Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động của trung tâm thông tin thư viện, trường đại học kinh tế đại học huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (862.81 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN ĐỨC PHƯƠNG

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM THÔNG TIN –
THƯ VIỆN, TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 01 14

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Xuân Bách

THỪA THIÊN HUẾ - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, Luận văn này là kết là quả nghiên cứu của tác giả
dưới sự hướng dẫn khoa học của giáo viên. Các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi
trong Luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa được
từng công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Thừa Thiên Huế, tháng 05 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Đức Phương

2


1 LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành Luận văn tôi nhận được sự giúp đỡ quý báu của các cơ quan,
các cấp lãnh đạo và cá nhân. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả tập thể và
cá nhân đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành
Luận văn.
Trước hết, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của Tiến sĩ Trần Xuân
Bách, người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, định hướng khoa học, tận tình chỉ bảo,
động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể các thầy giáo, cô giáo Trường Đại học Sư
phạm – Đại học Huế, đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn tôi trong suốt khóa học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trường Đại học Kinh tế
- Đại học Huế, Phòng Tổ chức– Hành chính, Trung tâm Thông tin – Thư viện đã
tạo điều kiện cho tôi đi học. Cảm ơn Trung tâm Thông tin – Thư viện, các phòng
chức năng trong Trường đã tạo điều kiện giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động
viên, giúp tôi trong suốt quá trình tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận
văn.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng trong quá trình thực hiện đề tài những hạn
chế, thiếu sót là điều không thể tránh khỏi khi thục hiện Luận văn. Vì vậy, tôi rất
mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và những
người quan tâm đến vấn đề được trình bày trong luận văn.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn!
Thừa Thiên Huế, tháng 05 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Đức Phương

3


MỤC LỤC


2 DANH MỤC

CÁC KÝ HIỆU,
CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
AACR2
BSTL
CBQL
CBTV
CNTT
CNH-HĐH
CSDL
ĐHH
ĐHKT
GD-ĐT
ISBD
KT-XH
NCKH
NXB
NDT
MARC 21
TT-TV
VTL

Viết đủ
Anglo – American Cataloguing 2nd (Quy tắc biên mục
Anh Mỹ xuất bản lần thứ 2)
Bổ sung tài liệu
Cán bộ quản lý

Cán bộ thư viện
Công nghệ thông tin
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
Cơ sở dữ liệu
Đại học Huế
Đại học Kinh tế
Giáo dục - Đào tạo
International Standard Bibliographic Description (Quy tắc
mô tả thư mục theo tiêu chuẩn quốc tế)
Kinh tế - Xã hội
Nghiên cứu khoa học
Nhà xuất bản
Người dùng tin
Marchine Readable Cataloguing (Khổ mẫu biên mục có
thể đọc được trên máy tính)
Thông tin - Thư viện
Vốn tài liệu

4


3 DANH MỤC

CÁC BẢNG

5


DANH MỤC SƠ ĐỒ


6


4 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh của sự phát triển khoa học và công nghệ, thời đại nền kinh tế
tri thức, thông tin nói chung và thông tin - thư viện nói riêng có vai trò rất quan
trọng và ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc khai thác
hiệu quả thông tin đã trở thành một trong những nhân tố hàng đầu trong chiến lược
phát triển của bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới.
Trong các trường đại học, thông tin - thư viện có vai trò quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng đạo tạo, đáp ứng nguồn nhân lực cho đất nước, thúc đẩy
tiến bộ xã hội, phát triển sản xuất và khoa học công nghệ. Đồng thời, Thư viện cung
cấp cho xã hội những thông tin khoa học mới mẻ, đặc biệt là những thành quả của
các công trình nghiên cứu khoa học của cán bộ, giảng viên, nghiên cứu sinh, học
viên và sinh viên trong trường. Ngoài ra, Thư viện còn bổ sung và cập nhật những
kiến thức mới, những phương pháp giảng dạy tiên tiến làm cho việc học tập và
giảng dạy thêm sinh động và hấp dẫn.
Hiện nay, yêu cầu đổi mới giáo dục đại học đòi hỏi các trường cần phải đổi
mới căn bản, toàn diện từ mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy – học, cơ sở vật
chất… Trong các yếu tố đó, thư viện là yếu tố rất được chú trọng, vì thư viện đại
học là trung tâm tri thức của một trường đại học, là bộ phận không thể thiếu trong
việc cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho người học phát triển toàn diện. Hơn nữa,
hoạt động giáo dục đại học luôn gắn liền với hoạt động chuyển giao tri thức và
nghiên cứu khoa học. Trong đó, nhân tố quan trọng, quyết định chất lượng chuyển
giao tri thức và nghiên cứu khoa học là khả năng cung cấp nguồn thông tin để thúc
đẩy việc tự học, tự nghiên cứu của giảng viên, của sinh viên cũng như các nhà quản
lý trong trường đại học. Đây chính là sứ mệnh của trung tâm thông tin -thư viện
trong các trường đại học. Vì vậy, trước sự đổi mới của nền giáo dục đại học đòi hỏi
các nhà quản lý thư viện phải nắm bắt và kịp thời điều chỉnh hoạt động quản lý của

mình để nhanh chóng đáp ứng sự đổi mới đó, cũng như nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu
cầu thông tin cho người dùng tin.

