Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP VIETINBANK CHI NHÁNH TÂY HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.18 KB, 83 trang )

MỤC LỤC

1

1


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

DANH MỤC CÁC PHƯƠNG TRÌNH
Phương trình 1.1: Phương trình tính tỷ lệ nợ quá hạn………………..……29
Phương trình 1.2: Phương trình tính tỷ lệ nợ xấu………………..……….. 30
Phương trình 1.3: Phương trình hệ số rủi ro tín dụng. …………….……....31
Phương trình 1.4: Phương trình hệ số thu nợ …………….………….….....32
Phương trình 1.6: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu ………………….…………..46
Phương trình 1.7: Tài sản điều chỉnh rủi ro……………………………….. 47

2

2


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

3

3


LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập đã mang đến cho các doanh


nghiệp rất nhiều thời cơ thuận lợi, đồng thời nó cũng đặt cho các doanh nghiệp
vào thế phải cạnh tranh khốc liệt không chỉ với các doanh nghiệp cùng ngành,
cùng quốc gia mà còn cả với các doanh nghiệp thuộc các ngành, các quốc gia,
các khu vực khác trên toàn cầu. Tài chính – Ngân hàng cũng không nằm ngoài
phạm vi đó. Đặc biệt trong những năm gần đây hoạt động của ngành này có vai
trò vô cùng quan trọng đối với nền tài chính quốc gia, kích thích, ổn định duy trì
sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, để có nền kinh tế vững mạnh thì
điều kiện cần là phải có một hệ thống Ngân hàng ổn định, hiện đại đủ khả năng
đáp ứng nhu cầu vốn và điều tiết nền kinh tế.
Thực chất hoạt động của Ngân hàng bao gồm rất nhiều nghiệp vụ, nhưng
quan trọng nhất là nghiệp vụ tín dụng vì nó là yếu tố quyết định sự tồn tại và
phát triển của Ngân hàng. Tuy nhiên nghiệp vụ này lại tiềm ẩn trong nó rất nhiều
rủi ro có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự tồn tại của ngân hàng
Qua quá trình thực tập ở ngân hàng TMCP Vietinbank chi nhánh Tây Hà
Nội, tôi nhận thấy ở chi nhánh đã có những giải pháp rất thiêt thực để giảm thiểu
rủi ro tín dụng. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng quản lý rủi ro tín dụng ở chi
nhánh vẫn đang duy trì ở mức an toàn. Tuy nhiên có một số chỉ tiêu đang biển
đổi theo chiều hướng xấu đi rất nhanh. Cụ thể, dù tỷ lệ nợ xấu vẫn được duy trì ở
mức dưới 3% nhưng trong 3 năm 2009-2011, tỷ lệ này đã tăng gấp đôi từ 0,2%
lên 0,4% vào năm 2011. Tỷ lệ nợ quá hạn cũng diễn biến theo một chu kỳ như
vậy với mức tăng 100% và đạt 1,4% vào năm 2011. Chính vì vậy nên tôi chọn đề
tài “Tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Vietinbank chi
nhánh Tây Hà Nội” để nghiên cứu về các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
công tác quản lý rủi ro ở chi nhánh này.
Đề tài:“Tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP
Vietinbank chi nhánh Tây Hà Nội” là một hệ thống những lý luận khái niệm
về chất lượng hoạt động đánh giá rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Mặt khác, nó
gắn liền với thực tiễn: đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng chất lượng kiểm
soát rủi ro tín dụng tại Ngân hàng từ đó phân tích, tìm ra những yếu tố hợp lý,


4

4


những tồn tại và các căn nguyên đưa ra các giải pháp khắc phục, đổi mới sao
cho phù hợp hơn, hiệu quả hơn nhằm nâng cao chất lượng kiểm soát rủi ro
tín dụng của Chi nhánh.
Bố cục của đề tài gồm 3 phần:
Chương 1: Tổng quan về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tin dụng tại ngân hàng TMCP
Vietinbank chi nhánh tây Hà Nội
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện quản lý rủi ro tín
dụng tại ngân hàng Vietinbank chi nhánh tây Hà Nội

5

5


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN LÝ
RỦI RO TÍN DỤNG
1.1. Tín dụng tại ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm tín dụng tại ngân hàng thương mại
Tín dụng là một từ xuất phát từ tiếng la tinh là Creditium mang ý nghĩa diễn
tả sự tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau. Tiếng bồ đào nha là Credito. Tiếng Trung
Quốc là 信用.
Theo ý nghĩa Hán Việt thì tín dụng chỉ sự vay mượn xuất phát từ sự tin
tưởng lẫn nhau.

Kart marx đưa ra định nghĩa tín dụng là quá trình chuyển giao một lượng giá
trị từ người sở hữu này sang một người sử dụng khác trong một khoảng thời gian
với kỳ vọng lượng gía trị đó sẽ tăng lên khi quay về với người sở hữu cũ.
Luật Việt Nam quan niệm rằng quan hệ chuyển nhươngj tài sản ( có thể là
tiền) giữa hai bên kèm theo điều khoản hoàn trả lại kèm theo lợi tức được coi là
tín dụng . Khi đó bên đi vay được nhân tài sản (có thể là tiền) từ bên cho vay
trong một thời gian nhất định do hai bên đã thoả thâunj trước, mục đích sử dụng
tài sản đó của bên đi vay sẽ được thoả thuận trước trong hợp đồng, bên đi vay
được toàn quyền thực hiện theo mục đích này, bên đi vay phải hoàn trả vô điều
kiện cả gốc lẫn lãi khi đến kỳ hạn thanh toán theo hợp đồng tín dụng hai bên đã
ký với nhau.
Từ đó, ta hiểu tín udngj là sự liên lạc về kinh tế giữa bên A và bên B. A,B có
thể là chủ thể hoặc cá nhân. Hai bên có thể chuyển nhường tiền hoặc tài sản cho
nhau dưới sự tin tưởng sẽ được hoàn trả tiền và tài sản đó sau một thời gian kèm
theo đó là lợi tức.
Ngay từ thời cổ đại, các hoạt động tín dụng đã được tiến hành rất thường
xuyên và đa dạng . Tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại, tín dụng nhà nước
đến tín dụng tiêu dùng, tín dụng thuê mua và tin sdungj quốc tế là những hình
thức tồn tài chính của tín dụng. Trong đó, tín dụng ngân hàng được coi là hình
thức chủ đạo,có vai trò quan trọng nhất.
6

6


Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1990 có
ghi, ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính mà hoạt động chủ yếu và
thường xuyện là huy động tiền gửi với và sử dúng số tiền đó để cho vay, thực
hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán đồng thời đem lại lợi
nhuận cho bản thân ngân hàng.

Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt
động ngân hàng theo quy định của Luật này.( Trích Theo luật các tổ chức tín
dụng năm 2010 của Việt Nam). Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại
hình ngân hàng bao gồm NHTM, ngân hàng chính sách và ngân hàng hợp tác xã:

-

Hoạt động ngân hagn là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc
một số các nghiệp vụ sau đây:
Nhận tiền gửi
Cấp tín dụng
Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản
Qua các cách định nghĩa trên, ta có thể thấy tín dụng ngân hàng là một hoạt
động cơ bản đối với hầu hết các ngân hàng thương mại. Hoạt động này trung
bình mang tới khoảng hơn 60% lợi nhuận cho các ngân hàng ở các nước phát
triển, ở các nước đang phát triển như việt nam, con số này còn lớn hơn rất nhiều,
có thời điểm còn lên tới trên 80%.(theo vneconomy.com)
Có thể định nghĩa tín dụng Ngân hàng là một giao dịch về tài sản ( có thể
bằng tiền hoặc hàng hoá), giữa Ngân hàng với khách hàng là các cá nhân,
doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu,
cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín
dụng khác
Nền kinh tế càng phát triển, hoạt động tín dụng cũng phát triển ngày càng
phong phú và đa dạng với rất nhiều hình thức khác nhau. Các hình thức tín dụng
càng đa dạng, thì các loại rủi ro đi kèm với nó cũng càng đa dạng và phức tạp
hơn. Để quản lý hoạt động tín dụng, các Ngân hàng phải đưa ra rất nhiều tiêu chí
khác nhau để phân loại tín dụng, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp quản lý thích
hợp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
1.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng thương mại


7

7


Tín dụng là loại tài sản phổ biến trong ngân hàng thương mại. Tuỳ theo mục
đích nghiên cứu và mục tiêu quản trị mà người ta phân chia loại tài sản này
thành nhiều hình thức khác nhau.
1. Phân chia theo thời gian












Thời gian là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng gia tăng lợi nhuận
cũng như rủi ro có thể xảy đến với khoản cho vay của ngân hàng thương mại.
Khi xét về mặt thời gian, tín dụng được chia thành:
Tín dụng ngắn hạn: Là các khoản cho vay có thời hạn dưới 12 tháng, mục đích
các khoản cho vay này thường là để nhằm tài trợ cho tài sản lưu động
Tín dụng trung hạn: là các khoản cho vay có thời hạn giao động từ 12 tháng tới
60 tháng, thường có mục đích là để tài trợ cho các tài sản cố định như phương
tiện sản xuất, vật nuôi, cây trồng.
Tín dụng dài hạn: là các khoản cho vay có thời hạn trên 60 tháng. Nguồn vốn

này thường được sử dụng nguồn vốn là để xây dựng nhà xưởng, mua sắm các
thiết bị, máy móc có giá trị lớn, thời gian khấu hao dài.
Nhìn chung, việc phân chia các khoản tín dụng theo thời gian đối với ngân
hàng là một phương pháp có ý nghĩa khá quan trọng nhưng nó cũng chỉ mang ý
nghĩa tương đối vì có nhưng dự án rất khó xác định được thời gian hoàn
thành.Có thể nói hầu hết các ngân hàng hiện nay đều tập trung nguồn vốn của
mình cho các dự án ngắn hạn. Bởi rủi ro mà loại hình dự án này mang lại là thấp
hơn rất nhiều so với các dự án daì hạn. Áp lực về thanh khoản cũng như nhu cầu
tối thiểu hoá rủi ro thường là được coi trọng hơn rất nhiều so với lợi nhuận
nhưng rủi ro cao tại các dự án dài hạn.
Phân chia theo mục đích sử dụng
Cho vay kinh doanh bất động sản: Các loại hình tài sản như bất động sản, nhà
xưởng, thiết bị có thời gian khấu hao đài sẽ là đối tượng để ngân hàng cấp tín
dụng
Cho vay công nghiệp và thương mại: Các doanh nghiệp thươg tìm đến ngân
hàng yêu cầu loại tín dụng này khi cần nhu cầu vốn để mua tài sản lưu động, tài
sản phục vụ sản xuất.
Cho vay nông nghiệp: Những tập thể, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp khi có nhu cầu về vốn để mua cây trồng, con giống, máy nông cụ, phân
bón, thuốc trừ sâu sẽ thường đuoc ngân hàng cấp loại tín dụng này.

8

8


2.





3.






Cách phân loại này giúp ngân hàng có thể kiểm soát tốt mục đích sử dụng vốn
vay của khách hàng. Đồng thời,mỗi một loại hình kinh doanh lại có những đặc
thù cố hữu của nó nên lại cần những biện pháp kiểm tra kiểm soát cũng như xử
lý rủi ro hoàn toàn khác nhau, việc phân chia này giúp ngân hàng có thể kiểm
soát đồng vốn của mình tốt hơn
Phân chia theo mức độ tín nhiệm với khách hàng
Cho vay không tài sản đảm bảo: là loại hình tín dụng mà ngân hàng không yêu
cầu khách hàng phải đưa ra các tài sản đảm bảo hoặc sự bảo lãnh từ một bên thứ
ba khi cấp tín dụng cho khách hàng. Ngân hàng chỉ dựa trên mức độ khả thi của
dự án, lịch sử, thái độ trả nợ của khách hàng trong quá khứ để đưa ra quyết định
có cấp tín dụng cho khách hàng hay không.
Cho vay có tài sản đảm bảo: Là hình thức phổ biến của các khoản tín dụng tại
ngân hàng. Ngân hàng chỉ đưa ra quyết định cấp vốn khi nhân được một sự đảm
bảo về tài sản thế chấp từ phía khách hàng hoặc một sự uỷ thác, bảo lãnh từ một
bên thứ ba nào đó.
Tuỳ theo hình thức đảm bảo mà ngân hàng có thể đưa ra các chính sach quản lý
tài sản đảm bảo phù hợp. Với các khoản cho vay có tài sản đảm bảo, phải thường
xuyên kiểm tra tài sản đó trên sổ sách và tại hiện trường, kiểm tra công năng
cũng như giá trị của tài sản xem có bị mất mát gì không. Đặc biệt cần tiến hành
kiểm tra thường xuyên đối với các khoản vay được bảo đảm bằng bảo lãnh của
bên thứ 3. Khả năng tài chính của bên thứ 3 là điều rất đáng quan tâm
Phân chia theo hình thức tài trợ tín dụng

Cho vay: là việc ngân hàng cấp một khoản tiền cho khách hàng với một cam kết
hoàn trả cả gốc lẫn lãi trong một thời gian nhất định. Cho vay thường chiếm một
tỷ trọng lớn trong tổng mức tín dụng của các ngân hàng thương mại
Chiết khấu: là hình thức khi khách hàng mang theo một giấy tờ có giá chưa đáo
hạn đến ngân hàng, ngân hang sẽ ứng trước cho khách hàng một khoản tiền ít
hơn số tiền sẽ thu được khi giấy tờ cso giá đó đáo hạn
Cho thuê tài chính: Các doanh nghiệp khi thiếu hụt vốn trung, dài hạn thường
yeu cầu ngân hàng cấp loại tín dụng này. Khi đó,doanh nghiệp đề nghị ngân
hàng cam kết mua và cho thuê lại máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và
các động sản khác . Ngân hàng vẫn có toàn quyền sở hữu đối với tài sản đó và
nghĩa vụ của doanh nghiệp là sử dụng tài sản đó đúng như hợp đồng và đồng
thời với đó là trả tiền thuê đúng hẹn trong suốt thời gian thuê.
9

9




4.




