Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Đề án Luật Kinh tế NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.67 KB, 30 trang )

GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA LUẬT

ĐỀ ÁN MÔN HỌC
LUẬT THƯƠNG MẠI
ĐỀ TÀI
“NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP
TƯ NHÂN TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP 2014”

SVNC : TÔN NỮ THANH THANH HẰNG
LỚP : 40K24
GVHD: Th.S PHẠM MINH THY VÂN

-- Đà Nẵng, 04/2016 –
Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 1


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

MỤC LỤC

Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014



Trang 2


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi tiến hành thực hiện mục tiêu, nhiêm vụ phát triển đất nước 5 năm (2011-2015)
mà Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) đề ra là ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô
hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững; huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại;
tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế
Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh và dần khẳng định vị thế của mình trên chính trường
quốc tế. Thành quả ấy được xây dựng và củng cố bởi các thành phần kinh tế mà không thể
không kể đến sự đóng góp của khôi doanh nghiệp nói chung và khối doanh nghiệp tư nhân
nói riêng. Doanh nghiệp tư nhân là hình thức kinh tế năng động và linh hoạt nhất trong bức
tranh tổng thể về nền kinh tế của nước ta hiện nay. Dưới sự hướng dẫn, quy định, điều chỉnh
được thể hiện trong Luật doanh nghiệp qua các thời kỳ:

- Luật doanh nghiệp tư nhân (1990)
- Luật doanh nghiệp (1999)
- Luật doanh nghiệp (2005)
- Luật doanh nghiệp (2014)
thì doanh nghiệp tư nhân đã dần phát huy được thế mạnh của mình, góp phần giải quyết vấn
đề thất nghiệp và có tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của đất nước.
Việc thành lập, hoạt động của doanh nghiệp tư nhân là một nội dung quan trọng trong
Luật doanh nghiệp 2014. Doanh nghiệp tư nhân sau khi được thành lập phải hoạt động có
hiệu quả và mang lại lợi ích kinh tế, do đó quy định về thành lập và hoạt động doanh nghiệp

tư nhân phải thật sự cẩn trọng và chuẩn xác. Sau nhiều lần bổ sung, chỉnh sửa thì khung pháp
lý quy định về doanh nghiệp tư nhân đã từng bước được hoàn thiện, giúp phát huy tính linh
hoạt, năng động, nhạy bén và các ưu thế khác mà loại hình doanh nghiệp này sở hữu. Chính
vì những lẽ ấy mà tôi chọn đề tài: “Những quy định pháp lý của doanh nghiệp tư nhân
trong luật doanh nghiệp 2014”.

Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 3


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LÝ CỦA
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP 2014
CHƯƠNG 1:

1.1 Một số định nghĩa, khái niệm cơ bản:


Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động

kinh doanh.
• Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm


bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.

Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình
đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm



mục đích sinh lợi.
Hồ sơ hợp lệ là hồ sơ có đầy đủ giấy tờ theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014 và nội

dung các giấy tờ đó được kê khai đầy đủ theo quy định của pháp luật.
• Người quản lý doanh nghiệp là người quản lý công ty và người quản lý doanh nghiệp tư
nhân, bao gồm chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành
viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành
viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý
khác có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại
Điều lệ công ty.
• Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập
doanh nghiệp.
• Giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp là văn bản hoặc bản điện tử mà Cơ quan đăng kí
kinh doanh cấp cho doanh nghiệp ghi lại những thông tin về đăng ký kinh doanh.
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh và Giấy chứng nhận đăng ký thuế của doanh nghiệp.

1.2
1.2.1

Quy định pháp lý về doanh nghiệp tư nhân:

Đặc điểm doanh nghiệp tư nhân:

1.2.1.1 Loại hình: Đây là một doanh nghiệp.

Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 4


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

Doanh nghiệp tư nhân có đầy đủ các dấu hiệu của một doanh nghiệp như nêu tại
khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 và tham gia kinh doanh bình đẳng như mọi doanh
nghiệp khác trong nền kinh tế thị trường.
Với tư cách là một doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân được thừa nhận là một đơn vị
kinh doanh độc lập, có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh
trong khuôn khổ pháp luật. Doanh nghiệp tư nhân được hưởng những quy chế pháp lý chung
cho các doanh nghiệp tại Việt Nam, mà trong nhiều trường hợp là khác biệt so với các chủ
thể kinh doanh không phải là doanh nghiệp.
1.2.1.2 Chủ sở hữu: Doanh nghiệp tư nhân là do một cá nhân bỏ vốn ra thành lập và

làm chủ.
Đây là điểm khác cơ bản, đầu tiên của doanh nghiệp tư nhân so với các loại hình
công ty khác. Doanh nghiệp tư nhân không có sự hùn vốn, không có sự liên kết của nhiều
thành viên mà tất cả tài sản của doanh nghiệp thuộc về một chủ duy nhất; người chủ duy nhất
này là một cá nhân, một người cụ thể. Chủ doanh nghiệp không thể là một tổ chức hoặc do
một tổ chức thành lập ra. Dù một chủ, nhưng doanh nghiệp tư nhân vẫn có thể là một đơn vị
có tổ chức, có giám đốc điều hành, có người làm công… Tính tổ chức của doanh nghiệp tư
nhân là tổ chức hoạt động kinh doanh chứ không phải là tổ chức liên kết hợp tác dưới góc độ
pháp lý.
Thêm điểm khác nữa đó là toàn bộ lợi nhuận tạo ra trong quá trình kinh doanh sẽ
thuộc về chủ doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ không phải nộp thuế thu nhập cá

nhân đối với phần thu nhập còn lại sau khi doanh nghiệp đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
Vì do môt cá nhân làm chủ sở hữu nên cá nhân đó sẽ là người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp tư nhân, toàn bộ hoạt động kinh doanh sẽ do cá nhân toàn quyền quản lý.
Mọi hoạt động từ việc điều hành, quản lý nhân sự, kí kết hợp đồng kinh doanh đến phân phối
lợi nhuận sẽ do cá nhân làm chủ hoặc có thể thuê người khác làm giám đốc điều hành thay
nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trước pháp
luật.

Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 5


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

1.2.1.3 Chế độ trách nhiệm: Doanh nghiệp tư nhân có chế độ trách nhiệm vô hạn về mọi

hoạt động của doanh nghiệp.
Do không có tính chất độc lập về tài sản của doanh nghiệp với chủ doanh nghiệp hay
nói cách khác là doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân nên chủ doanh nghiệp tư
nhân – người chịu trách nhiệm duy nhất trước mọi rủi ro của doanh nghiệp sẽ phải chịu chế
độ trách nhiệm vô hạn. Chủ doanh nghiệp tư nhân không chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp trong phạm vi phần đầu tư đã đăng kí với cơ quan đăng kí kinh
doanh mà còn phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trong trường hợp vốn đầu
tư đã đăng kí không đủ để trang trải các khoản nợ của doanh nghiệp tư nhân.
Ví dụ: Ông Nguyễn Văn An thành lập một doanh nghiệp tư nhân An Bình có số vốn
đăng kí kinh doanh là 10 tỷ. Ngoài ra ông An có một căn nhà mặt tiền trị giá 4 tỷ đồng, một
chiếc xe ô tô Camry giá 500 triệu, tài khoản tiết kiệm tại ngân hàng Vietinbank của riêng

ông Nam là 200 triệu đồng. Khi doanh nghiệp tư nhân của ông An làm ăn thua lỗ, không có
khả năng thanh toán các khoản nợ bằng số vốn đã đăng kí kinh doanh là 10 tỷ thì ông An
tiếp tục phải lấy 200 triệu tiền tiết kiệm cùng với đem bán ngôi nhà, chiếc xe để thực hiện
nghĩa vụ trả nợ.
* Đây vừa là nhược điểm mà cũng chính là ưu điểm mà doanh nghiệp tư nhân có:
Nhược điểm:
-

Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kì loại chứng khoán nào.
Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập 1 doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp

-

tư nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên công ty hợp danh.
Tất cả những tài sản thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp đều nằm trong diện tài
sản trả nợ của doanh nghiệp.

Ưu điểm:
-

Hưởng mọi phần lãi từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Tạo lòng tin với nhà đầu tư bởi phần vốn họ bỏ ra ít thất thoát, khả năng thu hồi

-

cao.
Dễ vay vốn tín dụng từ các ngân hàng bởi các ngân hàng không chỉ xem xét tới tài
sản của doanh nghiệp mà còn là tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân.

Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014


Trang 6


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân
-

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

Khiến cho chủ đầu tư không dám mạo hiểm đầu tư vào những lĩnh vực có độ rủi
ro cao. Điều đó có thể dẫn đến tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế và có
những nhu cầu xã hội không được đáp ứng thỏa đáng.

1.2.1.4

Tư cách pháp lý: Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
Trong Luật doanh nghiệp 2014 thì các doanh nghiệp như công ty trách nhiệm hữu

hạn, công ty hợp danh, công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ khi được cấp Giấy chứng
nhận đăng kí kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thế nhưng doanh nghiệp tư
nhân lại không được đề cập đến vấn đề này. Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu rằng doanh nghiệp tư
nhân có tư cách pháp nhân hay không khi nó được thành lập hợp pháp theo quy định của
pháp luật, cũng có con dấu, trụ sở kinh doanh, có cơ cấu quản lý chặt chẽ, được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh như bao doanh nghiệp khác?
Theo điều 84 Bộ luật dân sự 2005 quy định về một tổ chức được gọi là pháp nhân khi
đáp ứng đủ 4 điều kiện:
1. Ðược thành lập hợp pháp;
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.

Dựa vào các điều kiện trên thì doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân bởi
nó không đáp ứng được điều kiện thứ 3 và 4. Việc không được công nhận tư cách pháp nhân
này chủ yếu xuất phát từ nguồn vốn mà doanh nghiệp tư nhân có. Tài sản của chủ doanh
nghiệp và tài sản của doanh nghiệp không được tách bạch rõ ràng. Chủ doanh nghiệp tư nhân
phải chịu trách nhiệm vô hạn, nghĩa là tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối
với mọi hoạt động của doanh nghiệp. Mặc dù khi đăng ký doanh nghiệp, người chủ phải kê
khai vốn đầu tư vào doanh nghiệp, nhưng không phải chuyển quyền sở hữu cho doanh
nghiệp. Mặt khác, tài sản tạo lập được trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp thuộc
quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp. Do đó, bản thân doanh nghiệp tư nhân không phải là
chủ thể của pháp luật sở hữu, nghĩa là không có tư cách pháp nhân. Chính vì không có tài
sản riêng nên doanh nghiệp tư nhân sẽ không thể tự mình nhân danh chính mình tham gia
vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập mà phải phụ thuộc vào chủ sở hữu.
Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 7


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

1.2.1.5 Khả năng huy động vốn: Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất cứ

loại chứng khoán nào.
Có thể nói, các kênh huy động vốn rộng rãi trong công chúng đã bị ngăn lại, cản trở
việc sử dung của các doanh nghiệp tư nhân. Khả năng huy động vốn của doanh nghiệp tư
nhân vì thế rất hạn hẹp. Tài sản trong doanh nghiệp tư nhân là một bộ phận trong khối tài sản
của chủ doanh nghiệp. Các khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư
nhân cũng chính là nợ của chủ doanh nghiệp. Do đó, khi hoạt động kinh doanh phát sinh nhu
cầu tăng vốn, chỉ có phương thức duy nhất là chủ doanh nghiệp đầu tư thêm. Chủ doanh

nghiệp tư nhân có thể lấy những tài sản khác của mình để đầu tư hoặc nhân danh cá nhân
mình huy động vốn cho doanh nghiệp.
1.2.2

Vốn đầu tư doanh nghiệp tư nhân:
Tùy theo từng ngành nghề doanh nghiệp đăng kí kinh doanh mà pháp luật có các yêu

-

cầu khác nhau về vốn, ví dụ như:
Doanh nghiệp kinh doanh bất động sản thì vốn pháp định phải có ít nhất 6 tỷ đồng Việt Nam

-

(Điều 3 NĐ 153/2007/NĐ-CP ngày 14/06/2007)
Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ thì vốn pháp định phải có ít nhất 2 tỷ đồng Việt

-

Nam (Nghị định 52/2008/NĐ-CP về dịch vụ đòi nợ)
Doanh nghiệp kinh doanh quán cà phê không bắt phải có vốn pháp định.
Nguồn vốn ban đầu của doanh nghiệp tư nhân bắt nguồn từ tài sản cá nhân của chủ
doanh nghiệp, nó vừa thuộc sở hữu của cá nhân, vừa thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Vốn có
thể bằng tiền Việt, ngoại tệ chuyển đổi, tài sản hiện vật (có thể là nhà cửa, đất đai),… Phần
vốn này sẽ do chủ doanh nghiệp tự khai báo với cơ quan đăng kí kinh doanh (gọi là vốn đầu
tư của chủ doanh nghiệp tư nhân) và được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán của doanh nghiệp.
Nhưng trên thực tế, hầu như không có giới hạn nào giữa phần vốn và tài sản đưa vào kinh
doanh của doanh nghiệp tư nhân và phần tài sản còn lại thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp.
Ranh giới giữa phần tài sản, vốn đưa vào kinh doanh và phần tài sản còn lại của chủ doanh
nghiệp chỉ tồn tại một cách tạm thời.

