Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

ĐỀ ÁN Nâng cao hiệu quả xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.7 KB, 43 trang )

1
MỞ ĐẦU
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế xã hội bền vững, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, an ninh lương thực, giữ vững ổn
định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Xây dựng nông thôn mới
(NTM) là tạo ra những giá trị mới của nông thôn - một nông thôn hiện đại có
những giá trị mới về kinh tế, văn hóa văn minh, hiện đại nhưng vẫn bảo tồn, gìn
giữ bản sắc văn hóa truyền thống.
Nghị quyết số 26 - NQ/TƯ của Ban Chấp hành Trung ương ngày
5/8/2008, "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” đã chỉ rõ: Nông nghiệp, nông
dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển
kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc
phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái
của đất nước. Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết
đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển; khai
thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế cho phát triển lực
lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao nội lực; đồng thời
tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa
học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực,
nâng cao dân trí nông dân. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn
là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy
tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân…
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 6 năm 2010 với 19 tiêu chí Quốc gia
được chia thành 5 nhóm gồm 39 chỉ tiêu cụ thể. Đây là một chương trình phát


triển tổng hợp cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân và xây dựng hệ thống chính trị, bảo đảm quốc phòng an ninh, trật tự an toàn
xã hội; là Chương trình cả Đảng và Nhà nước cùng chăm lo phát triển đời sống
của nhân dân trên địa bàn nông thôn. Do nhận thức được tầm quan trọng của


2
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới nên tôi chọn đề tài
“Nâng cao hiệu quả xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam”
để viết đề án tốt nghiệp.
* Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về nông thôn mới và xây dựng nông
thôn mới.
- Phân tích và đánh giá thực trạng xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua để xây dựng đề án "nâng cao hiệu quả xây
dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam" .
- Đề xuất một số giải pháp và cách thức tổ chức thực hiện để nâng cao
hiệu quả thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam trong thời gian đến.
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
- Vận dụng lý luận xây dựng nông thôn mới vào phát triển nông nghiệp,
nông dân, nông thôn tỉnh Quảng Nam với những đặc thù của địa phương.
- Các giải pháp và cách thức tổ chức thực hiện được kiến nghị dựa trên
tính đặc thù của địa phương cho việc hoạch định chính sách xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn tỉnh.


3
NỘI DUNG
PHẦN 1:

SỰ CẦN THIẾT, NHỮNG CĂN CỨ PHÁP LÝ ĐỂ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1.1. SỰ CẦN THIẾT

Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2010 - 2020 (sau đây gọi tắt là Chương trình) là nội dung quan trọng hàng đầu
trong Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 7 Ban Chấp hành TW Đảng (Khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Đây là một Chương trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an
ninh quốc phòng; được thực hiện trên địa bàn nông thôn, ảnh hưởng trực tiếp đến
đời sống vật chất, tinh thần của hơn 80% dân số trên địa bàn tỉnh và được triển
khai thực hiện trong thời gian dài. Với mục tiêu là xây dựng nông thôn mới có
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình
thức tổ chức sản xuất hợp lý, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày
càng được nâng cao. Nhận thức được điều đó, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã
xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm và được thể hiện trong Nghị quyết
Đại hội Đảng các cấp.
Trong thời gian qua, bằng sự nỗ lực của cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn
thể các cấp đã tập trung lãnh, chỉ đạo thực hiện Chương trình đạt được một số
kết quả đáng ghi nhận. Bên cạnh những kết quả bước đầu đạt được thì việc triển
khai thực hiện Chương trình còn bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế như: việc huy
động nguồn lực cho Chương trình còn hạn chế, sự vào cuộc chưa đồng bộ của
các Sở, Ban, ngành và Ban chỉ đạo nông thôn mới các cấp, chậm tham mưu ban
hành các cơ chế chính sách, các giải pháp để thực hiện Chương trình.
Từ những bất cập, hạn chế nêu trên nên kết quả thực hiện các tiêu chí
nông thôn mới ở các xã còn chậm so với kế hoạch, lộ trình đã đề ra. Do đó, việc
nâng cao hiệu quả xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam là hết
sức cần thiết.
1.2. NHẬN THỨC CHUNG VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

1.2.1. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng nông thôn mới

Quán triệt Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung Ương lần thứ bảy (khóa
X) ra Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 đã nêu một cách toàn
diện quan điểm của Đảng ta về xây dựng nông thôn mới. Nghị quyết khẳng định
nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò to lớn, có vị trí quan trọng trong sự


4
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy các vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nông nghiệp, nông thôn nước ta còn là khu
vực giàu tiềm năng cần khai thác một cách có hiệu quả. Phát triển nông nghiệp,
nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của
từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn không phải chỉ là nhiệm vụ
của nông dân, ở khu vực nông thôn mà là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và
toàn xã hội. Xây dựng nông thôn mới là xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
hiện đại ở nông thôn; xây dựng cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất
hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo
quy hoạch; Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân
- trí thức vững mạnh; Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân
cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng
còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với
các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ
nông thôn mới.
Nghị quyết 26/NQTW ngày 28/05/2008 đã nêu một cách tổng quát về mục
tiêu, nhiệm vụ cũng như phương thức tiến hành quá trình xây dựng nông thôn
mới trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với điều kiện thực tiễn phát triển của đất
nước. Quan điểm đó của Đảng là sự kế thừa và phát huy những bài học kinh
nghiệm lịch sử về phát huy sức mạnh toàn dân, huy động mọi nguồn lực để tạo

ra sức mạnh tổng hợp xây dựng nông thôn mới. Thực hiện đường lối của Đảng,
ngày 28/10/2008, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ban hành một
chương trình hành động của Chính phủ về xây dựng nông nghiệp, nông dân và
nông thôn, thống nhất nhận thức, hành động về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn và Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
Nội dung chính của Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn
mới là: xây dựng, tổ chức cuộc sống của dân cư nông thôn theo hướng văn minh,
hiện đại, giữ gìn bản sắc văn hóa và môi trường sinh thái gắn với phát triển đô
thị, thị trấn, thị tứ.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta khẳng định xây dựng nông thôn
mới là một nhiệm vụ quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế xã hội của


5
đất nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ phương hướng,
nhiệm vụ của xây dựng nông thôn mới đến năm 2020 là: Tiếp tục triển khai
chương trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các
bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn, giữ gìn và phát huy nét văn hóa
bản sắc của nông thôn Việt Nam.
Thực tiễn cũng cho thấy, những xã hội tiến bộ bao giờ cũng chú ý tới việc
thu hẹp khoảng cách sự phát triển giữa thành thị và nông thôn, phát triển lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội, cải thiện điều kiện sinh hoạt
ở nông thôn, làm cho thành thị và nông thôn xích lại gần nhau. Chính vì vậy, bên
cạnh phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn quá trình xây
dựng nông thôn mới, chúng ta cần học tập kinh nghiệm của các nước trên thế
giới và trong khu vực về phát triển nông thôn tiên tiến hiện đại, để xây dựng
hoàn thiện hệ thống các quan điểm lý luận về phát triển nông nghiệp, nông dân
và nông thôn làm cơ sở khoa học cho thực tiễn. Xây dựng nông thôn nước ta trở
nên văn minh, tiên tiến hiện đại nhưng vẫn mang đậm bản sắc văn hóa và nét đẹp

truyền thống của nông thôn Việt Nam.
1.2.2. Khái niệm, đặc trưng và nguyên tắc của xây dựng nông thôn mới
* Thứ nhất, Khái niệm
- Nông thôn được thống nhất với quy định tại Thông tư số 54/2009/TTBNNPTNT ngày 21-8-2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cụ thể:
"Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị
xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân dân xã".
- Là nông thôn mà trong đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của người
dân không ngừng được nâng cao, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành
thị. Nông dân được đào tạo, tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới.
Nông thôn mới có kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ sở hạ tầng
được xây dựng đồng bộ, hiện đại, phát triển theo quy hoạch, gắn kết hợp lý giữa
nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Nông thôn ổn định, giàu bản sắc
văn hoá dân tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ. Sức mạnh của hệ thống chính
trị được nâng cao, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội.
- Xây dựng nông thôn mới là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để
cộng đồng dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia đình của mình
khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện (nông nghiệp, công nghiệp,