5.

Bảo lãnh: Khi khách hàng yêu cầu ngân hàng đứng ra làm bên thứ 3 trong mối
quan hệ của khách hàng với một bên khác, khi đó, ngân hàng sẽ đứng ra thực
hiện toàn bộ nghĩa vụ về trả nợ với khách hàng kia thay cho khách hàng khi
khách hàng không thể thực hiện được nghĩa vụ đó. Khách hàng phải nhận nợ và

hoàn trả cho Ngân hàng số tiền đã được trả thay.
Dựa vào những cách phân loại này, ngân hàng dễ dàng chuyên môn hoá các
nhân viên của mình. Từ đó giúp nâng cao hiệu quả trong hoạt động của ngân
hàng. Đồng thời sẽ tạo ra sự thống nhất, liền mạch trong hoạt động của ngân
hàng
Phân chia theo phương thức hoàn trả
Cho vay có thời hạn: Hình thức cho vay trong đó kỳ hạn trả gốc và trả lãi đã
được ấn định trươcs trong hợp đồng tín dụng hai bên đã ký với nhau được xếp
vào loại này.
Cho vay không có thời hạn: Tuỳ vào từng loại khách hàng, có thể trong hợp
đồng không ghi rõ thời gian ngân hàng sẽ thu hồi nợ gốc, ngân hàng chỉ cần
thông báo trước cho khách hàng trước 1 khoảng thời gian như đã cam kết trong
hợp đồng trước khi tiến hành thu hồi nợ.
Phân chia theo rủi ro
Đây là một cách phân loại các khoản tín dụng rất quan trọng đối với ngân
hàng. Việc phân chia này giúp ngân hàng kiểm soát được nhưng tổn thất có thể
xay ra đối với ngân hàng.

 Tín dụng lành mạnh: Các khoản cho vay có thể được thu hồi đúng kỳ hạn như

trong hợp đồng tín dụng ngân hàng đã ký với khách hàng được xếp vào loại này.
 Tín dụng có vấn đề: Khi ngân hàng nhân thấy khách hàng gặp phỉa những dấu

hiệu bất thường như sản phẩm của khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện
bị chậm so với kế hoạch, khách hàng gặp nhiều thiên tai, khách hàng trì hoãn
nộp báo cáo tài chính. Đây có là nguy cơ cho thấy khách hàng có nhiều khả năng
sẽ không hoàn trả nợ cho ngân hàng đúng hạn.


Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản tín dụng đã quá thời gian trả nợ

nhưng mới chỉ quá hạn thời hạn ngắn và khách hàng đã có kế hoạch khắc phục
tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn, tính thanh khoản cao, đủ bù đắp cho khoản
vay.

10

10




Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn đã lâu, khả năng khách hàng trả nợ được rất
kém, tài sản thế chấp bị giảm giá, khách hàng chây ì trả nợ…

6. Phân chia theo xuất xứ tín dụng
• Cho vay trực tiếp: Ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho khách hàng có nhu cầu vay









vốn đồng thời khách hàng cũng phải hoàn trả trực tiếp cả vốn lẫn lãi cho ngân
hàng.
Cho vay gián tiếp: là khoản vay được phát sinh từ việc mua bán các khế ước,
chứng từ ghi nợ còn trong thời hạn thanh toán.
Các ngân hàng có thể cho vay gián tiếp theo các cách sau

Chiết khấu thương mại: Người thụ hưởng hối phiếu hoặc lệnh phiếu còn trong
thời hạn thanh toán đến nhưng lại cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cấp cho chủ sở
hữu một số tiền nhỏ hơn mệnh giá của giấy tờ có giá đó
Mua bán các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy móc nôp nghiệp trả góp: Bán chịu
hàng hoá là một hình thức phổ biến trong quan hệ thương mại hiện nay. Chính vì
thế nên khi các doanh nghiệp gặp khó khăn khi mua các hàng hoá, máy móc thì
ngân hàng sẽ có thể tài trợ cho các doanh nghiệp bằng cách cấp một khoản tiền
cho khách hàng khi khach hàng chuyển nhượng các phiếu mua hàng trả góp cho
mình
Mua bán các khoản nợ của doanh nghiệp: Ngân hàng thanh toán cho người bán
các tích trái một khoản tiền bằng số tiền tên tài khoản nợ trừ đi lãi và hoa hồng
mà người mua nợ được hưởng đồng thời ngân hàng thương giữ lại 10%-20% để
dự phòng hàng hoá bị trả lại
Các cách phân loại tín dụng như trên cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên
môn hoá trong các cách cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các
ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà
ngân hàng có lợi thế. Cách phân loại trên cho phép ngân hàng có thể dễ dàng
theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi
suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng tín dụng cho phù hợp với định
hướng phát triển của ngân hàng cũng như xu thế phát triển của nền kinh tế.
1.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm
Theo IIA (các tiêu chuẩn quốc tế của hiệp hội kiểm toán nội bộ quốc tế), rủi
ro được định nghĩa là khả năng một sự kiện có thể xảy ra và có thể có tác động

