Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.03 KB, 65 trang )

Lục Thị Hồng Nhung

1

KT28E
Lời mở đầu

Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời và chính thức đi vào hoạt động từ
ngày 28/7/2000 là sự kiện quan trọng trong quá trình đổi mới nền kinh tế và hội
nhập quốc tế của Việt Nam. Thị trường chứng khoán là công cụ hiệu quả huy
động và phân bổ vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế. Thông qua hoạt động chào
bán chứng khoán các doanh nghiệp sẽ thu hút, tạo lập vốn để mở rộng sản xuất
kinh doanh. Trong những năm qua, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ đã
trở thành giải pháp hiệu quả giúp doanh nghiệp giải quyết nhu cầu về vốn của
mình. Tham gia chào bán chứng khoán riêng lẻ còn tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp đổi mới hình thức quản lý, quản trị doanh nghiệp, nâng cao năng lực
cạnh tranh. Để bảo đảm hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của các doanh
nghiệp diễn ra đúng pháp luật, thị trường chứng khoán vận hành an toàn, nghiên
cứu pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc làm cần thiết.
1. Mục đích nghiên cứu:
- Khóa luận tiến hành nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về chào bán
chứng khoán riêng lẻ và pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam trong những năm qua
về chào bán chứng khoán riêng lẻ, những thành tựu và hạn chế cần khắc phục;
- Đề xuất một số phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động chào
bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động chào bán chứng khoán thu hút sự tham gia của nhiều chủ thể và
được điều chỉnh bởi nhiều văn bản có hiệu lực pháp lý khác nhau. Đề tài chỉ tập
trung nghiên cứu hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp
Việt Nam, bao gồm hoạt động chào bán cổ phiếu và trái phiếu riêng lẻ của các


doanh nghiệp. Hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, chào bán chứng
chỉ quỹ đầu tư, hoạt động chào bán trái phiếu Chính phủ, hoạt động chào bán


Lục Thị Hồng Nhung

2

KT28E

chứng khoán của những doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh... không thuộc
phạm vi nghiên cứu của đề tài.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, phương pháp logic, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê...
4. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
- Khóa luận góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận chào bán chứng
khoán riêng lẻ và pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ, vai trò của hoạt
động này đối với nền kinh tế.
- Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ
được rút ra từ việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam trong
hoàn cảnh đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần Lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung đề tài gồm
ba chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật chào bán chứng
khoán riêng lẻ.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán
riêng lẻ của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
- Chương 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động chào bán

chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.


Lục Thị Hồng Nhung

3

KT28E

Bảng chữ viết tắt

CPH:

Cổ phần hoá

DNNN:

Doanh nghiệp nhà nước

NHTM:

Ngân hàng thương mại

NHTMCP:

Ngân hàng thương mại cổ phần

TTCK:

Thị trường chứng khoán


TTGDCK:

Trung tâm giao dịch chứng khoán


Lục Thị Hồng Nhung

4

KT28E
Chương 1

Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật
chào bán chứng khoán riêng lẻ
1.1 Khái niệm chứng khoán và chào bán chứng khoán riêng lẻ.

1.1.1 Chứng khoán.
* Định nghĩa:
Nền kinh tế hiện đại tồn tại nhiều loại thị trường, mỗi thị trường đều có
hàng hoá và đối tượng giao dịch khác nhau. Thị trường tiền tệ là nơi mua bán,
trao đổi các công cụ tài chính ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, thương phiếu, các
chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được... Thị trường ngoại hối là nơi
diễn ra các giao dịch, mua bán, chuyển nhượng, vay và cho vay bằng ngoại tệ.
Trên thị trường chứng khoán (TTCK), đối tượng giao dịch chủ yếu của thị
trường này là các chứng khoán, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu
tư và các chứng khoán phái sinh. Có nhiều định nghĩa khác nhau về chứng
khoán, tuỳ theo quan điểm của mỗi chủ thể và pháp luật mỗi quốc gia.
Theo nghĩa nguyên thuỷ nhất, chứng khoán là những chứng thư, chứng từ
thay thế tiền bạc chi tiêu trong các hành trình nhiều ngày trên biển. [9, tr.270]

Định nghĩa này chỉ phù hợp với giai đoạn đầu khi TTCK mới hình thành, số
lượng hàng hoá còn hạn chế.
Ngày nay, TTCK đã phát triển về quy mô và chất lượng, khái niệm về
chứng khoán có những thay đổi nhất định. Một cách khái quát nhất, chứng
khoán được hiểu là những chứng thư dưới dạng vật chất hoặc dữ liệu điện tử
(bút toán ghi sổ) xác nhận quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu chứng khoán
đối với chủ thể phát hành và có thể mua bán, trao đổi.
Một số nhà kinh tế học cho rằng, chứng khoán là mọi sản phẩm tài chính
có thể chuyển nhượng được. Hiểu theo cách này, khái niệm chứng khoán không
chỉ có cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phái sinh mà bao gồm các công
cụ trên thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng, các loại


Lục Thị Hồng Nhung

5

KT28E

thương phiếu, hối phiếu, lệnh phiếu... Nếu hiểu như vậy chúng ta sẽ khó khăn
trong việc xác định cấu trúc của thị trường tài chính. [9, tr.270]
Chứng khoán là một từ dùng để chỉ một chứng từ hợp pháp xác nhận quyền
được hưởng một số quyền lợi có thể có trong tương lai một số điều kiện nhất
định. [6, tr.11]
ở Việt Nam, theo khoản 1 Điều 6 Luật chứng khoán 2006: “Chứng khoán
là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu đối với tài sản
hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình
thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán,

hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.”
Khái niệm về chứng khoán có thể được xây dựng theo hai phương pháp:
đưa ra các tiêu chí để xác định một loại sản phẩm tài chính nào đó được coi là
chứng khoán hoặc liệt kê tất cả những đối tượng được coi là chứng khoán. Mỗi
phương pháp đều có mặt tích cực và hạn chế. Các quốc gia tuỳ theo mục đích
xây dựng và phát triển TTCK có thể sử dụng các phương pháp khác nhau. Điều
2 Luật chứng khoán Hoa Kỳ năm 1933 (đã sửa đổi) sử dụng phương pháp liệt kê
tất cả hơn 30 công cụ được coi là chứng khoán. Điều 4 Luật chứng khoán và
giao dịch chứng khoán Thái Lan liệt kê chi tiết 10 loại chứng khoán khác nhau.
Luật chứng khoán Trung Quốc kết hợp cả hai phương pháp trên.[5, tr.210] Việt
Nam áp dụng cả hai phương pháp, vừa liệt kê 09 loại chứng khoán vừa đưa ra
một số tiêu chí chung như nội dung, hình thức tồn tại... của chứng khoán.
Luật Chứng khoán 2006 đã thừa nhận hình thức thể hiện của chứng khoán
dưới dạng dữ liệu điện tử và quy định cụ thể bằng cách liệt kê các chứng khoán
mà Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ về chứng
khoán và TTCK chỉ quy định “các loại chứng khoán khác”. Quy định như vậy
phù hợp với tốc độ phát triển của TTCK Việt Nam và thông lệ quốc tế. Việc liệt


Lục Thị Hồng Nhung

6

KT28E

kê đầy đủ các loại chứng khoán tạo thuận lợi cho công tác quản lý, hoạt động áp
dụng pháp luật diễn ra thuận lợi hơn.
* Đặc điểm:
Chứng khoán là hàng hoá đặc biệt chỉ xuất hiện và tồn tại trên TTCK.
Chứng khoán có những đặc điểm phân biệt với hàng hoá thông thường.

