Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Dịch vụ công tác xã hội từ thực tiễn trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.83 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ NGOAN

DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI TỪ THỰC TIỄN
TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI TỈNH QUẢNG NINH

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Phạm Hữu Nghị


HÀ NỘI, 2016

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi trong
luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

PHẠM THỊ NGOAN



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI.9
1.1. Khái niệm, chức năng, nhiệm vụ, vai trò, nguyên tắc của công tác xã hội và
dịch vụ công tác xã hội.................................................................................................9
1.2. Đối tượng, nhu cầu của các đối tượng cung cấp dịch vụ công tác xã hội..........19
1.3. Vai trò, yêu cầu về đạo đức, kiến thức, kỹ năng đối với nhân viên công tác xã
hội trong cung cấp dịch vụ công tác xã hội…...........................................................23
1.4. Các dịch vụ công tác xã hội…............................................................................25
1.5. Thể chế dịch vụ công tác xã hội…......................................................................27
1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ công tác xã hội............................................31
Chương 2. THỰC TRẠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI TẠI TRUNG
TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI TỈNH QUẢNG NINH.................................................35
2.1. Điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của tỉnh Quảng Ninh ảnh hưởng đến dịch vụ
công tác xã hội ...........................................................................................................35
2.2. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng
Ninh.............................................................................................................................39
2.3. Thực trạng và nhu cầu của người cao tuổi tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh
Quảng Ninh….............................................................................................................43
2.4. Thực trạng dịch vụ công tác xã hội tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng
Ninh….........................................................................................................................46
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI
TỈNH QUẢNG NINH…...........................................................................................67
3.1. Định hướng nâng cao chất lượng dịch vụ công tác xã hội ................................67
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ công tác xã hội tại Trung tâm Bảo trợ xã
hội tỉnh Quảng Ninh...................................................................................................69
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ….............................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…............................................................76
PHỤ LỤC...............................................................................................................80



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTXH

Công tác xã hội

DVXH

Dịch vụ xã hội

DVCTXH

Dịch vụ công tác xã hội

NCT

Người cao tuổi

TP

Thành phố

NVCTXH

Nhân viên công tác xã hội


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng biểu

2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
2.8
2.9
2.10
2.11
2.12
2.13
2.14

Nội dung
Tổng hợp nhóm đối tượng yếu thế trên địa bàn tỉnh Quảng

Trang

33
Ninh
Số lượng người cao tuổi tỉnh Quảng Ninh
35
Sơ đồ cơ cấu tổ chức Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng 38
Ninh
Số lượng người cao tuổi tại Trung tâm chia theo 2 nhóm
Phân bố theo nhóm tuổi của NCT tại Trung tâm
Phân bố theo giới tính của NCT tại Trung tâm
Hoàn cảnh gia đình của NCT tại Trung tâm

Số liệu NCT được bảo vệ khẩn cấp qua các năm
Nội dung tư vấn, tham vấn
Những vấn đề lo lắng nhất trong cuộc sống của NCT
Nhu cầu lao động của NCT
Các hoạt động chăm sóc sức khoẻ NCT
Các hoạt động vui chơi, giải trí của NCT
Đánh giá chất lượng dịch vụ công tác xã hội được cung
cấp tại Trung tâm

40
41
41
41
42
47
47
56
57
59
60


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế hiện nay, những vấn đề xã
hội bức xúc cũng đang có xu hướng bùng phát và duy trì ở mức cao, như sự phân
hóa giầu nghèo, tệ nạn cờ bạc, nghiện ma túy, mại dâm, hay vấn đề già hóa dân
số… Rõ ràng trong thế giới ngày nay việc giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã
hội trên là rất cần thiết và không thể cứ mò mẫm, theo chủ nghĩa kinh nghiệm thuần
túy hoặc theo chủ nghĩa duy lý trí như trước.

Công tác xã hội được công nhận là một nghề như nhiều ngành nghề khác
trong xã hội đã được thực hiện từ những năm 40 của thế kỷ trước ở nhiều nước trên
thế giới, nhất là các nước phát triển ở Châu Âu, Châu Mỹ. Dịch vụ công tác xã hội
cần phải mang tính chuyên nghiệp, những người làm dịch vụ công tác xã hội cần
phải được đào tạo một cách chính quy, có bài bản. Các nước phát triển trên thế giới
xem dịch vụ công tác xã hội như một phần quan trọng của sự phát triển cộng đồng,
phát triển xã hội và các nhân viên xã hội là người thực hiện trực tiếp. Dịch vụ công
tác xã hội phát triển mạnh sẽ góp phần phát triển và cải thiện hệ thống an sinh xã
hội, trợ giúp con người và cộng đồng giải quyết và đối phó với khó khăn trong cuộc
sống.
Theo ước tính của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, hiện Việt Nam có
khoảng 28% dân số có nhu cầu sử dụng các dịch vụ công tác xã hội, trong đó bao
gồm khoảng 9,4 triệu người cao tuổi, 7,2 triệu người khuyết tật, 1,5 triệu trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt, khoảng 1,5 triệu lượt hộ gia đình cần được trợ giúp đột xuất
hằng năm, 5,97% hộ nghèo; khoảng 30.000 nạn nhân bị bạo lực, bạo hành trong gia
đình; 234.000 người nhiễm HIV được phát hiện; 204.000 người nghiện ma tuý; hơn
48.000 người bán dâm; khoảng 14,8% dân số có vấn đề về rối nhiễu tâm thần cũng
đang cần sự trợ giúp chuyên nghiệp.( Cục Bảo trợ xã hội, 2015a). Đây được coi là
nhu cầu cấp bách cần phát triển các dịch vụ công tác xã hội, một nghề mới đang
phát triển ở Việt Nam. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra và cũng là thách thức cho Việt Nam
1