Trong quá trình hoạt động chủ doanh nghiệp tư nhân có thể tăng hoặc giảm vốn đầu
tư theo ý mình mà không phải khai báo với cơ quan đăng kí kinh doanh trừ khi giảm vốn
xuống dưới mức đã đăng kí ban đầu.
Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 8


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân
1.2.3

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

Quản lý doanh nghiệp tư nhân:
Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ đầu tư duy nhất vì vậy cá nhân duy nhất này có

quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp. Chủ
doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân, không phải
chia sẻ quyền lợi quản lý với bất kì người nào khác, có quyền định đoạt đối với tài sản doanh
nghiệp cũng như toàn quyền quyết định đối với việc tổ chức quản lý doanh nghiệp. Chính do
một cá nhân quản lý đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc ra quyết định kinh doanh một cách
nhanh chóng mà không cần phải họp để thống nhất ý kiến như các loại hình công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên, công ty cổ phần… Ngoài ra, hoạt động quản lý luôn được
thông suốt, thống nhất do không có sự chia sẻ quyền lực hoặc không nhiều người cùng có 1
chức năng, nhiệm vụ khiến các quyết định quản lý bị chồng chéo, vướng mắc khi không
thống nhất được ý kiến hoặc cùng một sự việc mà có nhiều quyết định quản lý khác nhau.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền trực tiếp quản lí, điều hành hoặc thuê người quản
lí, điều hành doanh nghiệp. Trong trường hợp thuê người quản lí, chủ doanh nghiệp vẫn là
người phải chịu trách nhiệm chính trước pháp luật về mọi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Giới hạn trách nhiệm được phân giữa chủ doanh nghiệp và người được thuê quản lí

thông qua một hợp đồng.
 Ngoài những mặt lợi về quản lý như ở trên thì việc quản trị doanh nghiệp tư nhân hiện nay ở
Việt Nam cũng có nhiều bất cập như:
 Phần nhiều doanh nghiệp tư nhân chưa hiện đại hóa về mặt quản trị, chưa nâng cao hiệu quả,
hiệu suất quản trị, chưa phát huy hết thế mạnh về sự linh hoạt, mềm dẻo, chủ động vốn có
của doanh nghiệp tư nhân.
 Tính minh bạch trong quản lý và điều hành rất yếu. Chỉ có chủ doanh nghiệp hoặc một vài
nhân sự chủ chốt nhất nắm được thông tin “thật” của doanh nghiệp. Điều này đem lại sự bất
an cho các nhà đầu tư, các ngân hàng trong hoạt động đầu tư hay cho vay.
1.2.4

Vận hành doanh nghiệp tư nhân:
Quy chế pháp lý về việc vận hành doanh nghiệp tư nhân không chỉ được quy định

trong Luật doanh nghiệp 2014 mà còn trong các văn bản khác như:
 Văn bản hướng dẫn thi hành: Nghị định 102/2010/NĐ-CP, nghị định 43/2010/NĐ-CP,
nghị định 05/2013/NĐ-CP…
Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 9


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

 Văn bản pháp luật khác: Bộ luật dân sự 2005, Luật thương mại 2005…

Nhưng trong đề án này tôi chỉ giới hạn đề cập đến việc vận hành doanh nghiệp tư
nhân được quy định trong Luật doanh nghiệp 2014.

1.2.4.1 Thủ tục đăng ký và thành lập doanh nghiệp tư nhân:

Điều đầu tiên mà mọi doanh nghiệp đều phải làm đó là chuẩn bị bộ hồ sơ hợp lệ để
thực hiện việc đăng ký kinh doanh
“Điều 27. Trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh
1. Người thành lập doanh nghiệp hoặc người được ủy quyền gửi hồ sơ đăng ký
doanh nghiệp theo quy định tại Luật này cho Cơ quan đăng ký kinh doanh.”
Tiếp đến, chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ tiến hành các nghĩa vụ khác có liên quan như
nộp các khoản phí, lệ phí…theo quy định của pháp luật về việc thành lập doanh nghiệp.
Luật doanh nghiệp 2014 yêu cầu chủ doanh nghiệp phải kê khai rõ vốn đầu tư ban đầu
vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp
“Điều 184. Vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp
2. Toàn bộ vốn và tài sản kể cả vốn vay và tài sản thuê được sử dụng vào hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán và
báo cáo tài chính của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.”
Chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân
và cũng là người có toàn quyền quyết định đối với việc kinh doanh, quản trị của doanh
nghiệp cũng như đối với lợi nhuận mà doanh nghiệp có được trong hoạt động kinh doanh của
mình.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp phải tuân theo các quy định của pháp luật,
không được kinh doanh trái phép, các mặt hàng cấm kinh doanh và thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ về thuế cũng như các nghĩa vụ khác mà pháp luật quy định. Chủ doanh nghiệp là
người chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.4.2 Cho thuê doanh nghiệp tư nhân:

Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 10



GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

Trong quá trình vận hành, chủ doanh nghiệp tư nhân có thể cho thuê doanh nghiệp
của mình.Có hai nguyên tắc về việc cho thuê được xác lập trong Luật Doanh nghiệp 201
(Điều 186) là:
 “Trong thời hạn cho thuê, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp”
 “Quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu và người thuê đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp được quy định, trong hợp đồng cho thuê”.
Việc xác lập quy định về cho thuê doanh nghiệp tư nhân là hoàn toàn hợp lý bởi vì
doanh nghiệp tư nhân chính là một phần tài sản của chủ doanh nghiệp, việc cho thuê tài sản
là một trong những quyền cơ bản thể hiện quyền định đoạt của chủ sở hữu.
Cho thuê doanh nghiệp đã giúp cho cá nhân tránh được việc phải mất doanh nghiệp
khi mà cá nhân ấy tạm thời không thể điều hành hay cần vốn để đầu tư việc khác (phát triển
công ty trách nhiệm hữu hạn khác, bị đau ốm…). Trong lúc cho thuê, chủ doanh nghiệp vẫn
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật với tư cách là chủ sở hữu.
Hợp đồng cho thuê doanh nghiệp tư nhân phải lập thành văn bản có công chứng.
Trong trường hợp cho thuê toàn bộ doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân phải thông báo
bằng văn bản kèm theo bản sao hợp đồng cho thuê có công chứng đến Cơ quan đăng ký
kinh doanh, cơ quan thuế trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày hợp đồng cho thuê có
hiệu lực thi hành.
1.2.4.3 Bán doanh nghiệp tư nhân

Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể chuyển giao doanh nghiệp bằng cách bán tài sản
kinh doanh.
“Điều 187. Bán doanh nghiệp
1. Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác.”
Việc bán, chuyển giao doanh nghiệp tư nhân không giúp cho chủ doanh nghiệp tư

nhân trốn tránh khỏi nghĩa vụ trả nợ mà các khoản nợ ấy vẫn theo chủ doanh nghiệp trừ khi
các bên mua, bán và chủ nợ có thỏa thuận khác.
“Điều 187. Bán doanh nghiệp

Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 11


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

2. Sau khi bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chưa thực hiện, trừ trường
hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thoả thuận khác.”
Các qui định này có lẽ xuất phát từ việc xem các khoản nợ của doanh nghiệp tư nhân
nằm trong khối tài sản của chủ doanh nghiệp, bởi như trên đã phân tích thì tài sản của
doanh nghiệp cũng chính là tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân. Việc quy định như thế
này nhằm:


Tránh việc chủ doanh nghiệp muốn “phủi tay” khỏi các khoản nợ mà mình

gây ra trong quá trình kinh doanh và đẩy nó cho người mua.
• Tăng tính chịu trách nhiệm của chủ doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh
của mình.
• Giúp bên mua không bị “lừa”, “vướng” vào những khoản nợ ấy do thiếu thông



tin khi mua doanh nghiệp tư nhân.
Đảm bảo cho các chủ nợ sẽ đòi được khoản tiền mà mình đã bỏ ra.

Những quy định ấy còn cho thấy việc bán doanh nghiệp tư nhân có thể kèm theo cả
chuyển giao nghĩa vụ. Về nguyên lý việc chuyển giao nghĩa vụ cần phải được sự đồng ý của
chủ nợ, làm tăng tính chủ động của chủ nợ trong bị mua bán này.
Các bên mua bán còn bị ràng buộc vào việc thực hiện các qui định pháp luật về lao
động.
“Điều 187. Bán doanh nghiệp
3. Người bán, người mua doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định của pháp luật về
lao động.”
Chủ doanh nghiệp tư nhân bán doanh nghiệp của mình thì doanh nghiệp đó chấm dứt
hoạt động, người mua phải làm thủ tục đăng ký lại việc thành lập doanh nghiệp tư nhân vì
việc thay đổi chủ doanh nghiệp tư nhân làm thay đổi khối tài sản bảo vệ lợi ích cho chủ nợ.
Từ những phân tích trên cho thấy, hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư nhân là hợp
đồng hỗn hợp hay hợp đồng phức hợp mà ở đó bao gồm nhiều yếu tố của các loại hợp đồng
chuyên biệt hợp lại như hợp đồng mua bán tài sản thông thường (cả động sản hữu hình và
bất động sản hữu hình), hợp đồng mua bán trái quyền…

Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 12


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân
1.2.5

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

So sánh công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một cá nhân làm chủ

với doanh nghiệp tư nhân
Việc lựa chọn hình thức doanh nghiệp trước khi bắt đầu công việc kinh doanh là rất

quan trọng, nó có ảnh hưởng không nhỏ tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Mỗi
loại hình doanh nghiệp có đặc trưng và từ đó tạo nên những hạn chế hay lợi thế của DN mỗi
loại hình DN sẽ đem lại cho chủ đầu tư những lợi thế khác nhau. Ngoài loại hình doanh
nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ thì ta còn có loại hình thứ hai là công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên do một cá nhân làm chủ, vậy câu hỏi đặt ra ở đây là làm sao để
phân biệt điểm giống và khác nhau giữa hai loại hình này?
Ta có bảng sau:

Khác
Loại hình
Doanh nghiệp tư nhân

Công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên do một cá
nhân làm chủ

Tư cách pháp nhân

Không



Chế độ trách nhiệm

Vô hạn (bằng tất cả tài
sản của chủ doanh
nghiệp)


Hữu hạn (trong vốn điều lệ
của công ty)

Tiêu chí

Mỗi cá nhân chỉ được
quyền thành lập một
doanh nghiệp tư nhân.
Điều khoản ràng buộc Chủ doanh nghiệp tư nhân
không được đồng thời là
chủ hộ kinh doanh, thành
viên công ty hợp danh.
Quyền phát hành
chứng khoán

Không

Thay đổi vốn điều lệ

Được

Người đại diện theo

Chủ sở hữu

Không có

Không
Được tăng nhưng không được

giảm
Chủ tịch công ty (chủ sở hữu)

Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 13


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

pháp luật
Tài sản của doanh
nghiệp
Điều lệ doanh nghiệp

Cũng chính là tài sản của
chủ doanh nghiệp
Không bắt buộc

Cho thuê hoặc bán
doanh nghiệp

Được phép

Thuế

Chủ doanh nghiệp không
phải nộp thuế thu nhập cá

nhân sau khi nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp

hoặc tổng giám đốc hoặc giám
đốc công ty
Tách bạch với tài sản của chủ
công ty
Phải có
Không, chỉ được chuyển
nhượng/tặng một phần (thì
phải chuyển đổi loại hình kinh
doanh) hoặc chuyển nhượng
toàn bộ vốn của chủ sở hữu.
Chủ doanh nghiệp vừa nộp
thuế thu nhập doanh nghiệp
vừa nộp thuế thu nhập cá nhân

Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 14


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

CHƯƠNG 2:

2.1

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24


THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN

Điều kiện kinh doanh

Trong trình tự thủ tục đăng kí thành lập doanh nghiệp tư nhân để được cấp giấy
chứng nhân đăng kí doanh nghiệp, ta có 1 bước hết sức quan trọng đó là điều kiện kinh
doanh, điều kiện này được quy định chi tiết tại khoản 2 điều 8 nghị định 102/2010, thể hiện
dưới 6 hình thức chính là:
“Điều 8. Ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh
2. Điều kiện kinh doanh được thể hiện dưới các hình thức:
a) Giấy phép kinh doanh;
b) Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh;
c) Chứng chỉ hành nghề;
d) Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp;
đ) Xác nhận vốn pháp định;
e) Chấp thuận khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
g) Các yêu cầu khác mà doanh nghiệp phải thực hiện hoặc phải có mới được
quyền kinh doanh ngành, nghề đó mà không cần xác nhận, chấp thuận dưới bất kỳ
hình thức nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.”
Trong những hình thức đó thì có 2 hình thức quy định tại điểm e) và điểm g) là có
phần chưa thực sự hợp lý. Khi đọc đến 2 điểm trên chúng ta chắc hẳn sẽ tự hỏi “chấp thuận
khác” và “các yêu cầu khác” là các chấp thuận, các yêu cầu nào, được quy định ở đâu, do ai
quy định và việc quy định ấy mang tính cục bộ địa phương hay toàn quốc? Chính quy định
thiếu rõ ràng này đã đi ngược lại tiến trình cải cách thủ tục hành chính và dễ tạo ra tình trạng
sách nhiễu nhà đầu tư, gây khó khăn cho chủ doanh nghiệp khi thực hiện quyền tự do kinh
doanh của mình. Thiết nghĩ, quy định đó sẽ làm cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể
tùy tiện đặt ra các điều kiện kinh doanh mới và cho mình cái quyền chấp thuận đối với nhà
đầu tư. Việc không quy định rõ ràng cơ quan có thẩm quyền là cơ quan nào có thể dẫn đến
Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014


Trang 15


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

tình trạng nhiều cơ quan khác nhau tự đặt ra những quy định khác nhau gây chồng chéo, bất
cập, mâu thuẫn trong quá trình đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân.
Ngoài ra quy định ấy sẽ dẫn đến việc đăng kí kinh doanh không còn là quyền của mỗi
công dân mà là việc đi “xin” để thành lập doanh nghiệp bởi một trong những điều kiện thành
lập doanh nghiệp là cần phải có “sự chấp thuận khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
Ở đây, cái quyền tự do kinh doanh đã bị hạn chế, bị bóp méo và có khi là biến mất bởi chính
quy định này. Nó tạo nên một sự mâu thuẫn với ngay chính khoản 1 điều 11 NĐ 102/2010:
“Điều 11. Quyền đăng ký kinh doanh và tiến hành hoạt động kinh doanh
1. Doanh nghiệp có quyền chủ động đăng ký kinh doanh và hoạt động kinh doanh,
không cần phải xin phép, xin chấp thuận, hỏi ý kiến cơ quan quản lý nhà nước
nếu ngành, nghề kinh doanh đó:
a) Không thuộc ngành, nghề cấm kinh doanh;
b) Không thuộc ngành, nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật
chuyên ngành.”
Yêu cầu sự chấp thuận của cơ quan nhà nước là việc làm đi ngược lại mục tiêu của cải
cách thủ tục hành chính, đi ngược lại chủ trương hướng đến một môi trường đầu tư thông
thoáng. Thêm nữa, có chấp thuận hay không là phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người có
thẩm quyền chứ không phải khách quan, điều này sẽ làm cho các chủ doanh nghiệp bất mãn
khi họ đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện khác mà chỉ còn điều kiện “chấp thuận” là không
được. Chính sự không rõ ràng này đã góp phần thúc đẩy cơ chế chuyên quyền, độc đoán,
sách nhiễu của cơ quan nhà nước, buộc các chủ doanh nghiệp muốn cấp phép nhanh là phải
“đi cửa sau”; tham nhũng bắt nguồn từ đây.


2.2
Tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản cá nhân về hoạt
động của doanh nghiệp
Luật Hôn nhân và Gia đình (2014) có quy định vợ chồng có quyền chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân.
“Điều 38. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 16


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

1. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn
bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không
thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.”
Việc quy định như thế này không còn quá mới mẻ, nó là điều phổ biến ở các nước
phát triển, nó giúp bảo vệ tài sản của người còn lại khi đối phương phá sản. Sẽ không có gì
đáng nói nếu lợi nhuận phát sinh từ doanh nghiệp tư nhân của chồng/vợ là tài sản riêng của
người ấy. Nhưng ở đây, vợ chồng có thể thỏa thuận khoản lợi ấy sẽ là tài sản chung của cả
hai.
“Điều 8 NĐ71/2001/NĐ-CP: Hậu quả chia tài sản chung của vợ, chồng trong
thời kỳ hôn nhân
1. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của
mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác.
Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu chung

của vợ, chồng.
2. Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp
pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng,
trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác.”
Mọi vấn đề sẽ phát sinh từ chỗ này, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh sẽ do vợ và
chồng cùng hưởng nhưng các khoản nợ thì chỉ được đảm bảo bằng tài sản riêng của người
chồng/vợ mà thôi. Tài sản riêng của vợ/chồng không phải chủ doanh nghiệp thì không phải
là tài sản doanh nghiệp và không đem ra để thanh toán các khoản nợ.
Sẽ là không công bằng với các chủ nợ khi doanh nghiệp tư nhân kinh doanh có lãi họ
có quyền sử dụng toàn bộ số tài sản này vào việc mua sắm tài sản chung cho cả gia đình,
nhưng khi họ kinh doanh thua lỗ thì các chủ nợ chỉ có thể đòi nửa số nợ từ khối tài sản chung
đó. Trong thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp khi các chủ nợ yêu cầu kê biên tài sản để trả nợ
thì người nhà của gia đình đã nhận những tài sản ấy là của họ chứ không phải của chủ doanh
nghiệp tư nhân.
Các khoản lợi nhuận phát sinh tư việc kinh doanh thì được chia đôi, được làm tài sản
chung trong gia đình nhưng nợ thì không chia đôi, đây là một sự bất cập lớn, nó đã tạo lỗ
Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 17


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

hổng để cho các chủ doanh nghiệp tư nhân trốn nợ một cách hợp pháp và dễ dàng. Điều này
làm cho các chủ nợ lâm vào thế bị động, thua thiệt và bị tổn thất nặng nề khi muốn thu hồi
vốn khi doanh nghiệp phá sản. Để đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ, pháp luật cần quy định
rõ hơn về vấn đề này.
Ngoài ra, việc chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình sẽ làm cho chủ doanh

nghiệp lâm vào tình trạng kiệt quệ về tài chính khi tài sản doanh nghiệp không đủ để trả nợ.
Thanh toán bằng tất cả số tiền mình có thì cuộc sống của chủ doanh nghiệp trở nên cực kì
khó khăn, không còn tài sản để có thể tiếp tục tái khởi nghiệp.