6
dịch vụ); có nếp sống văn hoá, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo;
thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao.
Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân,
của cả hệ thống chính trị. Nông thôn mới không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội, mà
là vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp.
Xây dựng nông thôn mới giúp cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực,
chăm chỉ, đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân
chủ, văn minh.
* Thứ hai, Đặc trưng của nông thôn mới

Theo cuốn “Sổ tay hướng dẫn xây dựng nông thôn mới” (Nhà xuất bản
Lao động 2010), đặc trưng của Nông thôn mới thời kỳ CNH –HĐH, giai đoạn
2010-2020, bao gồm:
- Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn
được nâng cao.
- Nông thôn phát triển theo quy hoạch, có kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội
hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ.
- Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy.
- An ninh tốt, quản lý dân chủ.
- Chất lương hệ thống chính trị được nâng cao...
* Thứ ba, Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới
- Nội dung xây dựng nông thôn mới hướng tới thực hiện Bộ tiêu chí Quốc
gia được qui định tại Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng
Chính phủ.
- Xây dựng nông thôn mới theo phương châm phát huy vai trò chủ thể của
cộng đồng dân cư địa phương là chính, Nhà nước đóng vai trò định hướng, ban
hành các tiêu chí, quy chuẩn, xã đưa ra các chính sách, cơ chế hỗ trợ và hướng
dẫn. Các hoạt động cụ thể do chính cộng đồng người dân ở thôn, xã bàn bạc dân
chủ để quyết định và tổ chức thực hiện.
- Được thực hiện trên cơ sở kế thừa và lồng ghép các Chương trình mục
tiêu quốc gia, Chương trình hỗ trợ có mục tiêu, các Chương trình, dự án khác
đang triển khai ở nông thôn, có bổ sung dự án hỗ trợ đối với các lĩnh vực cần
thiết; có cơ chế, chính sách khuyến khích mạnh mẽ đầu tư của các thành phần
kinh tế; huy động đóng góp của các tầng lớp dân cư.
- Được thực hiện gắn với các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của mỗi địa phương (xã, huyện, tỉnh); có quy


7
hoạch và cơ chế đảm bảo cho phát triển theo quy hoạch (trên cơ sở các tiêu

chuẩn kinh tế, kỹ thuật do các Bộ chuyên ngành ban hành).
- Là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; cấp uỷ Đảng, chính
quyền đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch,
tổ chức thực hiện; Hình thành cuộc vận động “toàn dân xây dựng nông thôn
mới" do Mặt trận Tổ quốc chủ trì cùng các tổ chức chính trị - xã hội vận động
mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai trò chủ thể trong việc xây dựng nông thôn
mới.
1.2.3. Nội dung các tiêu chí xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam
Ngày 16 tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
491/QĐ-TTg về Ban hành bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới (NTM). Theo
Quyết định có 5 nội dung với 19 tiêu chí qui định về xã đạt chuẩn NTM
* Thứ nhất, Nhóm tiêu chí
Thứ 1, về Quy hoạch: Tiêu chí 1: Quy hoạch và thực hiện quy hoạch: quy
hoạch sử dụng đất, hạ tầng kinh tế- xã hội và quy hoạch các khu dân cư;
Thứ 2, về Hạ tầng kinh tế- kỹ thuật, gồm: Tiêu chí 2: Giao thông; 3: Thuỷ
lợi; 4: Điện; 5: Trường học; 6: Cơ sở vật chất văn hoá; 7: Chợ; 8: Bưu điện; 9:
Nhà ở dân cư;
Thứ 3, về Kinh tế và Tổ chức sản xuất, gồm: Tiêu chí 10: Thu nhập; 11:
Hộ nghèo; 12: Cơ cấu lao động; 13: Hình thức tổ chức sản xuất;
Thứ 4, về Văn hoá xã hội, môi trường, gồm: Tiêu chí 14: Giáo dục; 15: Y
tế; 16: Văn hoá; 17: Môi trường;
Thứ 5, về Hệ thống chính trị, gồm: Tiêu chí 18: Hệ thống tổ chức chính trị
xã hội vững mạnh và 19: An ninh, trật tự xã hội.
Trong từng tiêu chí có các chỉ tiêu cụ thể cho từng vùng, miền, từng
ngành, lĩnh vực.
* Thứ hai, Nội dung tiêu chí
Có 11 nhóm nội dung các tiêu chí của Việt Nam gồm:
Thứ 1, về quy hoạch xây dựng NTM: đến năm 2011, cơ bản phủ kín quy
hoạch xây dựng NT trên địa bàn cả nước, làm cơ sở để thực hiện mục tiêu Quốc
gia xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020;

Thứ 2, về phát triển kinh tế- xã hội: tập trung đẩy mạnh phát triển hệ thống
hạ tầng KT-XH thiết yếu ở NT theo chuẩn mới, gồm giao thông; thủy lợi; điện;
trường học; cơ sở vật chất văn hóa; chợ nông thôn; bưu điện; nhà ở dân cư;


8
Thứ 3, về chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập: thu
nhập của dân cư nông thôn tăng trên 2,5 lần so với hiện nay;
Thứ 4, về giảm nghèo và an sinh xã hội: giảm tỷ lệ hộ nghèo dưới 5%;
Thứ 5, về đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn:
đến năm 2015 có 65% số xã đạt chuẩn và năm 2020 có 75% số xã đạt chuẩn;
Thứ 6, về phát triển giáo dục- đào tạo ở nông thôn: đến năm 2015 có 45%
số xã đạt chuẩn và đến năm 2020 có 80% số xã đạt chuẩn;
Thứ 7, về phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe cư dân nông thôn: đến năm
2015 có 50% và 2020 có 75% số xã đạt chuẩn;
Thứ 8, về xây dựng đời sống văn hóa, thông tin và truyền thông nông
thôn: đến năm 2015 có 30% số xã có nhà văn hóa, thôn và 45% số xã có bưu
điện và điểm internet đạt chuẩn, năm 2020 có 75% số xã có nhà văn hóa xã thôn
và 70% có bưu điện và điểm internet đạt chuẩn;
Thứ 9, về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; đến năm 2015
có 35% số xã đạt chuẩn và 2020 có 80% số xã đạt chuẩn;
Thứ 10, về nâng cao chất lượng Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị xã
hội trên địa bàn: đến năm 2015 có 85% số xã đạt chuẩn và 2020 có 95% số xã
đạt chuẩn;
Thứ 11, về giữ vững an ninh trật tự xã hội nông thôn: đến năm 2015 có
85% xã đạt chuẩn và 2020 có 95% số xã đạt chuẩn.
1.2.4. Vài nét tổng quan các công trình nghiên cứu khoa học về nông nghiệp,
nông thôn và nông thôn mới
- PTS Nguyễn Văn Bích - KS Chu Tiến Quang: Chính sách kinh tế và vai
trò của nó đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb

CTQG, H, 1996. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Nông nghiệp Việt
Nam - 61 tỉnh và thành phố, Nxb Nông nghiệp, H, 2001. Trần Ngọc Bút: Chính
sách nông nghiệp, nông thôn Việt Nam từ cuối thế kỷ XX và một số định hướng
đến năm 2010, Nxb CTQG, H, 2002. Đỗ Hoài Nam: Xây dựng cơ sở hạ tầng
nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb
KHXH, Hà Nội, 2001. Các giải pháp phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn. Kỷ yếu hội thảo do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức tại
Đà Nẵng, tháng 8/1999. PTS Lê Mạnh Hùng (chủ biên): Thực trạng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Thống kê, H, 1998.
ThS Nguyễn Văn Hùng: Những đặc trưng cơ bản của kinh tế hộ nông dân nước
ta. In trong cuốn “Những vấn đề lý luận thực tiễn trong quá trình đổi mới”, Nxb