7


Trung tâm Thông tin - Thư viện, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế đã
trải qua hơn 5 năm xây dựng và trưởng thành, Trung tâm đã khẳng định được vị thế
của mình, với chức năng thông tin và thư viện phục vụ công tác đào tạo và nghiên
cứu khoa học và quản lý của Nhà trường. Tuy nhiên, trước yêu cầu của việc đào tạo
theo học chế tín chỉ, cũng như việc mở rộng quy mô đào tạo của Nhà trường, Trung
tâm Thông tin – Thư viện cần phải có những bước chuyển mình mạnh mẽ để đổi
mới hoạt động thông tin - thư viện, phát triển vốn tài liệu thư viện đa dạng và phong
phú, tập trung phát triển dạng tài liệu điện tử, cải tiến phương thức phục vụ, nâng
cao trình độ của cán bộ thông tin - thư viện, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin trong tất cả mọi hoạt động. Mặt khác, hoạt động thông tin - thư viện của Trung
tâm hiện vẫn mang nặng tính thủ công truyền thống, quy trình và nghiệp vụ quản lý
chưa được thống nhất và chuẩn hóa nên khả năng đáp ứng nhu cầu tin chưa cao,
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của Nhà trường trong giai đoạn mới. Một
trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay là đòi hỏi hoạt động của Trung tâm Thông
tin - Thư viện, Trường Đại học Kinh tế phải đổi mới một cách toàn diện, từ mô hình
đến quản lý, cũng như cần phải có những giải pháp phù hợp, để đáp ứng mọi nhu
cầu khai thác thông tin phục vụ việc đào tạo và nghiên cứu khoa học, đồng thời đáp
ứng sự đổi mới phương thức đào tạo của Nhà trường.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài làm đề tài nghiên cứu của mình “Biện
pháp quản lý hoạt động của Trung tâm Thông tin- Thư viện, Trường Đại học
Kinh tế - Đại học Huế”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng hoạt động của Trung tâm Thông
tin - Thư viện, Trường Đại học Kinh tế- Đại học Huế, đề xuất biện pháp quản lý

hoạt động của Trung tâm nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà
trường.
3. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động của Trung tâm Thông tin –Thư viện.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý hoạt động của Trung tâm Thông
tin – Thư viện, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế.
8


3.3. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng quản lý các hoạt động Trung tâm
Thông tin – Thư viện, Trường Đại học Kinh tế- Đại học Huế.
4. Giả thuyết khoa học: Trong những năm qua, Trung tâm Thông tin – Thư viện đã
đạt được những thành tích đáng kể trong công tác phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa
học và quản lý của nhà trường. Trước yêu cầu đổi mới giáo dục, nếu có những biện
pháp quản lý phù hợp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm, một
trong các yếu tố quyết định chất lượng đào tạo của Trường Đại học Kinh tế - Đại
học Huế.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý, quản lý hoạt động của Trung tâm
Thông tin - Thư viện trong các trường đại học.
Điều tra khảo sát thực trạng quản lý hoạt động của Trung tâm Thông tin –
Thư viện, Trường Đại học Kinh tế- Đại học Huế.
Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động của Trung tâm Thông tin – Thư viện,
đáp ứng yêu cầu giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học ở Trường Đại học Kinh
tế- Đại học Huế trong giai đoạn mới.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, nghiên cứu các tài liệu liên
quan và thu thập thông tin trong quá trình hoạt động của Trung tâm Thông tin - Thư
viện, Trường Đại học Kinh tế- Đại học Huế.

6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng phương pháp điều tra bảng hỏi đối với cán bộ, giảng viên, nghiên
cứu sinh, học viên và sinh viên.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
7. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn có 3 chương
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN –
THƯ VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
9


Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA
TRUNG TÂM THÔNG TIN - THƯ VIỆN, TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI
HỌC HUẾ
Chương 3: BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM
THÔNG TIN - THƯ VIỆN, TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC HUẾ
Kết luận và khuyến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

10


5 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝHOẠT ĐỘNG THÔNG
TIN - THƯ VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Trải qua nhiều thế kỷ, khoa học về quản lý thư viện đã có nhiều thay đổi
đáng kể cùng với sự phát triển của hệ thống thư viện, các yêu cầu đặt ra đối với
công tác quản lý thư viện cũng thay đổi mạnh mẽ. Từ khởi đầu là việc quản lý mang

tính thủ công, đến ngày nay khi xã hội phát triển thì việc quản lý thư viện cũng
được phát triển chuyển dần từ quản lý tư liệu sang quản lý thông tin và trong tương
lai sẽ là quản lý tri thức.
Ngay từ thời cổ xưa, quản lý thư viện cũng không có gì khác biệt với các lĩnh
vực khác. Theo F.M. Cruden (1887) một cán bộ thư viện đã cho rằng: Các nghiên
cứu đều cho thấy điều hành một thư viện không khác nhiều so với việc quản trị một
công ty chứng khoán. Người Giám đốc thư viện có thể áp dụng những phương pháp
của các nhà quản lý kinh doanh. Tuy nhiên, mãi đến những năm 30 của thế kỷ XX
người ta mới chú ý đến việc ứng dụng khoa học quản lý vào thư viện.[1]
Cuối những năm 40 đầu những năm 50, với nghiên cứu về việc ứng dụng
quản lý khoa học vào thư viện, Ralph R.Shaw đã phân tích hai khuynh hướng quản
lý: Chuyên môn hóa và tích hợp các chuyên môn vào một bộ phận chức năng đã đặt
nền tảng cho công tác quản lý thư viện ngày nay. Trước xu thế phát triển của loại
hình thư viện mới – thư viện hiện đại thì phương thức quản lý tập trung hệ thống
thư viện kết hợp với phương thức phân bổ đã trở nên tất yếu và đang được nhiều
nhà quản lý ngành thư viện quan tâm.
Ở Việt Nam công tác thư viện luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Ngày
16/9/1970, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số 178/CP về công tác thư viện đã
quy định những vấn đề quản lý ngành thư viện trong cả nước. Đây là văn bản được
coi là luật thư viện đầu tiên ở nước ta, đã và đang có những đóng góp rất quan trọng
cho sự phát triển thư viện của Việt Nam.
Hiện nay trong hệ thống giáo dục đại học, thư viện đã trở thành một trường
học thứ hai của sinh viên, bởi vì đọc sách có thể được xem là kỹ năng tự học của
người học trong quá trình tự đào tạo. Vì vậy, quản lý hoạt động thư viện là một quá
11


