Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

tiểu luận cao học kinh dien tư TƯỞNG của c mác – PH ĂNGGHEN về đấu TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA cơ hội (hữu KHUYNH và tả KHUYNH) TRONG CHÍNH ĐẢNG của GIAI cấp CÔNG NHÂN QUA các tác PHẨM đã GIỚI THIỆU, NGHIÊN cứu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.14 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
Ngày 05/05/1818, ở thành Phố Trier cổ kính Miền Tây nước Đức đã sinh ra một
con người mà cuộc đời và sự nghiệp sẽ sống mãi trong trái tim, khối óc của hàng triệu,
hàng triệu con người yêu tự do, hoà bình, công lý và chính nghĩa, một con người mà
chính kẻ thù tư tưởng phải nghiêng mình kính phục trước đạo đức sáng ngời và trí tuệ
uyên bát. Con người ấy chính là Các Mác. C.Mác –Ph.Ăgghen là hai người đầu tiên đảm
đương sứ mệnh lịch sử vĩ đại là xây dựng lý luận cách mạng cho giai cấp công nhân; qua
đó “Làm cho giai cấp công nhân hiểu rõ địa vị của mình và đem khoa học thay thế cho
mộng tưởng”. Những tư tưởng về đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và tả
khuynh trong chính Đảng của giai cấp công nhân được thể hiện qua một số tác phẩm của
C.Mác –Ph. Ăgghen như: “Điều lệ của liên đoàn những người cộng sản”; “Phê phán
Cương lĩnh Gôta”; “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”. Qua các tác phẩm này, hai ông đã
dựa trên những quan điểm khoa học và kinh nghiệm thực tiễn để đấu tranh, vạch trần
quan điểm cơ hội, xét lại, bảo thủ của phái Pruđông, Bacumin, Látxan; chủ nghĩa xã hội
phong kiến, tiểu tư sản và chủ nghĩa xã hội tư sản.
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng cộng sản Việt Nam lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, kiên định với con đường và sự
nghiệp của nhân dân đã lựa chọn.Trong sự nghiệp cách mạng ấy,nếu trong Đảng có kẻ cơ
hội thì chúng sẽ làm cho Đảng xa rời quần chúng, xa rời nền tảng tư tưởng, lợi ích của
dân tộc, xa rời lý tưởng cao đẹp nhằm mưu cầu lợi ích cho cá nhân và như vậy sớm hay
muộn, Đảng sẽ làm mất niềm tin trong nhân dân và ngay trong chính nền tảng tư tưởng
của giai cấp. Chính vì vậy việc tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng tư tưởng của C.MácPh.Ăngghen vào công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội là rất cần thiết.Từ sự cần
thiết đó, em chọn đề tài: “Tư tưởng của C.Mác- Ph.Ăngghen trong đấu tranh chống
chủ nghĩa cơ hội (hữu khuynh và tả khuynh) trong chính Đảng của giai cấp công
nhân qua các tác phẩm đã nghiên cứu, giới thiệu” làm đề tài của tiểu luận môn học
1


“Giới thiệu tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, Lê-nin, Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
và chính quyền nhà nước”.


2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
-Mục đích của tiểu luận là góp phần tìm hiểu sâu hơn nữa những luận điểm của
Mác- Ăngghen về chủ nghĩa cơ hội (tả khuynh và hữu khuynh) trong các tác phẩm được
giới thiệu.
-Nhiệm vụ của tiểu luận là:
+Làm rõ khái niệm về chủ nghĩa cơ hội ( tả khuynh và hữu khuynh)
+Đưa ra những nhận định của C.Mác- Ăngghen về sự nguy hiểm và đấu tranh với chủ
nghĩa cơ hội
- Phạm vi nghiên cứu đề tài: các tác phẩm của C.Mác- Ăngghen được giới thiệu trong
chương trình học, như: “Điều lệ của liên đoàn những người cộng sản”; “Phê phán Cương
lĩnh Gôta”; “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.
3. Cơ sở lý luận, thực tiễn và
phương pháp nghiên cứu của luận văn.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn: Tiểu luận được nghiên cứu trên cơ sở lý luận là các tác
phẩm chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, các chủ trương,
đường lối của Đảng. Đồng thời, tiểu luận còn dựa trên cơ sở thực tiễn trong công cuộc
đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn của Đảng ta.
-Phương pháp nghiên cứu: Em sử dụng chủ yếu các phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênnin để thực hiện đề tài. Đối với những phương pháp nghiên cứu cụ thể, em sử
dụng: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương
pháp so sánh, phương pháp quy nạp, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn
v.v…

2


PHẦN II
NỘI DUNG
Chương I
CHỦ NGHĨA CƠ HỘI HỮU KHUYNH VÀ TẢ KHUYNH

1/ Tìm hiểu các khái niệm liên quan:
1.1 Chủ nghĩa cơ hội:
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chủ nghĩa cơ hội như sau:
-Theo Đại từ điển Tiếng Việt năm 1999, Nhà xuất bản Thông tin- Văn hóa, do
Giáo sư.PTS Nguyễn Như Ý chủ biên:
“Chủ nghĩa cơ hội là chủ nghĩa của những người chủ trương và hành động vô
nguyên tắc, hi sinh cái cơ bản để đặt lợi ích cục bộ trước mắt, sẵn sàng thỏa hiệp chính
trị.”
-Trong cuốn Từ Điển Chính Trị của Liên Xô thì định nghĩa như sau:
Chủ nghĩa cơ hội là chính sách tuỳ thời, thỏa hiệp giai cấp thù địch với Chủ nghĩa
Mác – Lênin. Trong phong trào công nhân, chủ nghĩa cơ hội biểu hiện trong việc từ bỏ
các biện pháp đấu tranh cách mạng hợp tác với các Chính Phủ Tư bản chủ nghĩa và Đế
quốc chủ nghĩa.
-Theo Từ Điển tiếng việt năm 2001, của nhà xuất bản Đà Nẳng:
Chủ nghĩa cơ hội (danh từ): là quan điểm, chủ trương lợi dụng cơ hội, mưu cầu
những lợi ích trước mắt và cục bộ, bất kể việc làm đúng hay sai; là khuynh hướng tư
tưởng- chính trị trong phong trào công nhân, chủ trương chính sách tuỳ thời, thỏa hiệp.
Vậy chủ nghĩa cơ hội là hệ thống quan điểm, quan niệm được thể hiện thông qua
các trào lưu xã hội, phản ánh tư tưởng và lợi ích của tầng lớp tiểu tư sản trong phong trào
công nhân, hướng phong trào công nhân đi vào con đường cải lương xã hội ngược lại
những giá trị của Chủ nghĩa Mác – Lênin.
1.2 Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh:
-Trong cuốn từ điển Chính trị của Liên Xô đưa ra định nghĩa sau:
3


Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh là lý thuyết và sách lược của lớp công nhân quý tộc
đã tư sản hóa, các tầng lớp trung gian trong xã hội Tư bản, ủng hộ phong trào tự phát của
công nhân, chối từ cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự cần thiết phải giành chính quyền về
tay giai cấp công nhân.

-Theo từ điển tiếng việt năm 2001 của nhà xuất bản Đà Nẵng:
Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh là chủ nghĩa cơ hội kết hợp lý thuyết của chủ nghĩa
cải lương với phương châm sách lược thỏa hiệp. Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh có xu
hướng chính trị thiên về bảo thủ, thỏa hiệp, làm cách mạng không triệt để, đối lập với tả
khuynh.
Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh là sùng bái tính tự phát, theo khuynh hướng cải
lương. Nó hy vọng chủ nghĩa tư bản biến thành chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa cơ hội hữu
khuynh nó dung hòa các quan điểm chính trị khác nhau trong Đảng, trong xã hội.
1.3 Chủ nghĩa cơ hội tả khuynh:
-Trong cuốn từ điển Chính trị của Liên Xô:
Chủ nghĩa cơ hội tả khuynh là quan điểm cách mạng cực đoan và phiêu lưu của các
tiểu chủ bị phá sản và các phần tử mất bản chất giai cấp; giữ, nhận định tuỳ tiện về sức
mạnh vạn năng của bạo lực cách mạng mưu toan đẩy phong trào công nhân vào con
đường phưu lưu chính trị.
-Theo từ điển tiếng việt năm 2001 của nhà xuất bản Đà Nẵng:
Chủ nghĩa cơ hội tả khuynh là chủ nghĩa cơ hội mà bản chất được che đậy, biểu
hiện bên ngoài là một sự hỗn hợp những nguyên lý cách mạng cực đoan với những
phương châm sách lược phiêu lưu dựa trên ý chí luận.
Cơ hội “tả” khuynh là sự hỗn tạp của các phương châm cách mạng cực đoan, dựa
trên cơ sở duy ý chí, đề cao vai trò bạo lực cách mạng, tuyệt đối hóa bạo lực cách mạng.
Nó đẩy phong trào cách mạng sang con đường phưu lưu mạo hiểm.
1.4 Giai cấp công nhân:
Theo quan điểm của C.Mác –Ph. Ăgghen: Giai cấp công nhân là một tập đoàn
người ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp, họ là
những người lao động trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất vật chất và dịch vụ, trực tiếp
4