9
Đà Nẵng, 1998. Một số văn kiện của Đảng về phát triển nông nghiệp, Nxb
CTQG, H, 1993. Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn Việt Nam, Nxb Thống kê, H, 1998.
- Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn: “Nghiên cứu nhu cầu nông
dân”, Nxb Hà Nội, 2003. PGS, TS Vũ Đình Thắng: “Giáo trình kinh tế nông
nghiệp”, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, 2006.TS Lê Quang Phi: “Đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn trong thời kỳ đổi mới”,
Nxb CTQG, 2007. PGS, TS Nguyễn Văn Bích: “Nông nghiệp, nông thôn Việt
Nam sau hai mươi năm đổi mới quá khứ và hiện tại”, Nxb CTQG, 2007. PGS,
TS Phạm Văn Khôi: “Giáo trình phân tích chính sách nông nghiệp, nông thôn”,
Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, 2007. TS Lê Thu Hoa: “Kinh tế vùng ở Việt Nam
– Từ lý luận đến thực tiễn”, Nxb Lao động xã hội, 2007. PGS, TS Trần Thị Minh
Châu: “Về chính sách đất nông nghiệp ở nước ta hiện nay”, Nxb Đại học Kinh
tế quốc dân, 2007. Trịnh Duy Luân: “Gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển
đổi”, Nxb Khoa học Xã hội, 2008. Đặng Kim Sơn: “Nông nghiệp, nông dân,
nông thôn Việt Nam – Hôm nay và mai sau”, Nxb CTQG, Hà Nội, 2008. Đặng

Kim Sơn: Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb CTQG, Hà Nội, 2008. Trần Ngọc
Ngoạn: “Phát triển nông thôn bền vững, những vấn đề lý luận về kinh nghiệm
thế giới”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008. Thế Đạt: “Nền kinh tế các tỉnh
vùng biển của Việt Nam”, Nxb Lao động Xã hội, 2009. Đỗ Đức Quân: “Nông
nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập WTO thời cơ và thách thức”, Nxb Lao động
Xã hội, 2010. Nguyễn Danh Sơn: Vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt
Nam trong quá trình phát triển đất nước theo hướng hiện đại, Nxb KHXH, Hà
Nội 2010. TS Mai Ngọc Anh: “An sinh xã hội đối với nông dân trong nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam”, Nxb CTQG, 2010. TS Nguyễn Từ (chủ biên): “Tác
động của Hội nhập quốc tế đối với sự phát triển nông nghiệp Việt Nam”, Nxb
CTQG, Hà Nội, 2010. TS Phạm Ngọc Dũng: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn – Từ lý luận đến thực tiễn”, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011.
PGS, TS Lê Quốc Lý (chủ biên): “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn – vấn đề và giải pháp”, Nxb CTQG, 2012. TS Nguyễn Thị Tố Quyên:
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới giai
đoạn 2011 – 2020, Nxb CTQG 2012. PGS, TS Vũ Văn Phúc (chủ biên): “Xây


10
dựng nông thôn mới – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” (1), Nxb CTQG, Hà
Nội, 2012
1.3. CĂN CỨ PHÁP LÝ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

- Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa X “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”
- Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành Bộ Tiêu chí quốc gia về NTM
- Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT, ngày 21/8/2009 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Hướng dẫn thực hiện Bộ Tiêu chí quốc gia về

NTM
- Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 20102020
- Thông tư số 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC ngày 13/4/2011
của liên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính
về Hướng dẫn một số nội dung thực hiện Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày
04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia
về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020.
- Quyết định 695/QĐ-TTg ngày 08/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ về
sửa đổi nguyên tắc, cơ chế hỗ trợ vốn thực hiện Chương trình MTQG xây dựng
NTM giai đoạn 2011-2020
- Quyết định 1996/QĐ-TTg ngày 04/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ về
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và biên chế của Văn phòng
Điều phối giúp Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới các cấp
- Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 15/7/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc
tăng cường chỉ đạo thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới
- Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 01/9/2011 của Tỉnh ủy Quảng Nam về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (Khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn với thực hiện thắng lợi
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới
1()

Với các bài viết: Những vấn đề lý luận chung về xây dựng nông thôn mới: PGS, TS Vũ Văn Phúc; TS Phạm
Tất Thắng; Vũ Hùng. Những kinh nghiệm quốc tế (Trung Quốc, Nhật Bản….) về xây dựng nông thôn mới: TS Vũ
Trọng Bình; TS Lê Minh Phụng; TS Nguyễn Thành Lợi; ThS Trịnh Cường. Thực tiễn xây dựng nông thôn mới ở
Việt Nam: TS Nguyễn Hữu Vạn; Trần Nhật Lam; Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới tỉnh Nghệ An (Phú Thọ,
Ninh Bình, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Lai Châu, Bắc Giang, Nam Định, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Lào Cai… Viện
Chính sách và Chiến lược phát triển Nông nghiệp, Nông thôn...



11
- Nghị quyết số 96/2013/NQ-HĐND ngày 12/12/2013 của Hội đồng nhân
dân tỉnh Quảng Nam về Quy định tỷ lệ hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước các cấp cho
các nội dung trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam
- Chỉ thị số 30-CT/TU ngày 24/4/2013 của Tỉnh ủy Quảng Nam về tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng nông thôn mới.
- Các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các Bộ ngành Trung ương,... liên
quan đến Chương trình xây dựng NTM.
- Các Chỉ thị, Chương trình hành động, Quyết định của Tỉnh ủy, UBND
các tỉnh về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn thời kỳ mới.


12
PHẦN 2:
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
QUẢNG NAM
2.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH QUẢNG NAM

Tỉnh Quảng Nam thuộc khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ, gồm 18 huyện,
thành phố với 205 xã/213 xã thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng nông thôn mới (do 6 xã của huyện Điện Bàn lên đô thị loại V theo Nghị
quyết số 115/2014/NQ-HĐND ngày 11/7/2014 của HĐND tỉnh và 02 xã của
huyện Duy Xuyên nằm trong quy hoạch sắp xếp dân cư ven biển của tỉnh). Là
tỉnh có nhiều tiềm năng về phát triển công nghiệp, dịch vụ, nông lâm ngư nghiệp
có giá trị kinh tế cao, đa dạng và phong phú; có vị trí chiến lược trong an ninh
quốc phòng và bảo vệ chủ quyền của đất nước. Đồng thời, Quảng Nam còn có
thế mạnh để phát triển du lịch thông qua khai thác cảnh quang thiên nhiên, rừng,

di tích văn hóa, di tích lịch sử và di sản văn hóa thế giới, di sản đặc sắc của đồng
bào dân tộc thiểu số. Trong những năm qua, kinh tế chung cả nước gặp nhiều
khó khăn, nhất là tình trạng suy giảm của 3 năm gần đây; một lần nữa, nông
nghiệp, nông thôn tiếp tục khẳng định vai trò tạo sự ổn định kinh tế, xã hội,
chính trị của mình.
Mặc dù giá trị ngành nông nghiệp giảm dần trong cơ cấu GRDP của tỉnh
(chiếm hơn 15% năm 2014) nhưng vẫn còn hơn 80% dân số sống ở địa bàn nông
thôn với hơn 50% lao động nông nghiệp; sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông
thôn có vai trò hết sức quan trọng trong phát triển bền vững của tỉnh. Với đặc thù
Quảng Nam là tỉnh còn nhiều huyện nghèo (03/62 huyện nghèo cả nước: Nam
Trà My, Phước Sơn, Tây Giang và 03 huyện được hưởng Chương trình 30b là
đầu tư 70% CSHT so với các huyện nghèo chương trình 30a: Bắc Trà My, Nam
Giang, Đông Giang) và có 9/18 huyện, Thành phố là huyện miền núi, vùng khó
khăn có tỷ lệ hộ nghèo cao (trên 50%); hiện tại còn có 96 xã/205 xã nông thôn,
hầu hết là ở miền núi đạt dưới 05 tiêu chí, theo chuẩn nông thôn mới. N hiều địa
phương thường xuyên bị ảnh hưởng của bão, lũ, hạn hán; cơ cấu kinh tế chủ yếu
dựa vào sản xuất nông nghiệp nhưng hiệu quả còn hạn chế; kinh tế nông hộ với
quy mô sản xuất nhỏ lẻ đang là rào cản của sản xuất nông nghiệp hàng hóa, cạnh
tranh hội nhập, thiếu liên kết bền vững với doanh nghiệp; kết cấu hạ tầng, nhất là
giao thông, thủy lợi, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, bưu điện, chợ, nước
sạch,... ở nhiều xã còn thiếu và yếu. Cơ cấu kinh tế nông thôn, nội bộ ngành
nông nghiệp chuyển dịch chậm, tỷ lệ chăn nuôi còn thấp, tỷ trọng đóng góp của