trình tác động, định hướng của chủ thể quản lý đến khách thể, ở đó tri thức, tài
năng, trí tuệ của mọi người trong tổ chức được hướng về việc sử dụng các tài
nguyên đã được Nhà nước cung cấp nhằm đạt được mục đích đã đặt ra.

Cho đến nay đã có những công trình nghiên cứu khoa học, những bài báo đề
cập đến vấn đề quản lý thư viện, như đề tài:
“Một số vấn đề về tổ chức và quản lý Thư viện đại học” của Nguyễn Huy
Chương. [1]
“Một số vấn đề đổi mới hoạt động thông tin - thư viện đại học” của Trần
Mạnh Tuấn. [14]
“Thư viện của trường đại học với việc nâng cao chất lượng giáo dục” của
Nguyễn Thị Lan Thanh. [15]
“Đổi mới hoạt động thông tin – thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội” của Trần
Thị Quý. [13]
“Các biện pháp tăng cường quản lý hoạt động của Trung tâm Thông tin –
Thư viện đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ ở Đại học Quốc gia Hà Nội”
của Phạm Thị Mai Lan. [9]
Nhìn chung, các đề tài nghiên cứu trên đã đề cập khá toàn diện về các vấn đề
thư viện như: công tác bổ sung vốn tài liệu, phát triển đội ngũ, cơ sở vật chất … Tuy
nhiên, chưa có một tác giả nào nghiên cứu về biện pháp quản lý hoạt động của
Trung tâm Thông tin –Thư viện ở Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế.
1.2 CÁC KHÁI NIỆM
1.2.1 Khái niệm quản lý
Theo từ điển tiếng Việt: “Quản lý là hoạt động của con người tác động vào tập
thể người khác để phối hợp điều chỉnh, phân công thực hiện mục tiêu chung”. [19]
Quản lý là những hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi con người kết
hợp với nhau trong các tổ chức nhằm đạt những mục tiêu chung. Hoạt động quản lý
là hoạt động chỉ phát sinh khi con người kết hợp với nhau thành tập thể. Nếu mỗi cá
nhân tự mình hoạt động, sống một mình thì không có hoạt động quản lý.
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát
triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của cá nhân, của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ
12



đến phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế đều phải thừa nhận và chịu một
sự quản lý nào đó.
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công lao động của xã hội loài người
nhằm đạt mục đích, hiệu quả cao hơn, năng suất cao hơn. Đó chính là hoạt động
giúp cho người đứng đầu tổ chức phối hợp sự nỗ lực các thành viên trong nhóm,
trong cộngđồng nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Quản lý là vấn đề rất rộng và phức tạp, là đối tượng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học nên có rất nhiều định nghĩa, khái niệm khác nhau:
Nhà khoa học quản lý người Mỹ F.w. Taylor cho rằng: “Quản lý là một nghệ
thuật biết rõ chính xác cái gì cần làm và cái đó làm thế nào, bằng phương pháp tốt
nhất và rẻ nhất”. Ông đã đưa ra hệ thống tổ chức lao động nhằm khai thác tối đa
thời gian lao động sử dụng hợp lý nhất các công cụ và phương tiện lao động nhằm
tăng năng suất lao động.Các nhà nghiên cứu người Mỹ Paul Hersey và Ken Blanc
Hard định nghĩa:“Quản lý là một quá trình cùng làm việc giữa nhà quản lý với
người bị quản lý, nhằm thông qua hoạt động của cá nhân, của nhóm, huy động các
nguồn lực khác để đạt mục tiêu của tổ chức”.[12]
Nhà lý luận quản lý kinh tế người Pháp H. Fayol thì cho rằng: “Quản 1ý là
một quá trình cùng làm việc giữa nhà quản lý với người bị quản lý, nhằm thông qua
hoạt động của cá nhân, của nhóm, huy động các nguồn lực khác để đạt mục tiêu của
tổ chức”
Định nghĩa của Harold Koontz, Cyril O'donnell: "Quản lý là quá trình lập kế
hoạch tổ chức lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành viên thuộc hệ đơn vị và
việc sử dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được những mục đích đã định".[5]
Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là quá trình tác động liên tục"tổ
chức có định hướng của chủ thể quản lý (người quản lý hay tổ chức quản lý) lên
khách thể (đối tượng) quản lý về các mặt chính trị, xã hội, kinh tế... bằng một hệ
thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp cụ
thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng”. [3]
Theo tác giả Trần Quốc Thành: “Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể
quản lý để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt

13


động của con người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp với
quy luật khách quan”.[16]
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Nguyễn Quốc Chí cho rằng: “Hoạt động
quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý)
đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức
vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [2]
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: Bản chất của hoạt động quản lý là nhằm làm
cho hệ thống vận hành theo mục tiêu đặt ra và tiến đến các trạng thái có tính chất
lượng mới.
Mặc dù với những cách tiếp cận khác nhau, song các khái niệm quản lý đó có thể
thấy rõ được nội hàm như sau:
Hoạt động quản lý là những tác động có tính hướng đích, có tổ chức từ chủ
thể quản lý đến khách thể quản lý bằng hệ thống các nguyên tắc, luật lệ, chính sách,
phương pháp, biện pháp tạo điều kiện cho sự phát triển đối tượng và uy tín của
người quản lý.
Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa 2 bộ phận: Đó là chủ thể quản lý (là cá
nhân hoặc tổ chức làm nhiệm vụ quản lý, điều khiển) và đối tượng quản lý (là bộ
phận chịu sự quản lý), đây là quan hệ ra lệnh-phục tùng, không đồng cấp và có tính
bắt buộc.
Tóm lại, bản chất của quản lý là một loại lao động điều khiển lao động. Đó là
quá trình tác động có định hướng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm
sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt
ra trong điều kiện biến động của môi trường.
- Chức năng quản lý
Chức năng quản lý là nội dung cơ bản của quá trình quản lý, là nhiệm vụ
không thể thiếu được của chủ thể quản lý. Lao động quản lý là một dạng lao động
đặc biệt, lao động sáng tạo, hoạt động quản lý cũng phát triển không ngừng từ thấp

đến cao; gắn liền với quy trình phát triển, đó là sự phân công, chuyên môn hoá lao
động quản lý. Sự phân công chuyên môn hóa lao động quản lý là cơ sở hình thành
các chức năng quản lý.
14


Chức năng quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của chủ thể quản
lý nảy sinh từ sự phân công, chuyên môn hoá trong hoạt động quản lý nhằm thực
hiện mục tiêu.
Tất cả các chức năng quản lý gắn bó qua lại và quy định lẫn nhau. Chúng
phản ánh lôgic bên trong của sự phát triển của quản lý. Việc phân chia chức năng
quản lý bắt nguồn từ sự phân công và chuyên môn hoá lao động quản lý. Khi phân
tích cụ thể, ta thấy quản lý gồm có 4 chức năng cơ bản, đó là:
Chức năng kế hoạch hoá
Kế hoạch hoá có nghĩa là xác định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương lai
của tổ chức và các con đường, biện pháp, cách thức để đạt mục tiêu, mục đích đó.
Có 3 nội dung chủ yếu của chức năng kế hoạch hoá:
Xác định, hình thành mục tiêu (phương hướng) đối với tổ chức;
Xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn, có tính cam kết) về các nguồn lực
của tổ chức để đạt được các mục tiêu;
Quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt các mục tiêu đó.
Có ba loại kế hoạch: Kế hoạch chiến lược; Kế hoạch chiến thuật; Kế hoạch tác
nghiệp.
Chức năng tổ chức
Định nghĩa (trong Từ điển tiếng Việt): “Tổ chức là sự sắp xếp các bộ phận
cho ăn nhịp với nhau để toàn bộ là một cơ cấu nhất định”.[19]
Tổ chức là quá trình sắp xếp và phân bổ công việc, hình thành nên cấu trúc
quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm đạt được
mục tiêu tổng thể của tổ chức, ứng với những mục tiêu khác nhau đòi hỏi cấu trúc
tổ chức của đơn vị cũng khác nhau. Người quản lý cần lựa chọn cấu trúc tổ chức

cho phù hợp với những mục tiêu và nguồn lực hiện có.Quá trình đó gọi là thiết kế tổ
chức và quan trong nhất là tổ chức thực hiện kế hoạch để đạt mục tiêu.
Tổ chức được coi là điều kiện của quản lý, đúng như V.I. Lênin đã khẳng
định: "Chúng ta phải hiểu rằng, muốn quản lý tốt còn phải biết tổ chức về mặt thực
tiễn nữa". Thực chất của tổ chức là thiết lập mối quan hệ bền vững giữa con người,
giữa các bộ phận trong hệ thống quản lý nhằm làm cho họ thực hiện thành công các
15


kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn các
động lực, tổ chức không tốt sẽ làm triệt tiêu động lực và giảm sút hiệu quả quản lý.
Chức năng chỉ đạo (lãnh đạo)
Chỉ đạo là quá trình tác động ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến hành vi và
thái độ của những người khác nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra. Chỉ đạo thể hiện quá
trình ảnh hưởng qua lại giữa chủ thể quản lý và mọi thành viên trong tổ chức nhằm
góp phần thực hiện hoá các mục tiêu đã đặt ra.
Chức năng chỉ đạo, xét cho cùng là sự tác động lên con người, khơi dậy động lực
của nhân tố con người trong hệ thống quản lý, thể hiện mối quan hệ giữa con người
với con người và quá trình giải quyết những mối quan hệ đó do họ tự nguyện và
nhiệt tình phấn đấu.
Quá trình chỉ đạo (lãnh đạo) bao hàm việc liên kết, liên hệ với người khác và
động viên họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức.
Như vậy, việc lãnh đạo không chỉ bắt đầu sau khi việc lập kế hoạch và thiết kế bộ máy đã
hoàn tất, mà nó thấm vào, ảnh hưởng quyết định tới hai chức năng kia.
Chức năng kiểm tra
Sau khi xác định các mục tiêu, quyết định những giải pháp tốt nhất để đạt tới
các mục tiêu và triển khai các chức năng tổ chức, chỉ đạo để hiện thực hóa các mục
tiêu đó cần phải tiến hành những hoạt động giám sát, kiểm tra để xem xét việc triển
khai các quyết định trong thực tiễn, từ đó có những điều chỉnh, sửa chữa, uốn nắn
nếu cần thiết.

