văn bản. Trong nhà trường phổ thông có rất

hai thời kì hiện đại với trung đại, người công dân mới và người công dân thời

nhiều hiện tượng dạy tác phẩm văn chương nhưng lại tìm hiểu qua loa văn bản,


trung đại trong sự kế thừa và phát triển, sự phù hợp của thơ trung đại với việc

học sinh học đôi khi chỉ học lướt qua văn bản, giáo viên thì chỉ coi trọng tìm

đọc hiện đại, những bài thơ được chọn trong sách giáo khoa đã thật tiêu biểu

“ý”, vì thế mới có tình trạng dạy thơ không cần thuộc, dạy truyện không không

cho thời đại đó chưa (chẳng hạn tính chất tập quyền thời trung đại trong thơ thời

cần kể mà chỉ nêu ý chính ( Nguyễn Viết Chữ) [3; 9]. Đặc biệt là khi dạy đến

Lí – Trần và người công dân hiện đại để chuẩn bị cho tâm lí tiếp nhận những

những tác phẩm thơ trung đại, việc dạy và học thơ trung đại Việt Nam đến nay

tác phẩm Lí – Trần. Chẳng hạn tính chất “Thượng trí quân, hạ trạch dân”

vẫn còn là nỗi khổ của người giáo viên trung học phổ thông. Như chúng ta đã

trong thơ thời Lê tiêu biểu là Nguyễn Trãi qua một số hình ảnh “Tướng sĩ

biết, để khám phá, tìm hiểu cái hay, cái đẹp của một một bài thơ trung đại thì
không chỉ đòi hỏi ở người giáo viên cần phải có sự hiểu biết sâu sắc những kiến

38

39



thức về thi pháp thời đại, thi pháp tác giả, thể loại văn học,… mà còn đòi hỏi

hỏi các em phải đầu tư thời gian để làm bài tập, tham khảo tài liệu, thu thập, xử

người học sinh cũng phải có những kiến thức nhất định về những vấn đề trên.

lý thông tin khoa học. Đa số học sinh không có đủ tài liệu cần thiết và chưa hình

Đây là một đòi hỏi chỉ có thể thực hiện ở những học sinh yêu thích, say mê tìm

thành tư duy phản biện, độc lập trong học tập. Những khó khăn từ hai phía thầy

hiểu tác phẩm văn học. Trong bối cảnh hiện nay, còn được mấy học sinh yêu

và trò khiến cho việc đổi mới phương pháp dạy học rơi vào vòng luẩn quẩn,

thích bộ môn này trong một lớp!

hình thức, ít có chuyển biến mạnh và hiệu quả chưa cao. Từ thực trạng trên, có

Vì vậy mà giáo viên chỉ đơn giản là truyền thụ kiến thức một chiều thiên về

thể thấy môn Ngữ văn trong nhà trường trung học phổ thông hiện nay đang mất

nội dung hoặc tìm ra những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc rồi truyền thụ cho học

đi rất nhiều sức hấp dẫn đối với học sinh. Để lí giải điều này là cả một vấn đề

sinh mà không chú ý đến khát vọng, tâm lý học sinh. Việc tìm hiểu tác phẩm


không đơn giản. Từ chương trình, nội dung đến phương pháp giảng dạy của

quá chú trọng nội dung tư tưởng tác phẩm trong dạy học văn trong một thời gian

giáo viên cũng như tâm lí học tập của học sinh cũng cần phải xem xét.

dài đã gây hậu quả nghiêm trọng. Một thực trạng nữa trong dạy học văn hiện

2.1.2. Thực trạng dạy học thơ Nôm Đường luật ở lớp 10 THPT hiện nay

nay là còn một bộ phận giáo viên chưa thực sự tâm huyết, say mê với nghề

2.1.2.1. Khảo sát tình hình dạy học tác phẩm thơ Nôm Đường luật ở THPT

nghiệp, lên lớp theo phương pháp cũ, thiếu sáng tạo, hấp dẫn. Đặc thù của các

*Mục đích khảo sát:

môn khoa học xã hội là nội dung kiến thức được trình bày trong sách giáo khoa,

- Tìm hiểu thực tế dạy học ở một số trường THPT ở địa bàn tỉnh Nam Định

sách giáo viên nên nếu giáo viên không chịu khó đổi mới, sáng tạo thì dễ đi vào

nhằm phát hiện những khó khăn, thuận lợi, những ưu điểm và hạn chế của giáo

con đường mòn là trình bày lại nội dung cố định. Chúng tôi đã dự nhiều giờ

viên và học sinh trong quá trình giảng dạy và học tập thơ Nôm Đường luật ở


thao giảng và nhận thấy giáo viên chỉ cố gắng trình bày lại những điều có sẵn

trường THPT hiện nay.