13
khoa học công nghệ vào giá trị gia tăng nông sản không đáng kể; thu nhập của
nhân dân ở khu vực nông thôn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, khó khăn trong việc huy
động sự đóng góp cộng đồng dân cư để xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh đó,
đội ngũ cán bộ cấp huyện, cấp xã đều là kiêm nhiệm, ở cấp xã vừa yếu, vừa thiếu
và năng lực hạn chế, nhất là các xã miền núi, nên khó triển khai thực hiện những

nội dung của Chương trình xây dựng xã nông thôn mới.
2.2. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN

2.2.1. Kết quả thực hiện Chương trình
- Sau 4 năm (2011 – 2014) thực hiện Chương trình, với sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
quyết liệt của các cấp ủy Đảng; sự quản lý, điều hành của chính quyền, các ngành,
hội, đoàn thể các cấp từ tỉnh xuống xã, thôn; sự vào cuộc của hệ thống chính trị
và toàn xã hội; sự đồng tình ủng hộ và tham gia thực hiện của người dân; đặc
biệt là sự tập trung chỉ đạo quyết liệt của UBND tỉnh trong công tác quy hoạch
xây dựng xã nông thôn mới và nhiều nhiệm vụ trọng tâm khác, nên đã đạt được
một số kết quả đáng ghi nhận, tạo tiền đề cho việc triển khai thực hiện Chương
trình đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
* Thứ nhất, Công tác chỉ đạo, điều hành quản lý Chương trình
- Những năm qua, các Sở, ngành đã tham mưu Tỉnh ủy ban hành Nghị
quyết số 05-NQ/TU ngày 01/9/2011 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá X) về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn gắn với thực hiện thắng lợi Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng nông thôn mới; Chỉ thị số 30-CT/TU ngày 24/4/2013 về tăng cường sự
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới; HĐND tỉnh ban hành 13 nghị quyết chuyên đề; Ủy ban nhân dân tỉnh
đã ban hành 02 chỉ thị, 45 quyết định, 07 đề án và các văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn để triển khai thực hiện Chương trình. Trong đó, tỉnh đã ban hành những văn
bản mang tính đặc thù của địa phương như: quy định tỷ lệ hỗ trợ, mức hỗ trợ cụ
thể từ ngân sách nhà nước các cấp để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng nông
thôn, phục vụ Chương trình xây dựng nông thôn mới; quy định đánh giá, xét
công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới; quy định tạm thời trình tự, thủ tục, hồ sơ
xét công nhận và công bố xã đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn tỉnh, ban hành
suất hỗ trợ từ ngân sách trung ương, tỉnh cho một số công trình; quy định về tiêu
chuẩn và hình thức khen thưởng phong trào thi đua “Chung sức xây dựng nông
thôn mới” giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến năm 2020; Các văn bản thiết

kế mẫu, thiết kế điển hình các công trình, các cơ chế chính sách có liên quan đến


14
chương trình như hỗ trợ cơ giới hóa, hỗ trợ giống cây trồng, con vật nuôi, dồn
điền đổi thửa...
Chỉ đạo, hướng dẫn thành lập hệ thống quản lý chỉ đạo, điều hành thực
hiện Chương trình ở các cấp từ tỉnh xuống xã, thôn. Hiện nay, đã cơ bản hình
thành bộ máy tổ chức thực hiện Chương trình từ tỉnh xuống xã.
Các huyện, thành phố và các xã ban hành Nghị quyết, Chỉ thị, kế hoạch
thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới. Các địa phương đã tổ
chức hội nghị sơ kết hằng năm thực hiện Chương trình.
* Thứ hai, Công tác tuyên truyền, vận động thực hiện Chương trình
- Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 4016/UBND-KH ngày
03/11/ 2011 về tổ chức phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2011 – 2015 và quy định tạm thời cơ chế khen thưởng thành tích thực hiện
Chương trình; các địa phương đã hưởng ứng thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư gắn với xây dựng nông thôn
mới” của Trung ương và tỉnh phát động;
- Văn phòng Điều phối Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới tỉnh
đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị: Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Báo
Quảng Nam, Báo Nông thôn Ngày nay, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở Thông tin Truyền thông tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Trong đó, Cổng Thông tin điện tử Nông thôn mới của tỉnh đã giúp cho cán bộ,
đảng viên, nhân dân trên địa bàn tỉnh hiểu rõ hơn về Chương trình, giới thiệu
thông tin những mô hình hay, những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến.
- Sở Nông nghiệp và PTNT (Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo tỉnh) đã
xây dựng nội dung, tổ chức lễ ký kết, lập kế hoạch triển khai chương trình phối
hợp với các đơn vị, các ngành: Hội Người cao tuổi, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên
phòng, Hội Cựu chiến binh tỉnh, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh tỉnh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên hiệp các Hội Khoa học

- Kỹ thuật tỉnh; đồng thời, giao nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc Sở tổ chức
triển khai những nội dung liên quan đến Chương trình; qua đó, các đơn vị đã hỗ
trợ giúp các xã trong công tác tuyên truyền vận động người dân hiểu rõ hơn về
Chương trình, hưởng ứng tham gia một cách tích cực, hiệu quả.
- Các cấp, các ngành tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm, truyền thông
theo từng chuyên đề của đơn vị, ngành mình phụ trách.
- Các địa phương (huyện, xã) đã xây dựng nội dung, tổ chức lễ ký kết và
triển khai thực hiện kế hoạch liên tịch với các đơn vị, hội đoàn thể trên địa bàn


15
huyện (Hội Cựu chiến binh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Người cao tuổi, Hội
Nông dân, Đoàn Thanh niên,...) và các doanh nghiệp, HTXNN.
- Đã có 156 xã tổ chức Lễ phát động xây dựng nông thôn mới với hàng
ngàn người dân ở mỗi xã tham dự đông đủ; qua đó, Ban nhân dân các thôn đã ký
giao ước thi đua xây dựng nông thôn mới.
* Thứ ba, Công tác đào tạo, tập huấn
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức xã luôn được
quan tâm đầu tư, cụ thể:
+ Đào tạo lý luận chính trị: Tổng số công chức xã được đào tạo là 1.752
người. Trong đó cao cấp: 63 người; trung cấp: 1.689 người;
+ Đào tạo chuyên môn: Cử 1.219 cán bộ xã đi học chuyên môn; trong đó,
660 người học đại học; 470 người học trung cấp; 89 người học sơ cấp (công an);
+ Bồi dưỡng: Cử 11.656 người đi bồi dưỡng; trong đó bồi dưỡng kiến thức
và kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho 1.011 Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, UBND
xã; bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng hoạt động cho 5.760 đại biểu HĐND cấp xã;
bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cho 1.354 cán bộ xã...
- Tập huấn: Trên 600 lượt người tham gia các lớp tập huấn do Trung ương
tổ chức; tỉnh, huyện, xã đã tổ chức tập huấn 990 lớp, với hơn 402.600 lượt người
tham gia, gồm các nội dung liên quan đến nông thôn mới; tổng kinh phí trên 5,6

tỷ đồng. Các Sở, ngành đã tổ chức tập huấn, hướng dẫn cho cán bộ làm công tác
xây dựng nông thôn mới cấp huyện, xã, như: Xây dựng (tiêu chí số 1, số 9),
Thống kê (tiêu chí số 10), Nông nghiệp và PTNT (tiêu chí số 13), Văn hóa – Thể
thao và Du lịch (tiêu chí số 16), Nội vụ (tiêu chí số 18), Công an (tiêu chí số 19),
Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Kho bạc Nhà nước tỉnh, Hội Nông dân, Phụ nữ,
Đoàn thanh niên, Hội Cựu chiến binh,…
* Thứ tư, Công tác lập quy hoạch, đề án xây dựng nông thôn mới
a) Lập quy hoạch xây dựng xã nông thôn mới:
Tổng số xã trên địa bàn tỉnh: 213 xã. Trong đó, 8 xã (bao gồm: 6 xã của
huyện Điện Bàn và 2 xã của huyện Duy Xuyên), tỉnh thống nhất không lập quy
hoạch xây dựng xã NTM, vì đã có quy hoạch phát triển đô thị, hoặc quy hoạch
phát triển công nghiệp, các xã này lập quy hoạch sản xuất và Đề án phát triển sản
xuất, nâng cao thu nhập cho cư dân nông thôn; số xã còn lại lập quy hoạch xây
dựng NTM là 205 xã. Đến cuối năm 2014 có 202/205 xã hoàn thành công tác lập
quy hoạch, đạt 98,6% (2).
2()