là làm thế nào để có thể phát triển các dịch vụ này theo hướng chuyên nghiệp đảm
bảo đáp ứng tốt nhất nhu cầu của đối tượng.
Công tác xã hội là một nghề mới ở Việt Nam, được ra đời căn cứ theo Quyết
định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề
án phát triển nghề Công tác xã hội giai đoạn 2010-2020 (sau đây gọi tắt là Đề án
32). Sau khi Đề án 32 được phê duyệt, các hoạt động cung cấp dịch vụ công tác xã
hội đã được các cơ quan và các tổ chức xã hội quan tâm thực hiện dưới nhiều hình

thức khác nhau góp một phần hỗ trợ các đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương giải
quyết khó khăn và hòa nhập với cuộc sống của cộng đồng.
Quảng Ninh là một trong những tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế cao, 58%
dân số sống ở thành thị, cao thứ 3 toàn quốc nên cũng có nhiều vấn đề xã hội phức
tạp. Trong đó có rất nhiều các nhóm đối tượng yếu thế, đòi hỏi việc cung cấp các
dịch vụ công tác xã hội để đảm bảo đáp ứng các nhu cầu của họ là vô cùng cần thiết
với sự phát triển của xã hội nhằm đảm bảo an sinh xã hội.
Từ trước tới nay đã có một số đề tài nghiên cứu đến việc cung cấp các dịch
vụ công tác xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong đó đề cập đến các dịch vụ
công tác xã hội dành cho người nghèo, dịch vụ công tác xã hội cho trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt…Tuy nhiên đề cập đến việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội từ thực
tiễn Trung tâm Bảo trợ xã hội còn là đề tài khá mới mẻ.
Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Ninh có lịch sử hình thành và phát triển
trên 55 năm. Từ khi Đề án 32 của Chính phủ được triển khai, Trung tâm Bảo trợ xã
hội tỉnh Quảng Ninh đã bước đầu thực hiện việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội
theo hướng chuyên nghiệp và đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên
trong quá trình thực hiện việc cung cấp dịch vụ công tác xã hội còn tồn tại nhiều
vướng mắc. Hiện nay, nhu cầu được cung cấp dịch vụ công tác xã hội từ thực tiễn
Trung tâm ngày càng lớn, đòi hỏi sự chuyên nghiệp hoá trong cung cấp các dịch vụ
công tác xã hội.

2


Từ những lý do trên tôi nhận thấy việc thực hiện nghiên cứu: “ Dịch vụ công
tác xã hội từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Ninh” là vô cùng cần
thiết. Đề tài sẽ góp phần tìm hiểu các dịch vụ công tác xã hội đang được cung cấp
tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Ninh. Qua đó đề xuất một số giải pháp để
cải thiện chất lượng dịch vụ công tác xã hội cho nhóm đối tượng được cung cấp
dịch vụ công tác xã hội tại Trung tâm.

2. Tình hình nghiên cứu
Từ lý luận và thực tiễn cho thấy, việc cung cấp các dịch vụ công tác xã hội
trở lên cấp thiết hơn bao giờ hết. Vấn đề này không chỉ là mối quan tâm của các nhà
nghiên cứu, các nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới mà của cả nhân loại trong
đó có Việt Nam. Nhận thức được tầm ảnh hưởng sâu sắc của vấn đề dịch vụ công
tác xã hội tới sự ổn định và phát triển xã hội, các nhà khoa học, các tổ chức nghiên
cứu ở Việt Nam và trên thế giới đã có nhiều cuộc khảo sát, đánh giá, đề tài nghiên
cứu liên quan đến vấn đề này.
Ths. Đặng Kim Chung và nhóm nghiên cứu năm 2011 với đề tài: “Đánh giá
nhu cầu về dịch vụ công tác xã hội và xây dựng công tác xã hội và xây dựng kế
hoạch thiết lập mô hình và hệ thống cung cấp dịch vụ từ trung ương đến cộng
đồng”. Nghiên cứu đã đánh giá nhu cầu dịch vụ công tác xã hội tại cộng đồng và
trong trung tâm, nghiên cứu việc phát triển những dịch vụ công tác xã hội trong
phạm vi tài nguyên có thể huy động, đề xuất kế hoạch xây dựng và vận hành mô
hình và hệ thống cung cấp dịch vụ công tác xã hội từ trung ương đến cộng đồng. Đề
tài đã phân tích và đánh giá nhu cầu của các đối tượng dựa trên hai khái cạnh: cung
và cầu dịch vụ cho từng nhóm đối tượng cụ thể: người cao tuổi, người khuyết tật,
trẻ em, người trưởng thành… Nhu cầu với dịch vụ công tác xã hội của các nhóm đối
tượng rất lớn nhưng vẫn còn đang tiềm ẩn trong xã hội. Hệ thống cơ sở cung cấp
dịch vụ còn manh mún và chất lượng còn kém. Nhận thức và hiểu biết của công
chúng và các nhà hoạch định chính sách về nghề công tác xã hội còn chưa sâu. Cán
bộ làm công tác xã hội còn thiếu và chưa được đào tạo chính quy, tổ chức cung cấp
dịch vụ công tác xã hội ở cộng đồng gần như chưa có. Đề tài đưa ra các giải pháp để

3


tuyên truyền, phổ biến chính sách, chế độ trợ cấp, các dịch vụ xã hội. Nâng cao
năng lực xây dựng và thực hiện của các trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội
đặc biệt là các cán bộ thực hiện ở cấp cơ sở. Giải pháp tuyên truyền vận động các tổ