11

11



đến các mục tiêu đã đề ra. Mức độ rủi ro tác động tới mục tiêu và khả năng nó có
thể xảy ra là hai khía cạnh chính khi xem xét một rủi ro.
Rủi ro (risk) là một phạm trù được quan tâm trong rất nhiều lĩnh vực, theo
iso Guide 73;2009, rủi ro được hiểu là tác động của sự không chắc chắn lên mục
tiêu. Tác động được hiểu là một sai lệch so với dự kiến, có thể là tích cực hoặc
tiêu cực. Mục tiêu tài chính, sức khoẻ, an toàn và môi trường là những khía cạnh
chính của mục tiêu và những mục tiêu đó có thể có các cấp độ khác nhau (như
chiến lược, toàn bộ tổ chức, dự án và sản phẩm và quy trình). Một đặc trưng nữa
của rủi ro sự dẫn chiếu đến các sự kiện và hệ quả tiềm ấn. Rủi ro thường thể
hiện bằng sự kết nội giữa các hệ quả của hệ quả của sử kiện và khả năng xảy ra
kèm theo.
Rủi ro có thể được hiểu là sự xui xẻo, tổng thất. Nó được đo lường bằng sự
tổn thất về tài sản hay suy giảm về lợi nhuận thu được so với mức lợi nhuận kỳ
vọng. Đây là quan điểm chung ta thường thấy trong trường phái truyền thống
Rủi ro là sự kiện những biến cố xảy ra làm tác động đến các yếu tố làm sai
khác kết quả dự tính thu được. Những sai khác này có thể là có lợi hoặc có hại.
Quan điểm này được trường phái hiện đại rất ủng hộ.
Đối với mỗi một ngân hàng, rủi ro là bản chất của các hoạt động của nó.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động tìm kiếm rủi ro. Rủi ro luôn song hành với bất
kỳ một hoạt động nào của ngân hàng. Chính vì thế, việc chịu đựng và hạn chế rủi
ro ở một mức hợp lý mới là mục đích mà các nhà quản trị ngân hàng cần hướng
tới. Cựu chủ tịch cục dự trữ liên bagn Mỹ FED P. Volker từng phát biểu, một
ngân hàng mà không phải chịu loại rủi ro nào không phải là một ngân hàng đích
thực. Mối quan hệ giữa rủi ro và lợi ích nhằm tìm được mức lợi ích xứng đang
phù hợp với mức rủi ro đề ra mới là mục tiêu mà các ngân hàng cần phải đánh
giá, cơ sở để đưa ra các quyết định kinh doanh của mình.
Ngân hàng hiện nay phải đối mặt với rất nhiều loại rủi ro vô cùng đa dạng
và phức tạp, chính bởi hoạt động đa dạng của bản thân ngân hàng là nguyên
nhân của việc này, nhìn chung gồm có rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro
thị trường, rủi ro hoạt động, rủi ro chiến lược, rủi ro tuân thủ và rủi ro danh

tiếng. Trong đó, loại loại rủi ro có ảnh hưởng lón nhất đến sự tồn tại của các

12

12


bank chính là rủi ro tín dụng bởi tín dụng luôn mang lại nguồn lợi rất lớn cho
ngân hàng nên rủi ro đi kèm vơi nó cũng không hề nhỏ.
“Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả
năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo
cam kết”, theo vào Khoản 01 Điều 02 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và
sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro, theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22 tháng 4 năm 2005 do Thống đốc NHNN Lê Đức Thuỳ phê duyệt.
Worldbank từng đưa ra định nghĩa Rủi ro tín dụng là nguy cơ mà người đi
vay không thể chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời hạn đã ấn định
trong hợp động tín dụng hai bên đã ký kết. Đây là thuộc tính vốn có của hoạt
động ngân hàng. Rui ro tín dụng là việc chi trả bị trì hoãn, tồi tệ hơn là không chi
trả được toàn bộ. Điều nay gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ và gây
ảnh hưởng đến khả năgn thanh khoản của ngân hàng.
Trong cuốn Bank managerment xuất bản năm 1995, tác giá Timoty Koch,
giáo sư tài chính học tại trường đại học Nam Carolina đã quan niệm rằng rủi ro
tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người vay sai hẹn trong việc trả nợ người cho
vay. Rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn.
Qua các cách hiểu trên, ta có thể quan niệm Rủi ro tín dụng là loại rủi ro
phát sinh trong hoạt động cho vay của ngânhàng, biểu hiện trên việc qua việc
khách hàng không trả được nợ gốc hoặc lãi hoặc trả nợ gốc hoặc lãi không đúng
thời gian trong hợp đồng kinh tế cho ngân hàng. Nó diễn ra trong quá trình cho
vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo

lãnh, bao thanh toán của ngân hàng. Đây còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi
trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng
của ngân hàng.
Tuy nhiên chúng ta cũng cần nhìn nhận rủi ro tín dụng là chuyện có thể xảy
ra hoặc không thể xảy ra. Một khoản vay dù chưa quá hạn nhưng cũng có thể
xảy ra nguy cơ mất vốn, một ngân hàng luôn duy trì được các chỉ số về nợ quá
hạn, nợ xấu thấp nhưng vẫn có thể gặp vấn đề rủi ro tín dụng nếu như danh mục
đầu tư của ngân hàng đó quá tập trung cho một khách hàng, một nhóm khách

13

13


hàng hay một ngành nghề kinh doanh nào đó. Hiểu theo y này sẽ giúp cho các
nhà quản trị ngân hàng có cái nhìn toàn diện hơn trong công tác phòng ngừa, hạn
chế cũng như giải quyết, khắc phục các tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra.
Các định nghĩa của nhiều nhà kinh tế học về rủi ro tín dụng là khá đa dạng
tuy nhiên chúng ta cso thể rút ra các nội dung cơ bản như sau:
-

-

Rủi ro tín dụng xảy ra khi người vay sai hẹn trong việc trả nợ với ngân hàng. Sai
hẹn ở đây được hiểu là trễ hẹn hoặc không thanh toán.
Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến thua lỗ, giảm thu nhập ròng, giảm thị giá của vốn
Đối với một số nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, các hình thức kinh
doanh của ngân hàng vẫn còn hạn chế, lợi nhuân chủ yếu dựa vào hoạt động tín
dụng nên rủi ro tín dụng cũng là một trong những yếu tố chủ yếu quyết định hiệu
quả kinh doanh của ngân hàng.

Rủi ro và lợi nhuận là hai yếu tố luôn song hành với nhau, các ngân hàng không
thể phủ nhận mà phải chấp nhận cả hai và hạn chế sự xuất hiện của rủi ro cũng
như những ảnh hưởng xấu của nó gây ra.
1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau để
giúp ngân hàng có thể đưa ra các chính sách quản trị thuận lợi hơn.

1. Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh ra rủi ro

Biểu đồ 1.1: Các loại rủi ro tín dụng

14

14


Rủi ro lựa chọn

rủi ro giao dịch

Rủi ro bảo đảm

Rủi ro nghiệp vụ
rủi ro tín dụng

Rủi ro nội tại
rủi ro danh mục
Rủi ro tập trung




Rủi ro giao dịch: Khi quá trình giao dịch, thẩm định cho vay, đánh giá khách
hàng được thực hiện sai, loại rủi ro này sẽ xuất hiện. Rủi ro lựa chọn, rủi ro đảm
bảo và rủi ro nghiệp vụ là ba hình thái chính của rủi ro giao dịch.
- Rủi ro đảm bảo: Là những rủi ro có nguồn gốc từ các biện pháp bảo đảm vốn
vay của ngân hàng như tài sản đảm bảo, bảo lãnh, giới hạn tín dụng….
- Rủi ro chọn lựa: Xảy ra khi ngân hàng đánh giá, thẩm định và phân tích khách
hàng để đưa ra các quyết định liên quan đến việc vay vốn của khách hàng như
cấp hạn mức tín dụng, lãi suất, thờig gian ân hạn, đáo hạn…
- Rủi ro nghiệp vụ: Là những rủi ro phát sinh khi có những sai sót do cố tình hoặc
vô tình trong các hoạt động quản lý khoản cho vay. Cụ thể là các hoạt động kiểm
tra, kiểm soát việc sử dụng nguồn vốn vay của khách hàng, các biện pháp, kỹ
thuật, quy trình xử lý rủi ro khi đã xảy ra.
• Rủi ro danh mục: Khi ngân hàng không hoàn thành tốt công tác quản lý danh
mục của mình, rủi ro này sẽ xuất hiện, bao gồm:
- Rủi ro tập trung: Là rủi ro xảy ra khi ngân hàng tập trung một lượng lớn tín dụng
của mình để cấp cho một khách hàng, một nhóm khách hàng liên quan hoặc một
thành phần, ngành nghề kinh tế hoặc cho một nhóm khách hàng trong cũng một
khu vực địa lý…
- Rủi ro nội tại: là những rủi ro có nguồn gốc từ các yếu tô được coi là cố hữu bên
trong của khách hàng. Nó có thể là những đc thù của mỗi loại hình khách hàng,
mỗi khu vực địa lý, mỗi ngành nghề, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm
hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn vay của khách hàng
2. Căn cứ vào tính chủ quan, khách quan của nguyên nhân dẫn đến rủi ro
• Rủi ro khách quan: là rủi ro có nguồn gốc xuất phát từ các yếu tố khách quan,

không phải do mong muốn của người vay như thiên tai, địch hoạ, người vay tử
15

15



vong, mất tích và các biến động ngoại lai tiêu cức khác gây tác động nghiêm
trọng đến khả năng trả nợ của khách hàng mặc dù khách hàng vẫn duy trì mong
muốn trả nợ theo đúng hợp đồng tín dụng đã ký
• Rủi ro chủ quan: là rủi ro xuất hiện khi người vay do cố ý làm trái, do vô tình vì
quá tự tin, vô tình vì thiếu hiểu biết đã làm thất thoát vốn của ngân hàng.
3. Căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng
• Rủi ro không có khả năng trả nợ: Xuất hiện khi khách hàng mặc dù chưa đến kỳ

hạn phải thanh toán với ngân hàng nhưng đã mất khả năng chi trả, buộc ngân
hàng phải có những biện pháp phát mãi tài sản để thu hồi vốn
• Rủi ro tín dụng không giới hạn hoạt động cho vay: Bao gồm các hoạt động khác
như bảo lãnh, tài trợ thương mại, cho vay liên ngân hàng, tín dụng thuê mua,
đồng tài trựo…
• Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn: Là rủi ro người vay tiền không thể hoàn trả
nợ gốc và lãi đúng thời hạn quy ước như trong hợp đồng tín dụng khách hàng đã
ký với ngân hàng
1.2.3 Đặc điểm của rủi ro tín dụng

-

-

-

Mặc dù có nhiều cách định nghĩa, nhận diện rủi ro tín dung, nhưng tưu
chung lại rủi ro tín dụng vẫn có những đặc điểm chung cơ bản, cụ thể là:
Rủi ro tín dụng mang tính giám tiếp: rủi ro tín dụng xảy ra trong quá trình sử
dụng vốn vay của ngân hàng, sau khi ngân ahngf đã tiến hành giái ngân vốn. Do

đặc điểm của thông tin bất đối xứng giữa ngân hàng và khách hàng nên ngân
hàng thường chịu thiệt thòi, bị khách hàng cố ý giấu diếm các thông tin về những
khó khăn, thất bại của khách hàng, làm các biện pháp xử lý nhằm giảm thiểu tốn
thất của ngân hàng thường chậm trễ
Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng, phức tạp: Rủi ro tín dụng được hình thành
từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau, từ nguyên nhân do quá trình thẩm định, cấp
vốn đến nguyên nhân do quá trình quản lý danh mục. Hình thức thể hiện cảu rủi
ro tín dụng cugnx rất đa dạng. Hậu quả của rủi ro tín dụng cũng rất năng nề, ảnh
hưởng đến nhiều thành phần kinh tế trong xã hội do tính chất trung gian tài
chínhc ảu ngân hàng
Rủi ro tín dụng có tính tất yếu: Rủi ro tín dụng luôn tồn tại và song hành với hoạt
độngc ủa ngân hàng. Ngân hàng không thể phù nhận mà cần phải chấp nhận nó.
Các ngân ahngf cần đưa ra các quyết định kinh daonh dựa trên sự đánh đổi giữa
16

16


lợi ích và rủi ro nhằm tìm ra cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức
rủi ro phải chịu đựng. Ngân hàng chỉ có thể hoạt động tốt khi mức rủi ro mà
ngân hàng phải chịu đựng luôn nằm trong trong tầm kiểm soát.
1.2.4 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
1.Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Tiền lãi vay của tiên gửi của khách hàng vẫn phải bắt buộc được trả đều đặn
dù cho ngân hàng có thu được tiền từ các khoản cho vay của mình hay không,
điều này sẽ làm ngân hàng rơi vào tình trạng mất cân đối thanh khoản, vòng
quay vốn tín dụng của ngân hàng sẽ giảm kéo theo là sự kém hiệu quả trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng, chi phí vốn của ngân hàng sẽ tăng lên. Mất khả
năng thanh khoản, ngân hàng sẽ không còn khả năng chi trả lương cho nhân
viên, người có năng lực sẽ thuyên chuyển, ngân hàng đã khó lại càng khó hơn.

Việc ngân hàng phải đối mặt với những tác động xấu từ rủi ro là không thể tránh
khỏi
Rủi ro tín dụng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những vấn đè trong thanh
khoản của ngân hàng, nếu tình trạng này trầm trọng hơn sẽ làm ngâ hàng mất
khả năng thanh khoản. Kết quả tất yếu sẽ dẫn tới là ngân hàng sẽ phải thu hẹp
quy mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm sút, uy tín, khả năng cạnh tranh
trong thị trường suy giảm, kết quả kinh doanh ngày càng giảm sút và hậu quả
xấu nhất là ngân hàng sẽ bước đến bờ vực phá sản.
2. Ảnh hưởng đến nền kinh tế, xã hội
Ngân hàng với bản chất là trung gian tài chính của mình, khaonr tiền mà
ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng bản chất là khoản tiền gửi của các cá
nhân, tổ chức kinh tế cho xã hội. Chính vì thế nên khi rủi ro tín dụng xảy ra với
ngân hàng thì những người gửi tiền tại ngân hàng cũng bị ảnh hưởng phần nào.
Khi một ngân hàng gặp rủi ro tín dụng dẫn đến mất khả năng thanh khoản sẽ làm
cho toàn bộ dân chúng hoang mang, hoảng sợ, mất niềm tin vào hệ thống ngân
hàng, dẫn đến việc rút tiền ồ ạt của người dân và có thể làm sụp đổ cả một hệ
thống ngân hàng.
Tất cả các thành phần inh tế sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi các ngân
hàng tuyên bố phá sản, khoản vốn lưu động gửi trong ngân hàng của các doanh
nghiệp sẽ mất trắng, không có tiền mua hàng hoá dự trữ, không có tiền trả lương
cho công nhân viên. Giá cả tăng, sức mua giảm, ổn định xã hội suy giảm, nền

17

17


kinh tế dàn bước vào suy thoái. Ngoài ra, sự suy thoái của một quốc gia do rủi ro
tín dụng có thể gây phản ứng dây chuyền đối với hệ thống kinh tế toàn khu vực
cũng như là toàn thế giới.