Thứ nhất, chứng khoán có tính sinh lợi: thể hiện ở lợi tức và chênh lệch giá
chứng khoán. Khả năng sinh lợi tạo nên sức hấp dẫn của chứng khoán, lôi cuốn
nhà đầu tư tham gia thị trường. Họ sẵn sàng trả tiền để mua chứng khoán với
mong muốn chứng khoán đó sẽ mang về một khoản lợi nhuận trong tương lai,
có thể là khoản chênh lệch về thị giá khi mua bán chứng khoán, có thể là lợi tức
do việc sở hữu chứng khoán.
Thứ hai, chứng khoán có tính thanh khoản: đây là thuộc tính quan trọng thể
hiện ở khả năng chuyển hoá thành tiền mặt dễ dàng của chứng khoán. Nhờ khả
năng thanh khoản, chứng khoán có thể chuyển nhượng, trao đổi, mua bán trên
thị trường và hạn chế các rủi ro. Mỗi loại chứng khoán có tính thanh khoản khác
nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: uy tín của chủ thể phát hành, nhu cầu thị
trường...
Thứ ba, chứng khoán có tính rủi ro: ngoài những thuộc tính hấp dẫn về tính
sinh lợi, tính thanh khoản, chứng khoán ẩn chứa nhiều rủi ro. Chứng khoán
giống như một con dao hai lưỡi, có thể đem lại khoản lợi nhuận lớn nhưng có
thể gây thiệt hại đáng kể cho nhà đầu tư. Họ có thể gặp nhiều rủi ro về thanh
toán, tính thanh khoản, rủi ro về lạm phát, rủi ro về lãi suất, rủi ro về nhu cầu thị
trường... Khi quyết định đầu tư chứng khoán nhà đầu tư cần lưu ý thuộc tính
này.
Ngoài những đặc điểm trên, chứng khoán còn có tính “tư bản giả”, thể hiện
ở sự không đồng nhất giữa giá thanh toán và mệnh giá của chứng khoán. Chứng
khoán còn có tính giá trị. Là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với phần vốn và tài sản của chủ thể phát hành nên chứng
khoán luôn có giá trị nhất định.


Lục Thị Hồng Nhung

7


KT28E

Các đặc điểm của chứng khoán luôn có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn
nhau: tính thanh khoản luôn đi cùng tính sinh lời, tính giá trị và tính rủi ro. Do
đó, cần quan tâm đầy đủ các thuộc tính của chứng khoán để đưa ra những quyết
định đầu tư đúng đắn.
* Phân loại:
Có nhiều cách phân loại chứng khoán khác nhau tuỳ theo tính chất, đặc
điểm của chứng khoán và mục đích nghiên cứu.
- Căn cứ vào hình thức thể hiện, chứng khoán có thể chia thành: cổ phiếu,
trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và các chứng khoán phái sinh (chứng quyền,
quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai…).
- Căn cứ vào quyền của nhà đầu tư đối với chủ thể phát hành, chứng khoán
có thể chia thành: chứng khoán nợ, chứng khoán vốn, chứng khoán phái sinh.
+ Chứng khoán vốn là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu và lợi ích
hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc phần vốn góp của
tổ chức phát hành. Chứng khoán vốn có hai dạng chủ yếu là cổ phiếu, chứng chỉ
quỹ đầu tư.
+ Chứng khoán nợ: là loại chứng khoán xác nhận một khoản nợ của tổ chức
phát hành đối với người sở hữu chứng khoán, trong đó cam kết sẽ thanh toán số
tiền gốc và lãi trong một thời gian nhất định. Chứng khoán nợ chủ yếu là các
loại trái phiếu (trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Chính quyền địa phương, trái
phiếu doanh nghiệp...).
+ Chứng khoán phái sinh là loại chứng khoán có nguồn gốc từ một loại
chứng khoán nào đó. Loại chứng khoán này phát hành với mục đích dự phòng
rủi ro hay tăng khả năng lợi nhuận cho nhà đầu tư khi mua bán chứng khoán.
- Căn cứ vào thời hạn, chứng khoán có thể chia thành: chứng khoán ngắn
hạn, chủ yếu là các giấy tờ có giá ngắn hạn (thường là dưới 1 năm) như tín phiếu
kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng... Chứng khoán dài hạn (có thể từ 5-10 năm hoặc
trên 10 năm) như cổ phiếu, trái phiếu...



Lục Thị Hồng Nhung

8

KT28E

- Căn cứ vào lợi tức, có thể chia thành chứng khoán có lợi tức ổn định và
chứng khoán có lợi tức không ổn định. Chứng khoán có lợi tức ổn định là những
chứng khoán tạo ra lợi tức ổn định theo mệnh giá cho người sở hữu chứng
khoán, thường là cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu. Đối với chứng khoán có lợi tức
không ổn định, người sở hữu chứng khoán hưởng lợi tức theo kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp, cổ phiếu thường là một chứng khoán loại này.
- Căn cứ vào khả năng chuyển đổi, chứng khoán có thể chia thành: chứng
khoán có khả năng chuyển đổi và chứng khoán không có khả năng chuyển đổi.
Chứng khoán có khả năng chuyển đổi là những chứng khoán cho phép người
nắm giữ nó có thể chuyển sang một loại chứng khoán khác theo những điều kiện
và tỷ lệ nhất định. Cổ phiếu ưu đãi, trái phiếu chuyển đổi có thể chuyển đổi
thành cổ phiếu thường. Chứng khoán không có khả năng chuyển đổi không có
những khả năng như vậy.
Việc phân loại chứng khoán giúp chúng ta hiểu hơn về các loại chứng
khoán, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư khi sở hữu các chứng khoán khác
nhau, quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán và giao dịch chứng khoán.
1.1.2 Chào bán chứng khoán riêng lẻ.
* Định nghĩa:
Chào bán chứng khoán là việc đưa thêm chủng loại chứng khoán mới vào
thị trường, bao gồm tất cả các hoạt động như xin phép, mời chào, phát hành,
phân phối chứng khoán với mục đích cuối cùng là đưa chứng khoán ra thị
trường, tạo tính thanh khoản cho chứng khoán. Hoạt động này chỉ diễn ra trên

thị trường sơ cấp - nơi chứng khoán lần đầu tiên được phát hành.
Các chứng khoán thường được chào bán theo hai phương thức, đó là chào
bán riêng lẻ và chào bán ra công chúng. Chào bán chứng khoán ra công chúng là
việc bán chứng khoán cho một số lượng lớn công chúng đầu tư, trong đó một số
lượng chứng khoán phải được phân phối cho các nhà đầu tư nhỏ, khối lượng
phát hành phải đạt một tỷ lệ nhất định. Các chứng khoán chào bán ra công chúng
được niêm yết và giao dịch trên thị trường tập trung. Các công ty chào bán