chức, đoàn thể để có sự hiểu biết về các dịch vụ của công tác xã hội.
Cuốn sách “Đổi mới công tác xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế - Lý luận và thực tiễn” do tác giả Nguyễn Thị Thu Hà (2013) làm chủ
biên đã tập trung đánh giá thực trạng công tác xã hội ở Việt Nam trong điều kiện
kinh tế thị trường và hội nhập Quốc tế, tìm hiểu những yếu tố thúc đẩy, cản trở việc
phát huy hiệu quả của các hoạt động này, từ đó đề xuất những khuyến nghị về mặt
chính sách đối với Đảng và Nhà nước nhằm phát triển nghề công tác xã hội chuyên
nghiệp tại Việt Nam. Trong đó có những nghiên cứu về vấn đề phát triển mạng lưới
CTXH, mô hình CTXH dựa vào cộng đồng tại Việt Nam và những bài học kinh
nghiệm từ thực tiễn phát triển CTXH của Liên Bang Nga và một số quốc gia khác.
Cuốn kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc tế “Thực tiễn và hội nhập trong phát
triển công tác xã hội ở Việt Nam” (2015) đã tổng hợp nhiều công trình nghiên cứu,
bài viết của các nhà khoa học về vấn đề phát triển nguồn nhân lực, hệ thống cung
cấp dịch vụ CTXH ở Việt Nam. Trong đó, bài viết “Thực trạng mạng lưới dịch vụ
xã hội ở Việt Nam – Những khuyến nghị và giải pháp”, tác giả Bùi Thị Xuân Mai
đã trình bày khái quát về cơ sở lý luận, nhu cầu và thực trạng mạng lưới cung cấp
dịch vụ xã hội ở nước ta đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm phát triển hệ thống
dịch vụ xã hội ở Việt Nam, trong đó đề cập đến giải pháp phát triển mô hình mạng
lưới của các cơ sở vừa tham gia quản lý nhà nước, vừa tham gia cung cấp dịch vụ/
trợ giúp xã hội tại xã, phường.
Trong những năm gần đây, các cơ quan quản lý nhà nước, Viện nghiên cứu,
các cơ sở đào tạo cũng như cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH đã tổ chức và phối hợp tổ
chức nhiều Hội thảo quốc gia, quốc tế về vấn đề phát triển nghề và mạng lưới cung
cấp dịch vụ CTXH tại Việt Nam. Trong bản tham luận trình bày tại Hội nghị “Sơ
kết 4 năm thực hiện Đề án phát triển nghề CTXH” tại Đà Nẵng, ông Nguyễn Trọng
Đàm - Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho rằng mạng lưới các

4



cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Tính xã
hội chưa cao, chưa dựa vào cộng đồng. Đội ngũ nhân viên CTXH còn mỏng và
chưa chuyên nghiệp, thiếu mạng lưới cộng tác viên tại các cộng đồng. Nhận thức
của các cấp, ngành địa phương và cộng đồng về vị trí, vai trò của CTXH còn rất hạn
chế. Từ những đánh giá trên, Thứ trưởng đã coi việc đẩy mạnh xây dựng mạng lưới
nhân viên CTXH, cộng tác viên cung cấp dịch vụ CTXH tại cộng đồng gắn với đào
tạo, đào tạo lại, nâng cao trình độ, kỹ năng của đội ngũ cộng tác viên công tác xã
hội tại xã, phường là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đề án trong giai
đoạn tới.
Ngoài ra còn rất nhiều bài viết, đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học, nghiên
cứu sinh, học viên cao học về công tác xã hội đối với các đối tượng người cao tuổi,
người khuyết tật, nghiện ma túy, bạo lực...Các nghiên cứu này là những tài liệu
tham khảo quý giá, hỗ trợ hữu ích cho hệ thống lý thuyết của đề tài. Tuy nhiên, các
nghiên cứu về công tác xã hội ở Việt Nam thường chỉ nhấn mạnh đến việc xây
dựng, phát triển hệ thống cung cung cấp dịch vụ công tác xã hội chuyên nghiệp.
Đề tài “ Dịch vụ công tác xã hội từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh
Quảng Ninh” đề cập cụ thể việc cung cấp các dịch vụ công tác xã hội tại một cơ sở
bảo trợ xã hội. Bên cạnh hướng đến việc trợ giúp các đối tượng yếu thế tại cộng
đồng, thực hiện nhiệm vụ này còn góp phần vào việc quảng bá hình ảnh, thay đổi
nhận thức của cộng đồng về nghề công tác xã hội, và tạo tiền đề cho việc cơ cấu lại
tổ chức và nhiệm vụ của các cơ sở bảo trợ xã hội trên cả nước. Đây chính là cơ sở
của một trung tâm cung cấp dịch vụ công tác xã hội chuyên nghiệp trong tương lai,
góp phần thúc đẩy các dịch vụ công tác xã hội phát triển tương xứng với sự phát
triển và nhu cầu của xã hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn (thông
qua nghiên cứu thực tiễn tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Ninh) về dịch vụ
công tác xã hội, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ công tác xã hội.
Để đạt mục đích nói trên, các nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra là:
5



- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận của dịch vụ công tác xã hội.
- Đánh giá thực trạng dịch vụ công tác xã hội từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ
xã hội tỉnh Quảng Ninh.
- Ứng dụng lý thuyết dịch vụ công tác xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu của đối
tượng cung cấp dịch vụ công tác xã hội. Trong luận văn chỉ nghiên cứu đối tượng
cung cấp dịch vụ là người cao tuổi tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Ninh.
- Đề xuất kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công tác
xã hội.
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
4.1. Phạm vi
- Phạm vi thời gian: Từ 01/2016 đến 6/2016
- Phạm vi không gian: Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Ninh- Giới hạn
nội dung nghiên cứu: Các dịch vụ công tác xã hội dành cho người cao tuổi và hoạt
động của hệ thống cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi tại
Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Ninh.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
- Dịch vụ công tác xã hội tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Ninh.
( Gồm 7 dịch vụ chủ yếu).
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận:
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này tôi chủ yếu sử dụng các thuyết chính sau:
Thuyết về nhu cầu con người; Thuyết về quyền con người; Thuyết nhận thức
- hành vi; Lý thuyết công tác xã hội; Lý thuyết xã hội học; Lý thuyết tâm lý học.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp phân tích tài liệu: Phân tích thông tin, số liệu từ các báo cáo, ấn
phẩm, tài liệu liên quan đến lĩnh vực dịch vụ công tác xã hội trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh.
6