tham gia vào quá trình tạo ra giá trị vật chất cho xã hội, là giai cấp đại biểu cho phương
thức sản xuất tiên tiến nhất trong thời đại ngày nay, có sứ mệnh lãnh đạo xây dựng xã hội

mới trong thực tế; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội.
2. Đặc điểm của chủ nghĩa cơ hội:
Chủ nghĩa cơ hội thường thể hiện lập trường trung dung đứng giữa, những người
theo chủ nghĩa cơ hội thường tránh thể hiện lập trường của mình trước công luận. Đó là
những người đứng giữa, rất khó hiểu.
Chủ nghĩa cơ hội rất khó phát hiện, những kẻ cơ hội luôn tìm mọi cách thích nghi
với mọi vấn đề, mọi lĩnh vực làm sao có lợi nhất cho cá nhân họ; luôn làm vừa lòng cấp
dưới, đẹp lòng cấp trên, lập trường ngả nghiêng, thiếu kiên định… con đường phấn đấu
của những người này không phải là ở uy tín, năng lực, trình độ trí tuệ; không phải là huy
động sức mạnh của quần chúng mà là bằng con đường nịnh bợ, luồng cuối, thấp hèn miễn
sao giúp họ đạt được mục tiêu, là những kẻ ném đá dấu tay đứng phía sau bức màn để
kích động, xúi dục người khác; những đối tượng này ít bày tỏ quan điểm, lập trường,
chứng kiến rõ ràng, cái gì cũng thể hiện chung chung mà ở đâu cũng đúng; gió chiều nào
họ sẽ chuyển theo chiều đó.
Khi buộc phải tỏ rõ quan điểm, chủ nghĩa cơ hội thường biểu hiện ở hai dạng:
+ Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh
+ Chủ nghĩa cơ hội “tả” khuynh.
Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh thường công khai bộc lộ khuynh hướng đầu hàng,
thoả hiệp với giai cấp tư sản chống lại giai cấp vô sản; còn thể hiện sự run sợ trước sức
mạnh của các phe đối lập, thiếu quyết đoán, kiên quyết, không dám hành động, sợ rệt.
Những người theo chủ nghĩa này thường rất bảo thủ, trì trệ, có sự chùn bước trước sức
mạnh của kẻ thù dẫn đến thủ tiêu giai cấp, phủ nhận nguyên lý của Chủ nghĩa Mác –
Lênin; họ luôn muốn giữ nguyên hiện trạng, ít chịu thay đổi, không thích va chạm, đảo
lộn, dù cho đó là việc làm có lợi cho cách mạng. Cho nên làm cho cách mạng giẫm chân
tại chổ, không phát triển được, thậm chí có lúc còn gây thất bại nặng nề.
5


Chủ nghĩa cơ hội “tả” khuynh thường biểu hiện sự nóng vội, muốn đốt cháy giai

đoạn mà không tính đến khả năng, điều kiện thực tiễn khách quan cho phép nên dễ thất
bại. Về thực chất, đây là thứ chủ nghĩa cơ hội không xét đến điều kiện khách quan của
cách mạng mà dùng những lý lẻ thiếu căn cứ, sáo rỗng để lừa phỉnh nhân dân đó thể hiện
sự yếu kém về mặt lý luận. Chủ nghĩa cơ hội “tả” khuynh thường nêu những khẩu hiệu
cách mạng cực đoan, cách mạng đầu lưỡi, làm ra vẻ cách mạng hơn cả những người Mácxít chân chính nhưng lại dẫn cách mạng đi đến con đường tổn thất nặng nề và thất bại.
Cả hai dạng trên dù là “hữu” hay “tả” khuynh cũng đều sai lầm như nhau và sớm
hay muộn nó cũng hợp nhất lại “dưới ngọn cờ của chủ nghĩa chống cộng sản”.
3. Nguồn gốc xuất hiện chủ nghĩa cơ hội:
Chủ nghĩa cơ hội xuất hiện vào thời kỳ phong trào công nhân chống giai cấp tư sản
phát triển mạnh mẽ. Là hệ thống ý thức, tư tưởng, quan điểm phản ánh những ảnh hưởng
của hệ tư tưởng tư sản trong phong trào công nhân. Chúng ta cần xem xét ở hai gốc độ
khác nhau, đó là nguồn gốc giai cấp và nguồn gốc xã hội.
Về nguồn gốc giai cấp:
Trong cuộc đấu tranh gây gắt giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản sẽ xuất hiện
những phần tử, giai cấp không theo tư sản hay vô sản, có thể là tầng lớp trung gian.
Nguồn gốc giai cấp của chủ nghĩa cơ hội xuất hiện từ giai cấp chiếm số đông trong xã hội
và đang tồn tại ở hầu hết các nước trên thế giới. Đó là giai cấp tiểu tư sản, họ vừa là bạn
đồng minh của giai cấp vô sản, vừa là người sẳn sàng tiếp tay cho giai cấp tư sản, chống
lại giai cấp vô sản khi quyền lợi của cá nhân họ bị xâm phạm.
Do vị trí xã hội của giai cấp tiểu tư sản là tầng lớp đệm, trung gian trong xã hội Tư
bản, nó đứng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Xét ở khía cạnh kinh tế thì giai cấp
tiểu tư sản là lực lượng của nền sản xuất nhỏ, nền sản xuất có xu hướng tự phát theo
khuynh hướng tư bản chủ nghĩa. Nhưng khi gặp rủi ro trong sản xuất, đứng trước nguy cơ
bị phá sản thì họ rơi vào hàng ngũ vô sản và trở thành “bạn đường của giai cấp vô sản”;
những người bạn đường này còn có thể trở thành những tầng lớp đa dạng khác trong xã
hội như nhà “hàn lâm tiểu tư sản”, “Trí thức” tiểu tư sản… và đem tâm lý tiểu tư sản ấy
thâm nhập vào giai cấp công nhân, các Đảng cộng sản. Khi giai cấp công nhân đã trở
6



thành giai cấp cầm quyền, ở các nước xã hội chủ nghĩa vẫn còn tồn tại những yếu tố tàn
dư của nền kinh tế tiểu nông, mà phần đông đảng viên của chúng ta xuất thân từ tầng lớp
nông dân, tiểu tư sản. Đó chính là nguyên nhân sâu xa xuất hiện những khuynh hướng tư
tưởng đối lập với học thuyết cách mạng, khoa học của giai cấp vô sản, cũng từ đây chủ
nghĩa cơ hội xuất hiện.
Về nguồn gốc xã hội:
Cơ sở xã hội của chủ nghĩa cơ hội là những phần tử tiểu tư sản, trí thức, những
công nhân quý tộc đã đầu hàng giai cấp tư sản trong nước hoặc đế quốc thực dân bên
ngoài. Nguyên nhân xuất hiện các tầng lớp trung gian là do những thủ đoạn, chính sách
thống trị của giai cấp tư sản và sự phồn vinh tạm thời của chủ nghĩa tư bản. Ở xã hội tư
bản lúc đó, dưới những hành động đàn áp khốc liệt của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô
sản và nhân dân lao động đã làm cho một bộ phận nhân dân vô cùng kinh sợ, có tâm lý
dao động, cầu an, an phận, cam chịu, thờ ơ…sẽ rẽ sang khuynh hướng đầu hàng chủ
nghĩa tư bản. Mặt khác, chủ nghĩa tư bản còn dùng những thủ đoạn mị dân, mua chuộc,
lôi kéo tầng lớp trung gian đứng về phía mình và chính từ đây xuất hiện những công nhân
quý tộc những công nhân quan liêu ngay trong giai cấp công nhân hiện đại. Giai cấp công
nhân đấu tranh không chỉ để cải thiện điều kiện sống mà phải đạt được mục đích là thủ
tiêu giai cấp tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa.
4. Bản chất, biểu hiện, tác hại của chủ nghĩa cơ hội:
4.1

Bản chất của chủ nghĩa cơ hội:

Bản chất của chủ nghĩa cơ hội chính là những dòng tư tưởng xuất hiện trong lòng
chủ nghĩa Mác, lúc đầu là tâm trạng, sự hoài nghi, đòi lật lại vấn đề phát triển trở thành
một tổ chức chống phá các chính Đảng của giai cấp vô sản; bản chất của chủ nghĩa cơ hội
còn là sự vụ lợi. Chủ nghĩa cơ hội có mặt ở bất cứ đâu, bất cứ chỗ nào nếu như ở đó có
quyền, có lợi. Nơi nào càng tập trung nhiều quyền lực thì nơi đó càng có nhiều lợi ích vật
chất thì chủ nghĩa cơ hội càng nhiều, càng phát triển. Đây là thứ chủ nghĩa lấy chủ trương
hoạt động vô nguyên tắc, lấy hành động vô nguyên tắc làm định hướng cho con đường đi

của mình, lấy lợi ích của chính mình đặt lên trên lợi ích của tập thể, của nhân dân. Chúng
sẵn sàng thoả hiệp với mọi thế lực để mưu cầu cho lợi ích cá nhân. Những kẻ cơ hội chủ
7


nghĩa hay tìm đến những người cho họ "cơ hội": "cơ hội" làm giàu bất hợp pháp, "cơ hội"
giữ vị trí này vị trí nọ trong Ðảng và trong xã hội, "cơ hội" chạy tội khi phạm tội ...
Chủ nghĩa cơ hội chính là những tư tưởng và khuynh hướng chính trị đối địch với
những nguyên lý cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác; sự tồn tại của những tàn dư
của hệ tư tưởng tư sản, tiểu tư sản và phong kiến vẫn còn trong phong trào cộng sản, công
nhân quốc tế. Chừng nào Chủ nghĩa Mác còn phát huy tác dụng, sức ảnh hưởng của nó
trong phong trào công nhân thì chủ nghĩa cơ hội càng ra sức chống lại học thuyết Mác
một cách mạnh mẽ, quyết tâm “đào sâu, chôn chặt” học thuyết này. Qua quá trình nghiên
cứu chúng ta đã biết sứ mệnh của chủ nghĩa Mác là góp phần vào việc lật đổ xã hội tư
bản chủ nghĩa, tham gia vào việc giải phóng giai cấp vô sản hiện đại, tức là thủ tiêu giai
cấp tư sản- kẻ đại diện cho sự áp bức giai cấp. Chính vì vậy mà khó có thể trông chờ vào
lòng khoan dung của giai cấp tư sản đối với chủ nghĩa Mác, như vậy thì thật là ảo tưởng
khi mà chúng ta lại không tự phòng vệ mình trước sự phá hoại của các phe đối lập; những
kẻ vốn bài xích, xuyên tạc với nhiều luận điệu cho rằng chủ nghĩa Mác đã lỗi thời, đang
giãi chết…bọn cơ hội đã núp sau chủ nghĩa Mác để lừa dối giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gotha”, C.Mác viết: “Những yêu
sách chính trị của bản cương lĩnh chẳng chứa đựng cái gì khác hơn là bài kinh dân chủ
mà mọi người đều biết: quyền đầu phiếu phổ thông, quyền lập pháp trực tiếp, dân quyền,
dân vệ….những yêu sách đó chỉ là tiếng vọng của Đảng nhân dân tư sản, của tổ chức
Liên đoàn vì hòa bình và tự do. Đó toàn là những yêu sách nếu không phải bị cường điệu
lên thành những quan niệm kỳ dị thì cũng là những yêu sách đã được thực hiện rồi” 1. Từ
câu phê phán trên để thấy rõ những kẻ cơ hội đã dựng lên bức màn che đậy cho những
hành vi của mình và đứng đằng sau nó cho thật công chính ngôn thuận là đưa ngay vào
bản Cương lĩnh chính trị của Đảng làm cho mọi người tin tưởng, công nhận họ thật chân
chính, khoa học vì lợi ích của đa số nhưng thực tế thì trái ngược.

Chủ nghĩa cơ hội tìm cách sửa chữa chủ nghĩa Mác bằng cách lấy từ Chủ nghĩa
Mác những điều mà giai cấp tư sản cho là chấp nhận được nhưng lại vứt bỏ đi các nguyên
lý cách mạng khoa học, linh hồn sống của Chủ nghĩa Mác. Do đó, chúng ta phải luôn
1

C.Mác-Ph.Ăgghen: tuyển tập, Nxb sự thật, HN-1983, tập 4, tr491.

8


luôn cảnh giác trước những âm mưu chống phá của chủ nghĩa cơ hội để xây dựng nên
chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân ngày càng phát triển ngang tầm thời đại.
4.2

Biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội:

Ngày nay, chủ nghĩa cơ hội biểu hiện rất đa dạng và phức tạp, núp dưới nhiều hình
thức khác nhau nhưng chung quy lại là không vì lợi ích tập thể, lợi ích quốc gia, dân tộc
mà vì lợi ích của cá nhân hay một nhóm người có quyền lực. Biểu hiện của chủ nghĩa cơ
hội có thể khái quát ở những dạng như sau:
+ Hy sinh lợi ích của giai cấp công nhân, đem lợi ích của giai cấp công nhân phục
vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản.
+ Phản bội sự nghiệp của giai cấp công nhân, từ bỏ phương pháp cách mạng và
mục tiêu cách mạng.
+ Từ chính sách cải lương xã hội đi đến hợp tác với giai cấp tư sản để chống lại
giai cấp vô sản và Đảng cộng sản.
- Biểu hiện của những người theo chủ nghĩa cơ hội thường thể hiện ở các điểm sau:
thiếu quan điểm dứt khoát trước những cuộc tấn công sống mái và né tránh trước những
quyết định có tính bước ngoặt lịch sử; khi đấu tranh họ dễ dàng dao động, hoảng sợ trước
sức mạnh của kẻ thù, các phe đối lập; thiếu lòng tin vào chính bản thân mình và quần

chúng đông đảo.
Những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội từ cổ chí kim, thời nào cũng có, nhưng
thường xuất hiện công khai và phát triển vào lúc cách mạng gặp khó khăn và khi các
quan hệ xã hội có những biến đổi. Nhưng chủ nghĩa cơ hội ngày nay khác với chủ nghĩa
cơ hội “cổ điển” ở chỗ nó khôn khéo hơn, ngụy trang kỹ lưỡng hơn, cho nên dễ lẫn lộn
hơn. Tuy nhiên, chúng cũng có những đặc điểm giống nhau là, trong mọi hành vi và quan
hệ đều xuất phát từ động cơ vụ lợi, nó biểu hiện cụ thể trên các mặt như:
Về mặt chính trị, đó là sự dao động về mục tiêu lý tưởng và nguyên tắc xây dựng
Đảng; tê liệt ý chí chiến đấu, thiếu bản lĩnh, không dám đấu tranh với các quan điểm và
hành vi trái Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước. Con người cơ hội là
người không theo một đường lối nào rõ rệt, khi ngã theo phe này, khi lại ngã theo phe kia,
cốt là có lợi cho cá nhân mình.
9


Trong công việc, kẻ cơ hội thường đùn đẩy cho người khác những việc khó khăn,
những việc không “chấm mút” được gì, và chỉ nhận những việc nhẹ nhàng, dễ “kiếm
chác”, nhưng lại dễ nổi danh được nhiều người biết đến. Càng tệ hại hơn là, họ sẽ đổ lỗi
cho người khác khi có sai lầm, khuyết điểm, nhưng khi có công lao, thành tích thì họ vơ
tất cả vào mình, xung phong nhận lĩnh thành tựu.
Trong quan hệ xã hội, kẻ cơ hội thường hay “ba phải”, thấy đúng không dám công
khai ủng hộ, bảo vệ, thấy sai không dám mạnh dạng đấu tranh, phê phán, sống theo kiểu
xuê xoa “dĩ hòa vi quý”. Gặp ai, kẻ cơ hội cũng vui vẻ tươi cười rất thân tình đồng chí,
đồng đội; cởi mở làm cho nhiều người lầm tưởng họ hiền lành, có quan hệ quần chúng
tốt. Nguy hiểm hơn là kẻ cơ hội tùy thời, gió chiều nào che chiều ấy, sống theo kiểu nữa
vời, không có lập trường quan điểm rõ ràng. Kẻ cơ hội xu nịnh cấp trên hết mực và
ngược lại ức hiếp cấp dưới không thương tiếc; kẻ cơ hội thường “làm thì láo, báo cáo thì
hay”, thổi phồng thành tích của bản thân, đơn vị, lừa gạt cấp trên, dối cấp dưới.
4.3


Tác hại của chủ nghĩa cơ hội:

Tác hại của chủ nghĩa cơ hội vô cùng nguy hiểm, tai hại là nó sẽ làm giảm sút vai
trò, uy tín của một chính Đảng, một nhà nước chân chính; là kẽ hở để kẻ thù lợi dụng
kích động, xuyên tạc và phá hoại thành quả cách mạng, kẻ phá hoại đất nước, nó không
bộc lộ quan điểm rõ ràng, rất khó phát hiện và phân định; khi chúng ta phát hiện được
bản chất cơ hội thực sự của nó thì việc đấu tranh chống lại lúc này thật không dễ dàng bởi
có thể nói lúc đó chủ nghĩa cơ hội đã gây dựng thành một cơ sở đủ mạnh công khai tuyên
chiến với các chính Đảng của giai cấp công nhân.
Chính nghĩa bao giờ cũng thuộc về đại đa số quần chúng đông đảo trong xã hội,
mà những người cộng sản chân chính luôn luôn tỏ rõ lập trường, quan điểm cụ thể theo
hệ tư tưởng của giai cấp mình. Đó là điểm mạnh của chúng ta nhưng lại là điểm kẻ thù lợi
dụng để phá hoại chúng ta. Song những người cơ hội thường rất khôn khéo, họ luôn tìm
mọi cách nguỵ trang cho bản thân họ một lớp “vỏ bộc đường” để mọi người lầm tưởng
họ đầy nhiệt huyết đang ủng hộ chúng ta, là đồng đội của chúng ta … nhưng thực tế thì
trái ngược. Ở đâu có chủ nghĩa cơ hội thì ở đó không còn tình nghĩa, công lý mà chỉ là sự
vụ lợi, lợi dụng lẫn nhau mà thôi. Quả thật rất đáng sợ khi xung quanh chúng ta, ở đâu đó
10