Có 3 yếu tố cơ bản của công tác kiểm tra:
- Xây dựng chuẩn thực hiện;
- Đánh giá việc thực hiện trên cơ sở so sánh với chuẩn;
- Nếu có sự chênh lệch thì điều chỉnh hoạt động;
Quản lý mà không có kiểm tra thì không còn là quản lý. Kiểm tra có vị trí
quan trọng trong việc đổi mới công tác quản lý như: đổi mới công tác kế hoạch hoá,
công tác tổ chức, chỉ đạo cũng như đối với cơ chế quản lý, phương pháp quản lý
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý.

16


Để người quản lý có thể thực hiện được bốn chức năng trên thì yếu tố thông
tin là rất quan trọng. Thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời là căn cứ để hoạch
định kế hoạch. Thông tin có thể được xem như là chất liệu tạo nên mối quan hệ giữa
các bộ phận trong tổ chức, thông tin truyền tải mệnh lệnh chỉ đạo của người quản lý
và phản hồi diễn biến hoạt động của các cá nhân, các bộ phận trong tổ chức giúp
cho người quản lý xem xét mức độ đạt mục tiêu của họ từ đó có những điều chỉnh
cho phù hợp.
Qua phân tích các chức năng quản lý, chúng ta thấy rằng các chức năng này
có mối quan hệ chặt chẽ tác động qua lại với nhau, chi phối lẫn nhau tạo thành một
thể thống nhất của hoạt động quản lý.
Kế hoạch hóa

Chỉ đạo
Thông tin
Tổ chức

Kiểm tra, đánh giá


Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa các chức năng trong quản lý
1.2.2 Khái niệm thông tin
Thuật ngữ thông tin (tiếng Anh - Information) có nguồn gốc từ thuật ngữ
Latinh - Informatio, có nghĩa là diễn giải, trình bày, thông báo. Khái niệm thông tin
là một trong số các khái niệm cơ bản của khoa học hiện đại, liên quan tới rất nhiều
17


các lĩnh vực hoạt động và tri thức. Có rất nhiều định nghĩa về thông tin khác nhau
phụ thuộc vào góc độ tiếp cận, phương pháp nghiên cứu và lĩnh vực áp dụng.
Các nhà triết học duy vật biện chứng xem “thông tin là sự phản ánh các đối
tượng của thế giới khách quan”.
Trong thực tiễn, người ta tiếp tục phân biệt thông tin theo mức độ chế biến
(xử lý). Việc làm này rất có ý nghĩa đối với người hoạt động thông tin, nhằm tránh
tình trạng cung cấp thông tin cho người sử dụng, đặc biệt là những người ra quyết
định những sản phẩm giàu dữ liệu nhưng nghèo thông tin hoặc giàu thông tin nhưng
nghèo kiến thức. Theo cách phân biệt này, dữ liệu là tập hợp các dữ kiện, con số nào
đó mà từ đó hàm lượng thông tin có thể được rút ra; thông tin là các dữ liệu đã được
thu nhận, tổ chức, chế biến (xử lý) và nhận thức; kiến thức là một khối lượng thông
tin đã được chế biến, phân tích, đánh giá, thử nghiệm và liên tục được cập nhật và
làm phong phú thêm nhờ có sự đối chiếu thường xuyên thông tin mới này với thông
tin trước đó đã được lưu giữ trong “bộ nhớ”; còn sự thông minh (theo nghĩa tâm lý
học) là khả năng của một cá nhân/tổ chức thu nhận thông tin và kiến thức mới, đưa
ra phán đoán, phát triển các khái niệm, chiến lược và hành động một cách có lý tính
và có hiệu quả trên cơ sở thông tin đã thu nhận. Cách phân biệt này được mô hình
hóa bằng Tháp thông tin. (Sơ đồ1.2)
Sơ đồ 1.2- Tháp thông tin
Sự
thông minh
Kiến thức

Thông tin
Dữ liệu
Định tính
Định lượng

Thông tin, về bản chất là một thực thể phức tạp, là một đối tượng nghiên cứu
trừu tượng, vô hình, có cấu trúc, được biểu thị qua nội dung của sự vật, được tiếp
thu và sử dụng cho các mục đích khác nhau. Thông tin có tính phổ biến, đặc biệt
trong điều kiện của cuộc bùng nổ thông tin hiện đại.Thông tin rất có giátrị đối với
thực tiễn phát triển.

18


Thông tin còn là một loại hàng hóa đặc biệt, một nguồn lực quan trọng của
sự phát triển, một thứ tài sản vô hình. Là một loại hàng hóa, thông tin có thể là đối
tượng được mua và bán, trao đổi, tích lũy và lưu trữ, được giữ bản quyền hay quyền
sở hữu. Là một loại nguồn lực, thông tin được hiện hữu tham gia vào các quá trình
biến đổi giá trị, song giá trị của thông tin lại không bị mất đi trong quá trình sử
dụng. Thường thì việc sử dụng thông tin tích cực lại làm cho giá trị và hiệu quả của
thông tin được tăng thêm. Tiềm năng và nhu cầu về thông tin trong xã hội là vô hạn.
1.2.3Quản lý thông tin – thư viện
Với những cách tiếp cận quản lý nhà trường, quản lý trung tâm TT-TV/ thư
viện đại học là quá trình tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý (các nguồn lực của TV) nhằm đảm bảo sự vận hành
tối ưu các hoạt động của thư viện để đạt hiệu quả cao nhất trong việc phục vụ thông
tin, tư liệu cho người đọc, người dùng tin.
1.2.4 Nguyên tắc quản lý thông tin – thư viện
Nguyên tắc quản lý là những quy tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn hành vi mà
công tác quản lý bất kỳ cấp nào đều phải tuân theo khi thực hiện chỉ đạo và điều