3 xã: Tam Quang, Tam Hiệp, Tam Anh Nam (huyện Núi Thành) đã lập quy hoạch xây dựng xã NTM
nhưng UBND huyện chưa phê duyệt, do liên quan đến Khu Kinh tế mở Chu Lai.


16
b) Lập đề án xây dựng nông thôn mới:
Trên cơ sở các văn bản hướng dẫn của Trung ương, tỉnh đã biên soạn, tập
huấn hướng dẫn nội dung đề cương, các biểu mẫu và công tác thẩm định, phê
duyệt đề án xây dựng xã NTM (Đề án) cho tất cả các xã trên địa bàn tỉnh; qua
đó, các địa phương đã cụ thể hóa trên từng địa bàn xã, thực hiện các bước để tiến
hành lập, trình UBND cấp huyện phê duyệt, đến nay đã có 183 xã/205 xã phê
duyệt Đề án (đạt gần 90%).
* Thứ năm, Phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân

Các huyện, thành phố đã phê duyệt 114 đề án do UBND các xã lập về phát
triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân; có hơn 200 mô hình phát triển
sản xuất có hiệu quả; trong đó, các mô hình phát triển sản xuất đang được nhân
rộng, như: dồn điền, đổi thửa gắn với quy hoạch sản xuất nông sản hàng hoá; mở
rộng diện tích xây dựng cánh đồng mẫu, cánh đồng kỹ thuật; theo đó, các
HTXNN đã liên kết với các doanh nghiệp sản xuất và bao tiêu sản phẩm cho
nông dân (có khoảng 4.000 ha liên kết sản xuất lúa giống). Đây là một giải pháp
quan trọng, lâu dài góp phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nâng cao giá trị gia
tăng và phát triển bền vững, xây dựng thành những vùng sản xuất chuyên canh
tập trung, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng cơ giới hoá trong quá trình
sản xuất.
Tiếp tục thực hiện cơ chế hỗ trợ khuyến khích phát triển hợp tác xã
(HTX), các địa phương tạo điều kiện hình thành và phát triển các tổ hợp tác
(THT), HTX liên kết với các doanh nghiệp để sản xuất nông sản hàng hoá gắn
sản xuất với tiêu thụ sản phẩm; từng bước đổi mới, củng cố và phát triển kinh tế
tập thể.
Công tác hỗ trợ, đào tạo nghề gắn với nhu cầu tuyển dụng lao động của
doanh nghiệp và đào tạo nghề cho lao động nông thôn đang được triển khai tích
cực. Trong 4 năm qua, đã tổ chức đào tạo cho trên 13.924 người lao động khu
vực nông thôn học nghề góp phần tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo.
Từ đó, đã góp phần tăng thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn
năm 2014 đạt gần 20 triệu đồng/người/năm (tăng gần 1,5 triệu đồng so với năm
2013). Song, mức thu nhập của hộ nông thôn miền núi và bộ phận nông dân
nghèo còn thấp, đời sống còn rất khó khăn; khả năng tái nghèo rất dễ xảy ra khi
gặp thiên tai, dịch bệnh. Chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các vùng tuy
đã được rút ngắn nhưng vẫn còn lớn, đến nay vẫn chưa được cải thiện và mức


17
chênh lệch giữa nhóm hộ thu nhập cao nhất và nhóm hộ thấp nhất vẫn còn cao (3).

Đến nay đã có 62 xã đạt tiêu chí thu nhập, chiếm tỷ lệ 30,20%.
Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh từ 24,18% năm 2010 giảm còn 12,10 % năm
2014 (giảm 2,81% so với năm 2013); tuy nhiên, tỉ lệ giảm không đồng đều giữa
các khu vực nông thôn; tỷ lệ hộ nghèo khu vực 9 huyện miền núi còn cao, bình
quân 36,98%, nhiều địa phương miền núi tỷ lệ nghèo trên 50% như Nam Trà My
(62,96%), Nam Giang (57,36%),…và nguy cơ tái nghèo của các hộ vừa thoát
nghèo còn nhiều tiềm ẩn, nhất là các hộ đồng bào dân tộc. Đến nay, đã có 63 xã
đạt tiêu chí hộ nghèo, tăng 46 xã so với năm 2013.
Tuy đã có nhiều kết quả nổi bật trong phát triển sản xuất, nâng cao thu
nhập cho người dân nhưng còn nhiều tồn tại, hạn chế như: công tác chọn mô
hình để phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho cư dân nông thôn còn lúng túng,
làm theo phong trào chứ chưa có chiến lược lâu dài; công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp, ngành nghề nông thôn, thương mại dịch vụ, nhìn chung phát triển
còn chậm; doanh nghiệp chưa đầu tư mạnh vào nông nghiệp, nông thôn; HTX,
hộ nông dân, chủ trang trại vẫn khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng; quy mô sản
xuất còn nhỏ lẻ, năng suất, sản lượng một số cây trồng, con vật nuôi chưa cao,
hiệu quả thấp; chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp chưa rõ nét; chưa khai
thác tốt tiềm năng đất đai, lao động; kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội đã được
đầu tư nhưng còn thiếu và yếu so với nhu cầu phát triển, nhất là các xã miền núi;
ứng dụng khoa học công nghệ, thay đổi giống cây trồng, con vật nuôi mới vào
sản xuất còn nhiều hạn chế, các vùng nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế
biến còn phân tán, vận chuyển nông, lâm sản còn nhiều khó khăn…
* Thứ sáu, Việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn
Với nguồn vốn Chương trình của Trung ương, của tỉnh và lồng ghép các
nguồn vốn từ các chương trình, dự án, trong 4 năm qua, các địa phương đã xây
dựng, nâng cấp các công trình thiết yếu phục vụ sản xuất, dân sinh, góp phần đạt
chuẩn các tiêu chí về cơ sở hạ tầng nông thôn, cụ thể như:
- Tiêu chí giao thông: toàn tỉnh đã bê tông hóa hơn 1.315 km đường giao
thông nông thôn, gần 270 km giao thông nội đồng và cứng hóa 2.753 km giao
thông nông thôn với tổng kinh phí đầu tư gần 960 tỷ đồng; trong đó, ngân sách

tỉnh 432 tỷ (chiếm 45%), ngân sách huyện, xã và nhân dân đóng góp 528 tỷ
đồng. Đến nay, có 41 xã đạt tiêu chí giao thông, chiếm 20%;
3

() Năm 2014, bình quân thu nhập người dân tại xã Điện Quang 24,32 triệu đồng, trong khi đó xã Trà Mai chỉ đạt
dưới 10 triệu đồng/người/năm (2 xã điểm).