đang còn những kẻ cơ hội tồn tại và sẽ ra những đòn bất ngờ mà chúng ta không thể ngờ
tới được.
Chủ nghĩa cơ hội chui sâu vào các chính Đảng, vào các cơ quan nhà nước để tranh
giành quyền lực. Khi có quyền lực rồi thì chúng sẽ tác oai tác quái, chia bè kéo cánh, cục
bộ bản vị, biến cái tốt thành cái xấu; với các thủ đoạn, báo cáo sai, nói một đằng làm một
nẻo, bao che cho kẻ xu nịnh, che chắn cho kẻ có tội, tìm mọi cách đưa những người trung
thực ra khỏi guồng máy của tổ chức đảng, nhà nước. Tệ tham nhũng, hối lộ, chia chác,
khai gian, không trung thực…. và tất cả những tệ nạn hại dân, hại nước đều có nguyên
nhân từ đây. Và cũng từ đó mà làm cho lòng dân bất ổn, mất niềm tin vào chính Đảng của
giai cấp công nhân, vào chế độ. Chủ nghĩa cơ hội càng leo cao chui sâu, càng có quyền

lực thì sự nguy hại cho tổ chức Đảng, cho nhân dân, cho đất nước càng lớn. Vì khi có
quyền lực, có tiền, chúng càng lũng đoạn nhiều hơn, phá hoại đất nước nhiều hơn. Kẻ phá
hoại tổ chức Đảng của giai cấp công nhân không ai khác, chính là những kẻ có tư tưởng
chủ nghĩa cơ hội.
Chủ nghĩa cơ hội có tác hại ảnh hưởng vô cùng to lớn đến sự hưng thịnh, suy vong
của một tổ chức, một chính Đảng, một chế độ xã hội, một quốc gia dân tộc và những kẻ
cơ hội sẳn sàng rời bỏ lập trường, quan điểm của mình để hợp tác với phe đối lập miễn
sao có lợi cho cá nhân những người đó.
Ngày nay chủ nghĩa cơ hội ngày càng phát triển rất tinh vi, phức tạp và đa dạng
dưới nhiều hình thức khác nhau, rất khó phân biệt rõ đâu là bạn, đâu là thù, rất dễ nhầm
lẫn trách oan người ngay thẳng, trung thực. Vì lẻ đó mà trong quyển sách :“Việt Nam và
thế giới trong thế kỷ XX ”. Ông Nguyễn Khắc Huỳnh đã viết : “ Ngưòi ta lớn tiếng phê
phán nhau “cơ hội” đến mức không phân biệt được ai “cơ hội”, ai đúng đắn; và cũng
thường dễ thấy – như ở Việt Nam hiện nay – Kẻ cơ hội lại cao giọng phê phán người có
tâm huyết là cơ hội ”.
Chính chủ nghĩa cơ hội lại sinh ra bệnh cá nhân chủ nghĩa nó thể hiện ra như việc
ngại gian khổ, khó khǎn, sa vào tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, không thích làm việc
chỉ thích hưởng thụ; họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi
thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền; xa rời quần chúng, xa
11


rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh, không có tinh thần vượt khó vươn lên, không
chịu học tập để tiến bộ. Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà gây ra mất đoàn kết nội bộ, thiếu
tính tổ chức, tính kỷ luật, thiếu tinh thần trách nhiệm trong công việc, không chấp hành
đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, làm hại đến
lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích
riêng tư của mình , không quan tâm đến lợi ích của tập thể, cộng đồng. Cho nên có thể
coi như "Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi thói hư tật xấu của con người: lười biếng, so bì, kiêu
căng, kèn cựa, địa vị, nhút nhát, lãng phí, tham ô v.v... và nó là kẻ thù của chủ nghĩa xã

hội".
Chương II
TƯ TƯỞNG CỦA C. MÁC- PH.ĂNGGHEN VỀ ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ
NGHĨA CƠ HỘI “HỮU KHUYNH” VÀ “TẢ KHUYNH” QUA CÁC TÁC PHẨM
NGHIÊN CỨU.
2.1 Cuộc đấu tranh chống phái Pruđông:
Phái Pruđông chủ trương bảo vệ và ủng hộ chủ nghĩa tư bản. Phái này chỉ muốn
xoá đi cái “không tốt” của chủ nghĩa tư bản và xây dựng cái “tốt” đẹp nhằm duy trì vĩnh
viễn chế độ tư hữu. Mặt khác, họ còn chống lại phương thức đấu tranh chính trị của giai
cấp công nhân, chống lại việc tổ chức bãi công, coi việc thành lập các hợp tác xã là
nhiệm vụ chủ yếu của phong trào công nhân, bảo vệ quyền tư hữu ruộng đất, phủ nhận
đấu tranh chính trị và mọi hình thức nhà nước, cả chuyên chính vô sản. Cho nên đấu
tranh chống chủ nghĩa Pruđông là yêu cầu bức thiết nhằm giác ngộ và nâng cao ý thức tổ
chức đấu tranh của giai cấp công nhân. Cuộc đấu tranh này diễn ra gây gắt và chiếm
nhiều thời gian trong chương trình nghị sự của hai đại hội đầu tiên trong Quốc tế I.
C.Mác cho rằng những người theo phái này thường họ chỉ biết “lấy tài ba cá nhân của họ
để thay thế hoạt động xã hội; lấy những điều kiện tưởng tượng thay cho những điều kiện
lịch sử của sự giải phóng; đem một tổ chức xã hội do bản thân họ hoàn toàn tạo ra, thay
thế cho sự tổ chức một cách tuần tự và tự phát của giai cấp vô sản thành giai cấp. Đối với

12


họ, tương lai của thế giới sẽ được giải quyết bằng cách tuyên truyền và thực hành những
kế hoạch tổ chức xã hội của họ”2.
2.2. Đấu tranh chống chủ nghĩa Công đoàn Anh:
Đồng thời với việc chống lại phái Pruđông, C,Mác – Ph.Ăgghen còn phải đấu tranh
chống lại bọn thủ lĩnh cơ hội của Công đoàn Anh. Trong giai đoạn này kinh tế tư bản chủ
nghĩa khá phát triển đã làm cho một số công nhân có tay nghề giỏi được trả lương cao và
những người này biến thành tầng lớp trên của giai cấp công nhân, đó là tầng lớp “công

nhân quý tộc”. Do bị mua chuộc nên các lãnh tụ Công đoàn Anh không muốn tiếp tục
đưa quần chúng đi theo con đường đấu tranh cách mạng; các Công đoàn chủ yếu mang
tính chất tổ chức liên hợp giữa các nghề nghiệp trong phạm vi hẹp, ít đoàn kết với nhau.
Các hoạt động ở đây chủ yếu nhằm vào mục tiêu kinh tế, chưa quan tâm nhiều đến đấu
tranh chính trị và chỉ dừng lại ở việc đấu tranh giành quyền bầu cử, chống lại một vài đạo
luật đàn áp công nhân; và hoạt động nhằm đưa lại quyền lợi cho tầng lớp công nhân quý
tộc.
Trong đấu tranh chống phái cơ hội chủ nghĩa Công đoàn Anh là thái độ đối với
phong trào giải phóng dân tộc Ailen; đây là điều kiện đầu tiên để giải phóng giai cấp công
nhân Anh góp phần nâng cao tinh thần quốc tế vô sản của công nhân, ngăn ngừa sự ảnh
hưởng lôi kéo của giai cấp tư sản đối với một bộ phận công nhân. Nhưng bọn thủ lĩnh cơ
hội chủ nghĩa Công đoàn Anh đi theo chính sách phản động, biện hộ cho việc nô dịch.
C.Mác đã khái quát sự che đậy của bọn cơ hội như sau: “Các ngài quý tộc ấy đã giương
cái bị ăn mày lên làm cờ để lôi kéo nhân dân theo họ, nhưng nhân dân vừa chạy lại thì
trông thấy ngay những huy chương Phong kiến cũ đeo sau lưng họ, thế là nhân dân liền
tản đi và phá lên cười một cách khinh bỉnh. Một bộ phận của phái chính thống Pháp và
phái nước Anh trẻ đã diễn tấu hài kịch ấy” 3.
2.3 Đấu tranh chống phái Bacumin:
Cuộc đấu tranh của C.Mác- Ph.Ăgghen chống chủ nghĩa vô chính phủ của
Bacumin diễn ra vô cùng quyết liệt và gây gắt. Bởi vì chủ nghĩa Bacumin phản ánh quan
2
3

C.Mác- Ph.Ăgghen: tuyển tập, Nxb Sự thật, HN- 1980, tập I, tr581.
C.Mác- Ph.Ăgghen: Tuyển tập, tập I, Nxb Sự thật, HN- 1980, tr571.