hành công việc quản lý của mình. Các nguyên tắc quản lý một tổ chức gồm:
- Nguyên tắc thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế;
- Nguyên tắc tập trung dân chủ;
- Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo vùng lãnh thổ;
- Nguyên tắc kết hợp các lợi ích kinh tế;
- Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả kinh tế cao nhất.
Các nguyên tắc quản lý TT-TV như sau
- Nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý.
Việc quản lý các thư viện, cơ quan thông tin phải tuân theo nguyên tắc này.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của các tổ chức Đảng ở cơ sở là cùng với
chính quyền chăm lo công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, bố trí sắp xếp cán bộ một
cách hợp lý nhằm phát huy được năng lực, nhiệt tình của đội ngũ cán bộ.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ

19


Là nguyên tắc kết hợp lãnh đạo tập trung của các cấp lãnh đạo với việc phát
huy tính chủ động sáng tạo của cán bộ, tập thể cán bộ trong thư viện. Mọi công việc
trong thư viện đều được mọi người biết và bàn, từ đó giao trách nhiệm cho một
người điều hành và mọi người phải tuân theo sự điều hành đó.
- Nguyên tắc thủ trưởng lãnh đạo
Là nguyên tắc đảm bảo quyền lãnh đạo tối cao tập trung cho một cá nhân là
thủ trưởng cơ quan. Người đó có đủ quyền hành cần thiết để chỉ đạo, điều khiển, ổn
định công việc và phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ quan trước
Nhà nước và pháp luật. Tất cả cán bộ, nhân viên trong cơ quan phải phục tùng lệnh
điều hành của thủ trưởng cơ quan. Để tránh độc đoán, cửa quyền, người lãnh đạo
phải biết kết hợp chặt chẽ với các đoàn thể cùng tham gia quản lý, phát huy tinh
thần làm chủ tập thể của cán bộ dưới quyền.
- Nguyên tắc kiểm tra thường xuyên, kịp thời

Là nguyên tắc không thể thiếu trong quá trình quản lý. Mục đích của việc
kiểm tra là giúp người quản lý nắm được những gì đang xảy ra, bảo đảm kết quả đạt
được phù hợp với mục tiêu, kế hoạch đề ra; bảo đảm sử dụng các nguồn lựcmột
cách hữu hiệu; phát hiện kịp thời những vấn đề sai sót để chấn chỉnh, sửa sai.
- Nguyên tắc khuyến khích vật chất và tinh thần
Các biện pháp khích lệ tinh thần cũng như vật chất có tác dụng to lớn kích
thích người lao động, góp phần tăng năng suất lao động. Việc đánh giá đúng công
sức, sự cống hiến thể hiện qua việc khuyến khích động viên tinh thần bằng các danh
hiệu thi đua và các phần thưởng vật chất phải luôn được chú trọng đồng thời.
1.2.5 Các phương pháp quản lý thư viện
Phương pháp quản lý là tổng thể những cách thức tác động của công tác quản
lý đến cá nhân, tập thể người lao động nhằm khuyến khích, động viên thúc đẩy họ
hoàn thành tốt công việc. Nhìn chung công tác quản lý một tổ chức thường dùng
các phương pháp quản lý:
- Phương pháp chính trị tư tưởng;
- Phương pháp hành chính - pháp chế;
- Phương pháp tổ chức - điều khiển;
20


- Phương pháp tâm lý xã hội;
- Phương pháp kinh tế;
Từ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của thư viện trường đại học, công tác quản lý thư
viện cần phối hợp sử dụng một số phương pháp quản lý sau:
- Phương pháp hành chính
Là phương pháp tác động tập trung, chỉ đạo trực tiếp của cán bộ lãnh đạo đối
với cán bộ cấp dưới, được thực hiện bằng các hình thức: Quyết định, chỉ thị quy
định, nội quy, điều lệ….Ví dụ như các quy định về giờ giấc phục vụ của thư viện,
các biện pháp thu hút bạn đọc...
- Phương pháp tâm lý

Là phương pháp quản lý các cán bộ thư viện trên cơ sở nghiên cứu kỹ các
nhân tố tâm lý ảnh hưởng đến thái độ lao động của họ. Phương pháp này đòi hỏi cán
bộ quản lý phải biết tâm lý, tìm hiểu kỹ về các thành viên dưới quyền quản lý của
mình để áp dụng biện pháp nào cho thích hợp: Động viên, thuyết phục, tạo điều
kiện hoặc duy trì kỷ luật lao động để đạt được hiệu quả lao động cao.
- Phương pháp giáo dục
Thực chất là phương pháp tác động về tư tưởng, tình cảm của cán bộ, trên cơ
sở đó hình thành các phẩm chất đạo đức, lương tâm nghề nghiệp.
- Phương pháp kinh tế
Được sử dụng để kích thích người lao động làm việc có tinh thần trách
nhiệm và hết sức mình.
Nhìn chung, không có một phương pháp nào là vạn năng, cần chú ý phối hợp
hài hoà các phương pháp với nhau, đồng thời xem xét hoàn cảnh cụ thể của từng
đơn vị để sử dụng các phương pháp thích ứng.
1.2.6. Khái niệm thư viện
Khái niệm thư viện được định nghĩa từ rất xa xưa. Theo tiếng Hy Lạp thì thư
viện được cấu tạo bởi hai từ “Biblio- sách” và “Theka - kho, nơi bảo quản”. Như
vậy, nghĩa ban đầu của thư viện là nơi bảo quản sách. Nghĩa như vậy cũng được
người Trung Hoa dành cho thư viện: Thư là sách, viện là nơi tàng trữ.