18
- Tiêu chí thủy lợi: Xây dựng mới 6 công trình hồ chứa, tưới cho 1.400 ha;
sửa chữa, nâng cấp bảo đảm an toàn cho 8 công trình hồ chứa nước; xây dựng
mới 187 công trình thủy lợi nhỏ, tưới cho 2.400 ha; thủy lợi đất màu 129 công
trình (tưới cho gần 2.700 ha đất màu); kiên cố hóa 177 km kênh mương thủy lợi.
Đến nay có 64 xã đạt tiêu chí thủy lợi, chiếm 31,22%;
- Tiêu chí điện (khu vực nông thôn): Đầu tư xây dựng hơn 58 km đường
dây trung áp; 742,50 km đường dây hạ áp; 201 trạm biến áp và hơn 25.000 công
tơ, với kinh phí đầu tư hơn 323 tỷ đồng. Đến cuối năm 2014 có 201 xã/205 xã có
điện, chiếm tỷ lệ 98,04%. Trong đó, hệ thống điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật
ngành điện 159 xã đạt, chiếm 77,56% và số hộ sử dụng điện thường xuyên, an
toàn từ các nguồn 156 xã đạt, chiếm 76,10% trong tổng số xã. Đến nay, có 131
xã đạt tiêu chí điện, chiếm 63,90%.
- Tiêu chí trường học: Toàn tỉnh hiện có 775 trường; trong đó, Mầm non
235 trường, Tiểu học 272 trường, THCS 214 trường và THPT 54 trường. Số
trường đạt chuẩn quốc gia là 366 trường, trong đó Mầm non 94 trường, Tiểu học
169 trường, THCS 101 trường, THPT 2 trường. Đến nay, có 61 xã đạt tiêu chí
trường học, chiếm 29,8%.
- Tiêu chí cơ sở vật chất văn hóa: Đã đầu tư, xây dựng 79 nhà văn hóa, sân
vận động thể thao xã, với tổng kinh phí trên 300 tỷ đồng. Hiện có 79/205 xã có
Nhà văn hóa, 1.357/1.499 thôn có nhà văn hóa thôn. Đến nay, có 11 xã đạt tiêu
chí cơ sở vật chất văn hóa, chiếm 5,37%;

- Tiêu chí chợ nông thôn: Toàn tỉnh có 161 chợ, trong đó có 130 chợ nông
thôn/205 xã (còn 51 xã không nằm trong quy hoạch xây dựng chợ nông thôn).
Từ năm 2011 đến năm 2014, có 06 chợ được đầu tư xây mới, 17 chợ được nâng
cấp, với tổng nguồn kinh phí trên 140 tỷ đồng (chủ yếu từ nguồn vốn lồng ghép
như khai thác quỹ đất, tiểu thương đóng góp). Đến nay có 67 xã đạt tiêu chí chợ
nông thôn, chiếm 32,68%.
- Tiêu chí bưu điện: Năm 2014, UBND tỉnh đã phê duyệt Đề án Phát triển
hệ thống điểm Bưu điện văn hóa xã đảm bảo cung cấp thông tin cộng đồng phục
vụ xây dựng nông thôn mới đến năm 2020. Hiện nay, đã phủ sóng thông tin di
động đến 100% trung tâm các xã và 96% số xã được kết nối internet đến các
vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa và hải đảo; số xã đạt tiêu chuẩn về điểm bưu
chính viễn thông là 80 % (164 xã/205 xã). Mật độ điện thoại là 85,17 máy/100
dân; số thuê bao Internet hiện có 40.689 thuê bao, tỷ lệ người dân sử dụng
Interntet là 10,8 thuê bao/100 dân; tiếp tục hỗ trợ duy trì hoạt động của các Bưu


19
điện văn hóa xã và các điểm Internet, điện thoại công cộng, cung cấp dịch vụ
viễn thông công ích đến cho người dân tại các vùng khó khăn, các xã chương
trình 135. Đến nay, có 136 xã đạt tiêu chí bưu điện, chiếm 66,34%
- Tiêu chí nhà ở dân cư: Tổng số có 350.078 nhà ở dân cư nông thôn;
trong đó, có 239.239 nhà đạt tiêu chuẩn của Bộ Xây dựng, nhà bán kiên cố
89.012 nhà và có 21.827 nhà tạm bợ, dột nát. Trong hơn 3 năm đã hỗ trợ xây
dựng 18.014 nhà (trong đó, khu vực các huyện miền núi hỗ trợ xây dựng 9.434
nhà ở), kinh phí gần 200 tỷ đồng. Đến nay, có 101 xã đạt tiêu chí nhà ở dân cư,
chiếm 49,27%.
* Thứ bảy, Giáo dục, y tế, văn hóa - xã hội - môi trường
- Về tiêu chí giáo dục: Trong những năm qua công tác giáo dục và đào tạo
trên toàn tỉnh đã có bước chuyển mạnh mẽ về nhiều mặt, như: Mạng lưới trường
lớp ngày càng đa dạng, rộng khắp và từng bước được sắp xếp phù hợp với khung

hệ thống giáo dục quốc dân, cơ bản đáp ứng được đại bộ phận nhu cầu học tập
của con em vùng nông thôn. Công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục đã được
chú trọng; cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học được tăng
cường, chất lượng giáo dục được cải thiện. Đến nay, đã có 104 xã đạt chuẩn tiêu
chí giáo dục, chiếm 50,7%.
- Về tiêu chí y tế: Công tác y tế và chăm sóc sức khoẻ có sự phát triển toàn
diện, ngày càng đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân; cơ sở, trang
thiết bị, cán bộ y tế, chất lượng khám chữa bệnh, tỷ lệ người dân tham gia bảo
hiểm y tế tăng hàng năm (năm 2013, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế là
78%). Đầu tư xây dựng mới 28 trạm và sửa chữa 57 trạm y tế xã, với tổng
kinh phí là 108.895 triệu đồng. Đã có 80 xã đạt chuẩn tiêu chí y tế, chiếm
39,02%.
- Về tiêu chí văn hóa: Các huyện, thành phố đã xây dựng kế hoạch và tổ
chức triển khai thực hiện phong trào văn hóa; các địa phương tổ chức Đại hội thể
dục - thể thao, gắn với phát động xây dựng xã nông thôn mới; tổ chức nhiều hội
thảo, hội nghị về xây dựng đời sống văn hóa gắn với xây dựng nông thôn mới,…
Hiện nay, đang tham mưu UBND tỉnh trình HĐND tỉnh Đề án hỗ trợ cho các
thiết chế văn hóa cơ sở. Đến nay, đã có 84 xã đạt tiêu chí văn hóa, chiếm 41 %.
- Môi trường: UBND tỉnh ban hành Đề án thu gom rác thải, chất thải; qua
đó, các địa phương hình thành các tổ chức dịch vụ thu gom rác thải và bước đầu
đã có tác dụng rất tích cực, được người dân nông thôn hưởng ứng thực hiện; hiện
có 75,8% số xã có điểm thu gom rác thải sinh hoạt; tập trung đầu tư xây dựng


20
nhiều công trình nước sạch nông thôn (hệ cấp nước tự chảy, giếng đào, giếng
khoan,…), tỷ lệ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh toàn tỉnh đến năm 2014 đạt
83,54%, dự kiến đến hết năm 2015 đạt khoảng 85%; với trên 61,5% số xã có
công trình cấp nước sinh hoạt tập trung. Đến nay, đã có 49 xã đạt chuẩn tiêu chí
môi trường, chiếm 23,90%.