Phương pháp thu thập thông tin: Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi và
phỏng vấn sâu. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp có thể thu thập
được một lượng thông tin trong quá trình điều tra và thu thập thông tin từ người cao
tuổi. Cơ cấu bảng hỏi tôi xây dựng theo 2 phần: Phần 1 thông tin cá nhân, phần 2
phần trả lời câu hỏi. Số lượng câu hỏi là: 23 câu hỏi. Số phiếu phát ra 30. Phương
pháp phỏng vấn sâu là phương pháp thu thập thông tin cụ thể của xã hội học thông
qua việc tác động vào tâm lý xã hội trực tiếp giữa người đi hỏi và người được hỏi
nhằm thu thập được những thông tin phù hợp với mục đích và đề tài nghiên cứu. Đề
tài phỏng vấn những người cao tuổi được hưởng các dịch vụ công tác xã hội tại
trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Ninh. Số lượng là 30 người.
Phương pháp quan sát: Là thu thập thông tin thực nghiệm thông qua nghe,
nhìn để thu thập thông tin về các dịch vụ công tác xã hội và các hoạt động can thiệp,
trợ giúp của nhân viên công tác xã hội trong cung cấp dịch vụ công tác xã hội tại
Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Ninh. Đối với đề tài này tôi quan sát qua các
hoạt động cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với người cao tuổi tại Trung tâm
trong vòng 3 tháng.
Bên cạnh đó, đề tài nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp như: thống kê,
lịch sử, xã hội học, tâm lý học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn xác định khung lý thuyết dịch vụ công tác xã hội từ thực tiễn Trung
tâm Bảo trợ xã hội như: Các khái niệm, nguyên tắc, đặc điểm cơ bản của dịch vụ
công tác xã hội, các khái niệm, đặc điểm, vấn đề của các đối tượng được cung cấp
các dịch vụ công tác xã hội, các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề này. Luận văn bổ sung
một số vấn đề lý luận cơ bản về dịch vụ công tác xã hội từ thực tiễn một trung tâm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã phân tích được thực trạng dịch vụ công tác xã hội từ thực tiễn
Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Ninh. Nghiên cứu đã đưa ra một số kiến nghị

7


và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công tác xã hội tại Trung tâm Bảo
trợ xã hội tỉnh Quảng Ninh. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
người làm công tác xã hội khi tiếp cận về vấn đề dịch vụ công tác xã hội. Tiếp tục
bổ sung hệ thống lý thuyết dịch vụ công tác xã hội, từ đó có những định hướng
thích hợp để nâng cao chất lượng dịch vụ công tác xã hội tại các Trung tâm Bảo trợ
xã hội.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu, các phụ lục luận văn còn có
3 chương, gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về dịch vụ công tác xã hội
Chương 2: Thực trạng dịch vụ công tác xã hội từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ
xã hội tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Định hướng và giải pháp để nâng cao chất lượng dịch vụ công tác
xã hội từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Quảng Ninh

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI
1.1. Khái niệm, chức năng, nhiệm vụ, vai trò, nguyên tắc của công tác xã
hội và dịch vụ công tác xã hội
1.1.1. Khái niệm, chức năng, nhiệm vụ của dịch vụ công tác xã hội
- Khái niệm dịch vụ
Nói tới dịch vụ, cung cấp dịch vụ tức là cần có hai yếu tố là những người có
nhu cầu sử dụng dịch vụ và những người cung cấp dịch vụ.
Trong cuộc sống ngày nay chúng ta biết đến rất nhiều hoạt động trao đổi

được gọi chung là dịch vụ và ngược lại dịch vụ bao gồm rất nhiều các loại hình hoạt
động và nghiệp vụ trao đổi trong các lĩnh vực và ở cấp độ khác nhau. Đã có nhiều
khái niệm, định nghĩa về dịch vụ nhưng để có hình dung về dịch vụ trong luận văn
này, tôi tham khảo một số khái niệm cơ bản.
Định nghĩa về dịch vụ trong kinh tế học được hiểu là những thứ tương tự như
hàng hoá nhưng phi vật chất [Từ điển Wikipedia]. Theo quan điểm kinh tế học, bản
chất của dịch vụ là sự cung ứng để đáp ứng nhu cầu như: dịch vụ du lịch, thời trang,
chăm sóc sức khoẻ…và mang lại lợi nhuận.
Philip Kotler định nghĩa dịch vụ: Dịch vụ là một hoạt động hay lợi ích cung
ứng nhằm để trao đổi, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến việc chuyển quyền sở
hữu. Việc thực hiện dịch vụ có thể gắn liền với sản phẩm vật chất.
Tóm lại, có nhiều khái niệm về dịch vụ được phát biểu dưới những góc độ
khác nhau nhưng tựu chung thì: Dịch vụ là hoạt động có chủ đích nhằm đáp ứng
nhu cầu nào đó của con người. Đặc điểm của dịch vụ là không tồn tại ở dạng sản
phẩm cụ thể (hữu hình) như hàng hoá nhưng nó phục vụ trực tiếp nhu cầu nhất định
của xã hội.
- Khái niệm công tác xã hội

9


Trên thế giới có nhiều khái niệm khác nhau về công tác xã hội. Dưới đây là
một số khái niệm về CTXH và nghề CTXH được đông đảo các nhà nghiên cứu và
những người thực hành CTXH trên thế giới tham khảo, sử dụng:
Theo định nghĩa của Hiệp hội quốc gia các nhân viên CTXH Mỹ (NASW 1970): "Công tác xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng
đồng tăng cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo
những điều kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó”.
Luật an sinh-xã hội Phillipines giải thích: Công tác xã hội là một nghề bao
gồm các hoạt động cung cấp các dịch vụ nhằm thúc đẩy hay điều phối các mối
quan hệ xã hội, điều chỉnh sự hoà hợp giữa cá nhân và môi trường để có xã hội tốt