2.3
Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư
nhân
Đối với chủ sở hữu của một doanh nghiệp tư nhân làm ăn phát đạt, ngày càng phát
triển thì việc mở rộng thị trường, xâm nhập vào các lĩnh vực khác của giới kinh doanh là
điều tất yếu. Nhận thấy những ưu điểm riêng của việc kinh doanh dưới hình thức doanh
nghiệp tư nhân, chủ sở hữu doanh nghiệp muốn thành lập thêm doanh nghiệp tư nhân khác
nhưng không được bởi Luật doanh nghiệp 2014 quy định:
“Điều 183. Doanh nghiệp tư nhân
3. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh
nghiệp tư nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên công ty
hợp danh.”
Chính vì quy định một cách cứng nhắc như vậy đã làm cho các chủ doanh nghiệp tư
nhân muốn phát triển hơn nữa, muốn thử sức mạo hiểm phiêu lưu, muốn kinh doanh chớp
nhoáng đã không thể thành lập doanh nghiệp tư nhân khác mà buộc phái lựa chọn thành lập
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên hay
công ty cổ phần... Loại hình doanh nghiệp tư nhân có những ưu thế nổi bật mà các loại hình
doanh nghiệp khác không có như:
 Toàn bộ lợi nhuận của doanh nghiệp thuộc về chủ sở hữu
 Chỉ đóng thuế thu nhập doanh nghiệp mà không phải đóng thuế thu nhập cá nhân

Tự do tăng giảm vốn điều lệ, trừ khi giảm dưới mức vốn đã đăng ký mới phải

báo cáo với cơ quan đăng kí kinh doanh
Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014


Trang 18


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân


SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

Chủ doanh nghiệp có toàn quyền quyết định mà không phải phụ thuộc hay lệ

thuộc vào bất kì ai

Có tính năng động, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh doanh, nhanh chóng và
dễ dàng thay đổi trang thiết bị công nghệ hiện đại
Cần vốn đầu tư ít, dễ thu hồi vốn nhanh.



Vì những lý do trên mà ta nên có quy chế pháp lý cho phép chủ doanh nghiệp tư nhân
có thể mở 2 hay 3 doanh nghiệp tư nhân nếu họ đáp ứng đủ điều kiện quy định.

2.4

Cho thuê doanh nghiệp tư nhân

Điều 186 của Luật doanh nghiệp 2014 quy định:
“Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình
nhưng phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao hợp đồng cho thuê có công
chứng đến Cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế trong thời hạn 03 ngày làm
việc, kể từ ngày hợp đồng cho thuê có hiệu lực thi hành.”

Nhưng bên thuê là ai, cá nhân đủ 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng
không đăng ký kinh doanh có được thuê doanh nghiệp tư nhân để tiến hành hoạt động kinh
doanh hay không, hay phải là thương nhân có đăng ký kinh doanh mới được thuê? Việt kiều
có được thuê? Người nước ngoài có được thuê? Tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân trong
nước hay nước ngoài có được thuê? Thực tế, là Nhà nước chưa có văn bản dưới luật hướng
dẫn chi tiết về bên thuê là những ai. Do vậy, chủ doanh nghiệp và cơ quan quản lý về đăng
ký kinh doanh rất lúng túng, băn khoăn khi gặp phải những tình huống như trên.
Luật quy định “cho thuê toàn bộ doanh nghiệp”. Đặt câu hỏi với nhà làm luật rằng tại
sao cứ phải là “cho thuê toàn bộ”? Xuất phát từ nhu cầu thực tế của hoạt động kinh doanh,
bên thuê chỉ muốn thuê một phần doanh nghiệp, tại những địa điểm thuận lợi cho việc kinh
doanh của họ? Chủ doanh nghiệp có thể cho thuê một phần doanh nghiệp có được không?
Lý do tại sao mà luật lại quy định “cứng” như vậy? Quy định như vậy có làm hạn chế quyền
định đoạt của chủ doanh nghiệp tại khoản 1 điều 185 Luật doanh nghiệp 2014 không? Có
làm mất cơ hội kinh doanh của các bên? Ai sẽ gánh chịu những tổn thất lẽ ra không đáng có?

Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 19


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

Theo đó, Luật cũng chưa tiên liệu tính đến vấn đề bất cập này, mặc dù trên thực tế vẫn có
xảy ra, gây khó khăn bế tắc cho chủ doanh nghiệp và cơ quan tiếp nhận đăng ký kinh doanh.
Thêm nữa, luật còn quy định:
“Điều 186. Cho thuê doanh nghiệp
Trong thời hạn cho thuê, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp.”

Về mặt kỹ thuật lập pháp từ “vẫn phải” nghe có vẻ rất nặng nề, mang tính áp đặt ý
chí, bắt buộc, cưỡng chế của Nhà nước, dường như cơ quan soạn thảo có ý muốn nhấn mạnh,
khuyến cáo đối với chủ doanh nghiệp cần hết sức lưu ý, cân nhắc, đắn đo, suy nghĩ thật kỹ
lưỡng trước khi cho ai đó thuê doanh nghiệp của mình? Vấn đề đặt ra là khi bên thuê đang
tiến hành hoạt động kinh doanh, mà có xảy ra vi phạm hành chính như bị phạt tiền, bị truy
thu thuế, bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì phạm vi trách nhiệm của chủ doanh nghiệp
trong trường hợp này sẽ ra sao? Có giới hạn hay không, có trường hợp nào chủ doanh nghiệp
được loại trừ hoàn toàn trách nhiệm không? Hay loại trừ có mức độ hay phải liên đới cùng
chịu trách nhiệm chung với bên thuê kể cả khi người chủ doanh nghiệp không hề có lỗi,
không biết gì về hành vi vi phạm pháp luật của bên thuê?
Hiểu theo nghĩa nào đó, nhà làm luật “vô tình” bảo vệ, dung túng cho bên thuê vi
phạm pháp luật, “khuyến khích” bên thuê cứ việc vi phạm pháp luật mà không sợ bị pháp
luật trừng trị vì đã có chủ doanh nghiệp gánh chịu trách nhiệm thay. Bắt tội oan chủ doanh
nghiệp là không hợp lý và cũng chẳng hợp tình. Ngoài ra, luật cũng có quy định
“Điều 186. Cho thuê doanh nghiệp
Quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu và người thuê đối với hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp được quy định trong hợp đồng cho thuê.”
Luật cho chủ doanh nghiệp và bên thuê có quyền tự thỏa thuận quyền và nghĩa vụ các
bên trong hợp đồng, nhưng đồng thời cũng quy định rằng chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải
chịu mọi trách nhiệm trước pháp luật. Ở đây có sự mâu thuẫn nhau giữa hai quy định trong
cùng một điều luật, khi xảy ra tranh chấp thì cơ quan xét xử sẽ gặp khó khăn trong quá trình
xem xét và ra phán quyết để làm đến cùng của vụ việc.

Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 20


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân


SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

Mặc dù đã cho thuê nhưng pháp luật vẫn bắt chủ doanh nghiệp vẫn phải chịu mọi
trách nhiệm pháp lý liên quan đến doanh nghiệp của mình, pháp luật xem như không hề có
sự thuê mướn này. Đây là điều trái với nguyên tắc pháp lý thông thường trong việc cho thuê
tài sản nên khó có thể chấp nhận được. Rủi ro bao giờ cũng thuộc về chủ doanh nghiệp.
Như vậy, chủ doanh nghiệp sẽ từ chối và nói không với việc cho thuê doanh nghiệp
của mình. Kết quả là luật có cũng như không, không thể áp dụng được. Bởi lẽ, luật còn xa
rời thực tế. Như vậy, trong khi chờ đợi để có những điều luật hợp lý, chỉ có chủ doanh
nghiệp tư nhân là người phải chịu thiệt thòi nhiều nhất do quy định bất hợp lý của điều luật
này.

Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 21


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN

CHƯƠNG 3:

3.1

Kết luận:


Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang phát triển mạnh mẽ và các quan hệ kinh tế
ngày càng đa dạng và phức tạp thì việc tìm hiểu và nắm vững các quy định của pháp luật về
các loại hình doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp tư nhân là vô cùng quan trọng và cần
thiết. Kèm theo đó là sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đòi hỏi phải có một
khung pháp luật kinh tế hoàn chỉnh, trong đó pháp luật về doanh nghiệp có vai trò quan
trọng. Luật doanh nghiệp năm 2014 ra đời với quy định những loại hình doanh nghiệp mới,
đồng thời với việc đơn giản hoá thủ tục hành chính, cùng với việc bãi bỏ quy định không cần
thiết, bất cập, có nhiều chỗ đổi mới là điều kiện cần thiết để huy động tối đa nguồn lực trong
xã hội, tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động.
Việc quy định các quy chế pháp lý về doanh nghiệp tư nhân cùng với các loại hình
doanh nghiệp khác trong Luật doanh nghiệp 2014 đã thể hiện sự bình đẳng giữa các loại hình
doanh nghiệp, thể hiện sự thống nhất trong việc điều chỉnh địa vị pháp lí của doanh nghiệp
tư nhân.
Tuy đã có sự sửa đổi bổ sung từ những kinh nghiệp thực tiễn của các luật áp dụng
trước đó cũng như từ pháp luật các nước bạn nhưng vẫn không tránh khỏi thiếu sót, vướng
mắc trong quy định cũng như áp dụng thực tiễn. Trong quá trình thi hành luật đã phát sinh ra
nhiều lỗ hổng, vướng mắc gây bất lợi, khó khăn cho doanh nghiệp cũng như cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.Vậy nên việc chỉ ra các mặt ưu điểm và hạn chế của các quy định pháp
luật doanh nghiệp tư nhân là cần thiết và thiết yếu. Qua đó để đưa ra những ý kiến tham khảo
nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế Việt Nam nói chung và pháp luật về
doanh nghiệp tư nhân nói riêng. Chỉ ra những bất cập để thấy được yếu điểm giúp tạo hành
lang pháp lý ổn định, vững chắc cho các hoạt động thành lập và kinh doanh của doanh

Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 22


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân


SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

nghiệp. Thông qua đó góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế của nước ta ngày càng tăng
trưởng và phát triển mạnh, đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.

3.2

Ý kiến

1. Có văn bản hướng dẫn chi tiết hoặc quy định chi tiết ngay tại điều luật về “yêu cầu khác” và

“cơ quan nhà nước có thẩm quyền”, bãi bỏ quy định “chấp thuận khác của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền”.
Rõ ràng, dễ hiểu, tránh quan liêu, sách nhiễu là một trong những tiêu chí của việc
cải cách hành chính mà chúng ta đang thực hiện. Thế nên quy định chi tiết các điểm g)
khoản 2 điều 8 NĐ 102/2010 là điều tất yếu và đương nhiên. Các chủ doanh nghiệp sẽ
không còn lo sợ hồ sơ mình bị trả lại nhiều lần với lý do “không đáp ứng các yêu cầu khác
mà doanh nghiệp phải thực hiện hoặc phải có”. Họ sẽ không phải “đi cửa sau”, thoát khỏi
những hạch sách, sách nhiễu của cơ quan có thẩm quyền. Quy định chi tiết tạo sự minh bạch
hóa, chi tiết hóa cho luật, giúp nó dễ dàng đi vào đời sống nói chung và cho việc đang kí
doanh nghiệp tư nhân nói riêng.
Bãi bỏ quy định tại điểm e) khoản 2 điều 8 NĐ 102/2010 là thể hiện quyền tự do
kinh doanh của người dân, bãi bỏ cơ chế từ thời bao cấp mà đến nay nó vẫn còn hiện hữu
lác đác trong hành chính là cơ chế “xin – cho”; làm tăng tính khách quan trong thủ tục cấp
phép đăng kí kinh doanh, hạn chế tính chủ quan, “cửa quyền” của cơ quan có thẩm quyền,
đồng thời tạo môi trường đầu tư thông thoáng cho việc đăng kí kinh doanh của doanh
nghiệp tư nhân.
2. Quy định việc trả nợ bằng tài sản phát sinh từ lợi nhuận của doanh nghiệp.
Lợi nhuận phát sinh từ hoạt động của doanh nghiệp là tài sản của doanh nghiệp và
chủ doanh nghiệp, thế nên nó cũng chính là tài sản dùng để trả các khoản nợ đến hạn hoặc

khi doanh nghiệp phá sản. Tuy nhiên ta cũng cần phải giới hạn lại việc trả nợ trong khối tài
sản này bằng quy định chỉ dùng những tài sản này trả nợ khi các chủ nợ có chứng cứ chứng
minh khối tài sản ấy có được là từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân và được
tặng, cho, bán hoặc đưa làm tài sản chung nhằm mục đích trốn tránh trách nhiệm thanh
toán các khoản nợ đến hạn hay quá hạn.
Quy định như vậy sẽ giúp các chủ nợ yên tâm hơn khi cho các doanh nghiệp tư
nhân vay vốn, khả năng thu hồi vốn lớn hơn. Đồng thời hạn chế việc chủ doanh nghiệp tư
Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 23