* Thứ tám, Hệ thống tổ chức chính trị xã hội và an ninh, trật tự xã hội
- Hệ thống tổ chức chính trị xã hội: Tổng số cán bộ, công chức cấp xã là
4.245 người/205 xã (bình quân số cán bộ, công chức là 21 người/xã, không kể
bán chuyên trách); cấp thôn 6.851 người/1.499 thôn (bình quân 5 người/thôn).
Đến nay, đã có 126 xã đạt tiêu chí hệ thống tổ chức chính trị xã hội, đạt 61,46 %
- An ninh, trật tự xã hội: Ngành Công an tỉnh, huyện đã xây dựng kế hoạch
và tổ chức thực hiện công tác an ninh trật tự giai đoạn 2010 – 2020. Trong 4 năm
qua, Công an toàn tỉnh đã phối hợp tổ chức 5.988 cuộc vận động, tuyên truyền
cho 1.023.007 lượt người tham dự. Qua đó, quần chúng đã cung cấp cho lực
lượng Công an 2.527 tin có giá trị giúp cho lực lượng Công an điều tra, khám
phá và xử lý kịp thời các vụ việc xảy ra, mang lại hiệu quả tích cực. Toàn tỉnh
hiện có 205 trưởng Công an xã, 205 Phó trưởng Công an xã và 1.799 Công an
viên. Đội ngũ này được quan tâm về chế độ chính sách, trang bị phương tiện, bồi
dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ xây dựng phong
trào toàn dân bảo vệ ANTQ và giữ gìn ANTT ở cơ sở, góp phần thực hiện tốt
tiêu chí an ninh trật tự. Đến nay, đã có 190 xã đạt tiêu chí an ninh trật tự xã hội,
chiếm 92,7%.
* Thứ chín, Kết quả huy động các nguồn lực, giai đoạn 2011-2014
Tổng vốn từ ngân sách nhà nước các cấp và huy động các nguồn lực trong
4 năm (2011 – 2014) để thực hiện Chương trình là 12.852,793 tỷ đồng. Trong
đó:
a) Vốn trực tiếp từ Chương trình: 640,493 tỷ đồng
- Ngân sách Trung ương: 297,717 tỷ đồng; trong đó:
+ Vốn đầu tư phát triển: Tổng số 216,199 tỷ đồng, tập trung hỗ trợ đầu tư
cho các xã phấn đấu đạt chuẩn NTM vào năm 2015, bình quân mỗi xã 3,6 tỷ
đồng/4 năm (bình quân mỗi năm 900 triệu đồng/xã).
+ Vốn sự nghiệp: Tổng số 81,518 tỷ đồng, tập trung hỗ trợ lập quy hoạch
xây dựng xã nông thôn mới (150 triệu đồng/xã), hỗ trợ công tác tuyên truyền,
đào tạo, quản lý (10 triệu đồng/xã/năm); số còn lại hỗ trợ phát triển sản xuất, tập



21
trung cho các xã phấn đấu đạt chuẩn NTM vào năm 2015 (4), với mức 100 - 120
triệu đồng/xã/ năm.
- Ngân sách tỉnh: 155,075 tỷ đồng; trong đó, vốn đầu tư phát triển 126,995
tỷ đồng, vốn sự nghiệp 28,08 tỷ đồng.
+ Vốn đầu tư phát triển: Tổng số 126,995 tỷ đồng, tập trung hỗ trợ đầu tư
cho 60 xã phấn đấu đạt chuẩn NTM vào năm 2015, bình quân mỗi xã hơn 2,10 tỷ
đồng/4 năm (bình quân 530 triệu đồng/năm/xã).
+ Vốn sự nghiệp: Tổng số 28,08 tỷ đồng, bổ sung vốn quy hoạch xây dựng
nông thôn mới cho các xã trên địa bàn tỉnh, bình quân 150 triệu đồng/xã.
* Ngân sách Trung ương, ngân sách tỉnh hỗ trợ đầu tư trực tiếp cho
Chương trình trong 4 năm (2011 – 2014) là:
Bảng 2.1. Vốn ngân sách Trung ương, ngân sách tỉnh hỗ trợ đầu tư
trực tiếp cho Chương trình
Tổng số
(triệu
đồng)
81.437
89.056
61.439
220.860
452.792

Ngân sách tỉnh
Trong đó
Năm
Tổng số ĐTPT
SN
2011

17.722 17.722
0
2012
48.080 20.000 28.080
2013
20.000 20.000
0
2014
69.273 69.273
0
Cộng
155.075 126.99 28.080
5
- Ngân sách huyện, thành phố: 118,152 tỷ đồng.
- Ngân sách xã: 69,549 tỷ đồng.
b) Vốn huy động, lồng ghép: 12.212,3 tỷ đồng
- Vốn lồng ghép từ các chương trình, dự án: 3.080 tỷ đồng.
- Vốn tín dụng: 8.384 tỷ đồng.
- Vốn huy động từ doanh nghiệp, HTX: 222,3 tỷ đồng.
- Nhân dân đóng góp (quy ra giá trị): trên 526 tỷ đồng.
* Kết quả giải ngân: Theo số liệu báo cáo của các huyện/thành phố, kết
quả thực hiện giải ngân vốn năm 2014 là 89,50% (qua Kho bạc Nhà nước tỉnh,
đến ngày 28/02/2015); trong đó, vốn sự nghiệp (NSTW) 95,30%, vốn đầu tư
phát triển (NS tỉnh) 94,20%, vốn TPCP 86,70%. Các địa phương thực hiện giải
ngân thấp: Nông Sơn (34,20%), Tam Kỳ (74,30%), Núi Thành (79,70%),…
* Kết quả thực hiện các tiêu chí nông thôn mới

4()

Ngân sách Trung ương

Trong đó
Tổng số ĐTPT
SN
63.715 30.200 33.515
40.976
23.000 17.976
41.439
22.999 18.440
151.587 140.000 11.587
297.717 216.199 81.518

Năm 2013, ngoài các xã phấn đấu đạt chuẩn NTM giai đoạn 2011-2015 (120 triệu đồng/xã), các xã khác là 50
triệu đồng/xã để hỗ trợ phát triển sản xuất.


22
- Sau 4 năm thực hiện Chương trình, đến nay (cuối năm 2014) các tiêu chí
nông thôn mới ở các xã được tăng lên đáng kể, bình quân chung tiêu chí đạt
chuẩn của tỉnh là 8,67 tiêu chí/xã (cả nước 10,51 tiêu chí/xã), tăng bình quân
3,85 tiêu chí/xã so với năm 2010 (năm 2010, bình quân đạt 4,82 tiêu chí/xã), chia
ra như sau:
+ Nhóm 1 (đạt chuẩn nông thôn mới): 10 xã (chiếm 4,88%), tăng 10 xã;
+ Nhóm 2 (từ 15-18 tiêu chí): 23 xã (chiếm 11,22 %), tăng 23 xã so với
2010;
+ Nhóm 3 (từ 10-14 tiêu chí): 43 xã (chiếm 20,98 %), tăng 39 xã so với
2010;
+ Nhóm 4 (từ 5- 9 tiêu chí): 81 xã (chiếm 39,51 %), tăng 56 xã so với
2010;
+ Nhóm 5 (dưới 05 tiêu chí): 48 xã (chiếm 23,41%), giảm 129 xã so với
2010.

Trong đó, năm 2010 có 25 xã chưa đạt tiêu chí nào (xã trắng tiêu chí), đến
tháng 8/2013 không còn xã trắng tiêu chí.
- Kết quả bình quân tiêu chí NTM đạt chuẩn/xã của các huyện, thành phố:
+ Đối với khu vực đồng bằng, trung du (10 huyện + 2 thành phố): tổng số
141 xã, bình quân tiêu chí đạt 10,39 tiêu chí/xã (trong đó, có 9 xã đạt chuẩn
NTM năm 2014: Điện Quang, Điện Trung, Điện Phong, Hương An, Đại Hiệp,
Tam Phước, Tam An, Tam Thành, Bình Tú). Các địa phương có bình quân tiêu
chí đạt cao: Phú Ninh (15,90 tiêu chí), Điện Bàn (15,08 tiêu chí), Hội An (13,50
tiêu chí), Tam Kỳ (10,75 tiêu chí), Quế Sơn (10,69 tiêu chí), Đại Lộc (10,59 tiêu
chí), Thăng Bình (10,10 tiêu chí), ...
+ Đối với khu vực miền núi cao (6 huyện): tổng số 64 xã, bình quân tiêu
chí đạt 5,34 tiêu chí/xã (trong đó, xã A Nông đạt chuẩn NTM năm 2014), cao
nhất là: Tây Giang (7,70 tiêu chí), Đông Giang (7,40 tiêu chí),...
- Ngoài 10 xã đạt chuẩn NTM năm 2014, bình quân số tiêu chí đạt của 4 3
xã phấn đấu đạt chuẩn NTM tong năm 2015 là 14,30 tiêu chí/xã, tăng bình quân
6,38 tiêu chí so với năm 2010 và tăng 4,24 tiêu chí/xã so với năm 2013; trong đó,
nhóm từ 15 - 18 tiêu chí: 23 xã và nhóm từ 10 - 14 tiêu chí: 21 xã.
2.2.2. Một số hạn chế
- Công tác thông tin tuyên truyền của các cấp chưa được thường xuyên,
rộng khắp, nội dung chưa được phong phú; trên một số lĩnh vực, công tác tuyên
truyền chưa mang lại những chuyển biến tích cực. Vai trò chủ thể của người dân
trong xây dựng nông thôn mới chưa được phát huy cao; một bộ phận cán bộ và