Lục Thị Hồng Nhung

9

KT28E

chứng khoán ra công chúng có lợi thế trong việc quảng bá hình ảnh, tên tuổi và
mặc nhiên được coi là có tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động kinh doanh
ổn định. Đây là lợi thế lớn cho công ty khi ký kết hợp đồng, tìm kiếm bạn hàng.
Chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc chào bán chứng khoán trong phạm
vi một số nhà đầu tư nhất định, thông thường là những nhà đầu tư có tổ chức với
những điều kiện hạn chế, không tiến hành chào bán rộng rãi ra công chúng.
Khái niệm chào bán chứng khoán riêng lẻ chưa được đề cập chính thức
trong hệ thống pháp luật về chứng khoán và TTCK của Việt Nam. Khoản 12
Điều 6 Luật chứng khoán 2006 chỉ đề cập đến khái niệm chào bán ra công
chúng. Một đợt chào bán được coi là chào bán chứng khoán ra công chúng nếu
việc chào bán chứng khoán thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (kể
cả qua Internet) hoặc chào bán cho từ 100 nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu
tư chuyên nghiệp; chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không hạn chế.
Do vậy, có thể hiểu khái niệm về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ
là chào bán chứng khoán không thông qua các phương tiện thông tin đại chúng

hay chào bán cho dưới 100 nhà đầu tư không? Dù hiểu theo cách nào thì phạm
vi chào bán, số vốn huy động và tính đại chúng của hoạt động chào bán chứng
khoán riêng lẻ thường hẹp hơn so với chào bán chứng khoán ra công chúng.
* Đặc điểm:
Thứ nhất, chào bán chứng khoán riêng lẻ chỉ hướng tới một số lượng nhà
đầu tư hạn chế, thông thường là những nhà đầu tư có tổ chức hay những nhà đầu
tư cá nhân có tiềm lực kinh tế hoặc những người có mối quan hệ thân thiết với
chủ thể phát hành. Pháp luật các nước quy định khác nhau về số lượng nhà đầu
tư tham gia tối thiểu được chào bán trong mỗi đợt phát hành riêng lẻ. Tại Mỹ và
Nhật Bản nếu phát hành cho dưới 200 nhà đầu tư được coi là chào bán riêng lẻ;
tại Hàn Quốc, Thái Lan, Indonexia nếu chào bán cho thấp hơn 50 nhà đầu tư là
phát hành riêng lẻ. [2, tr.62]
Thứ hai, ở các nước theo hệ thống Civil law, hoạt động chào bán chứng
khoán riêng lẻ do Luật chứng khoán và kinh doanh chứng khoán điều chỉnh, các


Lục Thị Hồng Nhung

10

KT28E

nước theo hệ thống Common law chủ yếu do Luật công ty điều chỉnh. ở Việt
Nam, hoạt động này do nhiều văn bản pháp luật khác nhau quy định tuỳ theo
loại hình doanh nghiệp và lĩnh vực kinh doanh. Đó là Luật doanh nghiệp, Luật
các tổ chức tín dụng, các Nghị định về cổ phần hoá, phát hành trái phiếu, chuyển
đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần...
Thứ ba, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ thường gắn với việc
thành lập công ty cổ phần và quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu doanh
nghiệp. Khi thành lập công ty cổ phần các cổ đông sáng lập có thể tiến hành

chào bán cổ phần riêng lẻ góp đủ số vốn điều lệ đã đăng ký. Các công ty Nhà
nước tiến hành cổ phần hoá (CPH) có thể lựa chọn phương thức chào bán chứng
khoán riêng lẻ.
Ngoài ra, khi chào bán chứng khoán riêng lẻ công ty có thể thực hiện một
số mục đích khác như duy trì các quan hệ kinh doanh (khách hàng lâu năm, nhà
cung cấp, phân phối…) hoặc chào bán cho cán bộ, công nhân, viên chức của
công ty. Chi phí chào bán chứng khoán ra công chúng thường cao hơn chi phí
chào bán chứng khoán riêng lẻ, có thể lên đến 8-10% so với tổng lượng vốn huy
động. [8, tr.29-30] Công ty có thể chọn phương thức chào bán chứng khoán
riêng lẻ với mức chi phí thấp hơn.
Nghiên cứu đặc điểm của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ không
chỉ phân biệt các phương thức phát hành mà còn có ý nghĩa xác định phạm vi thị
trường cho các chứng khoán, công tác quản lý thị trường, bảo vệ quyền lợi cho
nhà đầu tư thực hiện tốt hơn.
* Phương thức chào bán chứng khoán riêng lẻ:
Phương thức chào bán chứng khoán là những cách thức thực hiện mối
quan hệ giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư trong suốt quá trình đưa chứng
khoán từ nơi phát hành đến với nhà đầu tư. Chứng khoán có thể được chào bán
theo các phương thức:
- Bán trực tiếp:


Lục Thị Hồng Nhung

11

KT28E

Là phương thức tổ chức phát hành thực hiện chào bán chứng khoán trực
tiếp cho nhà đầu tư không qua khâu trung gian. Đây là phương thức cổ điển