Tóm lại, rủi ro tín dụng có thể dễ dàng dẫn đến sự phá sản của một ngân
hàng, kéo theo đó có thể là sự sụp đổ của cả hệ thống. Nếu tình trạng này không
được kiểm soát thì có thể kéo cả nền kinh tế đi xuống, lầm vào khủng hoảng và
suy thoái. Chính vì thế, một trong những mối quan tâm lớn nhất của bất kfy nhà
quản trị ngân hàng nào là phải phát hiện, ngăn ngừa và hạn chế những tác động
xấu của rủi ro tín dụng mang lại
1.2.5 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Nhận diện được nguyên nhân phát sinh ra rủi ro tín dụng cũng là một yếu tố
quan trọng trong quá trình quản lý rủi ro tín dụng. Nhìn chung, rủi ro tín dụng có
3 nguyên nhân cơ bản như sau:
- Nguyên nhân thuộc về ngân hàng:
o Ngân hàng quá liều lĩnh, tập trung quá nhiều vào mục tiêu lợi nhuận dẫn đến
việc thẩm định quá sơ sài, không thực hiện công tác phân tán rủi ro, tập trung
danh mục tín dụng vào một nhóm khách hàng hoặc một nhóm ngàh kinh tế nào
đó
o Do ngân hàng chưa có cách đối phó với vấn đề thông tin bất đối xứng từ phía
khách hàng, đồng thời do sự kém nhanh nhạy trong thu thập thông tin từ thị
trường nên chưa có khả năng đánh giá những thông tin do khách hàng cung cấp
o Bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa hoàn thành đúng chức trách của mình,
không phát hiện kịp thời được nhưng vấn đề bất hợp lý xảy ra. Công việc kiểm
tra, kiểm soát nội bộ mới chỉ tồn tại dưới dạng hình thức, chưa được quan tâm
một cách đúng mức
o Áp lực về cạnh tranh giữa các ngân hàng hiện nay là vô cùng lớn. Đôi khi các
cán bộ phải cố tình làm ngơ trước các quy trình, thủ tục về tín dụng để đạt được
doanh số về tăng trưởng khách hàng
o Do sự thiếu hiểu biết về quy trình tín dụng của chi nhánh, kỹ năng nghề nghiệp
kém, thiếu kinh nghiệm làm việc nên các cán bộ tín dụng đôi khi không hoàn
thành đúng những quy tắc trong quy trình tín dụng, dẫn tới rủi ro cho ngân hàng.
Thâm chí có những cán bộ vi phạm đạo đức nghề nghiệp để tư lợi
o Tài sản đảm bảo được định gía sai, cán bộ tín dụng không thực hiện đúng quy

trình cần thiết khi đánh giá tài sản đảm bảo, các thủ tục pháp lý không được thực
18

18


hiện đúng( như công chứng tài sản, muc bảo hiểm vật chất…), tài sản đảm bảo
không có những nguyên tắc bắt buôc như là: dễ định giá, dễ chuyển nhương, dễ
tiêu thụ…
- Nguyên nhân thuộc về người đi vay:
o Phương án kinh doanh của khách hàng về cơ bản không có tính hiệu quả cao,
cộng với khả năng quản lý, khả năng điều hành của nhà quản lý kém, dẫn tới làm
ăn thua lỗ, không còn khả năng trả nợ ngân hàng.
o Khách hàng cố tình chiếm đoạt vốn của ngân hàng. Cố ý làm sai các báo cáo tài
chính, đưa ra các thông tin sai lệch để gửi cho ngân hàng để chiếm đoạt khoản
cho vay của ngân hàng. Chây ỳ chậm trả nợ, chiếm dụng vốn.
Nguyên nhân do các yếu tố khách quan
o Do thiên tai, dịch hoạ, hoả hoạn, sự cố bất ngờ, những thay đổi bất ngờ trong
hoạt động kinh doanh cảu doanh nghiệp
o Tình hình an ninh trong nước, khu vực trở nên bất ổn tác động xấu đến hoạt
động san xuất kinh doanh của doanh nghiệp, làm doanh nghiệp mất khả năng chi
trả cho ngân hàng.
o Khủng hoảng kinh tế , suy thoái kinh tế làm lạm phát tăng cao, giá cả leo thang,
sức mua giảm, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị đình đốn,
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ vay cho ngân hàng.
o Môi trường pháp lý không chặt chẽ, quản lý vĩ mô lỏng lẻo. Những chính sách
kinh tế nhà nước chưa bắt kịp được với những thay đổi trong nền kinh tế làm cho
khung pháp lý của công tác quản lý vốn vay trở nên lỏng lẻo, không có những
chế tài chặt chẽ để thu hôi vốn. Quy trình cưỡng chế, thanh lý tài sản vẫn còn có
nhiều nhiêu khê, rườm rà, gây ra việc chậm trễ trong việc thu hồi nợ vay.

1.2.6 Những chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng
1. Tỷ lệ nợ quá hạn:

Tỷ lệ nợ quá hạn = * 100%

(1.1)

Trong công thức trên, tổng dư nợ được hiểu là tất cả các khoản cho vay, ứng
trước thấu chi và cho thuê tai chính; các khoản chiết khấu, tái chiết khấu chứng
từ có giá; các khoản thanh toán; các hình thức tín dụng khác.
Nợ quá hạn được hiểu là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc hoặc lại đã
quá hạn. Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22.4/2005
19

19


Tuy nhiên, nợ quá hạn lại được phân nhỏ ra thành nhiều loại nhằm giúp ngân
hàng dễ dàng kiểm soát cũng như đưa ra các biện pháp cơ cấu lại khoản nợ cho
phù hợp, cụ thể là:
+ Nợ nhóm 2: Khoản cho vay quá hạn 90 ngày ( Nợ cần chú ý)
+ Nợ nhóm 3: Khoản nợ qua thời gian trả nợ 91 đến 180 ngày và các khoản nợ
cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại ( Nợ
dưới tiêu chuẩn)
+ Nợ nhóm 4: Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến
180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại và các khoản cho vay quá hạn từ 181 đến
360 ngày và các ( Nợ nghi ngờ)
+ Nợ nhóm 5: Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày, các khoản nợ khoanh chờ
chính phủ xử lý và các khoản nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời gian cơ cấu lại
( Nợ có khả năng mất vốn)