23
nhân dân còn biểu hiện tư tưởng trông chờ, ỷ lại. Sự “chung sức, chung lòng”
xây dựng nông thôn mới đã được phát động, tuyên truyền, nhưng việc thể hiện
bằng các hành động cụ thể còn nhiều hạn chế.
- Trong chỉ đạo xây dựng nông thôn mới còn nặng về xây dựng cơ bản,
chưa tập trung cao cho việc tổ chức chỉ đạo sản xuất; công tác lập và phê duyệt

Đề án xây dựng xã nông thôn mới còn chậm; Đề án của một số xã chưa đánh giá
đúng thực trạng, nhiệm vụ đề ra chưa đảm bảo tính khả thi, chưa thể hiện được
sự phát huy nội lực, còn tâm lý dựa vào sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước; công tác
thực hiện việc giải ngân vốn của Chương trình chưa kịp thời.
- Bộ mặt nông thôn qua 4 năm triển khai thực hiện Chương trình tuy có
chuyển biến, nhất là ở 60 xã điểm, nhưng chưa thật rõ nét; vệ sinh môi trường
nông thôn nhiều nơi còn ô nhiễm; cải tạo vườn tạp, chỉnh trang vườn nhà còn
hạn chế; một số tệ nạn xã hội ở nông thôn vẫn còn diễn ra phức tạp...
- Bình quân số tiêu chí nông thôn mới đạt chuẩn trên một xã còn rất thấp:
8,67 tiêu chí/xã (cả nước 10,51 tiêu chí/xã).
- Nguồn vốn ngân sách tỉnh hỗ trợ đầu tư cho Chương trình còn hạn chế,
vốn Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM của Trung ương phân bổ
còn thấp; chậm ban hành cơ chế và giải pháp lồng ghép các nguồn vốn các
chương trình, dự án đầu tư vào Chương trình.
- Công tác báo cáo, thông tin chưa đảm bảo, nhiều địa phương, nhiều
ngành không gửi báo cáo theo quy định (định kỳ, đột xuất) hoặc có gửi nhưng
không đảm bảo nội dung theo yêu cầu của trung ương, của tỉnh dẫn đến không
cập nhật được thông tin, làm trở ngại cho công tác điều hành, chỉ đạo chung cũng
như chậm tham mưu UBND tỉnh, Ban Chỉ đạo tỉnh báo cáo cho Ban Chỉ đạo
Trung ương.
2.2.3. Nguyên nhân
2.2.3.1. Nguyên nhân đạt được
- Có sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng; sự quản lý, điều
hành của chính quyền, các ngành và hội đoàn thể các cấp, từ tỉnh xuống xã, thôn
trong việc triển khai thực hiện Chương trình; sự vào cuộc của hệ thống chính trị
và toàn xã hội, nhất là tỉnh đã tập trung chỉ đạo quyết liệt trong công tác quy
hoạch xây dựng xã nông thôn mới và nhiều nhiệm vụ trọng tâm khác. Bước đầu,
người dân thể hiện được vai trò chủ thể của mình khi tham gia xây dựng nông
thôn mới.



24
- Ban Chỉ đạo các cấp tuy hoạt động kiêm nhiệm, nhưng đã bố trí, sắp xếp
thời gian để kiểm tra, chỉ đạo công tác nông thôn mới ở các địa phương được
phân công phụ trách; một số thành viên Ban Chỉ đạo cấp tỉnh đã gắn chức năng,
nhiệm vụ của đơn vị mình, ngành mình với nội dung các tiêu chí xây dựng xã
nông thôn, để phối hợp với các địa phương trong chỉ đạo thực hiện hoàn thành
các tiêu chí.
- Công tác thông tin tuyên truyền, đào tạo, tập huấn hướng dẫn nhằm nâng
cao nhận thức, nâng cao trình độ và kỹ năng về công tác xây dựng nông thôn
mới được chú trọng hơn. Nhờ vậy, đã tạo được sự chuyển biến về nhận thức và
sự hưởng ứng tích cực trong cán bộ, đảng viên, nhân dân trong việc thực hiện
Chương trình.
- Đã tập trung huy động, lồng ghép các nguồn vốn để nâng cấp, xây dựng
mới các công trình thiết yếu phục vụ sản xuất, dân sinh tại địa bàn các xã, nhất là
các xã phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2015; tập trung ưu tiên nguồn
lực cho phát triển sản xuất, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp,
liên kết sản xuất để hỗ trợ thúc đẩy sản xuất hàng hóa, tăng thu nhập cho hộ cư
dân nông thôn.
2.2.3.2. Nguyên nhân
hạn chế
- Tỉnh Quảng Nam có 6 huyện miền núi cao (tỷ lệ hộ nghèo trên 50%),
điểm xuất phát thấp, thu nhập của người dân khu vực nông thôn còn ở mức thấp,
tỷ lệ hộ nghèo cao; trong khi đó, kết cấu hạ tầng nông thôn (giao thông, thủy lợi,
trường, trạm y tế, nước sạch nông thôn,…) còn nhiều yếu kém, nhưng do ngân
sách tỉnh hạn hẹp nên những năm qua vốn đầu tư hỗ trợ trực tiếp cho Chương
trình chưa đáp ứng yêu cầu. Hơn nữa, trình độ, năng lực cán bộ ở cấp cơ sở còn
nhiều hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng nông thôn mới;
- Nhiều đơn vị đã được UBND tỉnh, Ban Chỉ đạo tỉnh giao nhiệm vụ
nhưng việc triển khai thực hiện chậm; một số thành viên Ban Chỉ đạo tỉnh chưa

thể hiện đầy đủ trách nhiệm được phân công (chưa xây dựng chương trình, kế
hoạch cụ thể để hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện các tiêu chí thuộc ngành mình
quản lý; chưa thông tin và đề xuất kịp thời các giải pháp tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc...). Công tác chỉ đạo, điều hành của BCĐ một số địa phương chưa
thật sự tập trung, thiếu quyết liệt, không cụ thể; sự phối hợp triển khai Chương
trình ở các cấp chưa đồng bộ, thiếu gắn kết, nhất là sự phối hợp của một số
phòng, ban chuyên môn cấp huyện trong công tác chỉ đạo, hướng dẫn nói chung,


25
nhất là triển khai thực hiện công tác quy hoạch xây dựng xã NTM trong thời gian
qua.
- Ban Quản lý xây dựng nông thôn mới của nhiều xã chưa chủ động xây
dựng kế hoạch hằng năm, trung hạn để tổ chức thực hiện Chương trình, như
Thông tư liên tịch số 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC ngày 13/4/2011
của các Bộ đã quy định.
- Một số văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các Bộ, ngành TW, của tỉnh
chậm ban hành, hoặc chưa ban hành nên các địa phương đã lúng túng trong việc
tổ chức thực hiện Chương trình.
- Ban Chỉ đạo, bộ máy giúp việc Ban Chỉ đạo các cấp (tỉnh, huyện, xã) hầu
hết là kiêm nhiệm, nên hiệu quả hoạt động còn nhiều hạn chế.

PHẦN 3:
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỀ ÁN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
3.1. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỀ ÁN
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TỈNH QUẢNG NAM

3.1.1. Quan điểm

Thứ nhất; Xây dựng nông thôn mới phải thực hiện kiên trì, thường xuyên,
liên tục, bền bỉ, không nóng vội; mục tiêu xây dựng nông thôn mới là phục vụ
cho nhân dân, là sự nghiệp của dân, do dân làm, vì vậy cần phát huy vai trò làm


×