trong sách giáo khoa, vì thế giờ học rơi vào tình trạng hình thức. Ngay cả giờ
giảng được đánh giá là thành công thì tính chất độc diễn của giáo viên thể hiện
khái rõ nét. Thậm chí có giờ dạy diễn ra sôi nổi, nhưng thực chất chỉ là một màn

- Tìm ra nguyên nhân của những hạn chế từ đó đề xuất một số biện pháp
khắc phục.
*Thời gian và đối tượng khảo sát:

kịch diễn ra khéo léo, tất cả được giáo viên tập dượt trước, cả những câu hỏi bài

Tìm hiểu thực tiễn việc dạy học thơ Nôm Đường luật ở THPT hiện nay,

cũ, và chỉ định học sinh nào phát biểu. Nhiều giáo viên được khen là hay nhưng

chúng tôi đã tiến hành khảo sát 84 học sinh lớp 10 trường THPT Giao Thủy C

thực chất là diễn thuyết hay. Học sinh học xong là kiến thức hầu như không còn

huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định và 84 lớp 10 trường THPT Quất Lâm huyện

đọng lại là bao nhiêu.

Giao Thủy tỉnh Nam Định để thu thập các thông tin về sở thích, kiến thức, kỹ

Tuy nhiên, để đổi mới phương pháp giảng dạy thành công, nếu chỉ có sự


năng cơ bản của học sinh khi học các văn bản thơ Nôm Đường luật.

nỗ lực của giáo viên thì không đem lại kết quả mà quan trọng cần có sự hưởng

Chúng tôi cũng khảo sát ý kiến, giáo án của 15 giáo viên giảng dạy Ngữ

ứng tích cực từ phía học sinh. Thói quen học tập thụ động, đối phó của học sinh

văn ở 02 tổ Văn của 02 trường THPT trên địa bàn (có cả những giáo viên phụ

là một rào cản lớn đối với quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Hiện nay học

trách những lớp có học sinh được chọn khảo sát ở trên) để nắm rõ về quá trình

sinh phải học nhiều môn, các em không có điều kiện đầu tư thời gian đích đáng

dạy học thơ Nôm Đường luật ở THPT hiện nay.

cho tất cả các môn sinh ra tình trạng học lệch. Học theo phương pháp mới đòi
40

41


Thời gian chúng tôi tiến hành khảo sát thực trạng dạy học thơ Nôm
Đường luật ở THPT là ở học kì I trong năm học 2014 – 2015.

- Tiến hành phỏng vấn một số giáo viên trực tiếp dạy và một số học sinh ở
lớp 10

- Sử dụng một số câu hỏi trắc nghiệm khách quan
2.1.2.2. Kết quả khảo sát

* Tư liệu khảo sát:
- Sách giáo khoa Ngữ văn 10

Bảng 2.1. Thống kê số câu hỏi thi pháp trong phần tìm hiểu bài của các

- Sách giáo viên Ngữ văn 10

bài thơ Nôm Đường luật trong sách giáo khoa Ngữ văn 10
chương trình cơ bản

- Chuẩn kiến thức kĩ năng lớp 10
- Giáo án của một số thầy cô dạy Ngữ văn lớp 10

Số TT

Tên bài thơ

* Nội dung khảo sát:

- Những thuận lợi và khó khăn của giáo viên khi giảng dạy các tác phẩm

câu hỏi về thi

phần tìm

pháp


Tỉ lệ %

hiểu bài

- Những khó khăn và thuận lợi của học sinh khi học các tác phẩm thơ Nôm
Đường luật.

Số câu hỏi

1

Cảnh ngày hè

5

1

20

2

Nhàn

5

2

40

Cộng


10

3

20

thơ Nôm Đường luật.
- Các phương pháp, biện pháp giảng dạy thơ Nôm Đường luật của giáo viên.

Bảng 2.2. Thống kê kết quả khảo sát giáo án

- Tâm lí, thái độ của học sinh khi học các tác phẩm thơ Nôm Đường luật.
- Năng lực cảm thụ, phân tích thơ Nôm Đường luật của học sinh.

Số TT

Tên trường

Mẫu phiếu khảo sát và giáo án ở phần phụ lục.
*Phương pháp khảo sát:

Số giáo

Kết quả

án khảo

Có chú


Tỉ lệ

Chưa

Tỉ lệ

sát

trọng

%

chú

%

- Lấy phiếu điều tra các nội dung đề xuất trong luận văn rồi tổng hợp và

đến thi

đánh giá kết quả khảo sát.

trọng

pháp

- Nghiên cứu bài làm của học sinh.

1


THPT Giao Thủy C

5

3

60

2

40

- Nghiên cứu giáo án và trao đổi với giáo viên.

2

THPT Quất Lâm

4

2

50

2

50

Cộng


9

5

55,5

4

45,5

- Nghiên cứu Sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo.
* Quá trình khảo sát:
- Dự giờ, quan sát hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh lớp 10,
phỏng vấn trực tiếp giáo viên và học sinh.

42

43


×