Mức an toàn của tỷ lệ nợ quá hạn tại ngân hàng thương mại là dưới 5%
2. Tỷ lệ nợ xấu

Tỷ lệ nợ xấu = * 100%
(1.2)
Nợ xấu ( hay nợ có vấn đề, nợ khó đòi, nợ có dấu hiệu không thể đòi, nợ không
lành mạnh) theo định nghĩa của quyết định 493/2005/QĐ – NHNN ngày
22.4.2005 là các khoản nợ thuộc nhóm 3,4,5 quy định trong điều 6,7 của quyết
định này. Theo điều 7 quyết định này:
- Nhóm nợ dưới tiêu chuẩn (Nợ nhóm 3): các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn và có khả năng
tổn thất một phần nợ gốc và lãi. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180
ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thờihạn
đã cơ cấu lại.
- Nhóm nợ nghi ngờ (Nợ nhóm 4): các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là khả năng tổn thất cao. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360
ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày
theo thời hạn đã cơ cấu lại.
- Nhóm nợ có khả năng mất vốn (Nợ nhóm 5): các khoản nợ được tổ chức tín
dụngđánhgiá là không còn khảnăngthuhồi,mấtvốn.Baogồm:Cáckhoảnnợ quá hạn
20

20


trên 360 ngày; Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý; Các khoản nợ đã co ̛
cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
Các khoản nợ này dù có định nghĩa như thế nào thì vẫn có những đặc trưng như
sau:
+ Cam kết về nghĩa vụ trả nợ của khách hàng với ngân hàng đã không được

khách hàng thực hiện đúng.
+ Các chỉ số về sức khoẻ tài chính của khách hàng có dấu hiệu đi xuống làm ảnh
hướng đến khả năng thu hồi vốn và lãi của ngân hàng.
+ Tài sản đảm bảo( thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) có dấu hiệu hao mòn giá trị, định
giá sai, không đủ đề bù đắp nợ gốc và lãi
+ Thông thường các khoản nợ này đã quá hạn ít nhất là 90 ngày
Tỷ lệ này cũng không được vượt quá 5%
3. Hệ số rủi ro tín dụng
Hệ số rủi ro tín dụng = * 100% (1.3)
Hệ số rủi ro tín dụng phản ánh tỷ tọng của các khoản cho vay trong tông tài sản
có cua mình. Ngân hàng có 3 nguồn thu chính là thu từ lãi vay, thu từ việc thu
phí các dịch vụ của ngân hàng và thu từ việc hoán đổi tiền tệ. Trong đó,đầu tư
vào tín dụng nhằm thu lãi vay là một hình thức phổ biến tại các ngân hàng
thương mại, hình thức này đem lại phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng thương mại
nhưng kèm theo đó là rất nhiều rủi ro có thể xảy ra. Hệ số rủi ro tín dụng phán
ánh mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng để có đạt được lợi nhuận kỳ vọng từ
hoạt động tín dụng. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng được chia
thành 3 loại:
- Nhóm dư nợ của các khoản cho vay chất lượng trung binh: Là những khoản cho
vay mang lại lợi nhuận vừa phải cho ngân hàng nhưng các biện pháp đảm bảo rủi
ro mang tính bảo đảm cao, rủi ro có thể chấp nhận được. Đây là nhóm tín dụng
chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng dư nợ cho vay của các ngân hagnf thương
mại
- Nhóm dư nợ của các khoản cho vay chất lượng tốt: Là những khoản cho vay
mang lại lợi nhuận thấp nhưng bù lại rủi ro của các khoản cho vay này rất thấp
hoặc gần như không có. Nhóm này thường không chiếm nhiều trong tổng dư nợ
của các ngân hang thương mại
- Nhóm dư nợ của các khoản cho vay chất lượng xấu: là những khoản cho vay
mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng tuy nhiên kèm theo nó là nguy cơ rủi ro


21

21


cao có thể xảy ra. Đây là hình thức chiếm tỷ trọng thấp nhất trong tổng dư nợ
của ngân hàng.
4. Chỉ tiêu hệ số thu nợ
Hệ số thu nợ là chỉ số phản ánh hiệu quả của công tác thu hồi nợ khách hàng của
ngân hàng. Hệ số này càng cao cho thấy rủi ro tín dụng của ngân hàng là càng
thấp.
Hệ số thu nợ= * 100% (1.4)
1.3. Quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
1.3.1 Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
Quản lý rủi ro tín dụng là quá trình ngân hàng hoạch định kế hoạch, tổ chức
triển khai cũng như kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tín dụng của ngân hàng
nhằm tối đa hoá lợi nhuận cũng như kiểm soát rủi ro tín dụng ở mức có thể chấp
nhận được. Các ngân hàng thương mại sẽ áp dụng các nguyên lý, nguyên tắc, mô
hình quản lý, kinh nghiệm quản lý của mình để giảm thiểu, ngăn chặn nhưng tổn
thất do rủi ro tín dụng tác động đến ngân hàng, từ đó tăng doanh thu, giảm chi
phí và nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh cả trong ngắn hạn
và dài hạn của NHTM
1.3.2 Mục tiêu của quản lý rủi ro tín dụng
Đảm bảo tính an toàn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng và nâng cao chất
lượng hoạt động tín dụng ngay trong điều kiện hoạt động kinh doanh gặp nhiều
bất trắc, rủi ro là hai mục tiêu hàng đầu mà công tác quản lý rủi ro tín dụng phải
đạt được. Cụ thể là công tác quản lý rủi ro tín dụng phải hướng tới việc kìm hãm
mức rủi ro tín dụng của ngân hàng ở mức có thể chấp nhận được, nằm trong mức
chịu đựng, khả năng tài chính của ngân hàng, nâng cao an toàn cho các khoản tín
dụng bằng các chính sach, biện pháp, quy định; giám sát, theo dõi các hoạt động

tín dụng một cach khoa học ví dụ như phân cấp quản lý và uỷ quyền trong phê
duyệt tín dụng; xác định thị trường, ngành nghề, lĩnh vực cho vay; xây dựng các
giới hạn trong hoạt động tín dụng; xây dựng chính sách khách hàng; quy định về
TSĐB...
1.3.3 Nội dung quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại

22

22


1. Xây dựng bối cảnh

Ngân hàng cần xây dựng mục tiêu và chiến lược kinh doanh của ban thân ngân
hàng. Rà soát môi trường kinh doanh, tìm hiểu các loại rủi ro ngân hàng sẽ phải
gặp trong quá trình hoạt động, xác định rõ loại và lượng rủi ro mà mình chấp
nhận nắm lấy và các tiêu chuẩn cho các rủi ro sẽ được đánh giá.
2. Xác định rủi ro