đẹp.
Tháng 7 năm 2000 tại Montréal, Canada, Hiệp hội Nhân viên Công tác xã
hội Quốc tế (IFSW, 2000) đã thông khái niệm nghề CTXH. "Nghề CTXH thúc đẩy
biến đổi xã hội, giải quyết vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ giữa con người với
con người và tăng cường năng lực, tự do của con người nhằm cải thiện điều kiện
sống nói chung. Bằng việc vận dụng các lý thuyết hành vi của con người và hệ
thống xã hội, công tác xã hội can thiệp vào những thời điểm con người giao tiếp với
môi trường của mình. Các nguyên tắc về quyền con người và công bằng xã hội là
nền tảng cơ bản của nghề công tác xã hội”.
Gần đây nhất, tháng 7/2014, Đại hội đồng Hiệp hội Nhân viên CTXH Quốc
tế (IFSW General Meeting) và Đại hội đồng Hiệp hội quốc tế các trường đào tạo
CTXH (IASSW General Assembly) đã thống nhất toàn cầu về định nghĩa nghề
CTXH. “CTXH là một ngành khoa học và là nghề thực hành thúc đẩy nâng cao
năng lực, sự tự do, liên kết xã hội, thay đổi xã hội và phát triển. Nguyên tắc chủ
đạo của CTXH là tôn trọng sự đa dạng, trách nhiệm tập thể, quyền con người và
công bằng xã hội. Trên nền tảng lý thuyết CTXH, khoa học xã hội,, kiến thức bản
địa và nhân văn, CTXH kết nối nhân dân và tổ chức để bày tỏ những thách thức
trong cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc sống.[5]

10


Ở Việt Nam cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về CTXH. CTXH có thể
hiểu là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình
và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội,
đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm
giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội
góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
Theo Đề án phát triển nghề công tác xã hội Việt Nam giai đoạn 2010
-2020, CTXH là hoạt động mang tính chuyên môn, được thực hiện theo các nguyên

tắc và phương pháp riêng nhằm hỗ trợ các cá nhân, gia đình, nhóm xã hội và cộng
đồng dân cư trong việc giải quyết các vấn đề của họ. Qua đó, CTXH theo đuổi mục
tiêu vì hạnh phúc cho con người và tiến bộ xã hội.
Theo TS Bùi Thị Xuân Mai: “Công tác xã hội là một nghề, một hoạt động
chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực
đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội đồng thời thúc đẩy môi trường xã
hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình, cộng đồng
giải quyết và phòng ngừa các vấn đề về xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã hội.”
[20, tr. 4].
Như vậy, có thể hiểu công tác xã hội là một nghề chuyên nghiệp, áp dụng
những nguyên tắc, kỹ năng để trợ giúp có hiệu quả cho cá nhân, gia đình và cộng
đồng giải quyết vấn đề góp phần xây dựng xã hội công bằng, hạnh phúc.
- Khái niệm dịch vụ công tác xã hội
Có thể hiểu dịch vụ công tác xã hội như là dịch vụ xã hội
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), dịch vụ xã hội (DVXH) là các hoạt
động cung cấp dịch vụ, đáp ứng nhu cầu cho các cá nhân, nhóm người nhất định
nhằm bảo đảm các giá trị và chuẩn mực xã hội [1]. Ngoài ra còn có một số cách hiểu
khác về dịch vụ xã hội nhìn từ vai trò của người cung cấp dịch vụ và người tiếp nhận
dịch vụ. Theo cách nhìn này, dịch vụ xã hội là các hoạt động có chủ đích của con
người nhằm phòng ngừa hạn chế và khắc phục rủi ro, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu
11


cơ bản và thúc đẩy khả năng hoà nhập cộng đồng, xã hội cho nhóm đối tượng yếu
thế. Dịch vụ xã hội là các sáng kiến can thiệp nhằm vào các nhu cầu và các vấn đề
của các nhóm người dễ bị tổn thương, bao gồm cả việc phòng ngừa bạo lực, tan vỡ
gia đình, xóa đói giảm nghèo và hỗ trợ người khuyết tật, trẻ em và người già.
Tác giả Trần Hậu, Đoàn Minh Tuấn (2012) cho rằng dịch vụ xã hội là những
dịch vụ đáp ứng nhu cầu cộng đồng và cá nhân nhằm phát triển xã hội, có vai trò
đảm bảo hạnh phúc, phúc lợi và công bằng xã hội, đề cao tính nhân văn và vì con

người. DVXH là hoạt động mang bản chất kinh tế, xã hội do Nhà nước, thị trường
hoặc xã hội dân sự cung ứng tùy theo tính chất thuần công, không thuần công hay
tư của từng lĩnh vực dịch vụ, bao gồm các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, khoa
học, công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục thể thao và các trợ giúp xã hội khác.
Dịch vụ công tác xã hội cho các nhóm đối tượng yếu thế chính là việc cung
cấp các hoạt động mang tính chất phòng ngừa- khắc phục rủi ro và hoà nhập cộng
đồng cho các nhóm đối tượng yếu thế dựa trên các nhu cầu cơ bản của họ nhằm bảo
đảm các giá trị và chuẩn mực xã hội. [12]
Thuật ngữ dịch vụ công tác xã hội ở nước ta chưa được nói đến nhiều. Song
thuật ngữ này sẽ từng bước được làm quen và được mọi người chấp nhận vì hiện
nay nước ta có hàng chục triệu người đang cần loại hình dịch vụ này và không chỉ
có những đối tượng hiện tại mà còn hàng triệu đối tượng tiềm năng sẽ cần được
cung cấp dịch vụ công tác xã hội trong tương lai.
- Chức năng, nhiệm vụ của dịch vụ công tác xã hội
- Các chức năng cuả dịch vụ công tác xã hội
Như là bác sỹ xã hội, các nhân viên xã hội khi tiến hành các dịch cụ công tác
xã hội cần thực hiện được các chức năng: Phòng ngừa, chức năng Can thiệp, Chức
năng Phục hồi; Chức năng Phát triển.
- Chức năng phòng ngừa