chứng khoán được mua bán như hàng hoá thông thường. Tổ chức phát hành thực
hiện tất cả các công đoạn của quá trình chào bán như chuẩn bị hồ sơ, thủ tục,
đăng ký chào bán, quảng cáo, phân phối chứng khoán... Phương thức này đòi
hỏi tổ chức phát hành phải am hiểu thị trường, có hệ thống phân phối rộng, nhu
cầu huy động vốn không cấp bách. Khi đó chứng khoán sẽ đi thẳng từ nhà phát
hành đến tay nhà đầu tư, không có chi phí trung gian.
Ưu điểm của phương thức bán trực tiếp là tổ chức phát hành sẽ tối đa được
lợi nhuận, nắm bắt được nhu cầu thị trường. Nhưng tổ chức phát hành sẽ gặp
khó khăn trong việc kiểm soát tổng lượng vốn lưu động, thời gian tập trung vốn
thường kéo dài nên phương thức này ẩn chứa nhiều rủi ro.
- Chào bán chứng khoán thông qua đại lý phát hành:
Đại lý phát hành là phương thức một hoặc nhiều tổ chức đứng ra làm đại
diện phân phối chứng khoán cho tổ chức phát hành theo hợp đồng đại lý trong
đó có cam kết tỷ lệ hoa hồng (phí đại lý phát hành).
Thông thường tổ chức đại lý phát hành là các công ty chứng khoán hay các
định chế tài chính khác theo quy định của pháp luật. Với trình độ chuyên môn và
sự am hiểu thị trường, các đại lý phát hành sẽ tạo mạng lưới phân phối rộng, số
lượng chứng khoán bán ra lớn hơn so với bán trực tiếp. Nhưng tổ chức phát
hành gặp khó khăn trong việc xác định tổng lượng chứng khoán bán ra, phụ
thuộc vào khách hàng, bị động trong khả năng huy động vốn và chịu phí đại lý
phát hành. Các đại lý phát hành chịu trách nhiệm phân phối chứng khoán, không
bảo đảm thành công cho đợt chào bán. Phương thức này thường được các doanh
nghiệp có uy tín, sản xuất kinh doanh hiệu quả, mạng lưới phân phối hạn chế lựa
chọn.
- Chào bán chứng khoán thông qua đấu giá:
Là phương thức các tổ chức trung gian sẽ thực hiện đấu giá đối với số
lượng chứng khoán mà doanh nghiệp sẽ bán ra bên ngoài. Nhà đầu tư sẽ tham


Lục Thị Hồng Nhung


12

KT28E

gia đấu giá bằng cách đăng ký trước, việc trả giá chứng khoán được tiến hành bỏ
phiếu kín. Người tổ chức đấu giá, tổ chức phát hành sẽ ấn định giá tối thiểu và
thực hiện bán chứng khoán theo nguyên tắc ưu tiên về giá. Thông qua đấu giá,
người mua và người bán sẽ xác định được một mức giá phù hợp, khách quan và
công bằng. Giá chứng khoán được hình thành theo hai chiều: người mua cạnh
tranh với những người mua khác để mua được với giá thấp nhất, người bán
cạnh tranh với những người bán khác để bán được với giá cao nhất. [9, tr.222]
Có nhiều phương thức đấu giá, nếu căn cứ vào hình thức đấu giá, có đấu
giá trực tiếp, đấu giá gián tiếp, đấu giá tự động. Nếu căn cứ vào phương thức
đấu giá, có đấu giá định kỳ và đấu giá liên tục.
- Chào bán chứng khoán thông qua đấu thầu:
Đấu thầu chứng khoán là phương thức một hoặc nhiều nhà thầu sẽ mua
toàn bộ số chứng khoán dự định phát hành, sau đó phân phối lại trên cơ sở phân
chia tỷ lệ phần trăm với tổ chức phát hành.
Phương thức này có ưu điểm là xác định tổng lượng vốn lưu động, thời
gian huy động vốn ngắn (thường chỉ từ 1- 6 tuần). Tuy nhiên, tổ chức phát hành
phải chịu chi phí trung gian. Khoản phí này do tổ chức phát hành thoả thuận với
tổ chức đấu thầu, tổ chức được uỷ quyền. Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Chính
quyền địa phương, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương, trái
phiếu được Chính phủ bảo lãnh... thường chào bán bằng phương thức đấu thầu.
- Chào bán chứng khoán thông qua bảo lãnh phát hành:
Bảo lãnh phát hành là phương thức một hoặc nhiều tổ chức bảo lãnh cam
kết với tổ chức phát hành về việc thực hiện các thủ tục trước khi chào bán, phân
phối chứng khoán cho nhà đầu tư, nhận mua chứng khoán để bán lại và mua số
chứng khoán còn lại chưa phân phối hết.

Sự tham gia của tổ chức bảo lãnh giúp hoạt động chào bán chứng khoán
diễn ra thuận lợi hơn. Tổ chức bảo lãnh chuẩn bị hồ sơ, thủ tục cần thiết trước
khi chào bán và tiến hành phân phối chứng khoán. Tổ chức bảo lãnh có thể
thành lập tổ hợp bảo lãnh để phân tán rủi ro trong đợt chào bán.


Lục Thị Hồng Nhung

13

KT28E

Có nhiều phương thức bảo lãnh với mức độ cam kết khác nhau được ghi rõ
trong hợp đồng bảo lãnh. Những doanh nghiệp mới thành lập hoặc quy mô nhỏ
có thể chọn hình thức bảo lãnh với cam kết chắc chắn để đảm bảo thành công
cho đợt chào bán. Nếu công ty có nhu cầu một số vốn nhất định cho chiến lược
kinh doanh mà không thể sử dụng số vốn ít hơn có thể chọn bảo lãnh theo
phương thức tất cả hoặc không. Những doanh nghiệp phát hành bổ sung thêm cổ
phiếu, nếu có những cổ đông không muốn mua thêm cổ phiếu của công ty có thể
áp dụng phương thức bảo lãnh dự phòng cho những quyền mua không được
thực hiện. Nếu tổ chức bảo lãnh không bảo đảm khả năng phân phối hết số
chứng khoán có thể thoả thuận với tổ chức phát hành hình thức bảo lãnh với cố
gắng cao nhất. Mỗi phương thức bảo lãnh đều có ưu và nhược điểm riêng. Do
đó, tổ chức phát hành cần lưu ý nhu cầu vốn và những đặc thù của doanh nghiệp
để lựa chọn phương thức bảo bãnh phù hợp.
* Vai trò của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ trong nền kinh tế
thị trường của Việt Nam hiện nay:
Đối với TTCK, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ cung cấp hàng
hoá cho TTCK, tạo cơ sở cho các hoạt động trao đổi mua bán trên thị trường và
kiểm chứng ban đầu về chất lượng chứng khoán sẽ được cung ứng.

Đối với tổ chức phát hành, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ là một
kênh huy động vốn hiệu quả, linh hoạt. Thông qua chào bán chứng khoán riêng
lẻ tổ chức phát hành sẽ tăng quy mô, hiệu quả sử dụng vốn, mở rộng sản suất.
Đây là nguồn vốn dài hạn và ổn định. Hoạt động này góp phần thúc đẩy doanh
nghiệp tự “hoàn thiện” mình trong việc thực hiện tốt hơn chế độ tài chính, kế
toán, công bố thông tin… Từ đó, doanh nghiệp từng bước đáp ứng những điều
kiện chào bán chứng khoán ra công chúng và niêm yết trên thị trường tập trung.
Đối với các nhà đầu tư, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ cung cấp
các loại chứng khoán và những thông tin bổ ích về đợt chào bán và tổ chức phát
hành. Bằng những kiến thức, kinh nghiệm họ quyết định đầu tư vào một loại