21


Theo O.X. Chubarian, một đại điện xuất sắc của thư viện học Xô Viết đã đưa
ra định nghĩa sau về thư viện: “Thư viện là cơ quan tư tưởng và thông tin khoa học
tổ chức việc sử dụng sách có tính chất xã hội”.
Các nhà thư viện học Mỹ thì lại cho rằng: “Thư viện - một sưu tập những tài
liệu đã được tổ chức lại để đáp ứng nhu cầu của một nhóm người mà thư viện có
bổn phận phục vụ, để cho họ có thể sử dụng cơ sở của thư viện, truy dụng thư tịch,
cũng như trao dồi kiến thức của họ”.

Năm 1970, UNESCO định nghĩa: “Thư viện, không phụ thuộc vào tên gọi
của nó, là bất cứ bộ sưu tập có tổ chức nào của sách, ấn phẩm định kỳ hoặc các tài
liệu khác, kể cả đồ họa, nghe – nhìn và nhân viên phục vụ có trách nhiệm tổ chức
cho bạn đọc sử dụng các tài liệu đó nhằm mục đích thông tin, nghiên cứu khoa học,
giáo dục hoặc giải trí”.
Thư viện được cấu thành từ 4 yếu tố: vốn tài liệu, cán bộ thư viện, bạn đọc,
cơ sở vật chất - kỹ thuật và giữa chúng có mối quan hệ, tác động chặt chẽ với nhau
mà thiếu một trong các yếu tố đó sẽ không còn là thư viện.
- Vốn tài liệu bao gồm sách, băng từ, tài liệu điện tử v.v…Là tài sản quý giá, là tiềm
lực, là sức mạnh và niềm tự hào của một đơn vị thư viện cụ thể. Vốn tài liệu càng
phong phú thì khả năng đáp ứng nhu cầu đọc càng lớn và do vậy càng có sức lôi cuốn
đối với bạn đọc. Trong công tác hằng ngày của thư viện, tài liệu là đối tượng bổ sung,
tổ chức kho, tuyên truyền trong bạn đọc và đưa ra sử dụng chúng. Nó là vật trung gian
giữa bạn đọc, cán bộ thư viện, cơ sở vật chất- kỹ thuật của thư viện.
- Cán bộ thư viện là linh hồn của thư viện. Cán bộ thư viện thực hiện một nhiệm
vụ rất phức tạp trong quan hệ với tài liệu như: chọn lựa và bảo quản tài liệu, sắp xếp
chúng có chuyên môn theo một trật tự nhất định; trong mối quan hệ với cơ sở vật
chất kỹ thuật, cán bộ thư viện tiến hành trang bị chuyên biệt cho các diện tích và
luôn giữ cho cơ sở vật chất kỹ thuật ở tình trạng tốt nhất; trong mối quan hệ với bạn
đọc, họ không chỉ tuyên truyền tích cực cho các tài liệu hợp với nhu cầu của họ,
hướng dẫn đọc, nghiên cứu nhu cầu đọc mà còn tạo ra các dịch vụ làm thỏa mãn
nhu cầu đó.

22


- Bạn đọc là một trong những yếu tố quan trọng của thư viện. Chính bạn đọc đã đưa toàn
bộ cơ chế của các mối quan hệ lẫn nhau giữa vốn tài liệu, cán bộ thư viện, cơ sở vật chất
- kỹ thuật vào hoạt động. Phục vụ bạn đọc là mục tiêu của thư viện.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật được hiểu là các nhà, diện tích dành cho thư viện với

toàn bộ trang thiết bị của chúng. Chúng có vai trò to lớn: đối với tài liệu, nó là nơi
chứa và bảo quản tài liệu; đối với bạn đọc, nó là nơi họ làm việc với tài liệu, tiếp
xúc với các nguồn thông tin trong nước và trên thế giới, nơi gặp gỡ trao đổi cảm
nghĩ về những gì đã đọc hoặc các thông tin khác với bạn bè, đồng nghiệp, là nơi họ
sáng tạo… đối với cán bộ thư viện, đây là ngôi nhà thứ hai, nơi làm việc gắn bó
suốt đời của họ.
1.3THƯ VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.3.1Chức năng của thư viện
Ngày nay, thư viện đã có đầy đủ các chức năng: Giáo dục, thông tin, văn hóa
và giải trí.
- Giáo dục: Từ thời cổ đại, ở Trung Quốc, thư viện đã là một tổ chức giáo dục quan
trọng, là nơi đọc sách, học hành và giảng dạy. Đến nay, các thư viện, kể cả thư viện
công cộng, vẫn thực hiện chức năng giáo dục của mình, khi tiến hành trên thực tế
các chức năng của cơ quan giáo dục tiếp tục cho mọi người.
- Thông tin: là tin tức, số liệu, dữ liệu, khái niệm, tri thức giúp tạo nên sự hiểu biết
của con người về một đối tượng, hiện tượng, vấn đề nào đó. Các thông tin này được
lưu giữ trên các vật mang tin khác nhau mà những người làm công tác thư viện vẫn
quen gọi là tài liệu. Từ xa xưa, các thư viện đã tiến hành công tác thông tin, chủ yếu
là thông tin thư mục cho bạn đọc. Ngày nay, các thư viện tiến hành một công việc to
lớn nhằm tạo lập, bảo quản, tìm, xử lý và phổ biến thông tin, nghĩa là thư viện đã
trở thành một cơ quan thông tin thực thụ. Thư viện có thể truy cập vào các mạng
thông tin quốc gia và quốc tế, nhờ vậy mà chúng có thể cung cấp nhanh và đầy đủ
nhất những thông tin chính xác, cấp thiết và có chất lượng cao cho mỗi người/
nhóm người.
- Văn hóa: Chức năng này của thư viện được thể hiện ở hai khía cạnh:

23


+ Thu thập, bảo quản và truyền bá di sản văn hóa của nhân loại cũng như của

đất nước được lưu giữ trong các tài liệu;
+ Trở thành một trong những trung tâm chủ yếu của sinh hoạt văn hóa, tuyên
truyền, phổ biến các kiến thức về các loại hình nghệ thuật và lôi cuốn quảng đại
quần chúng tham gia vào hoạt động sáng tạo.
- Giải trí: Thư viện tham gia vào tổ chức thời giờ nhàn rỗi, cung cấp sách và các
phương tiện khác cho bạn đọc để đọc giải trí. Nhiều thư viện đã trang bị các phương
tiện nghe - nhìn để phục vụ bạn đọc tại chỗ hoặc cho thuê về nhà.
Các chức năng của thư viện có tính chất lịch sử. Ngày nay, các thư viện, tuy mức độ
có khác nhau nhưng đều thực hiện bốn chức năng trên.
Trong Quy định về tổ chức và hoạt động của thư viện trường đại học do Bộ
trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp ban hành ngày 14/7/1986 nêu rõ:
“Thư viện trường đại học là trung tâm thông tin văn hóa, khoa học kỹ thuật của
trường đại học. Thư viện trường đại học có chức năng tổ chức, xây dựng và quản lý
vốn tư liệu văn hoá khoa học, kỹ thuật phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập
nghiên cứu khoa học của cán bộ và học sinh trong toàn trường.” [20]
1.3.2 Nhiệm vụ của thư viện trường đại học
Thư viện trường đại học có những nhiệm vụ chính sau:
Nghiên cứu đề xuất phương hướng, chủ trương, kế hoạch phát triển vốn tư
liệu văn hoá khoa học kỹ thuật phù hợp với nhiệm vụ đào tạo và NCKH của trường
đại học, đồng thời chịu trách nhiệm bảo quản vốn tư liệu đó.
- Tổ chức cho cán bộ, nghiên cứu sinh, học viên và học sinh của trường khai thác sử
dụng thuận lợi và có hiệu quả các tư liệu do thư viện quản lý.
Có kế hoạch, quy hoạch chủ động thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ... cho cán bộ thư viện để không ngừng nâng cao chất
lượng và hiệu quả phục vụ.
Thư viện trường đại học được đặt quan hệ đối ngoại với thư viện các nước để
trao đổi tài liệu, kinh nghiệm chuyên môn nghiệp vụ trong phạm vi quy định của
Nhà nước.

24



Thư viện trường đại học có trách nhiệm phối hợp, hợp tác tốt về mặt nghiệp
vụ với các Liên hiệp Thư viện, với thư viện các trường đại học khác nằm trong khu
vực hoặc cùng chuyên ngành.
Thư viện trường đại học được quyền thu nhận những ấn phẩm do trường xuất
bản, cũng như các đồ án, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ được bảo vệ tại
trường, hoặc người viết luận án, luận văn là cán bộ, giả ng viên, sinh viên của
trường.
Tổ chức việc kiểm kê định kỳ các loại kho tài liệu theo quy định.
Thư viện trường đại học có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với các đơn vị
chức năng khác trong trường để làm tốt nhiệm vụ được giao.[18]
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã kéo theo sự
phát triển của các chuyên ngành, các lĩnh vực khoa học khác, trong đó có chuyên
ngành TT-TV. Đặc biệt, cùng với xu thế phát triển của lĩnh vực TT-TV trên thế giới,
các thư viện ở Việt Nam trong đó có các thư viện trường đại học đã và đang thay
đổi về chất, đó là cùng với thư viện truyền thống, đã ra đời những thư viện điện tử,
thư viện số, thư viện đa phương tiện...
Các chức năng chủ yếu của thư viện trường đại học bao gồm:
- Là một tổ chức đảm nhận việc tạo lập và phát triển thông tin của trường đại học;
- Là một tổ chức đảm nhận việc bảo đảm thông tin phục vụ công tác giảng dạy, học
tập, nghiên cứu khoa học của cán bộ, giảng viên và học viên trong toàn trường.
1.3.3Hoạt động thông tin – thư viện trong trường đại học
Trường đại học có nhiệm vụ cơ bản là GD-ĐT và NCKH, trong đó nhiệm vụ
đào tạo nguồn nhân lực có trình độ đại học và trên đại học cho đất nước là quan
trọng nhất. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng đào tạo, các trường đại học thường
phải tham gia NCKH. Công tác GD-ĐT và NCKH trong trường đại học đều rất cần
thông tin khoa học. Người dùng tin/bạn đọc với nhu cầu tin của họ là một bộ phận
cấu thành của một hệ thống thông tin – thư viện.
Đội ngũ người dùng tin là cán bộ trong trường đại học khá đa dạng và có

trình độ cao. Theo nghề nghiệp có thể phân chia nhóm bạn đọc này thành các nhóm
như:
25


×