12


Với quan điểm phòng bệnh hơn chữa bệnh, dịch vụ công tác xã hội không
chờ tới khi cá nhân hay gia đình rơi vào hoàn cảnh khó khăn rồi mới giúp đỡ. Dịch
vụ công tác xã hội rất quan tâm đến phòng ngừa những vấn đề xã hội của cá nhân,
gia đình hay cộng đồng.
- Chức năng can thiệp.
Chức năng can thiệp (còn được gọi là chức năng chữa trị hay trị liệu) nhằm
trợ giúp cá nhân, gia đình hay cộng đồng giải quyết vấn đề đang gặp phải. Khi thực

hiện chức năng này nhân viên xã hội giúp đỡ đối tượng vượt qua khó khăn, giải
quyết vấn đề đang tồn tại.
- Chức năng phục hồi.
Đó là việc các dịch vụ công tác xã hội giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng
khôi phục lại chức năng xã hội đã bị suy giảm. Nó bao gồm những hoạt động trợ
giúp đối tượng trở lại mức ban đầu và hoà nhập cuộc sống xã hội.
- Chức năng phát triển: Chức năng phát triển của dịch vụ công tác xã hội thể
hiện qua các hoạt động nhằm tăng năng lực, tăng khả năng ứng phó với các tình
huống có vấn đề, những sự việc có nguy cơ cao. [20, tr. 5].
- Các nhiệm vụ cơ bản của dịch vụ CTXH:
+ Nâng cao năng lực, thúc đẩy khả năng tự giải quyết vấn đề của cá nhân,
gia đình và cộng đồng.
+ Nối kết con người với hệ thống nguồn lực, dịch vụ và những cơ hội trong
xã hội.
+ Thúc đẩy sự hoạt động có hiệu quả và tính nhân văn của các hệ thống
cung cấp nguồn lực và dịch vụ xã hội.
+ Phát triển và cải thiện chính sách xã hội [20, tr. 5].
1.1.2. Vai trò của dịch vụ công tác xã hội

13


Thứ nhất, với tính chất là phục vụ con người thì dịch vụ công tác xã hội đã
góp phần vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người, đặc biệt là nhóm
người yếu thế, giúp họ thay đổi cuộc sống, vượt qua khó khăn về thể chất, tinh thần
và xã hội để hoà nhập cuộc sống.
Thứ hai, dịch vụ công tác xã hội góp phần thực hiện, triển khai các chính sách
xã hội về trợ giúp xã hội, chính sách công tác xã hội, đảm bảo công bằng và tiến bộ
xã hội như bình đẳng giới, chăm sóc người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em, người
nghèo.. Việc thúc đẩy các dịch vụ công và tư nhân trong lĩnh vực công tác xã hội

đóng vai trò tạo nhiều cơ hội cho nhóm người yếu thế được tiếp cận các dịch vụ xã
hội khác.
Thứ ba, dịch vụ công tác xã hội góp phần ổn định xã hội và tạo ra nhiều cơ hội
giáo dục, việc làm…cho các đối tượng yếu thế, góp phần giảm đi các vấn đề để lại
do nghiện ma tuý, bạo lực, giảm tỉ lệ nghèo đói, thất nghiệp, vô gia cư…gây ra.
Thứ tư, sự phát triển của dịch vụ công tác xã hội được cung cấp bởi hệ thống
các trung tâm công tác xã hội đã tạo ra một cơ hội nghề nghiệp lớn cho các nhân
viên công tác xã hội, người có chuyên môn nghề nghiệp được đào tạo lại tại các cơ
sở giáo dục.
Thứ năm, sự phát triển của dịch vụ công tác xã hội có thể làm cho các nhóm
đối tượng, các giai cấp, tầng lớp xã hội, các lĩnh vực dịch vụ xã hội khác gần nhau
hơn trong việc trợ giúp một trường hợp hay nhóm đối tượng yếu thế nào đó.
Thứ sáu, dịch vụ công tác xã hội góp phần gìn giữ và phát huy những bản sắc
tốt đẹp, đồng thời góp phần xoá đi những hủ tục lạc hậu, thói quen không lành
mạnh của cộng đồng, nâng cao hiểu biết cho người dân..thông qua các hoạt động
phát triển cộng đồng, truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng. [12].
1.1.3. Nguyên tắc của dịch vụ công tác xã hội
Trên cơ sở nền tảng triết lý, giá trị và nguyên tắc nghề nghiệp của CTXH
người ta đưa ra hệ thống các qui tắc ứng xử cho NVCTXH trong quá trình thực hiện

14


nhiệm vụ và cung cấp các dịch vụ công tác xã hội. Những qui tắc ứng xử này đóng
vai trò như kim chỉ nam cho hành động tương tác của NVCTXH với thân chủ trong
quá trình trợ giúp. Sau đây là những nguyên tắc ứng xử của NVCTXH trong quá
trình tiến hành hoạt động trợ giúp và cung cấp các dịch vụ công tác xã hội:
Thứ nhất, chấp nhận thân chủ
Chấp nhận đòi hỏi việc tiếp nhận thân chủ, theo nghĩa bóng và nghĩa đen,
không tính toán, không thành kiến và không đưa ra phán quyết nào về hành vi của