Ngân hàng cần xác định tất cả các rủi ro ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh
của ngân hàng. Xác định rủi ro phải được tiến hành một cách liên tục và thường
xuyên đồng thời cũng cần phải được hiểu trên cả 2 phương diện là ở cấp giao
dịch và cấp danh mục.
3. Đo lường rủi ro

Xác định được rủi ro sẽ gặp phải chỉ là bước đầu tiên trong quá trình quản lý rủi
ro tại ngân hàng. Ngân hàng cần đánh giá mức độ thua lỗ và xác suất nảy sinh
của các rủi ro đó. Điều này có thể tính toán bằng nhiều kỹ thâutj khác nhau băng
các công thức hoặc mô hình khác nhau, tuỳ thuộc vào cách quản lý của từng
ngân hàng. Đo lường rủi ro cần thiết phải đạt được 2 chỉ tiêu là chính xác và kịp

thời. Nếu không có một hệ thống đo lường rủi ro, ngân hàng đã hạn chế khả
năng kiểm soát mức độ rủi ro của mình. Đồng thời, các công cụ đo lường rủi ro
của ngân hàng cũng cần được kiểm tra định ky để đảm bảo tính chính xác. Hệ
thống đánh giá rủi ro cần đánh giá được rủi ro trên cả hai phương diện là giao
dịch cá nhân và danh mục
4. Quản lý và xử lý rủi ro

Để quản lý và xử lý rủi ro một cách hiệu quả nhất, điều tối quan trọng chính là
hệ thống thông tin. Hệ thống thông tin cần nhanh chóng và chính xác. Điều này
là yếu tố sống còn đối với hoạt động xử lý rủi ro tại ngân hàng. Đồng thời ngân
hàng cũng cần tiến hành phân cấp xử lý thông tin để thông tin được xử lý hiệu
quả hơn
Việc giám sát rủi ro phải dựa trên các tiêu chí
-

23

Xử dụng gía thị trường trong việc đánh gía, quản lý các loại rủi ro
23


-

Thiết lập các giới hạn rủi ro tín dụng
Đưa ra các định mức về trạng thái và giới hạn tổn thất
Lập hệ thống theo dõi và đánh giá mức độ tín nhiệm, lịch sử quan hệ đối với
từng khách hàng

Sau khi đã xác định và đánh giá được rủi ro tín dụng, ngân hàng càn tiến hành xử
lý rủi ro bằng một trong số các kỹ thuật sau: Tránh- hạn chế, giảm thiểu- phòng

ngừa, chuyển- mua bảo hiểm và chấp nhận rủi ro
5. Kiểm soát rủi ro, xem xét và đánh gía lại

Hoạt động kiểm soát cần được tiến hành xuyên suốt trong hệ thống ngân hàng, ở
nhiều cấp với các mức độ khác nhau. Các văn bản, báo cáo định kỳ về rủi ro, sự
tuân thủ trong công tác kiểm soát rủi ro của cấp dươi là yếu tố mà Hội đồng quản
trị và Ban điều hành xem xét về rủi ro tại đơn vị. Ở các phòng ban gồm việc
kiểm tra các hoạt động rủi ro, các báo cáo rủi ro, tình trạng các rủi ro. Các báo
cáo là nguồn thông tin quan trọng, cần phải chính xác và kịp thời.
Một phương tiện quan trọng trong việc kiểm soát rủi ro tin dụng ngân hàng
cần đưa ra là các chi tiêu về hạn mức rủi ro thông qua các chính sách về hạn chế
rủi ro, các tiêu chuẩn và phân cấp trách nhiệm, quyền hạn cảu các cán bộ liên
quan, các cấp lãnh đạo. Đồng thời, công tác thẩm tra, đối chiếu trực tiếp để phát
hiện những sai íots hoặc các vấn đề tiềm tàng trong hoạt động cũng cần được
ngân hàng tiến hành định kỳ và thường xuyên. Kết quả của việc thẩm tra cần báo
cáo lên lãnh đạo cấp cao một cách chính xác và kịp thời.
Mục tiêu cuối cùng của công tác quản lý rui ro là tối ưu hoá quan hệ đánh đổi
giữa rủi ro và lợi nhuận.
1.3.4 Mô hình bộ máy quản lý rủi ro
1. Hội đồng quản trị

Hội đồng sẽ thực hiện quản lý rủi ro ở tầm chiến lược. Hoạch định các phương
hướng, xác định mục tiêu về kế hoạch giảm thiểu các loại rủi ro
2. Ban điều hành

24

24



Ban điều hành thực hiện quản lý vĩ mô các loại rủi ro và thanh lập bộ phận
chuyên trách chịu trách nhiệm về rủi ro tín dụng hay còn gọi là khối quản lý rui
ro
3. Khối quản lý rui ro

Đây là khối nghiệp vụ của ban điều hành, nhiệm vụ chính của khối nay là thực
hiện các nghiệp vụ quản lý rủi ro của ngân hàng. Chức năng chính của khối quản
lý rủi ro bao gồm
-

Hoạch địch, xây dựng các chiến lược, chính sách quản lý rủi ro. Các chính sách

-

này sẽ được cân nhắc phê duyệt bởi Hội đồng quản trị và Ban điều hành
Tìm hiểu, xác định các rủi ro tín dụng ngân hàng đang gặp phải, phát hiện các rủi
ro chưa được phát hiện và tiên liệu các rủi ro mới ngân hàng sẽ phải đối mặt

-

trong thời gian tới
Đề xuất các chính sách, quy chế, quy trình, thủ tục, hạn mức và các biện pháp để

-

hạn chế rủi ro tín dụng
Tạo lập, duy trì, phát triển hệ thống thông tin phục vụ quá trình quản lý rủi ro tín
dụng. Xây dựng hệ thống đo lường, đánh gía rủi ro phu hợp với nhu cầu, đính

-


hương phát triển của ngan hàng.
Giám sát việc thực hiện các biện pháp ở trên
Đào tạo cán bộ, nhân viên
Báo cáo kêt quả công tác kiểm soát rui ro tín dụng lên Hội đồng quản trị và ban

điều ahnhf
4. Các đơn vị kinh doanh trực tiếp
Các đơn vị này trực tiếp quản lý rủi ro ở tầm vi mô. Họ phải quản lý rủi ro theo
các quy định của ngân hàng. Hoạt động quản lý rui ro không chỉ thuộc trách
nhiệm của bộ phận kinh doanh mà tất cả các cán bộ trong ngân hàng đều phải
tham gia quản lý rủi ro ở các mức độ khác nhau. Qua đó hình thành nên văn hoá
kiểm soát rủi ro tại Ngân hàng.
1.3.5. Quy trình quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
1. Xây dựng môi trường quản lý rủi ro tín dụng

25

25


×