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

nhân sẽ tẩu tán tài sản qua hình thức tài sản chung của vợ chồng hoặc gia đình hay các hình
thức cho tặng khác nhằm mục đích trốn tránh các khoản nợ đến hạn, trốn tránh các nghĩa vụ
tài sản khác.
3. Quy định một khoản tiền nhất định được giữ lại sau khi dùng toàn bộ tài sản của mình để trả
nợ
Với đặc điểm là chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản
nợ của doanh nghiệp nên quy định này là hoàn toàn cần thiết. Khi chủ doanh nghiệp chi trả
bằng toàn bộ tài sản mà mình có, họ sẽ phải đối mặt với vấn đề tài chính cho việc duy trì
của sống và tái khởi nghiệp. Trong con người ta nếu không còn đồng tiền nào lại gặp phải
cảnh thất bại trong kinh doanh thì họ sẽ dễ dàng bị sa ngã mà không vực dậy được, họ sẽ dễ
bị cuốn vào tệ nạn xã hội như trộm cắp, cướp giật… để có tiền mà sống qua ngày. Với quy
định một khoản tiền chừa lại này nhằm đảm bảo cuộc sống cơ bản của cá nhân, giúp cá
nhân sẽ thoải mái hơn, yên tâm hơn, thoải mái hơn khi thanh toán các khoản nợ mà mình
phải trả. Đồng thời tạo điều kiện để cá nhân có thể tái khởi nghiệp, một lần nữa bước chân

vào kinh doanh bằng những kinh nghiệm mà mình có sau những lần thất bại.
4. Quy định điều kiện thành lập doanh nghiệp tư nhân thứ 2,3..., quy định về vốn phân chia cho

mỗi doanh nghiệp của cá nhân ấy.
Mở rộng hoạt động kinh doanh là điều tất yếu khi doanh nghiệp ngày càng phát
triển, chủ doanh nghiệp nhận được nguồn lợi lớn từ việc kinh doanh. Thế nên quy định việc
1 cá nhân có thể mở thêm 2 hay 3 doanh nghiệp là điều không kém phần cần thiết. Nó sẽ
giúp cá nhân phát huy được sở trường kinh doanh của mình, làm giàu cho cá nhân cũng như
cho đất nước, phá bỏ rào cản “1 cá nhân 1 doanh nghiệp tư nhân”. Đồng thời phát huy
quyền tự do kinh doanh của mỗi cá nhân được quy định trong Hiến pháp, đưa những lợi thế
của doanh nghiệp tư nhân phát huy tối đa trong nền kinh tế không ngừng biến đổi như hiện
nay.
Tôi biết, cái ta quan tâm là khả năng, tài sản trả nợ khi doanh nghiệp phải thực hiện
các nghĩa vụ tài chínhvì chế độ chịu trách nhiệm vô hạn bằng tài sản của chủ doanh nghiệp.
Nói một cách sâu sa là cơ quan có thẩm quyền chưa quản lý chặt, chưa biết chính xác được
tổng vốn của chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp đang có. Thế nên, ta chỉ cần quy định doanh
nghiệp tư nhân thường xuyên báo cáo tình hình tài chính của doanh nghiệp cùng với chủ sở
Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014

Trang 24


GVHD: Th.S Phạm Minh Thy Vân

SVNC: Tôn Nữ Thanh Thanh Hằng – Lớp 40K24

hữu doanh nghiệp, lập ra những điều kiện nhất định để thành lập công ty tư nhân thứ 2, 3…
thì ta đã có thể cho phép một cá nhân có thể làm chủ nhiều doanh nghiệp tư nhân.
5. Quy định điều kiện cho thuê doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp chỉ chịu trách nhiệm liên đới


với bên thuê trong những trường hợp nhất định.
Cho thuê doanh nghiệp đồng nghĩa với việc chuyển quyền sử dụng của doanh
nghiệp cho bên thuê, vậy nên mọi hoạt động kinh doanh của bên thuê, các quyền và nghĩa
vụ phát sinh từ hoạt động, hợp đồng của bên thuê sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
của bên cho thuê, trừ trường hợp có sự liên đới được quy định trong hợp đồng giữa bên thuê
và bên cho thuê có thỏa thuận cụ thể. Ngoài ra, bên cho thuê chỉ chịu liên đới trách nhiệm
khi cố ý cho thuê doanh nghiệp mà bên thuê không đủ điều kiện để thuê. Có như vậy thì
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong hợp đồng thỏa thuận thuê của bên thuê và chủ doanh
nghiệp mới có thể thực thi, tránh cho bên thuê làm không tốt, sai trái, hoạt động thua lỗ bắt
bên cho thuê phải chịu.Quy định này làm tăng tính khả thi của điều luật cho thuê doanh
nghiệp tư nhân.
Vậy nên việc quy định điều kiện cho thuê là hoàn toàn cần thiết, làm cho những người
không đủ điều kiện hay lợi dụng việc thuê doanh nghiệp để hoạt động bất hợp pháp hoặc
nhằm mục đích gây bất lợi cho chủ doanh nghiệp tư nhân không thể thuê doanh nghiệp tư
nhân.
6. Quy định cụ thể điều kiện mua bán doanh nghiệp tư nhân

Việt Nam đang trong thời kì hội nhập và mở cửa, sự xuất hiện, ra đời, mua bán,
giải thể, phá sản các doanh nghiệp trở thành chuyệnbình thường. Thế nhưng hiện nay, các
quy định về mua bán doanh nghiệp tư nhân của chúng ta còn quá lỏng lẻo và chung chung,
không theo kịp xu hướng thương mại toàn cầu đang diễn ra. Vậy nên quy định cụ thể điều
kiện mua bán doanh nghiệp tư nhân sẽ tạo hành lang pháp lý an toàn cho các doanh nghiệp
cũng như cho chính nền kinh tế nước ta. Nó giúp tránh, hạn chế tối đa tình trạng các doanh
nghiệp nước ngoài thôn tính doanh nghiệp, lũng loạn thị trường trong nước, giúp cho các cơ
quan có thẩm quyền không bị lúng túng, dễ dàng xử lý và thi hành hoạt động mua bán
doanh nghiệp hơn chứ không phải là bị trì trệ như hiện nay. Đồng thời nó thể hiện sự quan
tâm của nhà nước đến việc bảo vệ cạnh tranh, người tiêu dùng, các chủ nợ và trật tự công.

Những quy định pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân trong Luật doanh nghiệp 2014


Trang 25


×