anh ta. Thân chủ phục vụ của ngành CTXH là con người, đặc biệt là nhóm người
yếu thế, nhóm người có hoàn cảnh và nhu cầu cơ bản chưa được đáp ứng. Mỗi con
người, dù là bình thường hay bất bình thường họ đều có nhân phẩm, có giá trị riêng
và có quyền được tôn trọng, bình đẳng. Chính vì vậy trong các hoạt động trợ giúp,
NVCTXH cần có thái độ tôn trọng phẩm giá con người và chấp nhận họ. Việc chấp
nhận những hành vi, quan điểm hay giá trị của thân chủ không có nghĩa là đồng tình
với những hành vi, suy nghĩ của họ. Sự thực hiện nguyên tắc này giúp cho
NVCTXH tạo được lòng tin từ thân chủ, qua đó thúc đẩy sự hợp tác và chia sẻ của
họ, đó là nền tảng cho thiết lập mối quan hệ tương tác trong quá trình giúp đỡ.
Thứ hai, tạo điều kiện để thân chủ tham gia giải quyết vấn đề.
Nguyên tắc để thân chủ tham gia giải quyết vấn đề là một trong những
nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của NVCTXH. Vấn đề là của thân chủ, họ hiểu
hoàn cảnh và khả năng của mình hơn ai hết nếu được sự trợ giúp. Vì vậy, họ cần là
người tham gia chủ yếu từ khâu đánh giá vấn đề tới ra quyết định, lựa chọn giải
pháp, thực hiện giải pháp cũng như lượng giá kết quả của giải pháp đó. Người
NVCTXH chỉ đóng vai trò xúc tác, vai trò định hướng trong quá trình trợ giúp thân
chủ thực hiện giải pháp cho vấn đề của họ mà không làm thay, làm hộ chủ yếu
khích lệ họ có niềm tin để tự giải quyết vấn đề.
Thứ ba, tôn trọng quyền tự quyết của thân chủ.
Mỗi cá nhân có quyền quyết định về các vấn đề thuộc về cuộc đời, những
quyết định của người khác hướng dẫn họ nhưng không nên áp đặt trên họ. Nguyên
15


tắc tự quyết định, giống như sự tự do, cũng có những giới hạn của nó, nó không
mang nghĩa tuyệt đối. Thực hiện nguyên tắc này cũng là cách mà NVCTXH giúp
cho thân chủ trở nên tự tin, nâng cao khả năng đưa ra quyết định đúng đắn trong
cuộc sống.
Thứ tư, đảm bảo tính cá nhân hóa.
Việc cá biệt hoá trường hợp của thân chủ (cá nhân, gia đình hay cộng đồng)

giúp NVCTXH đưa ra phương pháp giúp đỡ thích hợp với từng trường hợp cụ thể.
Việc đảm bảo tính khác biệt trong trợ giúp thân chủ thể hiện ở việc tìm hiểu và phát
hiện những nét đặc thù của trường hợp đó, linh hoạt trong giải quyết vấn đề, không
áp dụng cách giải quyết giống nhau cho các trường hợp. Giải pháp cho mỗi trường
hợp cần được cân nhắc trên cơ sở nhu cầu, đặc điểm, khả năng và nguồn lực mà họ
có. Thực hiện nguyên tắc này trong hoạt động của mình sẽ cho phép NVCTXH đảm
bảo lợi ích thiết thực của các nhóm thân chủ, đáp ứng đúng nhu cầu của thân chủ và
rèn luyện khả năng ứng phó linh hoạt trong giải quyết vấn đề, khắc phục sự bảo thủ,
quan liêu, cứng nhắc trong quá trình trợ giúp.
Thứ năm, đảm bảo tính riêng tư, kín đáo các thông tin về trường hợp của
thân chủ.
Kín đáo hay giữ bí mật thông tin là một trong những nguyên tắc cơ bản
không chỉ ngành CTXH sử dụng mà nhiều ngành khác cũng áp dụng như: ngành
luật, tài chính, y tế… Nó thể hiện sự tôn trọng những vấn đề riêng tư của thân chủ
và không được chia sẻ những thông tin của thân chủ với người khác khi chưa có sự
đồng ý của thân chủ. Tuy nhiên trong một số trường hợp sẽ có ngoại lệ với nguyên
tắc này nếu như những hành vi của thân chủ đe doạ tính mạng của bản thân họ hay
của những người khác thì NVCTXH có quyền trao đổi thông tin với những người
có thẩm quyền. Việc đảm bảo bí mật thông tin của thân chủ sẽ giúp cho thân chủ tin
tưởng vào nhân viên xã hội, từ đó họ sẵn sàng chia sẻ và hợp tác. Bên cạnh đó việc
đảm bảo bí mật của thân chủ còn là yêu cầu mang tính nhân văn trong quan hệ con
người và quan hệ nghề nghiệp.

16


Thứ sáu, tự ý thức về bản thân.
Trong khi thực thi nhiệm vụ, với tư cách là người đại diện của cơ quan xã
hội NVCTXH cần ý thức rằng vai trò của mình là hỗ trợ thân chủ giải quyết vấn đề.
Phục vụ thân chủ là trách nhiệm của nhân viên xã hội, vì vậy cần tránh lạm dụng

quyền lực, vị trí công việc để mưu lợi cá nhân. Đồng thời NVCTXH cũng cần phải
ý thức được khả năng trình độ chuyên môn của bản thân có đáp ứng yêu cầu của
công việc được giao hay không (tức là cần nhận biết được trình độ kiến thức, kỹ
năng chuyên môn của mình tới đâu)… Khi gặp trường hợp quá phức tạp và vượt
quá giới hạn khả năng cá nhân thì NVCTXH chuyển giao trường hợp đang thụ lý
cho NVCTXH khác giúp đỡ.
NVCTXH nên duy trì một mức độ khoảng cách nhất định, bên cạnh sự đồng
cảm và mức độ cảm xúc nào đó để có thể giúp thân chủ giải quyết vấn đề một cách
khách quan và lập kế hoạch một cách thực tế.
Thứ bảy, đảm bảo mối quan hệ nghề nghiệp
Công cụ chính trong các hoạt động công tác xã hội là mối quan hệ giữa
NVCTXH và thân chủ. Do thân chủ tác động của NVCTXH là con người,
NVCTXH cần có phẩm chất đạo đức, tác phong nghề nghiệp. Mối quan hệ giữa
NVCTXH và thân chủ cần đảm bảo tính thân thiện, tương tác hai chiều, song khách
quan và đảm bảo yêu cầu của chuyên môn. Nguyên tắc này giúp cho NVCTXH
đảm bảo tính khách quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, đảm bảo sự công bằng
trong giúp đỡ mọi thân chủ.
1.2. Đối tượng, nhu cầu của các đối tượng cung cấp dịch vụ công tác xã hội
1.2.1. Đối tượng cung cấp dịch vụ công tác xã hội
Công tác xã hội hướng đến các đối tượng đa dạng về lứa tuổi, dân tộc, trình
độ học vấn, mức sống, tôn giáo, cũng như có những năng lực cá nhân và XH khác
nhau. Đối tượng trợ giúp của công tác xã hội là cá nhân, gia đình, nhóm người hay
cộng đồng đang trong hoàn cảnh có vấn đề.