13


điểm, tư tưởng của những người tiểu tư sản đã bị phá sản không còn hy vọng để vớt

được, trong họ biểu lộ tâm trạng bất mãn, tuyệt vọng của tầng lớp thợ thủ công, tiểu tư
sản thành thị. Chủ nghĩa Bacumin lên án tất cả mọi chính Phủ, coi Chính Phủ và tôn giáo
là nguồn gốc mọi sự đau khổ của loài người. Họ đòi xoá bỏ mọi hình thức chính quyền,
kể cả chuyên chính vô sản bằng các cuộc bạo động có tính chất âm mưu, khước từ mọi
hoạt động chính trị của giai cấp công nhân, ngoài ra còn chủ trương thực hiện nguyên tắc
cá nhân ngự trị hoàn toàn với khẩu hiệu “Tất cả vì cá nhân” và thật là sai lầm khi họ cho
rằng giải phóng cá nhân là điều kiện để giải phóng quần chúng; xóa bỏ quyền thừa kế là
biện pháp thủ tiêu chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa Mác chủ trương thực hiện chuyên chính vô sản, giai cấp công nhân đấu
tranh để thủ tiêu các giai cấp bóc lột còn chủ nghĩa Bacumin thì phất lên ngọn cờ vô
chính phủ và đưa ra khẩu hiệu :bình đẳng giữa các giai cấp” từ chổ đối lập đã đi đến phủ
nhận Chủ nghĩa Mác. C.Mác cho rằng giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách
mạng xã hội chủ nghĩa thông qua chính Đảng của mình thì Bacumin lại đi tìm lực lượng
của siêu nhiên, tôn giáo….
2.4. Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội cực đoan (E.Becxtanh).
Becxtanh là thủ lĩnh của chủ nghĩa cơ hội cực đoan của Đảng dân chủ - Xã hội
Đức và Quốc tế II, là nhà lý luận của chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cải lương. Từ lập
trường cánh hữu, Becxtanh đã trở thành kẻ xét lại những nguyên lý triết học, kinh tế và
chính trị của chủ nghĩa Mác. Becxtanh đã tuyên bố nhiệm vụ cơ bản của phong trào công
nhân là đấu tranh cho những cải cách nhằm cải thiện hoàn cảnh kinh tế dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa.
Công thức cơ hội chủ nghĩa của Becxtanh nêu lên: “Phong trào là tất cả, còn mục
đích cuối cùng chẳng là gì cả”. Chính từ quan điểm đó mà C.Mác-Ph.Ăgghen kịch liệt
phê phán quan điểm cơ hội tả khuynh của chúng, vì đó chỉ là lời hô hào, sáo rỗng, nói
suông, không tính đến hiệu quả của phong trào cách mạng.
Cuối những năm 80 của thế kỷ XIX, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ, các
Đảng xã hội chủ nghĩa thành lập ở nhiều nước. Lúc này quốc tế II được thành lập để đáp
ứng nguyện vọng của phong trào công nhân. Trong quá trình lãnh đạo, C.Mác-Ph.Ăgghen
14



đã đấu tranh rất mạnh mẽ, kiên quyết chống chủ nghĩa cơ hội Bacumin và các phần tử cơ
hội khác chui vào quốc tế I và cũng đã xử lý, khai trừ một số phần tử ra khỏi Đảng.
C.Mác viết : “Công khai đứng ngoài quốc tế, những con người đó không nguy hiểm,
nhưng là những phần tử thù địch nằm trong quốc tế thì chúng sẽ phá vỡ phong trào ở tất
cả những nước mà chúng tìm được đất hoạt động”4.
2.5. Cuộc đấu tranh chống phái Látxan ở Đức:
Ở Đức, năm 1863 có một tổ chức công nhân với tên gọi là “Tổng hội Liên hợp
công nhân Đức” do Phecđinăng Latxan cầm đầu. Latxan là người Mác đã quen biết trước
đây và sớm nhận ra ông theo chủ nghĩa cơ hội, có tư tưởng cải lương muốn thay đổi chế
độ xã hội Đức đương thời Bixmác bằng việc phổ thông đầu phiếu và muốn có một nhà
nước phi giai cấp. Chủ nghĩa Látxan thực chất là chủ nghĩa xã hội dân tộc tiểu tư sản,
mang tính chất cải lương, thỏa hiệp; không dám tiến hành cách mạng xã hội- cách mạng
vô sản và cũng không dám thực hiện chuyên chính vô sản.
Cuộc đấu tranh của C.Mác-Ph.Ăgghen chống lại chủ nghĩa Látxan đã có tác dụng
làm giác ngộ thúc đẩy phong trào công nhân Đức thành lập nên một Đảng hoàn toàn khác
với kiểu của Látxan. Do đó đến năm 1869, Đảng công nhân dân chủ xã hội Đức được
thành lập ở Aidơnách. Tức là giai đoạn này ở Đức có hai tổ chức của công nhân: một lấy
tên là Tổng hội liên hiệp công nhân Đức do Látxan cầm đầu và Đảng xã hội dân chủ Đức
(gọi là Đảng Aidơnách) do Liếpnếch, Bêben lãnh đạo. Sau khi nước Đức thống nhất, vấn
đề thống nhất hai tổ chức giai cấp công nhân cũng được đặt ra. C.Mác- Ph.Ăgghen đã
nhắc nhở các nhà lãnh đạo Đảng Aidơnách đừng nên nóng vội liên hiệp hay hợp nhất.
Nhưng các nhà lãnh đạo của Đảng công nhân dân chủ xã hội Đức đã không làm theo lời
nhắc nhở của C.Mác-Ph.Ăgghen mà họ tiến hành hợp nhất vô điều kiện.
Tháng 5/1875, Đại hội đại biểu đảng liên hiệp đã được triệu tập ở Gotha. Mà người
chủ chốt thảo ra cương lĩnh hợp nhất là Liếpnếch, khi Liếpnếch dự thảo cương lĩnh
C.Mác không biết, sau khi viết xong mới chuyển bản dự thảo cho Mác. Mác rất bất bình
và phẩn nộ trước sự phản bội lại các nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản khoa học được
thể hiện trong cương lĩnh và sự nhượng bộ của Đảng Aidơnách trước phái Látxan một
4


C.Mác-Ph.Ăgghen, toàn tập, Nxb chính trị Matxcơva, tập 33, tr496.

15


cách nhục nhã. C.Mác-Ph.Ăgghen rất quan tâm đến nguyện vọng thống nhất lực lượng
giai cấp công nhân ở Đức, hai ông cũng không phản đối việc hai tổ chức của giai cấp
công nhân cần hợp nhất để tạo nên sức mạnh vì sự nghiệp chung nhưng với điều kiện là
phái Látxan phải từ bỏ những quan điểm phản động của họ và phải tiếp nhận cương lĩnh
của Đảng Aidơnách. Theo C.Mác: Đảng Aidơnách không cần phải học gì ở phái Látxan
cả nhưng những người lãnh đạo đảng lại quá nóng vội muốn hợp nhất. Ngoài ra, Mác còn
phê phán: toàn bộ cương lĩnh là những mớ hỗn độn, những luận điểm mơ hồ, không khoa
học, không cách mạng, hoàn toàn đáng vứt bỏ… trong Đảng suy thoái. Cương lĩnh bao
gồm những tín điều phản động cũ rích được látxan nêu lại trước đó 10 năm, mang những
yêu sách dân chủ tư sản tầm thường, bóp méo xuyên tạc nội dung của “Tuyên ngôn của
Đảng công sản”.
Látxan tuyên bố theo chủ nghĩa Mác nhưng ông lại là người chống chủ nghĩa Mác,
vì vậy ông được nhà nước quân chủ chuyên chế Đức rất ủng hộ. C.Mác đã nhận xét như
sau: Lassalle thuộc làu cuốn “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, cũng như các tín đồ của
ông ta thuộc những thánh thư do ông ta viết ra. Sở dĩ ông ta xuyên tạc cuốn “Tuyên
ngôn” một cách thô bỉ như thế thì đó chỉ là để biện hộ cho sự liên minh của ông ta với
những kẻ thù chuyên chế và phong kiến chống giai cấp tư sản…. “Đây chỉ là một sự láo
xược và thật ra là một sự láo xược tuyệt nhiên không làm cho ông Bismarck khó chịu;
đây là một trong những điều thô bỉ rẻ tiền mà vị Marat thành Béclin vẫn thường nặn ra”.5
Bất chấp sự phê phán gây gắt của C.Mác-Ph.Ăgghen về bản cương lĩnh, Đại hội
đại biểu liên hiệp Gotha vẫn tiến hành hợp nhất, vẫn thông qua bản cương lĩnh đó- gây
bất lợi cho giai cấp công nhân thế giới. Chính sự thoả hiệp này đã trở thành một trong
những nguyên nhân của sự thoái hóa, biến chất của Đảng xã hội dân chủ Đức và sau này
đẻ ra chủ nghĩa cơ hội. Phái Látxan trở thành tiền thân của chủ nghĩa cơ hội trong Đảng

xã hội dân chủ Đức và những tư tưởng của phái Látxan trở thành một trong những nguồn
gốc lý luận của chủ nghĩa cơ hội. Chính trong những điều kiện nêu trên mà C.Mác viết
tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gotha” để chống lại những người theo chủ nghĩa cơ hội,
chủ nghĩa cải lương. Sau đây là những tư tưởng chính của tác phẩm:
5

C.Mác-Ph.Ăgghen: Tuyển tập Nxb Sự thật, Hà Nội- 1983, tập IV, tr483.