Lục Thị Hồng Nhung

14

KT28E

chứng khoán cụ thể. Do vậy, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ có ý
nghĩa nhất định đối với các nhà đầu tư.
Đối với tổ chức trung gian, với vai trò đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành,
tư vấn phát hành... các tổ chức này không chỉ thu được khoản lợi nhuận nhất
định (phí, hoa hồng) từ các hợp đồng đại lý, bảo lãnh... Thông qua những hoạt
động này, tổ chức trung gian sẽ nắm bắt được nhu cầu, diễn biến của thị trường
và đưa ra những chiến lược kinh doanh hợp lý.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay, cùng với quá trình chuyển
đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường là quá đổi
mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Hoạt động chào bán chứng
khoán riêng lẻ góp phần thúc đẩy quá trình CPH DNNN, giảm sự bao cấp về
vốn cho những doanh nghiệp này. Huy động vốn bằng cách chào bán chứng

khoán mang lại sự linh hoạt và chủ động cho doanh nghiệp, tạo điều kiện để
doanh nghiệp tiếp cận với phương thức quản lý hiệu quả hơn.
Ngoài ra, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ có vai trò quan trọng
trong việc thực hiện chuyển đổi các loại hình doanh nghiệp khác như doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi thành
công ty cổ phần và hoạt động quản lý nhà nước trên thị trường sơ cấp.
1.2 Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

1.2.1 Khái niệm:
Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ là tổng hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình chào bán chứng
khoán trong một phạm vi, giới hạn nhất định của tổ chức phát hành.
1.2.2 Nội dung pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ.
* Pháp luật chào bán cổ phiếu riêng lẻ:
Chào bán cổ phiếu riêng lẻ là việc công ty cổ phần thực hiện bán cổ phiếu
của mình trong phạm vi nhỏ các tổ chức đầu tư hay một số nhà đầu tư cá nhân
có tiềm lực kinh tế.
- Chủ thể thực hiện hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ:


Lục Thị Hồng Nhung

15

KT28E

Là những tổ chức thực hiện hoạt động chào bán cổ phiếu để huy động vốn
từ công chúng sau khi đáp ứng đầy đủ các quy định của pháp luật về điều kiện,
trình tự, thủ tục chào bán.
Các chủ thể thể thực hiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ bao gồm công ty cổ

phần, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đại chúng, DNNN CPH,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần...
Trong đó, công ty cổ phần có thể chào bán cổ phiếu riêng lẻ hoặc ra công
chúng để công khai huy động vốn từ công chúng. Công ty cổ phần có đặc trưng
là vốn điều lệ chia thành nhiều phần bằng nhau nên khả năng huy động vốn linh
hoạt hơn.
Công ty nhà nước CPH có thể chào bán cổ phần theo cả hai phương thức
chào bán cổ phần riêng lẻ hoặc chào bán cổ phần ra công chúng.
Đối với các chủ thể khác như công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán,
công ty đại chúng... hoạt động chào bán cổ phiếu, chứng chỉ quỹ thực hiện theo
phương thức chào bán ra công chúng. Khoá luận không đề cập đến hoạt động
chào bán chứng khoán của những chủ thể này.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể thực hiện chào bán cổ
phiếu riêng lẻ để chuyển đổi thành công ty cổ phần.
- Điều kiện, thủ tục chào bán cổ phiếu riêng lẻ:
Điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ thường được quy định như sau:
Thứ nhất, là những chủ thể được phép chào bán cổ phiếu riêng lẻ theo quy
định của pháp luật. Bao gồm công ty cổ phần hoặc các loại hình doanh nghiệp
khác chuyển đổi thành công ty cổ phần. Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
hợp danh, doanh nghiệp tư nhân không được chào bán cổ phiếu để huy động
vốn.
Thứ hai, chủ thể phát hành đã đi vào hoạt động ổn định và có tình hình tài
chính lành mạnh. Phần lớn pháp luật các nước không quy định chủ thể phát hành
phải đạt mức vốn điều lệ tối thiểu trong điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ. ở
Việt Nam, theo Khoản 1 Điều 12 Luật chứng khoán 2006 doanh nghiệp có mức


Lục Thị Hồng Nhung

16


KT28E

vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở
lên tính theo giá trị ghi trên sổ sách kế toán được chào bán cổ phiếu ra công
chúng, không quy định mức vốn điều lệ tối thiểu tạo thuận lợi cho công ty tăng
vốn bằng cách chào bán cổ phiếu riêng lẻ.
Thứ ba, có phương án sử dụng vốn hiệu quả được cơ quan có thẩm quyền
thông qua, cam kết sử dụng đúng mục đích số vốn huy động được.
Thứ tư, phạm vi chào bán chỉ hướng tới số lượng nhà đầu tư nhất định,
không chào bán ra rộng rãi công chúng. Điều kiện này tạo ranh giới phân biệt
chào bán cổ phiếu riêng lẻ và chào bán cổ phiếu ra công chúng.
Trên thực tế, pháp luật về chứng khoán của các quốc gia có những quy định
khác nhau về điều kiện về chào bán chứng khoán riêng lẻ. Pháp luật về chứng
khoán của Mỹ quy định điều kiện như sau: nếu nhà đầu tư không phải là những
người thành thạo thì số lượng không vượt quá 35 người và phải cử đại diện mua;
đối với nhà đầu tư có tổ chức số lượng mua không hạn chế nếu họ mua chứng
khoán để nắm giữ lâu dài chứ không phải để bán lại; được quảng cáo bằng
phương tiện thông tin đại chúng, hội thảo rộng rãi trừ trường hợp hội nghị hẹp
với nhà đầu tư tiềm năng. Luật Chứng khoán Thái Lan chỉ quy định nếu phát
hành cho dưới 35 người và tổng số tiền không quá 20 triệu Bath thì không phải
xin phép nhưng phải đăng ký và nộp lệ phí cho Uỷ ban chứng khoán. [8, tr.28]
Thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ thường đơn giản hơn so với thủ tục
chào bán cổ phiếu ra công chúng. Doanh nghiệp thực hiện chào bán cổ phiếu
riêng lẻ chỉ cần thực hiện thủ tục tối thiểu như thông báo, xin phép chào bán,
cung cấp cho nhà đầu tư những thông tin cần thiết về đợt chào bán và tình hình
kinh doanh của công ty, không phải đăng ký với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước.
- Phương thức chào bán cổ phiếu riêng lẻ:
Các chứng khoán được chào bán riêng lẻ có thể được chào bán thông qua
nhiều phương thức khác nhau: bán trực tiếp, thông qua các đại lý phát hành, bảo

lãnh phát hành hoặc chào bán thông qua đấu giá, đấu thầu...