17


Cá nhân có thể là người già hay người trẻ, người giàu hay người nghèo... Khi
họ gặp phải khó khăn trong cuộc sống và không tự giải quyết được họ mong muốn
có sự trợ giúp. Người nghèo cần có sự trợ giúp về vật chất và tinh thần để vượt qua

nghèo khó. Người giàu khi rơi vào hoàn cảnh khủng hoảng tinh thần (như phá sản,
thua lỗ, sức ép công việc hay sự cạnh tranh trong kinh doanh...) đều có thể cần tới
sự can thiệp trợ giúp của nhân viên xã hội. Tuy nhiên, đối tượng thường được
hướng tới trong hoạt động trợ giúp của CTXH là những nhóm người yếu thế như
người nghèo, người lang thang cơ nhỡ, những người bị HIV/AIDS hay những người
mại dâm ma tuý...
Có thể liệt kê một số nhóm đối tượng yếu thế thường được công tác xã hội
chú trọng trợ giúp: Phụ nữ, Trẻ em, người cao tuổi, người thất nghiệp, các nạn nhân
của bạo lực gia đình; Trẻ em lang thang, bị bỏ rơi, mồ côi, trẻ bị lạm dụng; Các nạn
nhân do thiên tai, hiểm hoạ; Những người có ý định tự sát; Những người vô gia cư;
Những người khuyết tật; Người bị bệnh tâm thần; Những người phạm pháp; Người
nghèo; Người thiểu số; Những người nghiện; Người mại dâm.
Cộng đồng nghèo khó thường là đối tượng tác động đầu tiên trong công tác
xã hội với cộng đồng. Những cộng đồng có nhiều vấn đề xã hội như nghèo đói,
trình độ dân trí thấp, môi trường vệ sinh không đảm bảo… thường cần tới các
chương trình dịch vụ xã hội trong công tác xã hội [20, tr. 9].
1.2.2. Đặc điểm, nhu cầu của các đối tượng cung cấp dịch vụ công tác xã hội
Đối tượng cung cấp dịch vụ công tác xã hội rất đa dạng và phong phú, đề tài
này tập trung về nhu cầu của các đối tượng trong nhóm yếu thế (hay còn gọi là
những cá nhân có nhu cầu đặc biệt) trong đó phân tích kỹ về nhu cầu của người cao
tuổi- đối tượng được cung cấp dịch vụ được đề cập trong chương II của Đề tài.
Nhóm yếu thế (hay nhóm thiệt thòi) là những nhóm xã hội đặc biệt, có hoàn cảnh
khó khăn hơn, có vị thế xã hội thấp kém hơn so với với các nhóm xã hội “bình
thường” có những đặc điểm tương tự. Họ gặp phải hàng loạt thách thức, ngăn cản
khả năng hòa nhập của họ vào đời sống cộng đồng. Hàng rào đó có thể liên quan

18


đến thể chất, liên quan đến khả năng, nghề nghiệp, hoàn cảnh sống, sự đánh gía, kỳ

thị của xã hội, các vấn đề tâm lý… Hàng rào đó có thể là vô hình, có thể là hữu
hình, ngăn cản họ tiếp cận và sử dụng các phương tiện sống thiết yếu hay các dịch
vụ xã hội cần thiết cho mọi thành viên “bình thường” của xã hội. Để nâng cao vị thế
xã hội, giảm sự thiệt thòi, họ rất cần được sự quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ từ xã hội.
Trong luận văn này, đối tượng được cung cấp dịch vụ công tác xã hội được
nghiên cứu là người cao tuổi. Vì vậy, dưới đây chúng tôi xin trình bày về đặc điểm
sinh lý và nhu cầu của người cao tuổi.
Đặc điểm tâm sinh lý và nhu cầu của người cao tuổi:
Đặc điểm đầu tiên cần quan tâm với NCT là những thay đổi về sinh lý do thay
đổi về tuổi tác. Nhận thức của NCT có suy giảm ví dụ như trí nhớ thay đổi rõ rệt, trí
nhớ ngắn hạn giảm sút, trí nhớ dài hạn vẫn ở mức cao, họ sống nặng về nội tâm; tư
duy kém năng động và linh hoạt; NCT thường khó chấp nhận cái mới và không
thích phải thay đổi thói quen.
Bên cạnh đó NCT cũng có giảm sút về chức năng hoạt động của một số cơ quan
trong cơ thể dẫn đến mắc một số bệnh về hô hấp, tim mạch. Việc thay đổi hình dáng bên
ngoài cũng là một đặc điểm thay đổi về sinh học có thể gây ra những khó khăn cho NCT.
Tiếp theo là những thay đổi về đặc điểm tâm lý. Về tình cảm, NCT có phản
ứng cảm xúc nhạy bén, vui buồn dễ dàng. NCT cũng thường có tâm lý tiêu cực như
tự ti, có cảm giác mất mát, cô độc và suy giảm khả năng giao tiếp.
Xét về nhu cầu của NCT, NCT cần được quan tâm, chăm sóc, yêu mến; nhu
cầu chăm sóc sức khỏe; nhu cầu thấy mình có ích cho xã hội; nhu cầu được học hỏi
thêm và vui hưởng tuổi thọ quây quần bên con cháu.
NCT thường phải đối phó với sự giảm sút về sức mạnh trên nhiều cấp độ:
 Sức khỏe thể chất có xu hướng giảm khi có tuổi, vì vậy người cao

tuổi phải phụ thuộc vào sự hỗ trợ để tồn tại.
 NCT thường duy trì sức khỏe tâm thần, tuy nhiều nhiều người trong số họ
trải qua "mất trí nhớ tạm thời trong ngắn hạn, giảm tốc độ trong học tập, phản ứng
chậm chạp, và sự đãng trí ở mức độ nhẹ.”


19


×