16


Lý luận của chủ nghĩa Látxan xoay quanh 4 vấn đề chính:
-Quy luật sắt về tiền công.
-Thành lập các hội sản xuất với sự giúp đỡ của nhà nước quân chủ chuyên
chế.
-Đối lập với giai cấp công nhân các giai cấp khác hợp thành một khối phản
động.
-Liên minh với giai cấp quý tộc, phong kiến để chống lại giai cấp tư sản.
C.Mác đã phê phán cái gọi là “qui luật sắt về tiền công”, tức là những người thảo
ra bản cương lĩnh đã thừa nhận cái gọi là “qui luật sắt về tiền công” của phái Lát xan.
Cương lĩnh nêu vấn đề xóa bỏ qui luật sắt về tiền công, chính là mặc nhiên thừa nhận cái
qui luật ấy tồn tại, mà trên thực tế nó không tồn tại thì lấy cái gì để xoá bỏ. Lát xan dựa
vào thuyết “nhân khẩu thừa” của Mantuýt cho rằng dân số trong xã hội bao giờ cũng thừa
và tư liệu sinh hoạt tăng lên chậm hơn mức tăng của nhân khẩu, do đó công nhân chỉ có
thể thu được tiền công với mức thấp nhất và tự gọi là “qui luật sắt về tiền công”; theo
Mantuýt tình trạng bần cùng hóa giai cấp công nhân là không tránh khỏi vì trên trái đất
vĩnh viễn có nạn “nhân khẩu thừa”nên bao giờ cũng có tình trạng nghèo khổ và chết đói;
công nhân thì ngày càng đông lên tình trạng nghèo khổ của họ là tất nhiên. Do đó, công
nhân có đấu tranh đòi tăng lương cũng vô ích, các tổ chức công đoàn có đứng ra bảo vệ
quyền lợi của giai cấp công nhân cũng vô ích. Tính chất phản động của thuyết Mantuýt

và cái gọi là qui luật sắt về tiền công là ở chỗ đó. C.Mác cho rằng điều đó hoàn toàn là do
sự bịa đặt của phái Látxan chứ không có qui luật nào của kinh tế tư bản chủ nghĩa như
vậy. Song trong cương lĩnh Gotha lại nêu, chính đảng của giai cấp công nhân phải xoá bỏ
hệ thống tiền công theo qui luật sắt của tiền công. Vậy chẳng khác gì cương lĩnh của
Đảng đã tiếp thu quan điểm của phái Látxan đồng thời lại công nhận luôn thuyết
Mantuýt. Thật là hoang đường bởi trong thực tế làm gì có thứ qui luật sắt về tiền công
như vậy; theo học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác, muốn xóa bỏ hệ thống tiền công cần
xóa bỏ lao động làm thuê, có nghĩa là phải xóa bỏ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa. Cho
nên, việc xóa bỏ tiền công được đề ra như một điều chủ yếu và độc lập là không đúng, do
17


đó đưa ra cái gọi là “Qui luật sắt về tiền công” vào trong cương lĩnh của Đảng lại càng
phản khoa học, đi ngược lại nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học.
C.Mác cho rằng những người thảo ra cương lĩnh Gotha đã không nhận thức rõ mối
quan hệ giữa lao động và điều kiện vật chất để lao động. Do đó không nêu ra được yêu
cầu tư liệu sản xuất phải thuộc về người lao động. Những người lao động ở đây trước hết
phải nói đến những công nhân làm thuê hoàn toàn không có tư liệu sản xuất và phải bán
sức lao động cho giai cấp tư sản- giai cấp chiếm hữu các tư liệu lao động để dựa trên đó
bóc lột người lao động, nhưng tình hình kinh tế của nước Đức lúc bấy giờ không chỉ có
giai cấp tư sản mà cả giai cấp địa chủ cũng là kẻ chi phối nguồn sinh sống của người lao
động bởi họ là những người sở hữu ruộng đất: “ Trong xã hội hiện nay, tư liệu lao động là
độc quyền của bọn địa chủ (sự độc quyền về sở hữu ruộng đất thậm chí còn là cơ sở của
sự độc quyền tư bản)6…Chỉ công kích giai cấp các nhà tư bản thôi, chứ không công kích
bọn địa chủ. Ở Anh, thường nhà tư bản lại không phải là người sở hữu miếng đất trên đó
xưởng máy của hắn được xây dựng”
Vậy mà trong Cương lĩnh lại bàn suông về lao động và tách rời lao động với những
điều kiện vật chất, coi “lao động là nguồn gốc của mọi của cải và mọi văn hóa”. C.Mác
đã phê phán quan điểm phiến diện này đồng thời khẳng định, lao động không phải là
nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng mà nó tạo ra “Giới tự nhiên, cũng như lao động,

là nguồn gốc của những giá trị sử dụng … và bản thân lao động cũng chỉ là biểu hiện của
một sức tự nhiên, sức lao động của con người”. Từ đó chúng ta thấy rằng lao động phải
kết hợp với đối tượng lao động và tư liệu sản xuất mới tạo ra được của cải; vậy mà một
bản cương lĩnh tầm cỡ lại đưa ra những câu nói tư sản rỗng tuếch, phản khoa học.
C.Mác không dừng lại ở đó mà còn tiếp tục khẳng định: “Chỉ trong chừng mực mà
con người ngay từ đầu đối xử với giới tự nhiên- nguồn gốc đầu tiên của mọi tư liệu lao
động và đối tượng lao động- với tư cách là kẻ sở hữu; chừng nào mà con người đối xử
với giới tự nhiên coi đó là một vật thuộc về mình thì chừng ấy, lao động của con người

6

C.Mác-Ph.Ăgghen: Tuyển tập Nxb Sự thật, Hà Nội- 1983, tập IV, tr474.

18


mới trở thành nguồn gốc của các giá trị sử dụng, do đó mới trở thành nguồn gốc của của
cải”7
Để chứng minh thêm cho luận điểm lao động cần gắn liền với những điều kiện vật
chất để lao động. Nếu công nhân có sức lao động mà không có những điều kiện vật chất
để lao động thì nhất định phải chịu cuộc sống nghèo khổ, vất vả, phải làm nô lệ cho
những kẻ nắm trong tay những điều kiện vật chất ấy. Chính vì công nhân không phải là
người làm chủ các tư liệu sản xuất cho nên “lao động càng phát triển lên thành lao động
xã hội và do đó trở thành nguồn của cải và của văn hóa thì sự nghèo khổ và cảnh sống vất
vưởng lại càng phát triển ở phía người lao động, còn của cải và văn hóa lại càng phát
triển ở phía kẻ không lao động”8. Người làm ra các sản phẩm ấy nhưng không được
hưởng, phải chịu nhiều khổ cực, thiệt thòi những kẻ không lao động lại thu về tay mình
nhiều của cải, giá trị văn hoá. Từ thực tế trên muốn thay đổi một cách căn bản tình trạng
đó, không có con đường nào khác là giai cấp vô sản phải xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản và
thay thế nó bằng chế độ công hữu Xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm giải phóng

mình và giải phóng toàn xã hội. Do đó, C.Mác đã đưa ra kết luận: Vì lao động là nguồn
của mọi của cải, cho nên không một ai trong xã hội có thể chiếm hữu của cải bằng cách
nào khác là chiếm hữu sản phẩm của lao động. Vậy nếu kẻ nào tự mình không lao động
thì kẻ đó sống nhờ vào lao động của người khác, và cái văn hóa của hắn, hắn cũng phải
nhờ vào lao động của người khác mới có được.
C.Mác còn phê phán những yêu sách kinh tế của chủ nghĩa Látxan ghi trong cương
lĩnh là thực hiện “phân phối công bằng” đòi sản phẩm của lao động phải thuộc về mọi
thành viên trong xã hội. Ông chỉ rõ cái gọi là sản phẩm toàn vẹn của lao động phải thuộc
về mọi thành viên của xã hội, yêu sách đó quả là bông long, rỗng tuếch, đó là cách nói
của những kẻ chẳng hiểu gì về khoa kinh tế học. Giả sử theo cách nói của họ thì mọi
thành viên trong xã hội điều chiếu theo quyền lợi bình đẳng để nhận sự thu nhập, vậy kẻ
không lao động cũng hưởng thu nhập sao! nếu nói rằng chỉ có những người làm việc mới
hưởng thu nhập thì làm sao lại lập luận rằng mọi thành viên trong xã hội đều có “quyền
7
8

C.Mác-Ph.Ăgghen: Tuyển tập, tập IV, Nxb sự thật, Hà Nội- 1983,tr471.
C.Mác-Ph.Ăgghen: Tuyển tập, tập IV, Nxb sự thật, Hà Nội- 1983,tr473.