Lục Thị Hồng Nhung

17

KT28E

Khi tiến hành lựa chọn phương thức chào bán chứng khoán riêng lẻ doanh
nghiệp cần lưu ý những quy định của cơ quan quản lý về điều kiện, cách thức
phát hành; mục đích phát hành; khả năng kiểm soát nhà đầu tư của tổ chức phát
hành; điều kiện về khoa học công nghệ, cơ sở vật chất, kỹ thuật và những đặc
thù của doanh nghiệp; trình độ, uy tín của tổ chức nhận đại lý, bảo lãnh phát
hành... Đây là những yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp lựa chọn phương thức
chào bán phù hợp và bảo đảm thành công cho đợt chào bán.
* Pháp luật về chào bán trái phiếu riêng lẻ:
- Chủ thể chào bán trái phiếu riêng lẻ:
Chủ thể chào bán trái phiếu riêng lẻ bao gồm: công ty cổ phần, công ty nhà
nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, Chính phủ, Chính quyền địa phương... với
quyền năng chào bán trái phiếu riêng lẻ khác nhau.
Công ty cổ phần là chủ thể có thể chào bán các loại chứng khoán khác nhau
để huy động vốn. Ngoài cổ phiếu, công ty cổ phần được phép chào bán các loại
trái phiếu và các chứng khoán phái sinh. Công ty cổ phần có số lượng cổ đông
lớn và khả năng huy động vốn rộng rãi trong công chúng.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có phần vốn góp được chia thành nhiều phần
bằng nhau nhưng không thể hiện dưới hình thức cổ phần và rất khó chuyển
nhượng ra bên ngoài. Chủ thể này không được huy động vốn bằng chào bán cổ
phiếu. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, công ty trách nhiệm hữu hạn được
chào bán trái phiếu để tăng vốn vay.

Công ty nhà nước bao gồm công ty nhà nước đang trong thời gian chuyển
đổi thành công ty cổ phần là chủ thể thực hiện chào bán trái phiếu riêng lẻ để
đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp do một người làm chủ,
quy mô vốn nhỏ. Chủ doanh nghiệp tư nhân vừa quản lý vừa điều hành và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Do đó, hầu hết các quốc gia đều quy định doanh nghiệp tư nhân không
được chào bán chứng khoán.


Lục Thị Hồng Nhung

18

KT28E

Công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp thể hiện sự kết hợp giữa trí tuệ,
tài chính, khả năng quản lý giữa các thành viên hợp danh và thành viên góp vốn.
Thành viên hợp danh là người quản lý và điều hành, chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Giống như doanh nghiệp tư
nhân, công ty hợp danh không được chào bán chứng khoán để huy động vốn.
Ngoài ra, Chính phủ, Chính quyền địa phương cũng là những chủ thể tham
gia chào bán trái phiếu phục vụ cho đầu tư phát triển, bù đắp thiếu hụt tạm thời
cho ngân sách nhà nước. Hoạt động chào bán trái phiếu của các chủ thể này
thường có quy định riêng và không thuộc phạm vi nghiên cứu của khóa luận.
Như vậy, so với chào bán cổ phiếu riêng lẻ hoạt động chào bán trái phiếu
riêng lẻ rộng hơn về số lượng chủ thể tham gia.
- Điều kiện, thủ tục chào bán trái phiếu riêng lẻ:
Tuỳ theo quy định của mỗi nước mà điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ
có thể khác nhau. Mục đích chung là chọn ra những chủ thể có khả năng tài

chính để thanh toán đủ gốc, lãi trái phiếu, hạn chế tối đa các rủi ro. Thông
thường các điều kiện đó như sau: là chủ thể được phép chào bán trái phiếu theo
quy định của pháp luật; hoạt động kinh doanh phải có lãi trong một số năm gần
nhất; có phương án sử dụng vốn khả thi và được cơ quan có thẩm quyền thông
qua; các báo cáo về tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một số năm được
kiểm toán; có cam kết thực hiện nghĩa vụ đối với người sở hữu trái phiếu.
ở Việt Nam, pháp luật về phát hành trái phiếu doanh nghiệp không quy
định mức vốn điều lệ tối thiểu trong điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ.
Thủ tục chào bán trái phiếu riêng lẻ đơn giản hơn so với chào bán trái phiếu
ra công chúng. Các doanh nghiệp không phải đăng ký với Uỷ ban Chứng khoán
Nhà nước. Tuỳ theo đặc thù và lĩnh vực kinh doanh, doanh nghiệp khi chào bán
trái phiếu riêng lẻ sẽ thực hiện những thủ tục khác nhau.
- Phương thức chào bán trái phiếu riêng lẻ:
Trái phiếu được chào bán riêng lẻ có thể thực hiện theo các phương thức:
bán trực tiếp, bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành, đấu thầu trái phiếu...


Lục Thị Hồng Nhung

19

KT28E

1.2.3 Mục đích, nguyên tắc quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán
chứng khoán riêng lẻ.
* Mục đích quản lý Nhà nước:
Kinh nghiệm phát triển của một số TTCK lâu đời trên thế giới cho thấy cần
thiết phải có sự quản lý nhà nước đối với thị trường. Vụ sụp đổ thị trường vào
những năm 1929, 1987, 1990 của TTCK Mỹ và một số nước Châu Âu là những
“ngày đen tối” trong lịch sử phát triển của TTCK. Hàng loạt thị trường lớn phải

đóng cửa. Một trong những nguyên nhân dẫn đến vụ sụp đổ này là do thiếu sự
quản lý và kinh nghiệm điều hành thị trường. Điều đó cho thấy vai trò quan
trọng của quản lý nhà nước đối với TTCK. Quản lý nhà nước đối với hoạt động
chào bán chứng khoán riêng lẻ thực chất là hoạt động quản lý nhà nước trên thị
trường sơ cấp. Mục đích của hoạt động này là:
Thứ nhất, bảo đảm tính công bằng trong hoạt động chào bán chứng khoán
riêng lẻ, các chủ thể chào bán có điều kiện như nhau được đối xử công bằng,
bình đẳng. Quản lý phải gắn liền với hiệu quả, các vi phạm được xử lý kịp thời,
hoạt động chào bán chứng khoán diễn ra đúng pháp luật.
Thứ hai, tạo lập sự ổn định và trung thực trong hoạt động chào bán chứng
khoán riêng lẻ, bảo đảm chất lượng cho các chứng khoán cung cấp cho thị
trường có tính thanh khoản cao, ít rủi ro.
* Nguyên tắc quản lý Nhà nước:
Đó là những tư tưởng chủ đạo, những tiêu chuẩn hành vi mà các chủ thể
quản lý phải tuân thủ. Hoạt động quản lý nhà nước phải bảo đảm cơ quan quản
lý xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; mỗi cơ quan quản lý độc lập
với nhau, có đủ quyền lực và điều kiện thực tế để thực thi nhiệm vụ; hoạt động
quản lý phải rõ ràng, thống nhất, công khai và đúng pháp luật; chủ thể có thẩm
quyền quản lý là người có tiêu chuẩn nghề nghiệp cao, trình độ chuyên môn.
* Nội dung quản lý Nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán
riêng lẻ:


Lục Thị Hồng Nhung

20

KT28E

Hiện nay trên thế giới, có hai phương thức quản lý nhà nước trên thị trường

sơ cấp. Đó là phương thức quản lý theo chất lượng và theo chế độ công bố thông
tin đầy đủ. [3, tr.131] Nếu quản lý theo chất lượng cơ quan quản lý đưa ra nhiều
tiêu chí bảo đảm chủ thể chào bán có tình hình tài chính ổn định, có uy tín trên
thị trường. Nếu quản lý theo chế độ thông tin đầy đủ cơ quan quản lý chú trọng
đến chất lượng thông tin và công bố thông tin rộng rãi ra công chúng.
Những nước có TTCK phát triển thường áp dụng chế độ công bố thông tin
đầy đủ. Việt Nam và một số nước đang phát triển, cơ quan quản lý thường áp
dụng phương thức quản lý theo chất lượng. ở những nước này, TTCK còn non
trẻ phải có những bảo đảm an toàn cần thiết.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán chủ yếu tập
trung vào hoạt động của chủ thể phát hành, các tổ chức trung gian tham gia chào
bán, các nhà đầu tư. Đó là các hoạt động ban hành văn bản pháp luật về chào
bán chứng khoán riêng lẻ; tổ chức và hướng dẫn về điều kiện, thủ tục, phương
án chào bán chứng khoán; thanh tra, giám sát việc tuân theo pháp luật về chào
bán chứng khoán riêng lẻ của các chủ thể tham gia hoạt động chào bán, xử lý
các hành vi vi phạm...
Quản lý hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của chủ thể phát hành:
đối tượng quản lý là các chủ thể chào bán chứng khoán riêng lẻ theo quy định
của pháp luật. Các chủ thể này tiến hành hoạt động chào bán chứng khoán riêng
lẻ trên thực tế. Cơ quan quản lý xác định điều kiện chào bán chứng khoán; quy
định thủ tục, phương thức chào bán; nội dung công bố thông tin, các báo cáo tài
chính; chế độ kế toán, kiểm toán. Quản lý phải bảo đảm chủ thể phát hành cung
cấp đầy đủ, trung thực những thông tin liên quan tới đợt chào bán. Việc công bố
thông tin phải tiến hành thường xuyên. Những thông tin được công bố bảo đảm
chính xác, kịp thời, dễ tiếp cận.
Quản lý hoạt động của các tổ chức trung gian tham gia thị trường: tổ chức
trung gian có thể là những ngân hàng thương mại (NHTM), các công ty chứng
khoán, công ty tài chính, quỹ đầu tư chứng khoán... Các trung gian tài chính có



Lục Thị Hồng Nhung

21

KT28E

lợi thế về chuyên môn hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện thành công đợt chào bán.
Thẩm quyền quản lý những tổ chức này thuộc về nhiều cơ quan khác nhau, tuỳ
thuộc vào hình thức quản lý, chính sách kinh tế của mỗi quốc gia. Cơ quan quản
lý cần quy định rõ trách nhiệm, phạm vi hoạt động của các tổ chức này nhằm
bảo đảm quyền lợi cho nhà đầu tư, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ
diễn ra công bằng.
Quản lý hoạt động của các nhà đầu tư: TTCK luôn vận động theo những
quy luật riêng. Nhà đầu tư là chủ thể dễ bị xâm phạm do những tiêu cực của thị
trường. Cơ quan quản lý vừa bảo đảm quyền lợi cho nhà đầu tư đồng thời ngăn
chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
Chào bán chứng khoán riêng lẻ là hoạt động có ảnh hướng lớn tới sự phát
triển của TTCK. Quản lý nhà nước trong hoạt động chào bán chứng khoán riêng
lẻ phải bảo đảm cho mọi hành vi liên quan đến hoạt động chào bán diễn ra đúng
pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể thức hiện chào bán chứng
khoán để huy động vốn.

Chương 2
Thực trạng pháp luật về hoạt động chào bán
chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay
Vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một nhu cầu
bức thiết. Trước đây để đáp ứng nhu cầu này doanh nghiệp thường lệ thuộc vào
ngân hàng. TTCK ra đời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận một kênh huy
động vốn linh hoạt hơn. Đó là phương thức chào bán chứng khoán. Các doanh

nghiệp Việt Nam hiện nay đã và đang sử dụng hiệu quả phương thức này đầu tư
mở rộng sản xuất.


Lục Thị Hồng Nhung

22

KT28E

2.1 Chào bán cổ phiếu riêng lẻ.
2.1.1 Chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần.
Công ty cổ phần cung cấp cổ phiếu - một loại hàng hoá quan trọng cho
TTCK. Với đặc điểm vốn điều lệ chia thành nhiều phần bằng nhau, khả năng
huy động vốn bằng cách chào bán cổ phần, cổ phiếu của công ty cổ phần linh
hoạt hơn so với những doanh nghiệp khác.
Hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần được thực hiện
khi thành lập công ty cổ phần hoặc công ty huy động vốn.
* Hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ khi thành lập công ty cổ phần:
Công ty cổ phần được thành lập có thể là thành lập công ty cổ phần từ khi
đăng ký kinh doanh hoặc do kết quả của quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu,
loại hình công ty (phần này sẽ được đề cập ở những mục sau).
Khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các cổ đông sáng lập
tiến hành góp vốn, mua cổ phần. Các cổ đông có thể cùng nhau mua toàn bộ cổ
phần hoặc chào bán cổ phần ra bên ngoài để bảo đảm góp đủ số vốn cần thiết.
Luật Doanh nghiệp 2005 quy định cụ thể, chi tiết hoạt động góp vốn, mua cổ
phần, chào bán, thanh toán cổ phần... của cổ đông sáng lập khi thành lập công ty
cổ phần.
Theo Điều 84 Luật doanh nghiệp 2005 “các cổ đông sáng lập phải cùng
nhau đăng kí mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán

và thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày
công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Trường hợp có cổ
đông sáng lập không thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký, Luật doanh nghiệp
2005 quy định rõ cách xử lý, bảo đảm trong thời hạn ba năm số cổ phần chưa
đăng ký mua phải được chào bán hết. Nhưng sau ba năm số cổ phần ấy chưa
được đăng ký mua hết sẽ xử lý như thế nào vẫn là một câu hỏi. Người đang sở
hữu cổ phiếu có quyền yêu cầu hoàn trả vốn hay không? Trách nhiệm của các cổ
đông sáng lập trong trường hợp này chưa có quy định rõ ràng.


Lục Thị Hồng Nhung

23

KT28E

Khoản 1 Điều 87 Luật doanh nghiệp 2005 đã bổ sung thẩm quyền của Hội
đồng quản trị trong việc quyết định thời điểm, phương thức chào bán cổ phần
trong số cổ phần được quyền chào bán. Đây là những yếu tố quan trọng quyết
định thành công của đợt chào bán cần được sự chấp thuận của Hội đồng quản trị.
Quy định về giá chào bán cổ phần cũng có sự thay đổi phù hợp, Hội đồng
quản trị có thể quyết định giá chào bán cổ phần theo giá thị trường hoặc theo giá
trị được ghi trong sổ sách của cổ phần tại thời điểm gần nhất. Do đó, công ty có
thể lựa chọn mức giá phù hợp, bảo đảm quyền lợi cho cổ đông.
Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp 2005 quy định các trường hợp ngoại lệ.
Công ty có thể chào bán cổ phần với giá thấp, bằng hoặc cao hơn mệnh giá. Có
ý kiến cho rằng quy định trên mâu thuẫn với quy định của pháp luật chứng
khoán. Vì theo Luật Chứng khoán 2006, công ty muốn chào bán cổ phiếu ra
công chúng thì giá cổ phiếu phải ít nhất bằng giá cổ phiếu trên thị trường. Nếu
xét từng trường hợp cụ thể thì không hoàn toàn như vậy.

Đối với trường hợp chào bán lần đầu tiên cho người không phải là cổ đông
sáng lập. Quy định này bảo đảm cho công ty có đủ số vốn điều lệ cần thiết để
hoạt động, tại thời điểm này chúng ta chưa xác định được giá của cổ phiếu trên
thị trường.
Trường hợp chào bán cổ phần cho các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có
của họ tại công ty. Cổ đông là những chủ sở hữu của công ty cổ phần, có quyền
mua cổ phần của công ty với giá thấp hơn. Khi chào bán cổ thêm cổ phần có thể
thay đổi cơ cấu vốn điều lệ và quyền quản lý công ty. Vì vậy, quy định của Luật
Doanh nghiệp 2005 nhằm bảo vệ quyền lợi của các cổ đông hiện hữu.
Trường hợp cổ phần chào bán cho người môi giới hoặc người bảo lãnh.
Điều 87 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định giá chào bán cổ phần cho người môi
giới hoặc bảo lãnh thì số chiết khấu hoặc tỷ lệ chiết khấu cụ thể phải được sự
chấp nhận của số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số cổ phần có quyền biểu
quyết. Khi chào bán cổ phần với giá như vậy có thể ảnh hưởng đến quyền lợi


Lục Thị Hồng Nhung

24

KT28E

của cổ đông. Trong trường hợp này phải được sự đồng ý của ít nhất 75% tổng số
cổ phần có quyền biểu quyết.
* Hoạt động chào bán cổ phiếu khi công ty cổ phần tăng vốn :
Hoạt động này thường được tiến hành khi công ty có nhu cầu mở rộng sản
xuất, thực hiện các dự án đầu tư. Đối tượng được chào bán có thể là cổ đông
hiện hữu hoặc công chúng đầu tư. Khoản 2 Điều 87 Luật doanh nghiệp 2005
quy định: Trường hợp công ty phát hành thêm cổ phần phổ thông và chào bán
số cổ phần đó cho tất cả các cổ đông phổ thông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của

họ tại công ty thì phải gửi thông báo bằng văn bản đến các cổ đông theo phương
thức đảm bảo đến được địa chỉ của họ. Có thể hiểu đây là hoạt động chào bán cổ
phần riêng lẻ (chào bán trong nội bộ công ty) vì đối tượng được chào bán là các
cổ đông hiện hữu, không có sự tham gia của nhà đầu tư bên ngoài.
“Thủ tục và trình tự chào bán cổ phần thực hiện theo quy định của pháp
luật về chứng khoán” (Khoản 4 Điều 61 Luật doanh nghiệp 1999). Với quy định
này công ty không thể chào bán cổ phần riêng lẻ. Pháp luật về chứng khoán chỉ
điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. Khoản 6 Điều 87
Luật doanh nghiệp năm 2005 đã phân biệt thủ tục chào bán cho mỗi phương
thức chào bán: điều kiện, phương thức, thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng
thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Chính phủ sẽ quy định
hướng dẫn việc chào bán cổ phần riêng lẻ. Quy định này hợp lý và rõ ràng. Nếu
công ty chào bán cổ phần ra công chúng thì điều kiện, phương thức, thủ tục chào
bán tuân theo những quy định của pháp luật về chứng khoán. Nếu công ty chào
bán cổ phần riêng lẻ trước hết sẽ tuân theo quy định của Luật doanh nghiệp và
văn bản hướng dẫn của Chính phủ. Luật doanh nghiệp 2005 chưa quy định cụ
thể điều kiện, phương thức, thủ tục chào bán cổ phần riêng lẻ của doanh nghiệp
nhưng đã có những điều chỉnh phù hợp.
2.1.2. Chào bán cổ phần riêng lẻ của các công ty Nhà nước chuyển đổi
thành công ty cổ phần.


Lục Thị Hồng Nhung

25

KT28E

DNNN có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam những năm
qua. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của những doanh nghiệp này chưa cao, phần

lớn kinh doanh không hiệu quả. Nhà nước hàng năm vẫn phải bù lỗ cho những
doanh nghiệp này, gây mất cân đối thu chi ngân sách Nhà nước. Nhiều phương
thức được áp dụng để đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp này như CPH, giao,
bán, khoán cho thuê, giải thể, phá sản... trong đó CPH được coi là trọng tâm.
CPH thực chất là việc chuyển doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước thành doanh
nghiệp có nhiều chủ sở hữu bao gồm các pháp nhân, cá nhân thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau.
Quá trình CPH được bắt đầu từ những năm 90 và trải qua nhiều thăng trầm.
Giai đoạn đầu tiên (1992 – 1996) chỉ CPH được 5 doanh nghiệp đó là Công ty
cổ phần giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp, Công ty cổ phần chế biến thức ăn
gia súc thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Công ty cổ phần Cơ điện
lạnh thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh... [4, tr.58]
Sau hơn 15 năm, quá trình CPH DNNN thu được nhiều thành quả đáng
khích lệ. Tính đến tháng 8/2006, cả nước đã sắp xếp được 4.447 DNNN, trong
đó CPH là 3.060 doanh nghiệp [20, tr.24], các hình thức khác như giao, bán,
khoán, cho thuê... chiếm khoảng 31,1% trong tổng số các doanh nghiệp được
sắp xếp lại. Tuy nhiên, kết quả này đã tương xứng với tiềm năng và công sức mà
chúng ta bỏ ra? Tại sao tốc độ CPH chậm, nhiều mục tiêu CPH không đạt được?
Có rất nhiều nguyên nhân bởi đây là một hoạt động phức tạp và nhạy cảm, liên
quan đến quyền lợi của nhiều chủ thể.
Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về chuyển
công ty nhà nước thành công ty cổ phần và Thông tư 126/2004/TT-BTC ngày
24/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 187/2004/NĐ-CP
là những văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động này còn tồn
tại nhiều bất cập, cần sửa đổi, bổ sung.
* Đối tượng và điều kiện cổ phần hoá:


×