19


lợi bình đẳng”. Ngay trong bản cương lĩnh đã tự mâu thuẩn logic của nó. Ở đây chúng ta
thấy những người soạn thảo ra cương lĩnh chưa thoát khỏi ảnh hưởng của những người xã
hội chủ nghĩa tầm thường mà chỉ hiểu chủ nghĩa xã hội xoay quanh vấn đề phân phối,
vấn đề quan trọng là ở phương thức sản xuất. Cho nên thay đổi phương thức sản xuất sẽ
dẫn đến phân phối cũng thay đổi cho phù hợp, qua đó ta thấy cương lĩnh chỉ nêu cái
ngọn, không đánh vào cái gốc của nó nên không khả thi, không thể thực hiện được trong
thực tế. vấn đề ở đây là phải xóa bỏ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
C.Mác cho rằng ngay trong xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai cũng không thể có

cái thu nhập gọi là “toàn vẹn của lao động” mà không bị cắt xén, trong cương lĩnh lại cho
rằng: “Thu nhập của lao động là thuộc về tất cả mọi thành viên trong xã hội một cách
không bị cắt xén, theo những quyền ngang nhau” 9. Trước khi phân phối số sản phẩm cần
thiết thỏa mản nhu cầu cá nhân cho mọi người, xã hội cũng cần phải khấu trừ lại một
phần để bù đắp các khoản: hao mòn tư liệu sản xuất, dùng cho tái sản xuất, dùng quỹ dự
trữ hoặc bảo hiễm đề phòng tai nạn, các khoản dùng để thỏa mản nhu cầu chung của mọi
người như y tế, trường học…,dùng làm quỹ nuôi những người không có khả năng lao
động, chi dùng trong xây dựng quốc phòng. Chỉ sau khi khấu trừ những khoản đó, phần
còn lại mới đem phân phối cho mọi cá nhân. Như vậy, trong cương lĩnh chủ nghĩa Látxan
đã dựa trên cơ sở của kinh tế học tư sản, nó cắt rời giữa phân phối và sản xuất.
+Cương lĩnh đã phủ nhận vấn đề đồng minh của giai cấp vô sản và làm lu mờ
nguyên lý của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Cương lĩnh chẳng hề nói gì đến nghĩa vụ quốc tế
của giai cấp vô sản Đức. Chủ nghĩa Mác không hề phủ định yếu tố dân tộc trong chủ
nghĩa xã hội nhưng Mác phê phán cương lĩnh đã quá sa vào “chủ nghĩa xã hội dân tộc”.
Đây là điểm quan trọng để bọn địa chủ quý tộc, tư sản Đức lợi dụng nhằm bắt giai cấp
công nhân phục tùng quyền lợi và yêu cầu của giai cấp tư sản. Lát xan cho rằng đối diện
với giai cấp công nhân, các giai cấp khác hợp lại thành một khối phản động; ở đây người
soạn thảo đã không đứng trên lập trường của giai cấp vô sản để phân biệt rõ đâu là bạn,
đâu là kẻ thù dẫn đến cô lập giai cấp vô sản về một phía và dồn tất cả các giai cấp khác
9

C.Mác-Ph.Ăgghen: Tuyển tập, tập IV, Nxb sự thật, Hà Nội- 1983,tr475.

20


về một phía đối địch với giai cấp vô sản; điều đó đi đến phủ định khả năng cách mạng
của giai cấp nông dân, tiểu tư sản, đưa giai cấp vô sản vào thế cô lập, chỉ có lợi cho giai
cấp bóc lột.
Sở dĩ phái Lát xan xuyên tạc “Tuyên ngôn của Đảng công sản” một cách thô bỉ

như vậy cốt để tô vẽ cho sự liên minh của ông với bọn phong kiến thù địch chống lại giai
cấp tư sản: “Ở đây, giai cấp tư sản được coi là một giai cấp cách mạng, với tư cách là kẻ
đại biểu cho nền đại công nghiệp so với bọn phong kiến và các đẳng cấp trung gian, tức
là những kẻ cố bám lấy tất cả những vị trí xã hội vốn là con đẻ của những phương thức
sản xuất đã lỗi thời. Do đó, bọn phong kiến và các đẳng cấp trung cấp trung gian không
hợp với giai cấp tư sản thành một khối phản động được”. 10 Vậy thì các đẳng cấp trung
cấp trung gian cùng với giai cấp tư sản, thêm vào đó là bọn phong kiến nữa chỉ hợp thành
một khối phản động đối lập với giai cấp công nhân thì đó là một điều phi lý.
Mặt khác, những người thảo ra cương lĩnh đã phạm sai lầm trong đường lối giải
quyết các nhiệm vụ kinh tế-xã hội của chủ nghĩa xã hội. C.Mác cho rằng đáng lý ra
những người xã hội chủ nghĩa ở Đức lúc bấy giờ cần quan niệm việc tổ chức lại xã hội
chủ nghĩa như là kết quả của một quá trình cải biến cách mạng thì lại thay vào đó bằng
những yêu sách cải lương, ảo vọng dựa vào sự giúp đỡ của nhà nước. Đó là điều phi lý và
ảo tưởng, đó còn là những yêu sách có tính chất cải lương, thậm chí vô lý đến mức trở
thành lố bịch “Tưởng rằng người ta có thể xây dựng một xã hội mới bằng những khoản
tiền giúp đỡ của nhà nước cũng dễ dàng như xây dựng một con đường sắt mới thì đó quả
là một điều xứng đáng với sự tưởng tượng của lassalle”11.
Cương lĩnh Gotha nêu lên chủ trương “Đảng công nhân Đức yêu cầu thành lập
những hội sản xuất với sự giúp đỡ của nhà nước”, mà không phải là chủ trương đấu tranh
cách mạng, đánh đổ chế độ quân chủ chuyên chế sau đó là đánh bại giai cấp tư sản, xóa
bỏ chế độ áp bức, bóc lột nhằm xác lập chế độ sở hữu của toàn xã hội về tư liệu lao động;
theo Mác những người lao động có khả năng làm điều đó mà không cần đến sự giúp đỡ
của nhà nước bóc lột. C.Mác chỉ ra rằng: “Công nhân muốn tạo ra những điều kiện sản
10

C.Mác-Ph.Ăgghen: Tuyển tập, tập IV, Nxb sự thật, Hà Nội- 1983,tr482.

11

C.Mác-Ph.Ăgghen: Tuyển tập, tập IV, Nxb sự thật, Hà Nội- 1983,tr488.


21


xuất tập thể, trên qui mô toàn xã hội, và trước tiên là ở trong nước mình, do đó (trên) qui
mô quốc gia của họ thì điều đó chỉ có nghĩa là họ hoạt động để lật đổ những điều kiện sản
xuất hiện nay, và việc này không dính gì tới việc thành lập những hội hợp tác với sự giúp
đỡ của nhà nước”12.
Trong khi phê phán những sai lầm của bản cương lĩnh Gotha, lần đầu tiên C.Mác
đã nêu ra luận điểm thiên tài của mình về hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản, về các
nguyên tắc phân phối thích hợp với hai giai đoạn ấy, như C.Mác xác định: “Cái xã hội mà
chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những
cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội
tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”. 13 Đó là giai đoạn thấp của
chủ nghĩa cộng sản thường được gọi là chủ nghĩa xã hội. Về nguyên tắc phân phối theo
C.Mác: “Vậy một khi đã khấu trừ các khoản đi rồi, mỗi người sản xuất nhận được trở lại
vừa đúng cái mà anh ta đã cung cấp cho xã hội, cái mà anh ta đã cống hiến cho xã hội là
lượng lao động của cá nhân anh ta”14.
Cương lĩnh Gotha thể hiện sự rời bỏ tư tưởng về cách mạng vô sản và chuyên
chính vô sản. Đây là quan điểm rất tai hại và phản động, tính chất nguy hại của nó ở chỗ
nó phủ định nguyên lý của Mác về sự cần thiết phải thiết lập chuyên chính vô sản. Đối
lập với học thuyết mácxít, cương lĩnh nêu lên cái gọi là “nhà nước tự do”…C.MácPh.Ăgghen đã phê phán thuyết “nhà nước tự do” cho rằng mục đích của chủ nghĩa cộng
sản không phải là cái gì chung chung là “nhà nước tự do” mà là tiêu diệt mọi nhà nước.
Nói đến nhà nước tự do nghĩa là muốn nhà nước tồn tại mãi mãi và trong thực tế là lại
sung bái nhà nước đương thời. Ăgghen cho rằng, giai cấp vô sản cần nhà nước chứ không
phải là vì để tự do, mà là để trấn áp giai cấp bóc lột. Trong khi đưa ra “nhà nước tự do”,
cương lĩnh Gotha không hề nhắc đến việc tiêu diệt nhà nước tư sản mà thực tế chỉ để cải
tạo nhà nước đương thời : “ Chỉ có thể giải đáp câu hỏi đó một cách khoa học mà thôi, và
dù có ghép từ nhân dân với từ nhà nước đến một nghìn lần thì người ta cũng không làm
12


C.Mác-Ph.Ăgghen: Tuyển tập, tập IV, Nxb sự thật, Hà Nội- 1983,tr489.

13

C.Mác-Ph.Ăgghen: Tuyển tập, tập IV, Nxb sự thật, Hà Nội- 1983,tr477.
C.Mác-Ph.Ăgghen: Tuyển tập, tập IV, Nxb sự thật, Hà Nội- 1983,tr477.

14

22


cho vấn đề nhích thêm được một chút nào”. C.Mác còn khẳng định: “ Giữa xã hội tư bản
chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa, là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ
sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước của
thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô
sản”.15 Lúc này lý luận của Mác về thời kỳ quá độ, về chuyên chính vô sản được xác lập
ngày càng hoàn chỉnh. Nhà nước tồn tại suốt thời kỳ quá độ chính trị từ tư bản chủ nghĩa
sang xã hội cộng sản chủ nghĩa là và chỉ có thể là nhà nước chuyên chính vô sản.
III-GIẢI PHÁP VÀ Ý NGHĨA LÝ LUẬN, THỰC TIỄN TRONG ĐẤU
TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CƠ HỘI.
1/ Giải pháp đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trong Đảng cộng sản Việt
Nam:
Trước thực trạng hiện nay, một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất về
đạo đức, lối sống. Sự suy thoái, biến chất về tư tưởng, lập trường chính trị dẫn đến nguy
cơ “tự diễn biến từ bên trong” phá hoại Đảng và chế độ ta. Đó còn là môi trường thuận
lợi để bọn cơ hội phát triển và khuếch trương thế lực chống lại chính Đảng cách mạng
của giai cấp công nhân. Vì vậy, tăng cường đấu tranh đẩy lùi và khắc phục chủ nghĩa cơ
hội dưới mọi biểu hiện của nó là vấn đề cấp thiết trong công cuộc vận động xây dựng,

chỉnh đốn Đảng và phải sử dụng nhiều giải pháp đồng bộ, cần huy động sự tham gia của
mọi tổ chức, mọi lực lượng.
-Một là, Đảng phải tăng cường phát huy tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo của các Tổ
chức cơ sở Đảng. Bởi đó là nơi nắm rõ tâm tư, nguyện vọng và những thay đổi về tư
tưởng của mọi cán bộ, đảng viên. Các Tổ chức cơ sở Đảng cần thường xuyên tìm hiểu,
nắm chắc diễn biến tư tưởng, nhận thức của cán bộ, đảng viên. Thông qua các đợt học
tập, sinh hoạt chi bộ, các phong trào hoạt động của đơn vị để giáo dục, nâng cao nhận
thức cho cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của việc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội;
quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước;
kịp thời uốn nắn những nhận thức
15

C.Mác-Ph.Ăgghen: Tuyển tập, tập IV, Nxb sự thật, Hà Nội- 1983,tr491.

23


lệch lạc. Đồng thời thấy được nguồn gốc, bản chất, biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội để
bản thân mỗi người tự đề phòng, luôn cảnh giác và giúp Đảng phát hiện những phần tử
cơ hội, thoái hoá, biến chất nhằm kiên quyết đấu tranh có hiệu quả.
-Hai là, Các cấp uỷ đảng phải tăng cường công tác quản lý cán bộ ở nơi làm việc
và cư trú. Trong mọi hoạt động của các tổ chức phải giữ nghiêm nguyên tắc tập trung dân
chủ; thường xuyên tự phê bình và phê bình nhằm phát hiện những ưu điểm để phát huy,
khắc phục thiếu sót khuyết điểm, những ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội.
-Ba là, Nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng, chính trị, rèn luyện đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân tạo sức đề kháng từ mỗi cán bộ, đảng viên. Tức là phải
chấn chỉnh và nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng ngay trong từng chi bộ. Thực hiện
nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình trong các cấp uỷ đảng, cũng như mỗi cán bộ,
đảng viên cùng với sự giám sát của nhân dân và công luận. Củng cố và nâng cao chất
lượng hoạt động của các cơ quan kiểm tra đảng, thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân

-Bốn là, tăng cường công tác nghiên cứu lý luận. Đảng ta rất quan tâm công tác tư
tưởng lý luận nên đã ban hành nhiều nghị quyết về lĩnh vực này. Tuy nhiên, trên thực tế
chúng ta : chưa phê phán và đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ
hội, thực dụng, những quan điểm mơ hồ, sai trái. Cho nên phải đẩy mạnh công tác nghiên
cứu lý luận, phải tiên phong bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong thời kỳ hội nhập mở cửa; đồng thời làm sâu sắc và cụ thể hơn nữa con đường
đi lên CNXH ở Việt Nam nhằm đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù và chủ
nghĩa cơ hội, xét lại.
-Năm là, kiên quyết đấu tranh với chủ nghĩa cơ hội bằng nhiều hình thức: Thông
qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua dư luận, thông qua hội nghị, hội
thảo… và dựa vào quần chúng nhân dân để phát hiện, đấu tranh chống lại các thế lực thù
địch cũng như bọn cơ hội bởi nhân dân là tai, mắt của Đảng - tổ chức Đảng các cấp cần
tạo cơ chế để nhân dân có thể tham gia tốt vào các hoạt động của Đảng, nhà nước; cũng
như ngay trong việc chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân nhằm phát huy tốt tinh
thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; Các hình thức và phương pháp đấu tranh
phải được kết hợp chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp và phát huy tốt hiệu quả. Chủ
24


nghĩa cơ hội dù biểu hiệu dưới hình thức nào cũng rất nguy hiểm, tác động tiêu cực đến
sự vững mạnh về chính trị, về sự trong sạch, uy tín và sức chiến đấu của Đảng. Vì vậy
đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội là một trong những nhiệm vụ cấp bách của mỗi Tổ
chức cơ sở Đảng và từng đảng viên.
2/ Ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội.
Qua nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của C.Mác- Ph.Ăgghen chúng ta rút ra ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc trong đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội.
Các tác phẩm là những bản tài liệu lý luận rất quan trọng mà cho đến nay nó vẫn
còn nguyên giá trị, đặc biệt tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” được xem là một
văn kiện có tính chất cương lĩnh chính trị đầu tiên của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế; là ngọn cờ tư tưởng của giai cấp vô sản cách mạng trong đấu tranh tự giải phóng

mình và giải phóng toàn nhân loại tiến đến một xã hội văn minh tốt đẹp. Giá trị tinh thần
to lớn của Tuyên ngôn đã được cô đọng trong câu nói của Lênin: “Cuốn sách nhỏ ấy có
giá trị bằng hàng bộ sách”. Đó còn là kiểu mẫu tuyệt vời của sự phê phán có tính chất
cách mạng đối với các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa phản động, bảo thủ và không
tưởng. Chính vì vậy mà cứ mỗi lần bọn cơ hội và các thế lực thù địch chống phá, xuyên
tạc, bôi nhọa chủ nghĩa Mác thì càng chứng tỏ giá trị khoa học và sức sống mãnh liệt của
chủ nghĩa Mác bởi trải qua bao thâm trầm, sóng gió và học thuyết Mác đã được kiểm
nghiệm trong thực tiễn đồng thời khẳng định tính đúng đắn, khoa học của nó. Như lời
nhà văn, nhà tư tưởng người Italia Umberto Eco đã phát biểu về tác phẩm: “Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản là một văn bản đáng kinh ngạc ở chổ nó khéo léo luân chuyển giữa
giọng văn khải huyền và châm biếm, giữa những khẩu hiệu hùng hồn và những lời giải
thích rõ ràng….ngay cả không tính đến khả năng thi pháp thực sự để tạo nên những ẩn
dụ đáng nhớ của nó, bản Tuyên ngôn vẫn là một kiệt tác của nghệ thuật hùng biện chính
trị”.
Đối với tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gotha” C.Mác đã chỉ ra sự diệt vong tất
yếu của chủ nghĩa tư bản và sự hình thành của chủ nghĩa xã hội; khẳng định tính chất quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, tính tất yếu vai trò của chuyên chính vô sản
trong thời kỳ quá độ; đây còn là bài học lớn của chủ nghĩa Mác trong đấu tranh chống
25


×